intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Động lực thay đổi cấu trúc

Chia sẻ: Hfhgfvhgf Hfhgfvhgf | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:47

84
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận: Động lực thay đổi cấu trúc nhằm giải thích cho một cấu trúc chính thức, bắt nguồn từ những điểm thuận lợi đã cung cấp cho các nhà nghiên cứu về tổ chức cơ hội để khám phá ra mảng kiến thức mới đi vào nguyên nhân và hậu quả trong việc thiết lập cơ cấu tổ chức.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Động lực thay đổi cấu trúc

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP HỒ CHÍ MI NH KHOA SAU ĐẠI HỌC  TIỂU LUẬN MÔN QUẢN TRỊ SỰ THAY ĐỔI ĐỀ TÀI : ĐỘNG LỰC THAY ĐỔI CẤU TRÚC Thầy hướng dẫn : TS. Nguyễn Hữu Lam ThS. Trần Hồng Hải Nhóm 6: 1. Trần Thái Bảo 2. Tôn Thất Kỳ Nam 3. Trần Thị Ánh Nguyệt 4. Phan Thị Sao Vi
  2. Quản trị thay đổi Lớp M BA8 Những năm 1960 và 1970 là một thời kỳ quan trọng trong việc phát triển các nghiên cứu liên về cơ cấu tổ chức. Các quan điểm thống trị thời kỳ này là lý thuyết về ứng phó với các tình huống bất ngờ. Lý thuyết quản lý cổ điển đã thống trị suốt thời gian nửa đầu thế kỷ XX lập luận rằng, một cơ cấu tổ chức duy nhất sẽ mang lại hiệu quả trong tất cả các lại hình tổ chức (Donaldson, 1996). Ngược lại, những người ủng hộ lý thuyết về ứng phó với các tình huống bất ngờ lập luận rằng cách tốt nhất và phù hợp nhất là cơ cấu phải phản ánh được nhu cầu thực tế Burns và Stalker (1961) là ví dụ điển hình cho quan điểm trên. Căn cứ các cuộc nghiên cứu tình huống cho thây, để đảm bảo một hệ thống hoạt động ổn định thì các cơ cấu trong hệ thống phải hoạt động tốt, trong khi đặc điểm của hệ thống là dựa trên những yêu cầu cao về khả năng thích nghi với môi trường và những công việc không rõ ràng, lại đòi hỏi phải có một cấu trúc cơ bản. Một nghiên cứu tiên phong có tầm quan trọng không kém của Lawrence và Lorsch (1967) cho rằng, tốc độ thay đổi môi trường nên xác định theo mức độ của sự khác biệt về cấu trúc và hội nhập trong một tổ chức. Dựa trên mẫu điều tra của các công ty trong 3 ngành công nghiệp, Lawrence và Lorsch (1967) cũng thấy rằng các tổ chức có cơ cấu phù hợp với môi trường ngành sẽ có hiệu suất cao hơn. (Donaldson, 1996), một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên tìm thấy sự ràng buột giữa cơ cấu và hiệu quả. Công trình nghiên cứu này phù hợp với quan điểm của Simon (1957), March vàSimon (1958) trong việc tin tưởng tuyệt đối rằng nền kinh tế phải dựa trên thị trường và đáp ứng các điều kiện thị trường (Fligs tein và Freeland, 1995). Những nghiên cứu tiếp theo trong giai đoạn này đã mở rộng phạm vi các nhân tố ngẫu nhiên, từ đó tác động đến việc hình thành lý thuyết về cơ cấu tổ chức. Ví dụ, Chandler (1962) với lý thuyết cấu trúc liên quan đến chiến lược công ty; Woodward (1965) và Perrow (1967) điều tra những ảnh hưởng của công nghệ;Thompson (1967) và Galbraith (1973) nghiên cứu ảnh hưởng của những công việc không rõ ràng; Khandwalla (1977) nghiên cứu những ảnh hưởng của môi trường bất lợi; Dewar và Duncan (1977) liên quan đến chiến lược về sự đổi mới cơ cấu; và Blau (1970) nghiên cứu về đo lường hiệu quả trong cơ cấu. Nhóm 6 Trang 1
  3. Quản trị thay đổi Lớp M BA8 Cũng trong giai đoạn này, một số trung tâm nghiên cứu đã xoay quanh các vấn đề liên quan đến thiết kế tổ chức, đáng chú ý nhất là nhóm Aston (Pugh, Hickson, và Hinings, 1969; Pugh và Hinings , 1976), đã đưa ra nghiên cứu về các phương pháp đo lường và khảo sát liên quan đến cấu trúc. Chandler (1962), Lawrence và Lorsch (1967), và một số nhà nghiên cứu khác đã có những đóng góp quan trọng trong hoạt động nghiên cứu liên quan đến lý thuyết ứng phó với các tình huống bất ngờ tại Đại học Harvard. Cuối cùng, Galbraith (1973), Trist (1963), Van de Ven (Van de Ven và Delbecq, 1974) và Ferry (Văn de Ven và Ferry, 1980) đã thành lập trường Wharton, như là một trung tâm công nhận cho các hoạt động nghiên cứu về thiết kế tổ chức. Bắt đầu cuối những năm 1970 và tăng nhanh vào năm các năm 1980 và 1990, đã đánh dấu sự thay đổi trong nghiên cứu liên quan đến cơ cấu tổ chức. Một số dòng của nghiên cứu nổi lên xung quanh quan điểm rằng mô i trường là yếu tố quyết định mạnh mẽ trong vấn đề thiết kế tổ chức. Các nhà nghiên cứu thấy rằng sự thay đổi trong môi trường làm việc không dễ dàng dẫn đến sự thay đổi về tổ chức, điều này được dự báo bởi lý thuyết về ứng phó với các tình huống bất ngờ (Fligstein và Freeland, 1995). Một quan điểm cho rằng quyền lực của những người ra quyết định trong công ty nhằm giải quyết các vấn đề về phụ thuộc nguồn nội lực, đây là một chức năng trong khả năng, kiến thức, và liên đới với các yếu tố bên ngoài thế giới của các nhà lãnh đạo. Môn sinh thái học quần thể (Hannan và Freeman, năm 1977, 1984) nổi lên như là một quan điểm khác liên quan đến việc phụ thuộc nguồn lực nhưng nhân mạnh đến sự lựa chọn thị trường và hiệu quả của các nguyên tắc. Quan điểm này ủng hộ rằng sự thay đổi xảy ra phụ thuộc vào sự lựa chọn các loại hình của tổ chức ở cấp độ công ty, trong khi sự thay đổi trong nội bộ tổ chức lại khó khăn khăn hơn do cơ cấu trì trệ. Lý thuyết về thể chế (DiMaggio và Powell, 1983; DiMaggio, 1988; Scott và Meyer, 1994 Zucker;1977) đại diện cho sự thay đổi quan điểm hoàn thiệt nhất về khái niệm đi từ các mô hình dựa trên kỹ thuật môi trường và các lựa chọn về chiến lược, tập trung chủ yếu vào xây dựng các tổ chức thế giới đồng minh (Fligstein và Freeman, 1995). Powell và DiMaggio (1991) đã bác bỏ các mô hình tổ chức đáng tin cậy, thông qua việc tranh luận về vấn đề văn hóa và giải thích những nhận thức cơ bản tác động đến hành Nhóm 6 Trang 2
  4. Quản trị thay đổi Lớp M BA8 động và động cơ cá nhân. Tolbert và Zucker (1996) lưu ý rằng nhiều tài liệu gây tiếng vang như tư tưởng tiến bộ về cấu trúc và vai trò của cấu trúc trong việc ra quyết định thể được tìm thấy từ các bài thuyết trình của Meyer và Rowan (1977). Phân tích của họ được định hướng từ một quan điểm quan trọng là các cấu trúc chính thức có các thuộc tính chủ động phát s inh. Nói cách khác, cấu trúc có thể áp dụng cho các công việc mang tính xã hội, vì vậy, ngoài mục tiêu chức năng của mình, cấu trúc có thể cung cấp các thông tin về tổ chức cho cả 2 đối tượng trong và ngoài công ty. Để giải thích cho một cấu trúc chính thức, bắt nguồn từ những điểm thuận lợi đã cung cấp cho các nhà nghiên cứu về tổ chức cơ hội để khám phá ra mảng kiến thức mới đ i vào nguyên nhân và hậu quả trong việc thiết lập cơ cấu tổ chức (Tolbert và Zucker, năm 1996 p. 177). Những quan điểm nghiên cứu này đã thống trị các nghiên cứu về cấu trúc trong những năm gần đây. Trong nhiều công việc này, cấu trúc chỉ được xem như là một biến phụ thuộc, được xác định bởi các yếu tố bên ngoài công ty. Những kiểu nghiên cứu được tin tưởng trong một phạm vi rộng, có cơ sở dữ liệu theo chiều dọc nhưng thường thiếu sự phong phú và các chi tiết liên quan đến đặc trưng chuyển đổi cơ cấu dựa vào các nghiên cứu đã qua. Burrell và Morgan (1979) đã tiên đoán sự thay đổi các thuyết thống trị bằng cách nhận định một số lý thuyết tổ chức đối lập. Họ lập luận rằng lý thuyết tổ chức được xác định bằng một trong hai giả định cơ bản, tổ chức là do xã hội xác lập hoặc do chính lãnh đạo công ty lựa chọn.Tương tự, Astley và Van de Ven (1983) đã bổ sung quan niệm trên thông qua 6 cuộc tranh luận ngầm gây gắt, thể hiện trong các tài liệu lý thuyết về tổ chức. Một trong những trọng tâm của các cuộc tranh luận tập trung vào câu hỏi “Có phải các phương tiện kỹ thuật của các tổ chức trung lập đã xây dựng nhằm đạt được mục tiêu, hoặc là họ thể chế hóa các biểu hiện về mong muốn lợi nhuận từ cơ cấu quyền lực” (Astley? và Van de Ven, 1983, p. 264). Van de Ven và Poole (1988) đã ghi nhận về vấn đề nghịch lý của cơ cấu hoạt động. Hầu hết các lý thuyết cơ cấu tổ chức cho rằng hành động của các cá nhân đều hướng theo mục tiêu mong đợi của họ, nhưng họ cũng nhận ra rằng một trong những vai trò của cấu trúc là bao hàm và hướng vào các hoạt động cá nhân để phục vụ cho các mục tiêu lớn hơn. Căn cứ thuyết đối lập, theo Van de Ven và Nhóm 6 Trang 3
  5. Quản trị thay đổi Lớp M BA8 Poole, được đề cập trong một phương pháp lý luận nghịch: hầu hết các nhà nghiên cứu đo lường các biến phản ánh cơ cấu xã hội nhưng không hoạt động. Tóm lại, phần lớn các nghiên cứu của những năm 1960 và 1970 giả định cơ cấu tổ chức đã được thiết kế thông qua một quá trình ra quyết định hợp lý, và sự lựa chọn cơ cấu là tập xác định mức độ hiệu quả và hiệu suất. Chúng tôi phân loại nghiên cứu này như là các quan điểm chiến lược trung gian, sự phụ thuộc của nó vào các yếu tố về quyết định nội bộ tổ chức và chiến lược cơ cấu. Trái ngược với thời gian đầu của giai đoạn, các nghiên cứu tiếp theo sau vào thập niên 1980 và 1990 đã giải thích sự giảm sút về vai trò trung gian và trung tâm của cơ cấu trong việc xác định hiệu suất. Thay vào đó, các quan điểm nghiên cứu cấu trúc như sản phẩm của một tiến trình xã hội nổi bật được dựa trên quy chuẩn của các mô phỏng phù hợp và tiêu biểu. Hơn nữa, cơ cấu không được xem như là yếu tố chức năng hoặc trọng tâm để có thể mang lại hiệu quả cho các kết quà hoạt động của tổ chức, nhưng là một phương tiện mang lại hiệu quả, là cách giải thích duy nhất. Chúng tôi phân loại nghiên cứu này thành quan điểm vĩ mô / tổ chức. Đến phần sau của những năm 1990, nghiên cứu về cấu trúc giảm nhanh chóng do sự chiếm ưu thế bởi quan điểm vĩ mô/tổ chức. Nhóm ý tưởng thú vị về trung gian/chiến lược đã nổi lên, nhưng không ai tạo ra được hướng vận hành chính cho các công việc đang diễn ra (ví dụ, xem các nghiên cứu về gestalts [Miller và Friesen, 1982, 1984], phù hợp với [Doty và Glick, 1994; Doty, Glick và Huber, 1993; Van de Ven và Drazin, 1985], và equifinality [Gresov và Drazin, 1996]). Không một quan điểm trong điểm mới nào có liên quan đến vấn đề thay đổi nội bộ tổ chức nổi lên để có thể phù hợp với lý thuyết ứng phó với các tình huống bất ngờ. Các quan điểm về vĩ mô/tổ chức tiếp tục thống trị các lý luận về chuyển đổi cơ cấu. Xem xét những xu hướng này trong các nghiên cứu hàn lâm một số lượng tài liệu lớn và phổ biến nhấn mạnh vai trò quan trọng của cơ cấu tổ chức. Các chủ đề như lựa chọn cơ cấu hoạt động (Dess, Rasheed, McLaughlin, và Priem, 1995), nổi lên là chủ đề thiết kế tổ chức (Ashkenas, Ulrich, Jick, và Kerr, 1995; Miles, Snow, Matthews, Miles, và Coleman, 1997; Mitroff, Mason, và Pearson, 1994), phân tán tập đoàn (Pasternak và Viscio, 1998), và chuyển đổi cơ cấu tổ chức (Miles, 1997; O'Toole, 1995) là nội dung Nhóm 6 Trang 4
  6. Quản trị thay đổi Lớp M BA8 chủ yếu của phần lớn công việc có liên quan đến cấu trúc và cách thức quản lý của các nhà lãnh đạo. Hàng loạt các quyển sách viết về vấn đề tái cấu trúc (Hammer và Cha mpy, 1993), tác động của công nghệ thông tin vào thiết kế (Lucas , 1996), tổ chức theo chiều ngang (O'Dell và Jackson, năm 1998; Ostroff, 1999), và các tổ chức phi chính thức (Re và Cabana, 1998). Ngoài ra, nhiều ấn phẩm đã xuất hiện gần đây cấu trúc chuyên ngành có thể đối phó với quản lý dự án (Frame, 1994; Larson và Gobelli, 1987), phát triển sản phẩm mới (Clark và Wheelwright, năm 1995; Imai, Nonaka, và Takeuchi, 1985), các đội (Katzenbach và Smith, 1993), và đổi mới (Tushman và O'Reilly, 1997). Nội dung của công việc đã được định hướng về phía tổ chức thực tiễn của những năm 1990: thu hẹp, trì hoãn, cải tiến quy trình, quy trình lưu chuyển, đổi mới tổ chức, thương mại điện tử, các tổ chức chính thức, mạng lưới các tổ chức, và cách thích ứng. Cách mở đầu này này dường như dẫn đến sự bế tắc trong các nghiên cứu về thay đổi nội bộ tổ chức. Trong phần còn lại của chương này, chúng tôi cho rằng như vậy một kết luận quá sớm. Thay vào đó, chúng tôi đề nghị những quan điểm mới về cấu trúc và chuyển đổi cơ cấu có thể thu hút sự quan tâm đến các vị trí trung gian trong phân tích cơ cấu tổ chức. Trong phần thứ hai chúng tôi đề cập đến phương pháp tiếp cận chính thông quan việc đưa ra các quan điểm về tính logic của tổ chức. ''Chúng tôi định nghĩa '''Logic” như là nhận thức, hoặc là các nguyên tắc của tổ chức, mã hóa trong tâm trí của những người sáng lập tổ chức. Những logic sau đó được sử dụng cho việc thiết kế các tổ chức trong thực tiễn; các bản đồ nhận thức trở thành một bộ phận của tổ chức. Chúng tôi cho rằng yếu tố logic có 2 đặc tính song song. Nó vừa mô tả sự tổ chức cơ sở kinh tế kỹ thuật cũng như mô tả sự phù hợp với các quy chuẩn. Trong phần 3 đến 5 của chương, chúng tôi phân loại các tài liệu về thay đổi tổ chức thành 3 lĩnh vực sau: (1) thay đổi do việc thành lập và xây dựng logic, (2) thay đổi khi xảy ra sự cố của một logic trước đó, và (3) thay đổi như là dự đoán về logic. Trong mỗi phần của ba lĩnh vực trên chúng tôi xem xét các tài liệu hiện có để xây dựng các chuỗi lý luận xung quanh vấn đề kinh tế kỹ thuật và các quy chẩn của logic. Chúng tôi không xem xét lại tất cả các lý thuyết và thực nghiệm, nhưng thay vào đó tiến hành kiểm tra các mẫu. Trong phần thứ sáu chúng tôi dự Nhóm 6 Trang 5
  7. Quản trị thay đổi Lớp M BA8 đoán về các cách tiếp cận logic một cách cơ bản để hướng đến sự thay đổi cơ cấu tổ chức trong các lý thuyết về cơ cấu tổ chức linh hoạt. Khái niệm về logics tổ chức Logics theo từ điển (tại www.dictionary.com), là một hệ thống lý luận chính thức, giải thích rõ cho các nguyên tắc ''mối quan hệ giữa các yếu tố và giữa một yếu tố và cả trong một tập hợp đối tượng, cá nhân, nguyên tắc, hoặc các sự kiện”. Logic có thể được hiểu là nhận thức cơ bản hoặc là một kiểu tư duy giúp cho việc hình thành suy nghĩ mạch lạc, sắp xếp trật tự các mâu thuẩn, hay sắp đặt một cách hệ thống. Mối quan hệ giữa logic và cấu trúc được đề cập trong các định nghĩa về cấu trúc, nó mô tả '' các bộ phận được bố trí hoặc đặt lại với nhau để tạo thành một tổ chức chung; sự tương quan hoặc sắp xếp các bộ phận trong một thực thể phức tạp'' (www.dictionary.com). Trong máy tính khoa học, logic mô tả các đại diện đồ họa của máy tính mạch. Trong các tổ chức, chúng tôi tranh luận, logic là quan niệm về việc suy luận một tổ chức như thế nào nên được cơ cấu lại và sau đó làm thế nào đó là quan niệm được đưa vào ứng dụng. Trong các tài liệu về quản lý, các khái niệm logic trở thành một bộ phận quan trọng trong các lý luận về tổ chức. Trong tài liệu quản lý chiến lược, Prahalad và Bettis (1986) có lẽ là một trong những lý luận có sự liên hệ sớm nhất và gây tranh luận nhiều nhất khi xem xét vai trò của logic trong việc giải thích hiệu quả của cơ cấu tổ chức. Họ xây dựng lý luận về'' tầm ảnh hưởng của việc quản lý tổng quát một cách logic'' (hoặc đơn giản hơn, tính ưu việt của logic), mà họ định nghĩa như là ''cách các nhà quản lý quan niệm và đưa ra các quyết định quan trọng về phân bổ nguồn lực đặt trong điều kiện ràng buột về công nghệ, phát triển sản phẩm, phân phối, quảng cáo, hoặc trong quản lý nguồn nhân lực. Những nhiệm vụ được thực hiện bằng cách quản lý cơ sở hạ tầng nhờ vào công cụ hành chính như sự lựa chọn của cá nhân chủ chốt, quá trình lập kế hoạch, ngân sách, kiểm soát, bồi thường, sự nghiệp quản lý, và cơ cấu tổ chức'' (Prahalad và Bettis, 1986, trang 490, đã nhấn mạnh). Nhóm 6 Trang 6
  8. Quản trị thay đổi Lớp M BA8 Trong công thức này, tính ưu việt của logic là giúp xây dựng nhận thức, ''thiết lập nhận thức và xây dựng quan điểm về thế giới” (Prahalad và Bettis, 1986, p. 491) quan niệm rằng cả kinh doanh và quản lý của doanh nghiệp để ra các quyết định, phân bổ nguồn lực, và nhận ra các mục tiêu. Như vậy, khái niệm về một tổ chức như thế nào nên được cơ cấu lại được đưa vào lý luận về logic tổ chức kinh doanh. Ví dụ, Prahald và Bettis (1986, trang 494) đã nói rằng logic thế nào để dẫn đến việc đa dạng hóa chiến lược cũng như điều khiển được cấu trúc: các tổ chức cần được cơ cấu để làm giảm hoặc chứa “nhiều loại chiến lược'' mà giám đốc điều hành phải quản lý, thông thường''bằng cách tạo ra trình độ quản lý tổng quát ở mức trung cấp''. Logic định hướng cho sự phát triển của cấu trúc, tuy nhiên, cấu trúc tại một nơi, có xu hướng để phân định sự phát triển của quản lý logic. Giống như bất kỳ biểu đồ nhận thức, tính ưu việt của lý luận phát triển và thay đổi như là kết quả của việc học tập phương thức quản lý, được đút kết từ kinh nghiệm thực tiễn. Nếu việc cơ cấu gây nên giới hạn cơ hội nghiên cứu nhiều hơn, và đặc biệt là giới hạn các loại hình nghiên cứu đa dạng, sau đó tạo nên thay đổi về lợi thế logic, điều này ít có khả năng xảy ra theo thời gian. Việc thay đổi tính thống trị logic thường xảy ra khi phát sinh khủng hoảng kinh tế (Prahalad và Bettis, 1986), khuyến cáo các nhà quản lý không nên học theo cách thức tư duy và hành xử dựa vào tập quán. (Hedberg, Nystrom, và Starbuck, 1976). Trong một số ý nghĩa, sau đó, khả năng thích nghi của đặc tính thống trị logic về tổ chức xoay quanh các nghiên cứu về tổ chức, trong một số tình huống nó mang ý nghĩa là khả năng học về cách nghiên cứu hoặc cách học tập trong hai tình huống đối lập nhau (Argyris và Schon, 1996; Bateson, 1972). Trong khái niệm ban đầu, Prahalad Bettis (1986) gọi khái niệm thống trị logic để giải thích mối liên hệ giữa đa dạng hóa chiến lược của công ty chiến lược và hiệu suất. Tuy nhiên, trong xem xét lại quan điểm của họ, gần như một thập kỷ sau đó (Bettis và Prahalad, 1.994) lưu ý ứng dụng của nó là rộng hơn so với định hướng đa dạng hóa những thay đổi của tổ chức. Lập luận rằng thống trị logic là''một tài s ản nổi bậc của tổ chức khi hệ thống phức thích nghi trở nên phức tạp,''Bettis và Prahalad (1994, trang 7) đã nêu, thống trị logic cấu thành một phần của cấu trúc cơ bản và cơ sở chiến lược''của tổ chức, cơ cấu, và các hệ thống, và có lẽ một cái gì đó Nhóm 6 Trang 7
  9. Quản trị thay đổi Lớp M BA8 tương tự như của cấu trúc chi tiết”. Cụ thể hơn, Họ cho rằng ''Cơ cấu tổ chức và hệ thống có mối liên hệ chặt chẽ cùng với thống trị logic và thể hiện các bộ phận của nó''(p. 10). Vì vậy, sự thay đổi hình thức của cấu trúc tổ chức, và được định hình bởi, các logic thống trị. Ở cấp độ vĩ mô, việc xây dựng logic cũng đã được sử dụng để xây dựng cơ cấu tổ chức của các cơ quan nhà nước và các lĩnh vực về tổ chức. Trái với chiến lược, những người dựa vào thị trường và môi trường cạnh tranh để tìm ra các các nguyên tắc của tổ chức và cấu trúc, các học viện nghiên cứu cảnh báo về tầm quan trọng của lực lượng xã hội và ý nghĩa của việc thể chế hóa các mô hình, đưa vào phân tích cấp độ nội bộ cơ cấu tổ chức, như là yếu tố then chốt của hành vi và hình thức tổ chức. Như vậy, vị trí của những người ban hành cơ chế, nguồn gốc của cơ cấu tổ chức trong phân tích ở cấp độ cao hơn, tất cả gọi là môi trường thể chế. Trong chương về sự ảnh hưởng, Friedland và Alford (1991, trang 243) lưu ý rằng “cơ cấu tổ chức được hình thành theo loại hình mẫu không thể được giải thích bởi sự cạnh tranh tương tác giữa các tổ chức, công nghệ, hoặc tổ chức cụ thể điều kiện môi trường''. Theo các nhà lý thuyết thể chế, các tổ chức bắt chước các loại hình đặc biệt, ứng dụng, và cơ cấu lại bởi vì như vậy làm tăng tính hợp pháp của họ, trong đó, lần lượt, tăng cường khả năng khơi gợi và tài nguyên truy cập từ các nguồn chủ yếu. Hiệu ứng này đã được chứng minh cho cơ cấu và ứng dụng tổ chức (Abzug và Mezias, 1993; Meyer và Rowan, 1977; Tolbert và Zucker, 1996) cũng như các chiến lược (Deephouse năm 1996; Fligstein, 1990). Tổng quát hơn, các nhà nghiên cứu có thể chế thể hiện những khía cạnh quy phạm của cơ cấu tổ chức, như cấu hình khuếch tán khi thảm luận hình thức đa phương tiện (Fligstein, 1985). Điều quan trọng, việc thể chế hóa yêu cầu mà đặc trưng cho các lĩnh vực tổ chức, cũng như xác định các hình thức quan trọng của xã hội là yếu tố trung tâm của logic, mô tả như là: Một tập hợp các tài liệu thực hành và biểu tượng công trình xây dựng-mà tạo thành các nguyên tắc của tổ chức và trong đó có sẵn cho tổ chức, cá nhân xây dựng. Việc thể chế hóa logic thuộc chủ nghĩa tư bản diễn đạt hoạt động của con người về quá trình tích lũy và thông thương hàng hóa. Đối với nhà nước đó là hợp lý hóa và điều chỉnh các hoạt động của con người bằng các quy định của pháp luật và bằng các cơ quan quản lý nhà nước. Đối với vấn đề bình đẵng trong xã hội đó là sự tham gia và mở rộng công tác Nhóm 6 Trang 8
  10. Quản trị thay đổi Lớp M BA8 quản lý phổ thông vượt trên các các họat động của con người. Đối với gia đình đó là cách thức giao tiếp và là động cơ của các hoạt động con người bằng giá trị trung thành vô điều kiện và việc tái tạo nhu cầu của các thành viên trong gia đình. Đối với tôn giáo hoặc khoa học cho rằng vấn đề là sự thật, cho dù trần tục hoặc siêu việt, và xây dựng các đặc trưng của thực tiễn mà trong đó tất cả các hoạt động của con người sẽ đạt đến một đích đến nhất định. Thể chế hóa logic được xem là lý do đặc trưng, cơ cấu tổ chức, bảo vệ nền chính trị, kỹ thuật và vấn đề hạn chế nguồn nguyên vật liệu, từ đó đưa đến những điểm mốc giới hạn đặc biệt của lịch sử (Friedland và Alford, 1991, tr. 238-249). Trong xã hội, được cấu thành từ nhiều sự khác biệt, và đôi khi là những mâu thuẫn phát sinh từ lý luận thể chế hóa, ví dụ, chủ nghĩa tư bản, nhà nước, dân chủ, gia đình, tôn giáo, và khoa học tất cả có xu hướng cùng tồn tại trong cùng xã hội. Lần lượt, các tổ chức, cũng như cácloại hình thể chế khác, giải thích, vận dụng, và ban hành luật lệ đối với những kiến thức về đặc trưng cơ bản và thực tiễn (Friedland và Alford, 1991). Trong phân tích trước đó của ngành công nghiệp xuất bản giáo dục đại học, Thornton và Ocasio (1999) thấy rằng lý luận thể chế hóa chuyển từ bài xã luận sang thành thị trường tập trung, vốn đã có sự tác động quan trong đến cơ cấu quyền lực trong các công ty, và đặc biệt, loại hình và xuất hiện sự thành công trong công tác quản lý kinh doanh của công ty. Công trình của họ cho thấy một liên kết rõ ràng giữa lý luận về thể chế và cơ cấu tổ chức. Ví dụ,các nhà xuất bản thông qua các bài xã luận về logic đã mô tả tốt nhất về các công ty gần như chuyên nghiệp, nơi mà các hệ tư tưởng chuyên ngiệp xen lẫn với hệ thống cấp bậc chính thức…Với sự chuyển sang lý luận thị trường, định hướng nghề nghiệp của ngành công nghiệp xuất bản đã bác bỏ và được thay thế bằng lý luận của Wall Street về đầu tư ngân hàng và mối quan tâm ngày càng tăng với lợi nhuận và định hướng thị trường chung của các ngành công nghiệp khác tại Mỹ''(Thornton và Ocasio, 1999, p. 816). Các tác giả lưu ý làm thế nào sự thay đổi lịch sử của các lý luận về sự thống trị của thể chế trong một ngành công nghiệp, nghĩa là, chuyển từ lý luận về nghề nghiệp sang lý luận thị trường, xác đ ịnh mô hình mang đến sự thành công. Xây dựng dựa trên nghiên cứu của Friedland và Alford (1991), Thornton và Ocasio (1999, p. 803) kết luận rằng lý luận về thể chế có chức năng như là mô hình phi tổ chức, cả hai biểu tượng và vật chất, Nhóm 6 Trang 9
  11. Quản trị thay đổi Lớp M BA8 mà thực tế đã mang đến ý nghĩa về các xung đột trong hoạt động và cấu trúc. Sau đó, các học giả về thể chế đã trình bày quan điểm về logic kh i cung cấp các quy tắc thành lập rằng cách thức nhận thức của các thành viên tổ chức (DiMaggio, Năm 1997, Powell và DiMaggio, 1991) và do trong đó họ xác định các chỉ tiêu chủ quản, các giá trị, và thói quen của tổ chức (DiMaggio, 1994). Điều này không phải là ngụ ý, tuy nhiên, cách diễn giải này không xuất phát từ môi trường và thể chế thực tế. DeSanctis và Poole (1994) cảnh báo cho chúng tôi thực tế là cơ cấu tổ chức (logic) có sự tương ứng với thực tế. DeSanctis và Poole (1994, trang 126) lưu ý rằng sự tiến bộ về công nghệ thông tin trong cơ cấu của xã hội được mô tả trong thái độ của con người, lý luận này được định nghĩa như là''ý định chung đối với các giá trị và mục tiêu cơ bản sẽ đưa đến đặc trưng về cấu trúc. Lý luận này có liên quan đến thái độ từ đó tác động đến các quy phạm và sự hợp pháp (trích dẫn Giddens) và cho rằng''thái độ là một tài sản của công nghệ này vì nó biểu thị cho người sử dụng”. Vì vậy, cơ cấu xã hội là do chính xã hội đó ban hành và xây dựng (Weick, 1995), cùng với việc nghiên cứu và thay đổi liên tục thông qua thực tiễn. Tóm lại, chúng tôi thấy logic như là một nhận thức cơ bản bổ sung ý nghĩa, tính hợp lý, và mục đích để cơ cấu lại tổ chức. Chúng tôi xác định logic như những nguyên tắc của tổ chức đã được ghi nhận trong nhận thức của các nhà tổ chức (hoặc nhà quản lý), người lập ra tổ chức. Hơn thế nữa, logic có một định hướng mục đích lý luận; các nhà quản lý vạch ra các lý luận của họ để đưa vào công tác tổ chức trong thực tiễn. Lần lượt, các tổ chức này thực sự cung cấp các khái niệm cơ bản phát sinh về logic thay thế có thể thay đổi được. Như vậy, có sự lặp đi lặp lại và tác động lẫn nhau giữa logic và cơ cấu, mỗi loại hình, bao gồm, và làm phát sinh loại hình kia. Nói rộng ra, các loại hình khác nhau của logic có thể phát sinh từ thị trường cạnh tranh và từ xã hội và các thể chế trong đó có các công ty đang hoạt động. Cơ chế của các loại hình logic (và cấu trúc) phát sinh từ sự hiểu biết chung, ý thức hệ, và hệ thống các quy tắc phân loại và cấu thành tổ chức. Dòng tư tưởng này dẫn đến những nhận thức tổng quát hơn được gắn cùng với hệ thống phân loại chính thức rộng lớn; dẫn đến các loại hình tổ chức và quản lý hoạt động tổ chức (Walsh, 1995). Nhóm 6 Trang 10
  12. Quản trị thay đổi Lớp M BA8 Chức năng của Logic là để xác định các quy chuẩn thích hợp (hợp pháp) của các cơ cấu tổ chức khác nhau. Logic có chứa hai thành phần nhận dạng: một là logic kinh tế kỹ thuật, liên kết giữa ý nghĩa và kết thúc, và thứ hai là một logic quy chuẩn, ràng buộc giá trị cá nhân và logic kinh tế kỹ thuật. Cả hai thành phần không thể tách rời ràng buộc với nhau. Logic quy chẩn kích hoạt dây chuyền sản xuất; thành viên của một tổ chức tin rằng công việc trong tổ chức và có chủ ý không chỉ đơn giản là công cụ, mà còn có giá trị đạo đức (Stinchcombe, 1965). Logic cũng bao hàm ý nghĩa trung gian; ảnh hưởng đến các nhà lãnh đạo của tổ chức, chi phối liên minh, và / hoặc tác động đến tập thể, chẳng hạn như các nhóm làm việc, phòng chức năng, các đơn vị, dự án, phát triển logic và giải thích và diễn giải lại t ính chất logic để tạo hành động cụ thể trong thời gian chuyển đổi. Làm thế nào để thành lập và thay đổi các tổ chức logic? Làm thế nào để chuyển từ nhận thức cấu trúc biệu thị thành các cơ cấu và thói quen cụ thể? Dưới đây, chúng tôi xem xét các tài liệu về chuyển đổi cơ cấu thông qua ba ống kính. Trước tiên, chúng tôi xem xét làm thế nào để sự thay đổi xảy ra trong suốt quá trình thành lập và xây dựng tổ chức logic. Thứ hai, cho rằng một tổ chức đã được hình thành từ công thức logic, chúng tôi xem xét thay đổi như thế nào xảy ra khi các lý luận bị phá vở. Thứ ba, chúng tôi điều tra làm thế nào thay đổi có thể xảy ra thông qua các nghiên cứu về logic trước đó và duy trì sự đổi mới liên tục. Thay đổi xảy ra khi thành lập và xây dựng logics . Ba nghiên cứu đã được kiểm nghiệm là làm thế nào để tổ chức được thiết lập và xây dựng dựa trên các nền tảng logic ban đầu. Kiểm tra logic tổ chức là nền tảng chính của các công trình nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà lý thuyết thể chế đầu tiên. Về cơ bản, các nhà thể chế thời kỳ đầu đã nghiên cứu vấn đề logics được khởi xướng và thành lập như thế nào. Dòng nghiên cứu này được mở rộng nhờ vào các lý thuyết về sự ổn định và tăng trưởng. Gần đây nhất, lý thuyết về tự tổ chức và tính chất phức tạp kiểm tra ý nghĩa bằng việc xác định loại logics nào có thể sử dụng và tồn tại được. Nhóm 6 Trang 11
  13. Quản trị thay đổi Lớp M BA8 Lý thuyết về thể chế hóa thời kỳ đầu Các nghiên cứu của những nhà thể chế, là những đại diện tốt nhất là các công trình nghiên cứu của Selznick (1949) và bị ảnh hưởng nhiều bởi đó của Barnard (1938), bao gồm sự hiểu biết các mối tương quan giữa hai loại hình logic. Đặc tính logic đầu tiên là tính hợp lý, theo đó các tổ chức được thiết kế cẩn thận theo nguyên tắc liên kết cơ cấu lại hoạt động có hiệu quả để đạt được kết quả mong muốn. Ở đây, các nhà thể chế hóa có thể mở rộng các nguyên tắc liên kết cơ bản, được nêu bởi Weber (1947), nhưng trong một số ít loại hình phổ biến, thừa nhận rằng có sự tác động lẫn nhau trong tổ chức với môi trường đặc biệt. Thứ hai logic liên quan đến các giá trị trọng tâm và các nguyên tắc để thành lập tổ chức hợp pháp, tạo thành cái gì để có thể nhận ra giá trị hệ thống đạo đức. Barnard lập luận chắc chắn rằng trọng tâm các mục đích của một tổ chức luôn luôn phải dựa trên nền tảng đạo đức và nhiệm vụ của giám đốc điều hành là triển khai sự đồng thuận về mục đích này cho tất cả các thành viên trong tổ chức (Perrow, 1986). Cả hai Selznick (1957) và Parsons (1977) củng cố khái niệm này, cho rằng quyền lực có thể tồn tại chỉ khi nó là hợp pháp. Khái niệm này được xây dựng trên giả định rằng các tổ chức là hệ thống hợp tác và các cá nhân phải được tác động để tham gia một cácg tự nguyện. Theo ghi chú Perrow: sự hợp tác của con người tạo thành tổ chức. Họ tham gia tự nguyện. Họ hợp tác hướng tới một mục tiêu, mục đích của tổ chức. Do đó mục tiêu phải là một mục tiêu chung, là mục tiêu của tất cả người tham gia. Như vậy mục tiêu không thể không có đạo đức, vì đạo đức nổi lên từ những nỗ lực hợp tác. Xã hội không thể tồn tại mà không có sự hợp tác, và rõ ràng hình thức hợp tác có thể được nhìn thấy trong tổ chức. Vì vậy, trong quan điểm này, nếu mọi người hợp tác theo đuổi mục tiêu chung sẽ không gặp vấn đề về sản lượng của các tổ chức, và phải thành lập thể chế đạo đức. (1986, trang 66) Một số nghiên cứu của các nhà nghiên cứu thể chế trước đó nhấn mạnh khái niệm logics kép trong thành lập tổ chức. Selznick (1957) thừa nhận một cách rõ ràng vai trò quan trọng của các giá trị và mục đích đạo đức trong việc tổ chức các quy trình. Ông Nhóm 6 Trang 12
  14. Quản trị thay đổi Lớp M BA8 nhận ra rằng yêu cầu của các tổ chức trở nên hợp lý, có ý nghĩa định hướng, hiệu quả, và tạo nên khả năng quản trị ứng dụng. Tuy nhiên, ông chống lại việc chỉ mang lại hiệu quả định hướng cho tổ chức với cái mà ông gọi “thể chế”, được mô tả sau như là có giá trị cao, thích ứng, và đáp ứng với môi trường bên ngoài. Nghiên cứu tham chiếu mở rộng của Selznick về Tennessee Valley Authority (TVA) là một ví dụ điển hình của cuộc đấu tranh ban đầu để thành lập một mục đích chung và giá trị cốt lõi và sự tác động lẫn nhau giữa logic kinh tế kỹ thuật và đạo đức. Các TVA đã được tạo ra để xây dựng đập, kiểm soát lũ lụt, cải thiện điều khiển tuyến đường thủy, s ản xuất điện năng, và sản xuất phân bón. Ngoài các hoạt động thương mại đó, nó cũng được dùng để bảo quản rừng, phát triển các khu vui chơi giải trí, và giúp nông dân nghèo. Selznick thấy rằng thiết kế của nó như là một tổ chức cơ sở nhanh chóng bằng cácg cấp đất, phòng ban của các chủ thể nông nghiệp, và các nhà lãnh đạo chính trị và doanh nghiệp địa phương. Kết quả là, tất cả các chương trình phải chịu sự tác động. Cuối cùng, TVA đã thông qua kiểm soát lũ và điện khí hóa là mục tiêu của chính tổ chức. Mặc dù kết thúc đó tồn tại và thành công, nó phần lớn dù sao bị lọai bỏ không thương mại, nhiệm vụ của mình và cam kết với các nông dân nghèo trong khu vực. Selznick đã chứng minh qua trường hợp này như thế nào giá trị và mục đích được thành lập, thách thức, hoặc tăng cường thông qua các quy trình nội bộ và tương tác với môi trường. Langton (1984) nghiên cứu của Josiah Wedgwood và ngành công nghiệp đồ gốm của Anh cung cấp một ví dụ khác về vai trò logic của tính hợp lý và giá trị đạo đức, hai chỉ dẫn của cơ cấu tổ chức. Langton kiểm tra việc thay đổi của đồ gốm của Anh vào thế kỷ thứ mười tám giữa từ một công nghiệp, tiểu thủ công phân mảnh cho một ngành công nghiệp bao gồm lớn, các tổ chức phức tạp với các quốc gia, và trong một số trường hợp, các thị trường quốc tế. Trọng tâm của nghiên cứu Langton là chủ yếu vào công ty của Wedgwood và dựa trên những mô tả lịch sử. Với sự gia tăng tiêu chuẩn sống và tiêu thụ ngày càng tăng của cà phê và trà khoảng năm 1760, Jos iah Wedgwood cảm nhận sự gia tăng sắp xảy ra, các tỷ lệ chưa từng có, của thị trường đối với đồ gốm. Ông muốn công ty của mình để sản xuất đại trà gốm nhưng giá cả phải chăng nên xuất sắc trong tất cả-các khía cạnh như để lại được phù hợp với các bảng của tầng lớp thượng lưu, và có khi cải Nhóm 6 Trang 13
  15. Quản trị thay đổi Lớp M BA8 tiến và cơ sở sản xuất nên cho phép các nhà sản xuất để bán nó ở một mức giá rẻ hơn, có thể đạt được những tầng lớp trung lưu'' (Langton, 1984, p. 340). Với nồi hơn 150 tồn tại ở nước Anh vào thời điểm đó, để sản xuất đồ gốm có chất lượng cao hơn, được cung cấp với giá rẻ hơn. Trong việc theo đuổi của ông về các mục tiêu này, Wedgwood phát triển và đối với tổ chức của mình hoặc thiết kế cẩn thận cấu trúc, quy trình phối hợp, dự kiến hành vi và quy trình công nghệ. Đó là, ông bắt đầu một logic kinh tế kỹ thuật của một hình thức mới của sản xuất đồ gốm. Wedgwood lập logic này ban đầu của tổ chức, vai trò người lao động và sản xuất cho đến khi ông đã phát triển một phức tạp của năm cửa hàng chuyên ngành nằm cạnh một con kênh thương mại. Công ty đã hoàn toàn chuyển thành doanh nghiệp lớn phức tạp với một hệ thống hành chính khá phức tạp và phân chia một phức tạp của lao động trong đó hơn 200 người đàn ông, phụ nữ, và trẻ em thực hiện một loạt các nhiệm vụ đặc biệt. Giám sát chặt chẽ và lao động đã có hệ thống; công nhân có xu hướng làm việc h iệu quả, siêng năng, và đáng tin cậy; sản xuất được tiến hành theo quy định chi tiết bằng văn bản, và, trong khi gia đình trị vẫn thực hành, thuê được căn cứ vào hợp đồng, và tiến bộ được xác định trên công việc hiệu suất và mua lại các kỹ năng kỹ thuật. (Langton, 1984, p. 345). Wedgwood ban đầu gặp phải kháng cự ban đầu một logics. Như Bendix (1956) lưu ý, các công nhân công nghiệp điển hình thời gian đã chứng minh giá trị và hành vi trái ngược với việc theo đuổi một mục tiêu kinh doanh chung. Đối với nông dân, công việc đa dạng với các mùa thu họach, liên quan đến nhiều giờ trong những tháng hè và thời gian ngắn trong mùa đông. Hơn nữa, nhiều nông dân cũng bị chiếm đóng trong hệ thống (còn gọi là ngành công nghiệp trong nước), nhưng cũng giống như nhiều công nhân trong các ngành công nghiệp đã có ít nhất dải đất nhỏ mà họ canh tác. Và các thói quen công việc của họ là một cuộc cácg mạng cho một loạt các nhiệm vụ và đến một bất thường về hiệu suất đó đã không phù hợp với chuyên môn và máy đều đặn theo hướng làm việc của nhà máy. (Bendix, 1956, p. 38) Để đối phó với các vấn đề chông cự của người lao động. Wedgwood giải thích một logic quy phạm phù hợp với logic kinh tế kỹ thuật của mình. Đồng thời đã được thành lập nhà máy của ông Wedwood, John Wesley đã bắt đầu rao giảng tại địa phương ở Nhóm 6 Trang 14
  16. Quản trị thay đổi Lớp M BA8 Anh, đánh dấu sự ra đời của trào và sự trỗi dậy của các công việc lành đạo đức. Cả hai Wesley và Wedgwood đã làm việc t ích cực để thành lập các giá trị mới và quy tắc ứng xử như sự cống hiến để làm việc. Cụ thể hơn, Wedgwood đã làm việc siêng năng để thiết lập các giá trị mới và các ưu tiên trong số các nhân viên của gốm của ông. Này được tăng cường thông qua việc áp dụng một hệ thống chi tiết và cẩn thận quản lý của phần thưởng, hình phạt, và cơ hội thăng tiến nghề nghiệp cho nhân viên. Langton (1984) tranh luận rằng điều này tập trung vào các giá trị và hành vi, bao gồm ảnh hưởng của Wesley, dẫn đến Wedgwood phát triển lực lượng lao động hầu hết các chuyên dụng, khéo léo, hiệu quả trong ngành công nghiệp đồ gốm. Wedgwood đã thành công trong nỗ lực của mình bằng cách chải cả hai hình thức kinh tế kỹ thuật và quy phạm của logic thành một hệ thống cố kết Các ví dụ khác của việc xây dựng các tổ chức xung quanh logic hợp lý kép của các vấn đề đạo đức rất nhiều. Bendix (1956) mô tả quá trình này cụ thể trong sự phát triển của ngành công nghiệp sắt ở Anh trong những năm 1800. Messinger (1955) nghiên cứu một nhóm ảnh hưởng như thế nào già, tổ chức Townsend, tự chuyển đổi từ vận động hành lang cho sự hỗ trợ kinh tế của độ tuổi thành một tổ chức hướng tới mục tiêu của xã hội học bổng và tự túc tài chính-. Zald và Denton (1963), trong học tập của YMCA, thể hiện như thế nào trong tổ chức chuyển nhiệm vụ của mình như là đặc tính của môi trường đô thị của nó thay đổi. Clark (1960), trong nghiên cứu của ông về một trường cao đẳng cộng đồng, và Perrow (1961), trong nghiên cứu của ông về một bệnh viện tư nhân tự nguyện, cả hai nắm bắt tương tự biến đổi trong mục đích chính và tham gia một cách sâu sắc trong cộng đồng địa phương mà họ được gắn bởi lòng trung thành của nhân viên và nhiều ước muốn trong mặt đối mặt để tương tác (Powell và DiMaggio, 1991). Tất cả các nghiên cứu này phục vụ để làm nổi bật tầm quan trọng kép của logic kinh tế và quy phạm thiết lập và duy trì tổ chức. Các đóng góp của các nhà thể chế sớm được mở rộng quan niệm của chúng ta về mệnh lệnh kinh tế vượt ra ngoài. Họ đã xác định vai trò quan trọng của các giá trị trong định nghĩa của nhiệm vụ cốt lõi của một tổ chức và nêu rõ một tổ chức thiết kế theo một logic của đạo đức cũng như các quy tắc logic của một. Họ cho chúng ta thấy rằng người Nhóm 6 Trang 15
  17. Quản trị thay đổi Lớp M BA8 sáng lập tổ chức, doanh nghiệp, hoặc giám đốc điều hành đã được trung tâm cho sự phát triển và phổ biến của những logic. Các nhà lãnh đạo đã được các kiến trúc sư thiết kế xã hội công nghệ của cấu trúc hình thức cũng như biện hộ và đề xuất của logic của các giá trị đạo đức Mô hình các giai đoạn tăng trưởng Trải qua nhiều thập kỷ, nhiều nhà học giả đã sử dụng các phép loai suy sinh học để giải thích cho một lọat các hiện tượng. Các ví dụ bao gồm các quan điểm về chu kỳ sống hoặc các giai đọan phát triển trong quá trình phát triển nghề nghiệp của mỗi cá nhân “9Levins on, 1978), quá trình ra quyết định nhóm (Bales và Strodtbeck, 1951), Sự phát triển của tổ chức (Kimberly va Miles, 1980, Kazanjian, 1988), quần thể của các tổ chức (Hannan va Freeman, 1984: mcKelvey va Aldrich, 1983). Mô hình một chu kỳ sống hoặc giai đọan phát triển là một trong những quan điểm thông thường nhất trong các tài liệu về quản lý để giải thích làm thế nào để tổ chức chuyển từ giai đọan phát triển ban đầu đến vị trí tiếp tục tồn tại (Van de Ven và Poole, 1995) Mặc dù được sử dụng rộng rãi để giải thích sự phát triển và thay đổi trong tổ chức mới, mô hình các giai đọan phát triển trong chu kỳ sống của tổ chức dù sao vẫn bi gây tranh cãi. Những khẳng định về logic học phát triển, một số lượng mô hình nhiều tầng đã được đề xuất như mô hình dự đoán tồn tại trong sự phát triển của tổ chức. Những mô hình này có những đặc tính phân biệt khác nhau. Ví dụ, một số các nhà nghiên cứu đã tranh cãi rằng những giai đọan được điều khiển bằng cách nghiên cứu cơ hội phát triển mới trong khi Greiner (1972) thì xem giai đọan như là một phản ứng với cuộc khủng hỏang nội bộ. Một vài mô hình đề nghị rằng sự tiến bộ của tổ chức thông qua từng giai đọan trong khi Adizes, 1979 thì tranh cãi rằng có thể có rất nhiều con thường thông qua nhiều giai đọan. Hầu hết các mô hình bỏ qua các yếu tố dẫn tới sự sáng tạo chính thức của công ty. Còn Van de Ven, Hudson và Schroeder, 1984 lại cung cấp một cách rõ rang và hợp lý rằng làm thế nào và tại sao công ty được thành lập. Cuối cùng, các tác giả khác nhau trong giới hạn của số lượng các giai đọan mà họ cắt nghĩa. Có thể tìm thấy mô hình Nhóm 6 Trang 16
  18. Quản trị thay đổi Lớp M BA8 3 giai đọan của Smith, Mitchell và Summer, 1985, mô hình bốn giai đọan của của Kazanjian, 1988, Quinn và Cameron, 1983 và Rhenman, 1973 và mô hình năm hay nhiều hơn giai đọan của Adizes, 1979, Miler và Freisen, 1984, Van de Ven, Hudson và Schroeder, 1984. Mặc dù đúng như vậy, các giai đọan phát triển chia sẻ một cơ sở lý thuyết cơ bản, thông thường. Các tổ chức được cho là trải qua chuyển đổi cơ cấu cho phép họ phải đối mặt với những nhiệm vụ mới hoặc các vấn đề mới đưa ra. Ví dụ như Greiner (1972) xem sự phát triển của tổ chức như là một chuỗi các quá trình tiến hòa hoặc các cuộc cách mạng mà được dự đóan bởi các cuộc khủng hỏang có liên quan đến lãnh đạo, kiểm sóat và sự phối hợp. Chandler (1962) xem các giai đọan của sự phát triển tương ứng với những nghiên cứu cho các cơ hội tăng trưởng mới trước kh i các chiến lược bị cạn kiệt. Tushman va Moore (1982) thì quan tâm đến các giai đọan phát triển của tổ chức như là để phản ứng với sự thay đổi trong cơ cấu nền công nghiệp qua vòng đời của sản phẩm. Starbuck (1971) thì lại nắm bắt được tinh thần của các mô hình giai đọan này qua việc tham chiếu đến các ngụ ý và mô hình cấn thiết một các tuần tự cho sự thay đổi như là một hình thức hóa thân của tố chức. Các nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến tiến trình các giai đọan phát triển của công ty đã bị hạn chế hơn. Hầu hết các nghiên cứu dữ liệu cơ bản trong các các mô hình phát triển của tố chức. Miller và Friesen (1984) nghiên cứu mô hình chuyển tiếp các giai đỏan của 36 công ty và kết luận rằng sự tiến triển theo mô hình năm giai đọan được trình bảy thô trong dự liệu của họ . Drazin và Kazanjian thì phân tích lại các dữ liệu của Miller và Friesen để củng cố thêm cho ccác phát hiện của họ. Dựa trên hai nghiên cứu, Kazanjian (1988) đã tìm ra bằng chứng để hỗ trợ cho mô hình bốn giai đọan của lý thuyết phát triển có được cho công nghệ dựa trên các dự án mới. Bốn giai đọan đó là (1) quan điểm và phát triển, (2) thương mại hóa, (3) tăng trưởng và (4) ổn định. Mỗi một giai đọan trong bốn giai đọan phát triển được xem như là tạo thành một cấu hình riêng biệt trong cơ cấu tổ chức và quá trình phát triển để đáp ứng với một tập hợp các vấn đề được chi phối khác nhau trong từng giai đọan. Kazanjian (1988) cũng tìm ra một phần mà có thể hô trợ cho các lien kết của các vấn đề chi phối đền giai Nhóm 6 Trang 17
  19. Quản trị thay đổi Lớp M BA8 đạn tăng trưởng dựa trên một khảo sát của 105 doann nghiệp dựa trên công nghệ mới trong từng ngành côngnghiệp riêng lẻ. Những nghiên cứu khác có lien quan như Dogde, Fullerton va Robbins (1994) đánh giá mố i quan hệ của chu kỳ sống và mức độ cạnh tranh cho các ván đề nhận thức với số lượng mẫu nghiên cứu là 645 doanh nghiệp nhỏ. Các vấn đề được thu thập, phân lọai từ các báo cáo trong từng tập tin quản tri của các doanh nghiệp nhỏ. Trong 16 vần dề được xác định thì chín vần đề thể hiện ít nhất một nguyên liệu khác biệt trên chuyên mục của một giai đọan của chu kỳ sống và mức độ cạnh tranh. Mặc dù những phát hiện này củng cố thêm những khái niệm rằng các vấn đề sẽ khác nhau từng giai đọan, và các tác giả cũng xác định ra một lọat các vấn đề mà đã được phân lọai ra là các vấn đề cốt lõi mà lại không được xe như và các vấn đề giảm hoặc tăng một cách quan trong qua từng giai đọan phát triển. Họ tranh cãi về các vấn đề cốt lõi còn lại một các tương đối một cách quan trong độc lập qua từng giai đọan hoặc mức độ cạnh tranh. Vả được ghi chú rằng các mẫu được nghiên cứu bởi Dodge và các công sự là một nghiên cứu thu thấp ngang của các doanh nghiệp nhỏ từ các ngành công nghiệp như bán lẻ, dịch vụ và sản xuất. Các công ty nghiên cứu không nhất thiết phải là các doanh nghiệp mới, hoặc trẻ, và nhiều doanh nghiệp trong số họ phải đối mặt với những yêu cầu, giới hạn , cạnh tranh của thị trường. Đây là một sự tương phản với nghiên cứu của Kazanjian (1988 và Kazanjian và Drazin (1989)) về mẫu là các ngành công nghiệp đơn lẻ, nơi mà nhu cầu khong được xem như là yếu tố giới hạn. Hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm về các giai đọan phát triển hỗ trợ các khái niệm rằng có một xu hướng chính thô cho các công ty trong việc thiếp lập nhất định trong tiến trình dự đóan các giai đọan phát triển. Các ý nghĩa chính của những nghiên cứu thực nghiệm này có mối quan hệ chặt chẽ với những vấn đề chi phối tới các giai đọan tăng trưởng. Mặc dù những vấn đề cốt lõi có thể chứng minh một đặc điểm lâu dài (Dodge và các cộng sự, 1994), những cái khác thì làm tăng hoặc giảm tầ m quan trọng trong từng giai đọan phát triển. Kazanjian (1988) và Drazin (1989) đã tìm ra vai trò lý thuyết của các vấn đề chi phối, có tầm quan trọng không chỉ trong sự xác định và đo lường trng từng giai đọan rời rạc, mà còn trong sự hiểu biết sự chuyển tiếp từng giai đọan, cái má có thể được xem như là quá trình học tập của tổ chức (Normann, 1977; Rhenman, 1973) Nhóm 6 Trang 18
  20. Quản trị thay đổi Lớp M BA8 Làm thế nào mà mô hình các giai đọan tăng trưởng có thể dựa vào các khái niệm của logic? Mô hình các giai đọan tăng trưởng thêm vào nhửng hiểu biết logic của tổ chức bằng cách đưa chúng vượt ra khỏi logic in dấu trong suốt những điều tìm thấy ban đầu. Nó hướng sự chú ý của chúng ta đến hệ thống để giải quyết các vấn đề mà nổi lên như là sự phát triển của tổ chức. Nhữnng logic về kinh tế và công nghệ ban đầu thường thiết lập tổ chức không đủ đẻ thực hiện việc tổ chức theo thời gian. Thay vào đó, nó tạo ra một cơ sở hoặc bản thiết kế, được thêm vào khi cần thiết để đối phó với sự tăng trưởng. Thực tế cho hầu hết các phần, mô hình các giai đọan tăng trưởng. Lý thuyết hệ thống phức hợp và hệ thống tự tổ chức Trong hai thập kỷ qua, phương pháp tiếp cận mới để mô hình hóa các tiến trình tổ chức phức hợp, hệ thống mở đã nổi lên qa các lĩnh vực của toán học, vật lý, hóa học, sinh học, lý thuyết tổ chức, tâm lý xã hội, kinh tế, và xã hội học (ví dụ, Allen và McGlade, 1986 ; Brock và Sayers, 1988; Cohen, March, và Olsen, 1972; Day và Schafer, 1985; Devaney, 1987; Hayes, 1984; Krippendorff, 1971; Masuch và LaPotin, Rasmussen năm 1989; Miner, nă m 1987, và Mosekilde, 1988; Weick và Berlinger, 1989). Mặc dù sự khác biệt về quy luật, các nhà nghiên cứu chia sẻ các vấn đề chung, ngôn ngữ, quan điểm, và phương pháp hướng tới sự hiểu biết làm thế nào tổ chức xuất hiện. Điều nổi lên tòan thể trong các tài liệu nghiên cứu, căn cứ vào các nguyên tắc của lý thuyết hệ thống phức hợp, không phải là một lý thuyết cho mỗi gia nhập, mà là một quan điểm cho lý luận và mô hình hóa các hệ thống năng động (Morel và Ramanujam, 1999). Nó đã được gọi là khoa học tự tổ chức bởi những người có cùng quan điểm (Ashby, 1968; Prigogine và Stengers, 1984; Schieve và Allen, 1982; Yates, 1987). Công việc càng gần đây đã áp dụng những ý tưởng mới nổi này vào sự phát triển của các tổ chức chính thức, chủ yếu thuộc các tên của lý thuyết phức hợp (Ander con-, 1999), mà còn tham chiếu tới lý thuyết hỗn loạn (Brown và Eisenhardt, 1998; Dooley và Van de Ven, 1999). Drazin và Sandelands (1992) và Sandelands và Drazin (1989) cung cấp một sự phát triển chi tiết về những nguyên tắc này, áp dụng cho lý thuyết tổ chức, Nhóm 6 Trang 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
113=>2