Tiểu luận: Dòng vốn và bộ ba bất khả thi ở Trung Quốc
lượt xem 20
download
Nội dung chính của đề tài Bộ ba bất khả thi tại Trung Quốc trình bày lý thuyết bộ ba bất khả thi, qui mô của dòng vốn quốc tế của trung quốc, phân tích thực nghiệm bộ ba bất khả thi tại Trung Quốc. Bài nghiên cứu này đánh giá mức độ mở cửa thị trường vốn của Trung Quốc trong thực tế và so sánh kết quả với thước đo theo lý thuyết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Dòng vốn và bộ ba bất khả thi ở Trung Quốc
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ T.P HỒ CHÍ MINH TÀI CHÍNH QUỐC TẾ BÀI NGHIÊN CỨU: DÒNG VỐN VÀ BỘ BA BẤT KHẢ THI Ở TRUNG QUỐC Han Jian, Cheng Shaoyi và Shen Yanzhi Nanjing University, Nanjing The Johns Hopkins University - Nanjing University Center, Nanjing GVHD: GS.TS TRẦN NGỌC THƠ LỚP: NH Đêm 1 – Khóa 22 –Nhóm 17 Danh sách nhóm: Lâm Đặng Xuân Hoa Đỗ Thị Thanh Nhàn Nguyễn Thị Thơm Nguyễn Đồng Diễm Trâm
- Bộ ba bất khả thi tại Trung Quốc GS.TS Trần Ngọc Thơ NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… Nhóm 17-CHNH Đêm 1-K22 Trang 1
- Bộ ba bất khả thi tại Trung Quốc GS.TS Trần Ngọc Thơ MỤC LỤC ĐẶT VẤN ĐỀ ........................................................................................................4 Vấn đề nghiên cứu:...............................................................................................4 Mục tiêu nghiên cứu: ............................................................................................4 Đối tượng nghiên cứu: ..........................................................................................4 Phạm vi nghiên cứu ..............................................................................................4 CHƯƠNG I. LÝ THUYẾT BỘ BA BẤT KHẢ THI ............................................5 1.1 Bộ ba bất khả thi .........................................................................................5 1.2 Xây dựng thước đo bộ ba bất khả thi: ..........................................................7 CHƯƠNG II. QUI MÔ CỦA DÒNG VỐN QUỐC TẾ CỦA TRUNG QUỐC.10 2.1 Tổng quan về dòng vốn quốc tế tại Trung Quốc ........................................ 10 2.2 Đo lường mở cửa thị trường vốn ............................................................... 12 CHƯƠNG 3. PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM BỘ BA BẤT KHẢ THI TẠI TRUNG QUỐC....................................................................................................15 3.1 Các yếu tố của bộ ba bất khả thi tại Trung Quốc:.......................................15 3.2 Mối quan hệ tuyến tính giữa các chỉ số của Bộ ba bất khả thi .................... 21 3.3. Bài học kinh nghiệm: ................................................................................ 26 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 29 Nhóm 17-CHNH Đêm 1-K22 Trang 2
- Bộ ba bất khả thi tại Trung Quốc GS.TS Trần Ngọc Thơ DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT FDI Đầu tư trực tiếp NĐTNN Nhà đầu tư nước ngoài NHTM Ngân hàng thương mại NHTW Ngân hàng Trung ương RMB Nhân dân tệ TQ Trung Quốc TTCK Thị trường chứng khoán WTO Tổ chức thương mại thế giới Nhóm 17-CHNH Đêm 1-K22 Trang 3
- Bộ ba bất khả thi tại Trung Quốc GS.TS Trần Ngọc Thơ ĐẶT VẤN ĐỀ Vấn đề nghiên cứu: Bài nghiên cứu này đánh giá mức độ mở cửa thị trường vốn của Trung Quốc trong thực tế và so sánh kết quả với thước đo theo lý thuyết. Đồng thời, các tác giả cũng nghiên cứu tác động của dòng vốn này lên các mục tiêu chính sách vĩ mô của Trung Quốc. Từ đó, thu thập số liệu để đánh giá ba khía cạnh của bộ ba bất khả thi: ổn định tỷ giá, độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính; cách thức sử dụng và chi phí của chính sách vô hiệu hóa để đồng thời đạt được 3 mục tiêu trên. Mục tiêu nghiên cứu: Mục tiêu nghiên cứu của bài nghiên cứu này là: Đánh giá tổng quan dòng vốn quốc tế chảy vào Trung Quốc. Phân tích thực nghiệm ba mục tiêu của bộ ba bất khả thi và mối quan hệ tuyến tính giữa chúng. Đánh giá hiệu quả sử dụng chính sách vô hiệu hóa. Đối tượng nghiên cứu: Bài nghiên cứu tập trung nghiên cứu các số liệu thực nghiệm về dòng vốn quốc tế, các chỉ tiêu của bộ ba bất khả thi và các số liệu liên quan đến chính sách vô hiệu hóa. Phạm vi nghiên cứu Các số liệu được lấy trong giai đoạn 14 năm từ 1996 đến 2009 tại thị trường Trung Quốc. Nhóm 17-CHNH Đêm 1-K22 Trang 4
- Bộ ba bất khả thi tại Trung Quốc GS.TS Trần Ngọc Thơ CHƯƠNG I. LÝ THUYẾT BỘ BA BẤT KHẢ THI 1.1 Bộ ba bất khả thi Bằng cách giả định chu chuyển vốn là hoàn hảo, Mundell-Fleming (1963) đã chỉ ra rằng chính sách tiền tệ không thể phát huy hiệu quả dưới chế độ tỷ giá cố định trong khi chính sách tài khóa không có tác dụng dưới cơ chế tỷ giá thả nổi. Ngược lại, chính sách tài khóa phát huy hiệu quả cao trong cơ chế tỷ giá cố định và chính sách tiền tệ có tác dụng mạnh dưới chế độ tỷ giá thả nổi. Điều này có nghĩa, nếu chu chuyển vốn là hoàn hảo thì chính sách tiền tệ hoàn toàn không có hiệu lực nếu chính phủ theo đuổi mục tiêu ổn định tỷ giá nhưng sẽ có hiệu lực cao nếu chính phủ thả nổi tỷ giá. Dựa vào lý thuyết này, các nhà kinh tế học như Krugman (1979) và Frankel (1999) đã phát triển lên thành lý thuyết bộ ba bất khả thi. Lý thuyết bộ ba bất khả thi được phát biểu như một định đề: một quốc gia không thể đồng thời đạt được tỷ giá cố định, hội nhập tài chính và độc lập tiền tệ. Trong đó: Độc lập tiền tệ là sử dụng chính sách tiền tệ để ổn định nền kinh tế, thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát. NHTW có thể tăng cung tiền và giảm lãi suất khi nền kinh tế suy thoái và giảm cung tiền, tăng lãi suất khi nền kinh tế phát triển quá nóng. Hội nhập tài chính nghĩa là dòng vốn được tự do ra vào nền kinh tế. Việc này cho phép công dân của nước đó đa dạng hóa tài sản bằng cách đầu tư ra nước ngoài. Nó cũng khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đem theo các nguồn lực, kinh nghiệm, chuyên môn để đầu tư vào nước đó. Duy trì tỷ giá ổn định giúp tạo ra cái neo danh nghĩa để chính phủ tiến hành các biện pháp ổn định giá cả. Cái neo này làm cho nhận thức của nhà đầu tư đối với rủi ro của nền kinh tế giảm đi, làm tăng thêm niềm tin của công chúng vào đồng nội tệ. Tất cả giúp làm cho môi trường đầu tư tốt hơn. Tuy nhiên, không thể cùng lúc đạt được cả ba mục tiêu trên. Một quốc gia chỉ có thể lựa chọn cùng một lúc đồng thời hai trong ba mục tiêu. Bất kỳ cặp mục tiêu nào cũng có thể đạt được bằng một chế độ tỷ giá tương ứng nhưng phải từ bỏ mục tiêu chính sách còn lại. Nhóm 17-CHNH Đêm 1-K22 Trang 5
- Bộ ba bất khả thi tại Trung Quốc GS.TS Trần Ngọc Thơ Ổn định tỷ giá và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa chọn chế độ tỷ giá cố định nhưng phải từ bỏ độc lập tiền tệ. Điều này có nghĩa chính phủ đã mất đi một công cụ để điểu chỉnh lãi suất trong nước độc lập với lãi suất nước ngoài. Như đã phân tích trong mô hình Mundell-Fleming, khi dòng vốn ra vào được tự do, nếu muốn giữ tỷ giá hối đoái ổn định thì NHTW buộc phải tung đồng nội tệ để mua vào đồng ngoại tệ hoặc giảm lãi suất trong nước nếu dòng tiền đi vào quá nhiều; ngược lại, NHTW sẽ phải bán bớt ra một lượng ngoại tệ dự trữ để thu về đồng nội tệ hoặc gia tăng lãi suất trong nước khi dòng vốn đảo chiều. Trong bối cảnh như vậy, tính độc lập của chính sách tiền tệ hay nói cách khác điều hành chính sách tiền tệ vì mục tiêu lạm phát và tăng trưởng kinh tế sẽ không thể đảm bảo vì cung tiền và lãi suất không phải dựa vào diễn biến giá cả trong nền kinh tế mà do tỷ giá hay dòng tiền vào ra quyết định. Độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi nhưng phải từ bỏ mục tiêu ổn định tỷ giá. Với lựa chọn này, chính phủ (NHTW) được quyền tự do ấn định lãi suất nhưng đổi lại tỷ giá phải vận hành theo những nguyên tắc của thị trường. Ngược lại với cách kết hợp ở trên, nếu NHTW muốn có một chính sách tiền tệ độc lập vì mục tiêu lạm phát và tăng trưởng kinh tế thì buộc phải thả nổi tỷ giá khi tài khoản vốn đã được tự do. Ổn định tỷ giá và độc tiền tệ được kết hợp bằng cách lựa chọn thị trường vốn đóng. Lựa chọn này có nghĩa chính phủ phải thiết lập kiểm soát vốn. Khi có kiểm soát vốn, mối liên hệ giữa lãi suất và tỷ giá sẽ bị phá vỡ. Nhóm 17-CHNH Đêm 1-K22 Trang 6
- Bộ ba bất khả thi tại Trung Quốc GS.TS Trần Ngọc Thơ 1.2 Xây dựng thước đo bộ ba bất khả thi: 1.2.1 Độc lập tiền tệ: Theo truyền thống, tỷ lệ lãi suất và tỷ lệ lạm phát thường được chọn làm biến đại diện cho độc lập tiền tệ. Tuy nhiên, việc sử dụng tỷ lệ lạm phát có thể phức tạp vì việc tính toán chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số giá sản xuất (PPI) khác nhau rất nhiều giữa các quốc gia vì thế không thể so sánh các chỉ số này giữa các quốc gia với nhau. Sự khác nhau trong tỷ lệ lãi suất ngắn hạn ở các quốc gia khác nhau là biến đại diện tốt hơn để phản ánh sự độc lập tiền tệ. Bài nghiên cứu này áp dụng một phương pháp được sử dụng bởi Aizenmam và các cộng sự (2009) để đo lường chỉ số độc lập tiền tệ. Nó được định nghĩa là: (1) Nhóm 17-CHNH Đêm 1-K22 Trang 7
- Bộ ba bất khả thi tại Trung Quốc GS.TS Trần Ngọc Thơ Trong đó: i là lãi suất thị trường tiền tệ của quốc gia sở tại (trong bài nghiên cứu này là Trung Quốc). i* là lãi suất thị trường tiền tệ của quốc gia cơ sở (trong bài nghiên cứu này là Mỹ). Chỉ số này giao động giữa 0 và 1. Một chỉ số có giá trị cao hơn cho thấy mức độ cao hơn của chính sách tiền tệ độc lập. Ở đây, chúng tôi chọn bình quân lãi suất qua đêm liên ngân hàng (hằng tháng) và lãi suất qua đêm của các quỹ liên bang (hằng tháng) tương ứng với giá thị trường tiền tệ của Trung Quốc và Mỹ. 1.2.2 Tỷ giá hối đoái ổn định: Được sử dụng bởi Alzenmal và các cộng sự (2009) để đo lường sự ổn định tỷ giá hối đoái, công thức (2) là sự tiêu chuẩn hóa “độ lệch chuẩn hàng năm của tỷ giá hối đoái hằng tháng giữa nước chủ nhà và nước cơ sở”. Chỉ số sẽ ở giữa 0 và 1: (2) là giá trị tuyệt đối của tỷ lệ trượt giá so với cùng kỳ năm bằng cách sử dụng tỷ giá hối đoái của tháng 12 của cùng năm. Giá trị cao hơn của chỉ số ERS cho thấy một sự thay đổi ổn định hơn của tỷ giá hối đoái so với đồng tiền của nước cơ sở. Chúng tôi sử dụng trung điểm trung bình hằng tháng của RMB so với USD. 1.2.3 Tự do hóa dòng vốn: Tự do hóa dòng vốn của Trung Quốc được tính bằng: (3) Trong đó: FA đề cập đến tổng dự trữ hằng năm của tài sản nước ngoài FL là tổng dự trữ hằng năm của nợ nước ngoài. Nhóm 17-CHNH Đêm 1-K22 Trang 8
- Bộ ba bất khả thi tại Trung Quốc GS.TS Trần Ngọc Thơ Công thức cho phép chúng tôi phân tích sự thay đổi của sự mở cửa thị trường vốn của Trung Quốc theo thời gian. Để cách tính này có thể so sánh với các cách khác, chúng tôi chuyển hóa chỉ số này nằm giữa 0 và 1. Giá trị cao hơn của chỉ số này cho thấy một mức độ cao hơn trong sự tự do của thị trường vốn của Trung Quốc. Nhóm 17-CHNH Đêm 1-K22 Trang 9
- Bộ ba bất khả thi tại Trung Quốc GS.TS Trần Ngọc Thơ CHƯƠNG II. QUI MÔ CỦA DÒNG VỐN QUỐC TẾ CỦA TRUNG QUỐC 2.1 Tổng quan về dòng vốn quốc tế tại Trung Quốc Sau năm 2002, cuộc suy thoái kinh tế theo chu kỳ tấn công nước Mỹ trong khi Trung Quốc vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng cao, dòng vốn vào Trung Quốc tăng mạnh. Theo báo cáo của IMF, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm của dòng vốn đầu tư vào Trung Quốc trong thời gian 2002-2007 vượt quá 35%. Nhưng, với sự bùng nổ của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu trong năm 2008, luồng vốn vào Trung Quốc đã giảm mạnh 40%. Dòng vốn tín dụng ngân hàng thậm chí đảo chiều mạnh. Tuy nhiên, với sự phục hồi kinh tế mạnh mẽ của Trung Quốc trong năm 2009, dòng vốn đầu tư quốc tế đã quay lại một cách nhanh chóng, và thể hiện một xu hướng tăng mạnh. Chính sách tiền tệ của “nới lỏng định lượng” được đưa ra bởi Cục Dự trữ Liên bang tăng các luồng vốn từ Hoa Kỳ vào Trung Quốc, đẩy mạnh áp lực lạm phát và giá trị tài sản tại các thị trường Trung Quốc. Dựa vào chương trình tính toán về cán cân thanh toán, đầu tư quốc tế có thể được chia thành ba loại: đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư theo danh mục đầu tư và đầu tư khác. Như được thể hiện rõ trong hình 1, cả ba luồng vốn đầu tư trên rất thấp ở Trung Quốc trước những năm 1990. Và dòng vốn đầu tư khác thì nhỉnh hơn so với hai hình thức còn lại. Trong năm 1992, dòng vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư Nhóm 17-CHNH Đêm 1-K22 Trang 10
- Bộ ba bất khả thi tại Trung Quốc GS.TS Trần Ngọc Thơ trực tiếp nước ngoài (FDI), bắt đầu gia tăng. Tổng dòng vốn FDI có mức tăng trưởng ổn định và không có biến động lớn. Xu hướng này đã được quy cho các chính sách giảm thuế ưu đãi của chính phủ Trung Quốc và các ưu đãi khác. Chi phí lao động thấp một cách tương đối, thị trường trong nước tiềm năng và tăng trưởng kinh tế ổn định cũng làm cho Trung Quốc trở thành điểm đến hấp dẫn đối với FDI. Trong năm 2002, khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), dòng vốn FDI của Trung Quốc tăng hơn nữa. Tăng trưởng FDI nhanh nhất xảy ra trong năm 2007 và đạt mức cao nhất trong năm 2008 là 147.8tỷ USD. Sau đó đã bị cắt giảm một nửa, xuống còn khoảng 78.2tỷ USD trong năm 2009, khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng nổ. Tương tự như vậy, danh mục đầu tư và đầu tư khác cũng chứng kiến sự tăng trưởng nhanh chóng. Hình 1 cho thấy dòng vốn đầu tư gián tiếp và đầu tư khác bị hạn chế và dễ bị biến động trước năm 2002. Theo sau việc Trung Quốc gia nhập WTO, các danh mục đầu tư và các khoản đầu tư khác bắt đầu gia tăng để thực hiện cam kết dần dần mở cửa thị trường vốn. Đặc biệt, sự phát triển của dòng vốn đầu tư gián tiếp đã được thúc đẩy bởi các cải cách của thị trường chứng khoán Trung Quốc. Thực hiện đủ điều kiện đầu tư tổ chức nước ngoài (QFIIs) đã làm giảm những rào cản của kiểm soát vốn ở Trung Quốc, và là một kênh cho đầu tư nước ngoài tới thị trường chứng khoán Trung Quốc. Tuy nhiên, thị trường danh mục đầu tư của Trung Quốc luôn phát triển từng bước một, một phần vì các bài học kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á vào năm 1997, khi các nước mở cửa thị trường vốn của họ quá nhanh chóng để ngăn chặn những tác động tiêu cực của đầu cơ tiền tệ quốc tế. Bên cạnh đó, sự gia tăng của các khoản "đầu tư khác" kết quả từ cả hai việc giảm kiểm soát vốn và sự dự đoán về việc đánh giá cao đồng Nhân dân tệ ngày càng tăng. Khi so sánh với danh mục đầu tư và FDI, các thể loại "đầu tư khác", trong đó cho vay ngân hàng và tín dụng thương mại là 2 khoản cho vay bất ổn nhất. Đó là bởi vì có một lượng lớn "tiền nóng" lọt vào Trung Quốc thông qua kênh này, do có thể tìm kiếm lợi nhuận ngắn hạn từ chênh lệch lãi suất giữa Trung Quốc và Mỹ và sự mong đợi đồng Nhân dân tệ (RMB) được đánh giá cao. Những việc đầu cơ "tiền Nhóm 17-CHNH Đêm 1-K22 Trang 11
- Bộ ba bất khả thi tại Trung Quốc GS.TS Trần Ngọc Thơ nóng" có thể di chuyển ra vào rất nhanh thị trường Trung Quốc dẫn đến khả năng gây ra sự mất ổn định thị trường. Các dòng vốn "đầu tư khác" tăng đáng kể trong thời gian 2002 - 2007, nhưng đột ngột giảm xuống, thậm chí là xuống tới con số tiêu cực trong năm 2008. Tuy nhiên, trong năm 2009 đã tăng trở lại mức khoảng 3/4 so với năm 2007. Dù vậy, dòng vốn danh mục đầu tư vẫn là nhạy cảm nhất đối với những cú sốc bên ngoài. Nó bắt đầu giảm ngay sau khi các cuộc khủng hoảng thế chấp dưới chuẩn xảy ra trong năm 2007. Một trong những luồng vốn ít nhạy cảm nhất là dòng vốn FDI - không giảm cho đến năm 2009, có lẽ vì FDI thường là dài hạn, không thể đảo ngược và khó di chuyển. 2.2 Đo lường mở cửa thị trường vốn Làm thế nào để đo lường mức độ mở của tài khoản vốn từ lâu đã là một thách thức đối với các nhà nghiên cứu. Cho đến bây giờ, nền khoa học hiện cung cấp hai phương pháp chính để đo lường mở cửa thị trường vốn: đo lường theo tiêu chuẩn de jure và đo lường theo tiêu chẩn de facto. Đo lường de jure (đo lường theo luật định) Đo lường De juredựa trên Báo cáo thường niên của IMF về thoả thuận trao đổi và Hạn chế giao dịch (AREAER). Những biện pháp này cố gắng xây dựng "cổ phần" để phản ánh phần nhỏ của các năm trong mẫu trong đó tài khoản vốn của một quốc gia là di động (xem Kose et al. 2006). Đó là chỉ số KAOPEN một trong những phương pháp đo lường de jure, được phát triển bởi Chinn và Ito (2008), được sử dụng thường xuyên hơn trong những năm gần đây do lợi thế về sự toàn diện và khả thi. Ưu điểm chung của đo lường de jure là sự tiện lợi trong so sánh việc mở cửa tài khoản vốn giữa các quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, phương pháp này cũng bị nhiều thiếu sót. Đầu tiên, chúng không phản ánh chính xác mức độ mở của tài khoản vốn bởi vì những phương pháp này chỉ tiếp cận được một phần dựa trên những hạn chế khác nhau liên quan đến giao dịch ngoại tệ nước ngoài. Thứ hai, chúng không phản ánh hiệu quả của việc thực thi kiểm soát vốn, bởi vì ở một số nước, quy định có thể không thay đổi, trong khi việc thực thi có thể thay Nhóm 17-CHNH Đêm 1-K22 Trang 12
- Bộ ba bất khả thi tại Trung Quốc GS.TS Trần Ngọc Thơ đổi theo thời gian. Tại một số quốc gia khác, bất chấp những hạn chế nghiêm ngặt trên thị trường vốn, quan chức chính phủ đã không thể kiểm soát dòng vốn đầu tư hiệu quả, như Trung Quốc. Cuối cùng, đó là không thể tránh khỏi rằng AREAER, cơ sở của đo lường de jure, thất bại bao gồm cả sự tồn tại của kiểm soát vốn nhất định mà thực sự có ảnh hưởng nhất ở một số nước (Xem Kose et al. 2006). Để giải quyết vấn đề này, nhiều nhà nghiên cứu chuyển sang đo lường de facto. Đo lường theo tiêu chuẩn de facto (đo lường trên thực tế) Tương tự như đo lường mở cửa thương mại, đo lường de facto (Lane và Milessi-Ferreti, 2007) tính toán mở cửa thị trường vốn của một quốc gia bằng cách sử dụng các tỷ lệ của tổng các tổng luồng vào và ra của GDP quốc gia, dựa trên dòng chảy thực tế. Tuy nhiên, phương pháp này lại dễ bị lỗi đo lường, khi dòng vốn hàng năm có xu hướng khá ổn định. Nhiều nhà nghiên cứu phản đối đo lường này cũng bởi vì họ tin rằng dòng vốn là nội sinh, và một số dòng vốn đầu tư theo danh mục đã không được thúc đẩy bởi sự mở cửa thị trường, nhưng bằng các yếu tố khác, như việc lây lan lãi suất hoặc dự đoán của giá tiền tệ (Chen, 2006). Để giảm thiểu những vấn đề này, (2006) Kose et al. giới thiệu một cách tiếp cận thay đổi, trong đó sử dụng tổng số cổ phiếu của tổng tài sản và nợ phải trả nước ngoài như một tỷ lệ so với GDP. Nhóm 17-CHNH Đêm 1-K22 Trang 13
- Bộ ba bất khả thi tại Trung Quốc GS.TS Trần Ngọc Thơ Hình 2 mô tả việc mở cửa thị trường vốn của Trung Quốc bằng cách sử dụng đo lường de jure (phía bên phải) và đo lường de facto (bên trái). Trong phương pháp đo lường de facto, chỉ số dao động trong khoảng 0 và 1. Giá trị cao hơn chỉ số này cho thấy mức độ cao của sự mở cửa thị trường vốn của Trung Quốc (Xem đoạn của "Mở cửa thị trường vốn" trong chương tiếp theo mục tính chi tiết chỉ số này). Ở bên phải của hình 2, cho thấy các kết quả của phương pháp đo lường de jure của việc sử dụng chỉ số KAOPEN. Chỉ số này có thể là trên hoặc dưới số không. Đối với các nước có chỉ số KAOPEN dưới số không, việc mở cửa thị trường vốn của họ sẽ là tương đối thấp. Tương tự như biện pháp de facto, giá trị cao hơn của chỉ số KAOPEN chỉ ra độ cao hơn mở cửa thị trường vốn, và ngược lại. Việc mở cửa thị trường vốn vẫn không thay đổi ở -1.2 từ năm 1993 đến năm 2009 tại phương pháp đo lường de jure, mà chỉ ra một mức độ tương đối thấp của thị trường vốn mở của Trung Quốc. Tuy nhiên, bằng cách sử dụng các biện pháp de facto, các chuyên gia thấy một mức độ ngày càng tăng của mở cửa thị trường vốn của Trung Quốc, và xu hướng này tăng cường sau năm 2003. Đo lường de jure không phản ánh sự thay đổi của hội nhập thị trường vốn của Trung Quốc trong những năm gần đây. Vì nghiên cứu này có ý định phân tích vấn Nhóm 17-CHNH Đêm 1-K22 Trang 14
- Bộ ba bất khả thi tại Trung Quốc GS.TS Trần Ngọc Thơ đề mở cửa thị trường vốn Trung Quốc theo thời gian mà không cần so sánh với các nước khác, các chuyên gia áp dụng đo lường de facto, cụ thể, tổng số cổ phiếu tổng tài sản và nợ phải trả nước ngoài như một tỷ lệ so với GDP. CHƯƠNG 3. PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM BỘ BA BẤT KHẢ THI TẠI TRUNG QUỐC Như đã đề cập ở trên, dòng vốn đầu tư quốc tế là dòng vốn không ổn định và nó mang đến nhiều rủi ro tiềm ẩn cho các thị trường mới nổi có hệ thống tài chính quốc gia chưa được thiết lập tốt. Vì thế, thách thức lớn nhất của các thị trường mới nổi, bao gồm Trung Quốc, là làm thế nào để cân bằng các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhau khi đối mặt với dòng vốn đầu tư quốc tế lớn hơn và phức tạp hơn. Một cách để khám phá điều này là sử dụng khuôn khổ của bộ 3 bất khả thi. Bộ 3 bất khả thi, được giới thiệu bởi Mundell (1963), đề cập đến thực tế rằng bất cứ quốc gia nào cũng không thể đồng thời có tự do tài chính (hội nhập tài chính), chính sách tiền tệ độc lập và tỷ giá hối đoái cố định. Thay vào đó, nó có thể đồng thời đạt được tối đa 2 trong 3 mục tiêu trên. Phần đầu tiên của mục này sẽ đo lường để tính toán 3 chỉ số của bộ 3 bất khả thi, sau đó sẽ kiểm tra xem ba chỉ số của bộ 3 bất khả thi có “ràng buộc” với nhau hay không bằng cách sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính. 3.1 Các yếu tố của bộ ba bất khả thi tại Trung Quốc: Bảng 1 biểu hiện mức độ biến thiên của cả 3 chỉ tiêu trong giai đoạn 14 năm từ 1996 đến 2009 trong nghiên cứu của chúng tôi. Kết quả cho thấy rằng giá trị trung bình của ERS khoảng 0.673, lớn hơn 2 chỉ tiêu còn lại. Tất cả những giá trị lớn nhất của 3 chỉ tiêu gần bằng 1, và giá trị nhỏ nhất gần bằng 0. Độ lệch chuẩn của 3 chỉ tiêu, giá trị này phản ánh các chỉ tiêu lệch bao nhiêu so với giá trị trung Nhóm 17-CHNH Đêm 1-K22 Trang 15
- Bộ ba bất khả thi tại Trung Quốc GS.TS Trần Ngọc Thơ bình của nó, nằm giữa 0.2 và 0.4, và độ lệch chuẩn của MI nhỏ nhất, chỉ bằng 0.208. Hình 3 diễn tả sự thay đổi chỉ số của bộ 3 bất khả thi của Trung Quốc theo thời gian. Có một số đặc điểm nổi bật của 3 chỉ tiêu này. Thứ nhất, chỉ số về tự do hóa thị trường vốn của Trung Quốc tăng dần dần từ năm 1996 đến năm 2009. Thứ 2, mặc dù chỉ số ổn định tỷ giá hối đoái tăng từ 0.5 lên xấp xỉ 0.9 trong giai đoạn 1996 – 1998, và tiếp tục ổn định đến năm 2004. Nhưng sau đó chỉ số này đột ngột rơi xuống mức rất thấp là khoảng 0.2 trong năm 2005, tình trạng này tiếp diễn đến năm 2009. Sự lao dốc trong năm 2005 là do sự cải cách chế độ tỷ giá của Trung Quốc, nó đã phá vỡ chốt cố định của tiền Trung Quốc với USD, và đã chuyển đến một hệ thống tỷ giá linh hoạt hơn. RMB đã được chốt với một rổ các đồng tiền, thay vì chỉ chốt với USD. Kể từ đó, đồng RMB của Trung Quốc đã dần dần được định giá ổn định cho tới khi khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra vào tháng 8 năm 2008. Chính phủ Trung Quốc chọn cách tái can thiệp vào thị trường hối đoái nhằm bảo tồn giá trị của RMB để ngăn chặn ảnh hưởng xấu trong thị trường nội địa thông qua các kênh ngoại hối. Cuối cùng, chỉ số độc lập tiền tệ nhìn chung đã duy trì được 1 xu thế; chỉ số này đã biến động trong khoảng thời gian được quan sát. Hình 3 cho thấy rằng trừ năm 1997, 2003 và 2005, chỉ số độc lập tiền tệ của các năm khác về Nhóm 17-CHNH Đêm 1-K22 Trang 16
- Bộ ba bất khả thi tại Trung Quốc GS.TS Trần Ngọc Thơ cơ bản thấp hơn 0.6. Đặc biệt năm 2006, có vẻ như sự độc lập tiền tệ của Trung Quốc giảm đi nhanh chóng. Nguyên nhân chủ yếu là do sự tăng trưởng nóng của nền kinh tế trong nước. Để ngăn chặn lãi suất ngược, ngân hàng trung ương đã can thiệp bằng cách tăng lãi suất. Cùng lúc đó, các quốc gia khác cũng phải đối mặt với lạm phát toàn cầu, và phải tăng lãi suất của họ, bao gồm cả Mỹ. Điều này đã dẫn tới một sự liên kết về lãi suất giữa Mỹ và Trung Quốc, do đó làm giảm chỉ số độc lập tiền tệ của Trung Quốc. Để đánh giá tốt hơn sự vận động của những chỉ tiêu này theo thời gian, Aizenmam và các cộng sự (2008) đã xây dựng “biểu đồ kim cương”, trong biểu đồ này họ đã thêm vào ba chiều của bộ 3 bất khả thi một phép đo về quỹ dự trữ ngoại hối (IR/GDP), chỉ số để mô tả xu hướng làm giảm bộ ba bất khả thi bằng tích lũy dự trữ ngoại hối. Gupta và Abhijit (2010) đã áp dụng phương pháp tương tự cho Ấn Độ và xác nhận rằng những nhà hoạch định chính sách của Ấn Độ đã cố gắng sử dụng dự trữ ngoại hối để giảm thiểu bộ ba bất khả thi. Lý do đằng sau việc này là một quốc gia muốn duy trì giá trị của đồng nội tệ thì nên tích lũy dự trữ ngoại hối khi dòng vốn quốc tế chảy vào nước này lớn. Tuy nhiên, đây không phải là sự kết thúc của sự nỗ lực của các quốc gia để giải quyết bộ ba bất khả thi; thay vào đó, trong trường hợp của Trung Quốc có thể tiếp tục sử dụng các nghiệp vụ của thị trường mở, dự trữ bắt buộc và định hướng để giải quyết các vấn đề thanh khoản trong nước là kết quả của tích lũy dự trữ ngoại hối. Mặc dù chỉ số IR/GDP có thể có nhiều ý nghĩa, nhưng nó được giới hạn lại để giải thích thêm cho mức độ của can thiệp vô hiệu hóa. Do đó, chúng tôi đo lường mức độ can thiệp vô hiệu hóa (như một phần của GDP) tại đỉnh thứ 4 của “biểu đồ kim cương”. Để làm cho các chỉ số này có thể so sánh được với nhau, chúng tôi tiêu chuẩn hóa mức độ vô hiệu hóa nằm giữa 0 và 1. Giá trị cao hơn của sự can thiệp vô hiệu hóa phản ánh những nỗ lực lớn hơn của ngân hàng trung ương nhằm vô hiệu hóa sự tác động của các thay đổi trong thị trường tiền tệ. Nhóm 17-CHNH Đêm 1-K22 Trang 17
- Bộ ba bất khả thi tại Trung Quốc GS.TS Trần Ngọc Thơ Như mô tả trong hình 4(b), mặc dù sự tự do hóa thị trường vốn của Trung Quốc tăng dần trong khoảng giữa 2 năm 1998 và 2004, nhưng tổng thể sự tự do của thị trường vốn vẫn bị giới hạn. Tuy nhiên, cũng trong giai đoạn này, sự ổn định tỷ giá hối đoái vẫn duy trì ở mức cao gần 1. Chỉ số độc lập tiền tệ đã dao động, nhưng nhìn chung mức độ của nó vẫn tương đối cao. Mức độ can thiệp vô hiệu hóa bằng chính sách tiền tệ tăng nhẹ, cho thấy vấn đề thanh khoản đã được kiểm soát. Vì vậy, các nhà lập chính sách vẫn duy trì sự độc lập tiền tệ và ổn định tỷ giá hối đoái trong giai đoạn này. Từ năm 2005 đến 2008, cấu hình của bộ 3 bất khả thi và mức độ can thiệp vô hiệu hóa bắt đầu thay đổi rõ ràng. Hình 4 (c) cho thấy một sự gia tăng đáng kể của sự tự do hóa thị trường vốn trong giai đoạn này đi cùng với tốc độ tăng trưởng giống nhau của mức độ can thiệp vô hiệu hóa bằng chính sách tiền tệ. Sự tự do hóa Nhóm 17-CHNH Đêm 1-K22 Trang 18
- Bộ ba bất khả thi tại Trung Quốc GS.TS Trần Ngọc Thơ cao độ của thị trường vốn Trung Quốc đã buộc các nhà xây dựng chính sách điều chỉnh lại các mục tiêu trong bộ 3 bất khả thi. Do đó, ở một mức độ, các nhà xây dựng chính sách đã từ bỏ sự ổn định tỷ giá để tăng sự mở cửa của thị trường vốn. Trong năm 2005, Trung Quốc đã chấm dứt chế độ tỷ giá hối đoái cố định và chuyển dần sang hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý linh hoạt hơn. Tuy nhiên, dưới chế độ mới, đồng RMB dường như chỉ có 1 hướng. Sự kỳ vọng xung quanh sự tăng giá của đồng RMB thúc đẩy số lượng ngày càng tăng các dòng vốn chảy vào Trung Quốc thông qua nhiều cách. Để tránh các vấn đề liên quan đến biến động tỷ giá ngoài tầm kiểm soát, chính phủ tiếp tục can thiệp vào thị trường ngoại hối. Dự trữ ngoại hối của ngân hàng trung ương đã buộc phải mở rộng do sự can thiệp vào tỷ giá. Sự tích trữ dự trữ ngoại hối lại dẫn đến sự gia tăng lạm phát. Để giảm lạm phát, ngân hàng trung ương phải tăng lãi suất, nó đã tác động thụ động đến sự độc lập tiền tệ. Ví dụ từ hình 4 (c), sự độc lập tiền tệ đã xấu đi trong năm 2006. Thêm vào đó, tăng lãi suất sẽ tạo ra các dòng vốn chảy vào lớn hơn và nhu cầu RMB tăng. Để giảm ảnh hưởng của các mặt này, ngân hàng trung ương đã tăng cường thêm can thiệp vô hiệu hóa. Hình 4 (d) cho thấy rằng mức độ tự do hóa thị trường vốn đạt cao nhất vào năm 2009. Cùng lúc đó, chính phủ Trung Quốc bắt đầu giữ ổn định tỷ giá lại. Từ khi nhiều nền kinh tế phát triển thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, đặc biệt là Mỹ, đã làm đồng USD yếu đi và làm đồng RMB mạnh lên, Trung Quốc lại một lần nữa bắt đầu nhận nhiều dòng vốn lớn chảy vào do sự khác biệt lớn về lãi suất và kỳ vọng đồng RMB tăng giá. Để tránh những biến động quá mức của giá trị đồng RMB, chính phủ Trung Quốc đã tái can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng cách tăng dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên, áp lực lạm phát đã trở nên nghiêm trọng, điều đó gọi là chính sách tiền tệ hiệu quả để kiểm soát tình hình. Trong các trường hợp này, tăng lãi suất có vẻ hiệu quả và thuận tiện nhất, nhưng nó sẽ làm gia tăng các dòng vốn vào bằng sự gia tăng chênh lệch lãi suất. Do đó, các nhà làm chính sách thích tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc hơn là tăng lãi suất. Bên cạnh đó, các cơ quan tiền tệ cũng ban hành kỳ phiếu ngân hàng nhân dân Trung Hoa để ngăn chặn dư thừa thanh khoản. Tất cả 4 chỉ số đều gần như đạt đỉnh điểm trong hình 4 (d), điều này cho Nhóm 17-CHNH Đêm 1-K22 Trang 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Lạng Sơn”
68 p | 265 | 96
-
TIỂU LUẬN: Dòng vốn và bộ ba bất khả thi ở Trung Quốc – liên hệ Việt Nam
40 p | 246 | 72
-
TIỂU LUẬN: Kế hoạch và giải pháp huy động vốn đầu tư trong nước của Việt Nam
40 p | 220 | 47
-
Tiểu luận: " Vốn kinh doanh và cách thức khai thác vốn kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp "
11 p | 104 | 32
-
Luận văn:Vốn và các yếu tố cấu thành nên thế mạnh về vốn cho hoạt động dài hạn các doanh nghiệp
74 p | 162 | 29
-
Luận văn: Tăng cường huy động vốn TDNN cho NSNN và cho ĐTPT qua việc phát hành TPCP
86 p | 73 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Kế toán: Hoàn thiện kiểm soát nội bộ đối với hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội – Chi nhánh Bình Dương
143 p | 29 | 17
-
Huy động vốn và sử dụng vốn và sử dụng vốn có hiệu quả đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng
67 p | 83 | 16
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Huy động vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Nghệ An
204 p | 28 | 13
-
Thuyết trình: Xu hướng điều hành bộ ba bất khả thi ở Trung Quốc: chu chuyển vốn và chính sách tiền tệ
54 p | 105 | 12
-
Bài tập nhóm: Dòng vốn và bộ ba bất khả thi ở Trung Quốc
26 p | 111 | 11
-
Tiểu luận: Xu hướng lựa chọn trong bộ ba bất khả thi
9 p | 133 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát nội bộ hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Lâm Đồng
100 p | 24 | 10
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế phát triển: Huy động vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hà Nội
26 p | 26 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp huy động vốn và nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn cho đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk giai đoạn 2006 - 2010
110 p | 30 | 5
-
Thuyết trình: Dòng vốn và bộ ba bất khả thi ở Trung Quốc
33 p | 100 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Tăng cường hoạt động huy động vốn từ khách hàng cá nhân tại BIDV Bắc An Giang
109 p | 8 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn