Tiểu luận: Giới thiệu về vận tải đường biển_Vận đơn đường biển
lượt xem 390
download
Tham khảo luận văn - đề án 'tiểu luận: giới thiệu về vận tải đường biển_vận đơn đường biển', luận văn - báo cáo phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Giới thiệu về vận tải đường biển_Vận đơn đường biển
- Tiểu luận Giới thiệu về vận tải đường biển_Vận đơn đường biển
- VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN GVHD: Ths.PHAN CHUNG THUỶ GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VẬN TẢI ÐƯỜNG BIỂN Vận tải đường biển ra đời khá sớm so với các phương thức vận tải khác. Ngay từ thế kỷ thứ V trước công nguyên con người đã biết lợi dụng biển làm các tuyến đường giao thông để giao lưu các vùng các miền, các quốc gia với nhau trên thế giới. Cho đến nay vận tải biển được phát triển mạnh và trở thành ngành vận tải hiện đại trong hệ thống vận tải quốc tế. * Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của vận tải đường biển: -Vận tải đường biển có thể phục vụ chuyên chở tất cả các loại hàng hoá trong buôn bán quốc tế. -Các tuyến đường vận tải trên biển hầu hết là những tuyến đường giao thông tự nhiên. - Năng lực chuyên chở của vận tải đường biển rất lớn. Nhìn chung năng lực chuyên chở của công cụ vận tải đường biển (tàu biển) không bị hạn chế như các công cụ của các phương thức vận tải khác. - Ưu điểm nổi bật của vận tải đường biển là giá thành thấp, năng lực vận chuyển lớn, có thể chạy nhiều tàu cùng một lúc, cùng một tuyến đường, thời gian nằm chờ tại các cảng giảm nhờ sử dụng container và các phương tiện xếp dỡ hiện đại; thích hợp vận chuyển hầu hết các loại hàng hóa, nhất là hàng có khối lượng lớn, giá trị thấp như than đá, quặng, ngũ cốc..., phí vận tải không cao. Cạnh đó, chi phí đầu tư xây dựng các tuyến đường hàng hải thấp do hầu hết tận dụng những tuyến giao thông tự nhiên. * Từ những đặc điểm kinh tế kỹ thuật nói trên của vận tải đường biển, ta có thể rút ra kết luận một cách tổng quát về phạm vi áp dụng như sau: - Vận tải đường biển thích hợp với chuyên chở hàng hoá trong buôn bán quốc tế. - Vận tải đường biển thích hợp với chuyên chở hàng hoá có khối lượng lớn, chuyên chở trên cự ly dài nhưng không đòi hởi thời gian giao hàng nhanh chóng. * Tác dụng của vận tải đường biển đối với buôn bán quốc tế. - Vận tải đường biển là yếu tố không tách rời buôn bán quốc tế. - Vận tải đường biển thúc đẩy buôn bán quốc tế phát triển. - Vận tải đường biển phát triển góp phần làm thay đổi cơ cấu hàng hoá và cơ cấu thị trường trong buôn bán quốc tế. - Vận tải đường biển tác động tới cán cân thanh toán quốc tế. http://www.ebook.edu.vn Page 1
- VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN GVHD: Ths.PHAN CHUNG THUỶ Trong thanh toán quốc tế , chứng từ vận tải là chứng từ quan trọng nhất vì nó xác nhận quyền sở hữu hàng hóa và được dùng làm chứng từ chủ yếu để nhận hàng ở nơi đến .Tùy theo phương thức vận tải mà có chứng từ vận tải khác nhau. Trên thực tế, việc vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu chủ yếu bằng đường biển nên vận đơn đường biển được sử dụng phổ biến nhất. I. ĐỊNH NGHĨA VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN (Marine Bill of Lading / Ocean Bill of Lading). Là chứng từ do người chuyên chở (chủ tàu, thuyền trưởng) cấp cho người gửi hàng nhằm xác nhận việc hàng hóa đã được tiếp nhận để vận chuyển. Tuy mỗi hãng tàu đều có mẫu vận đơn riêng, nhưng về nội dung chúng có những điểm chung. Ở mặt trước của B/L có ghi rõ tên người gởi, người nhận (hoặc "theo lệnh" ...), tên tàu, cảng bốc hàng, cảng dỡ hàng, tên hàng, ký mã hiệu, số lượng kiện, trọng lượng, giá cả, tổng trị giá, cách trả cước (cước trả trước hay trả tại cảng đến), tình hình xếp hàng, số bản gốc đã lập, ngày tháng cấp vận đơn .v.v.. Mặ t sau ghi các điều kiện chuyên chở. Khi chuyên chở hàng vừa có hợp đồng vừa có vận đơn thì quan hệ giữa người vận tải và người nhận hàng do vận đơn điều chỉnh, còn quan hệ giữa người gởi hàng và người vận tải do hợp đồng thuê tàu điều chỉnh. Vận đơn đường biển tuy về danh nghĩa do nhà người vận tải cấp,nhưng trong thực tế công tác,người gởi hàng phải chuẩn bị sẳn trên cơ sở mẫu chứng từ do hãng tàu cấp.Thuyền trưởng chỉ căn cứ vào biên lai thuyền phó để kí vào vận đơn đường biển và phê chú nếu thấy cần. Vận đơn đường biển được lập thành một số bản gốc. Trên các bản gốc, người ta in hoặc đóng dấu các chữ "Original". Ngoài bộ vận đơn gốc, còn có một số bản sao, trên đó ghi chữ "Copy". Chỉ có bản gốc của B/L mới có chức năng nêu trên, còn các bản sao không có giá trị pháp lý như bản gốc, chúng chỉ dùng trong các trường hợp: thông báo giao hàng, kiểm tra * Tác dụng của vận đơn: Vận đơn đường biển có những tác dụng chủ yếu sau đây: - Thứ nhất, vận đơn là cơ sở pháp lý điều chỉnh mối quan hệ giữa người xếp hàng, nhận hàng và người chuyên chở. - Thứ hai, vận đơn là căn cứ để khai hải quan và làm thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá. - Thứ ba, vận đơn là căn cứ để nhận hàng và xác định số lượng hàng hoá người bán gửi cho người mua và dựa vào đó để ghi sổ, thống kê, theo dõi xem người bán (người chuyên chở) đã hoặc không hoàn thành trách nhiệm của mình như quy định trong hợp http://www.ebook.edu.vn Page 2
- VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN GVHD: Ths.PHAN CHUNG THUỶ đồng mua bán ngoại thương (vận đơn). - Thứ tư, vận đơn cùng các chứng từ khác của hàng hoá lập thành bộ chứng từ thanh toán tiền hàng. - Thứ năm, vận đơn là chứng từ quan trọng trong bộ chứng từ khiếu nại người bảo hiểm, hay những người khác có liên quan. - Thứ sáu, vận đơn còn được sử dụng làm chứng từ để cầm cố, mua bán, chuyển nhượng hàng hoá ghi tren vận đơn ……. II. BA CHỨC NĂNG CƠ BẢN: - Là một biên lai của người chuyên chở xác nhận là họ đã nhận hàng để chở. Vận đơn là bằng chứng hiển nhiên của việc người chuyên chở đã nhận hàng để chở.Vận đơn là bằng chứng chứng minh cho số lượng , khối lượng,tình trạng của bên hàng hoá đã đuợc giao.Tại cảng đến ,người chuyên chở cũng phải giao cho người nhận theo đúng trọng lượng ,khối luợng ,tình trạng của hàng hoá như lúc nhận ở cảng đi ,khi người nhận xuất trình vận đơn phù hợp. - Là một bằng chứng về những điều khoản của một hợp đồng vận tải đường biển (Contract of Carriage) .Mặc dù bản thân vận đơn đường biển không phải là một hợp đồng vận tải , vì nó chỉ có chử kí của một bên nhưng vận đơn có giá trị như một hợp đồng vận tải đường biển. Nó không những điều chỉnh mối quan hệ giữa người chuyên chở và người nhận hàng hoặc người cầm vận đơn. Nội dung của vận đơn không chỉ được thể hiện bằng những điều khoản trên đó mà còn bị chi phối bởi các công ước quốc tế về vận đơn và vận tải đường biển. - Là một chứng từ sở hữu hàng hóa (Document of Title), quy định hàng hóa sẽ giao cho ai ở cảng đích, do đó cho phép mua bán hàng hóa bằng cách chuyển nhượng B/L. Ai có vận đơn trong tay ,người đó có quyền sở hữu hàng hoá ghi trên đó. Do có tính chất sở hữu nên vận đơn là chứng từ lưu thông được (Negotiable). Người ta có thể mua bán , chuyển nhượng hàng hoá ghi trên vận đơn bằng cách mua bán, chuyển nhượng vận đơn. III. PHÂN LOẠI : 1) Nếu xét theo dấu hiệu trên vận đơn có ghi chú xấu về hàng hóa hay không, thì vận đơn được chia làm hai loại: - Vận đơn hoàn hảo (Clean B/L) là vận đơn không có ghi chú khiếm khuyết của hàng hóa hay bao bì.Hay nói một cách khác , trên vận đơn không có những ghi chú , những nhận xét xấu hoặc những bảo lưu về tình trạng bên ngoài của hàng hoá. http://www.ebook.edu.vn Page 3
- VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN GVHD: Ths.PHAN CHUNG THUỶ Những điều ghi chung chung như : "người gửi hàng xếp và đếm , niêm phong và kẹp chì", "không biết về số lượng , phẩm chất , nội dung bên trong", "bao bì dùng lại , thùng cũ"…không làm mất tính hoàn hảo của vận đơn. Một vận đơn và người chuyên chở hay đại diện của họ không ghi chú gì thì cũng coi là vận đơn hoàn hảo. Lấy được một vận đơn hoàn hảo có y nghĩa rất quan trọng trong thương mại quốc tế.Người mua cũng như ngân hàng đều yêu cầu phải có vận đơn hoàn hảo, vận đơn hoàn hảo là bằng chứng hiển nhiên của việc xếp hàng tốt. Muốn lấy được vận đơn hoàn hảo thì khi xếp hàng lên tàu phải đảm bảo hàng không bị hư hỏng đổ vỡ , bao bì không bị rách , không bị ướt, nghĩa là phải có một biên lai Thuyền phó (Mate's Receipt) sạch. Trong trường hợp biên lai Thuyền phó không sạch , người gửi hàng có thể xuất trình thư bảo đảm ( Letter of Indemnity) cam kết chịu mọi hậu quả xảy ra để yêu cầu Thuyền trưởng cấp vận đơn hoàn hảo. Tuy nhiên thư đảm bảo đó không có giá trị pháp lí , không được các toà án thừa nhận, nên các Thuyền trưởng khôn ngoan thường không chấp nhận - Vận đơn không hoàn hảo (Unclean B/L) ngược với vận đơn hoàn hảo là loại vận đơn trên đó người chuyên chở có ghi chú xấu về tình trạng hàng hóa hay bao bì. Ví dụ : Vận đơn bị Thuyền trưởng ghi chú : Kí mã hiệu không rõ , một số bao bì bị rách , thùng chảy…Vận đơn không hoàn hảo không được ngân hàng chấp nhận để thanh toán tiền hàng. 2) Nếu xét theo dấu hiệu người vận tải nhận hàng khi hàng đã được xếp lên tàu hay chưa, thì B/L được chia làm hai loại: - Vận đơn đã xếp hàng (Shipped on board B/L) nghĩa là vận đơn đã được cấp khi hàng hóa đã nằm trên tàu. Đây là loại vận đơn được dùng phổ biến vì người mua khi yêu cầu xuất trình bộ chứng từ để thanh toán tiền hàng thường yêu cầu xuất trình vận đơn đã xếp hàng ,tức là hàng hoá thực sự được xếp lên tàu . Việc đã xếp hàng lên tàu ( On Board) được thể hiện trên vận đơn như sau: + Nếu trên vận đơn (ở góc dưới bên phải) có chữ in sẵn "Nhận để xếp" (Received for Shipment hoặc Taken in Charge), thì khi Thuyền trưởng kí vận đơn , phải ghi thêm chữ "Đã xếp hàng lên tàu , ngày tháng năm " để chứng minh cho việc dã xếp hàng, thể hiện bằng tiếng Anh là "Laden on Board 5 October 1997" hoặc "Shipped on Board 5 October 1997" và ngày đó là ngày giao hàng. http://www.ebook.edu.vn Page 4
- VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN GVHD: Ths.PHAN CHUNG THUỶ +Nếu trên vận đơn có ghi sẵn chữ "Shipped on Board", thì không cần ghi thêm gì để chứng minh cho việc đã xếp ,mà ngày kí vận đơn chính là ngày xếp hàng lên tàu cũng là ngày giao hàng. - Vận đơn nhận hàng để xếp (Received for shipment B/L) là vận đơn được cấp trước khi hàng hóa được xếp lên tàu. Trên B/L không ghi rõ ngày, tháng được xếp xuống tàu. Sau khi xếp hàng xuống tàu, người gửi hàng có thể đổi lấy vận đơn đã xếp hàng. Loại vận đơn này có thể bị ngân hàng từ chối thanh toán trừ khi thư tín dụng (L/C) quy định cho phép .Khi hàng đã thực sự xếp lên tàu, có thể đóng dấu hoặc ghi thêm chữ "Đã xếp" để biến thành vận đơn đã xếp hàng. 3) Nếu xét theo dấu hiệu qui định người nhận hàng sẽ có các loại vận đơn: - Vận đơn theo lệnh (B/L to order) là vận đơn trên đó không ghi rỏ họ tên , địa chỉ của người nhận hàng mà ghi chữ :"Theo lệnh" (to order) hoặc có ghi tên người nhận hàng đồng thời ghi thêm chử "Hoặc theo lệnh" (or order) .Trên vận đơn theo lệnh có thể ghi rỏ theo lệnh của người gửi hàng, của người nhận , của ngân hàng .Nếu không ghi rỏ theo lệnh của ai thì hiểu là theo lệnh của người gửi hàng. Vận đơn theo lệnh có đặc điểm có thể chuyển nhượng được cho người khác bằng cách kí hậu (Endorsement) .Nếu là vận đơn theo lệnh của người gửi hàng, thì người gửi hàng phải kí hậu người nhận hàng mới nhận được hàng.Có thể kí hậu để trống ( in Blank), kí hậu cho một người cụ thể hay theo lệnh của một người nào đó. Nếu không kí hậu, chỉ người gửi hàng mới nhận được hàng. Vận đơn kí phát theo lệnh của một ngân hàng trong trường hợp ngân hàng muốn khống chế hàng hoá của người nhập khẩu(người nhập khẩu vay tiền của ngân hàng để mua hàng). Để nhận được hàng phải có kí hậu chuyển nhượng của ngân hàng vào vận đơn. Vận đơn theo lệnh được sử dụng rộng rải trong buôn bán quốc tế bởi vì nó là một chứng từ có thể lưu thông được. - Vận đơn đích danh (B/L to named person) or (straight B/ L) là B/L trong đó có ghi rõ tên và địa chỉ người nhận hàng, do đó hàng chỉ có thể giao được cho người có tên trong B/L. Loại vận đơn này không thể chuyển nhượng đựơc bằng cách kí hậu. - Vận đơn xuất trình (Bearer B/L) hay vận đơn vô danh, là vận đơn trong đó không ghi rõ tên người nhận hàng, cũng không ghi rõ theo lệnh của ai. Người chuyên chở sẽ giao hàng cho người cầm vận đơn xuất trình cho họ. Vận đơn này thường được chuyển nhượng bằng cách trao tay. http://www.ebook.edu.vn Page 5
- VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN GVHD: Ths.PHAN CHUNG THUỶ 4) Nếu theo dấu hiệu hàng hóa được chuyển bằng một hay nhiều tàu thì có các loại vận đơn: - Vận đơn đi thẳng (Direct B/L) cấp cho hàng hóa được chuyên chở bằng một con tàu đi từ cảng xếp đến cảng đích, nghĩa là tàu chở đi từ cảng đến cảng - Vận đơn đi suốt (Through B/L) là B/L dùng trong trường hợp chuyên chở hàng hóa giữa các cảng bằng hai hoặc nhiều tàu thuộc hai hay nhiều chủ khác nhau. Người cấp vận đơn đi suốt phải chịu trách nhiệm về hàng hóa trên chặng đường từ cảng xếp đến cảng dỡ cuối cùng. - Vận đơn địa hạt (Local B/L) là B/L do các tàu tham gia chuyên chở cấp, loại B/L này chỉ có chức năng là biên lai nhận hàng hóa mà thôi. - Vận đơn đa phương thức (vận tải liên hợp ) : Vận đơn vận tải đa phương thức (Multimodal Transport B/L) hay vận đơn vận tải liên hợp (Combined Transport B/L) là vận đơn được sử dụng trong trường hợp hàng hoá được chuyên chở từ nơi đi đến nơi đến bằng hai hay nhiều phương thức vận tải khác nhau. Vận đơn này có đặc điểm: + Trên vận đơn thường ghi rõ nơi nhận hàng để chở và nơi giao hàng, người cấp B/L này phải là người chuyên chở . +Ghi rõ việc được phép chuyển tải, các phương thức vận tải tham gia và nơi chuyển tải. +Người cấp vận đơn này phải chịu trách nhiệm về hàng hoá từ nơi nhận hàng để chở ( có thể nằm sâu trong nội địa ) đến nơi giao hàng (có thể nằm sâu trong nội địa của nước đến) * Ngoài các loại B/L cơ bản kể trên, trong thực tế còn gặp các loại B/L khác như: - Vận đơn theo hợp đồng thuê tàu (Charter party B/L) là loại B/L do thuyền trưởng cấp. Loại này chỉ in một mặt, còn mặt sau để trắng (nên còn có tên gọi là B/L lưng trắng - Blank back B/L). Trừ khi có quy ịnh riêng trong L/C, các ngân hàng sẽ từ chối các loại vận đơn này. - Vận đơn hỗn hợp (Combined B/L) là loại vận đơn chở hàng bằng nhiều loại phương tiện vận tải khác nhau, trong đó có vận tải bằng đường biển. Loại vận đơn này đã được phòng Thương mại Quốc tế thừa nhận trong khuôn khổ Hiệp hội những người vận tải FIATA nên được gọi là FIATA combined B/L. http://www.ebook.edu.vn Page 6
- VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN GVHD: Ths.PHAN CHUNG THUỶ - Vận đơn rút gọn (Short B/L) là loại vận đơn tóm tắt những điều khoản chủ yếu. - Vận đơn đến chậm (Stale B/L) : Trong trường hợp hàng hoá được chuyên chở trên tàu chuyển , khi nhận hàng , người vận tải cấp cho chủ hàng một vận đơn theo hợp đồng thuê tàu. Thông thường trong một vận đơn này không bao gồm mục " Cơ sở pháp lí của vận đơn " và các điều khoản về trách nhiệm và miễn trách nhiệm của người vận tải. Về những vấn đề này, người ta vẫn chiếu đến hợp đồng thuê tàu và đến công ước Bruxelles. Vận đơn theo hợp đồng thuê tàu muốn có tác dụng đầy đủ phải có hợp đồng thuê tàu kèm theo (và trên vận đơn phải dẫn chứng đến các điều khoản của hợp đồng kèm theo). - Vận đơn theo hợp đồng thuê tàu (Charter Party B/L) : là vận đơn được phát hành trong trường hợp hàng hoá được chuyên chở theo một hợp đồng thuê tàu chuyến và trên đó có ghi câu " Phụ thuộc vào hợp đồng thuê tàu" hoặc câu "Sử dụng với hợp đồng thuê tàu" (to used with Charter Party). Ví dụ vận đơn CONGEBILL được phát hành sử dụng kèm hợp đồng thuê tàu mẫu GENCON, có ghi câu: All Terms and condition as Overleaf are herewith Incorporate" (tất cả điều kiện , điều khoản ở mặt sau được gắn liền theo đây). - Vận đơn đã xuất trình tại cảng gửi (B/L Surrendered): Thông thường muốn nhận hàng tại cảng đến , người nhận hàng phải xuất trình vận đơn gốc. Trong thực tế có nhiều trường hợp hàng đã đến nhưng vận đơn chưa đến do đó không nhận được hàng. Để khắc phục tình trạng này và để tiết kiệm chi phí gửi vận đơn gốc ,trong những năm gần đây người ta dùng một loại vận đơn gọi là vận đơn đã xuất trình tại cảng gửi. Đây là loại vận đơn thông thường , chỉ khác là khi cấp vận đơn này , người chuyên chở hoặc đại lí đóng thêm dấu "Đã xuất trình" (Surrendered), đồng thời điện báo "Express Release" cho đại lí tại cảng đến biết để đại lí giao hàng cho người nhận mà không cần xuất trình B/L gốc.Người gửi hàng chỉ cần Fax bảng vận đơn này đến người nhận là người nhận có thể nhận được hàng. - Giấy gửi hàng đường biển (Sea Waybill): Do sự tiến bộ về khoa học kĩ thuật trong ngành vận tải nên tốc độ đưa hàng trong thương mại quốc tế rất nhanh chóng.Như đã nói ở trên, nhiều trường hợp hàng đã đến cảng đích nhưng vận đơn gửi qua ngân hàng hoặc bưu điện vẫn chưa đến.Người nhận không nhận được hàng. Hơn nữa cuộc cách mạng thông tin trong những năm qua , việc sử dụng rộng rãi mạng vi tính ở tất cả các nước trên thế giới tạo ra một khả năng buôn bán thông qua trao đổi dữ liệu điện tử( EDI) mà không cần chứng từ kể cả vận đơn đường biển.Vận đơn đường biển cùng với một loạt giấy tờ, chứng từ khác trong thương mại quốc tế trở http://www.ebook.edu.vn Page 7
- VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN GVHD: Ths.PHAN CHUNG THUỶ thành trở ngại và tốn kém.Vì vậy người ta đề nghị sử dụng một chứng từ không lưu thông (Non-Negotible) để thay thế vận đơn truyền thống đó là "Giấy gửi đường biển". Giấy gửi đường biển này có ưu điểm là người nhận có thể nhận hàng khi xuất trình giấy tờ , chứng từ để nhận dạng , chứ không cần xuất trình bản thân "Giấy gửi hàng đường biển". Nhược điểm của nó là không thể dùng khống để khống chế hàng hoá , vì vậy hiện tại " Giấy gửi hàng đường biển" chỉ mới được dùng để gửi các dụng cụ gia đình, hàng mẫu .hàng triển lãm,hàng phi mậu dịch… và trong buôn bán theo phương thức ghi sổ với bạn hàng tin cậy. - Vận đơn bên thứ ba (Third Party B/L): là vận đơn mà trên đó ghi người hưởng lợi L/C không phải là người gửi hàng (Shipper) mà là người khác. Vận đơn này sử dụng trong trường hợp khi một nhà máy hay xí nghiệp xuất khẩu uỷ thác qua một đơn vị xuất nhập khẩu. Nếu L/C có quy định chấp nhận cả vận đơn bên thứ ba thì có nghĩa là vận đơn và chứng từ gửi hàng khác được phép ghi tên người gửi hàng không phải là người hưởng lợi L/C,chứ không liên quan đến người kí phát chứng từ. - Vận đơn có thể thay đổi (Switch B/L) là vận đơn cho phép thay đổi một số chi tiết trên B/L như cảng xếp hàng,cảng dỡ hàng, số lượng hàng, người gửi,ngày kí v.v.. IV. NỘI DUNG CỦA VẬN ĐƠN: Theo quy tắc Hamburg, vận đơn đường biển, ngoài các chi tiết khác phải có các chi tiết sau đây: - Tính chất chung của hàng hoá, những mã hiệu chính để nhận dạng hàng hoá, tính chất nguy hiểm của hàng hoá (nếu có), số lượng, trọng lượng của hàng hoá, các chi tiết khác do người gửi hàng cung cấp. - Tình trạng bên ngoài của hàng hoá. - Tên và trụ sở kinh doanh chính của người chuyên chở. - Tên người gửi hàng. - Tên người nhận hàng nếu do người gửi hàng chỉ định. - Cảng xếp hàng theo hợp đồng vận tải đường biển và ngày mà người chuyên chở nhận hàng để chở. - Cảng dỡ hàng. - Số lượng bản vận đơn gốc. http://www.ebook.edu.vn Page 8
- VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN GVHD: Ths.PHAN CHUNG THUỶ - Nơi phát hành vận đơn. - Chữ kí của người chuyên chở hoặc người thay mặt người chuyên chở. - Khoản cước do người nhận trả. - Điều nói về việc áp dụng Công ước. - Điều nói về việc hàng sẽ hoặc có thể chở trên boong. - Ngày hoặc thời hạn giao hàng tại cảng dỡ, nếu có thoả thuận giữa các bên. - Thoả thuận tăng thêm giới hạn trách nhiệm(nếu có). Về mặt hình thức, vận đơn của các hãng tàu thường một khuôn mẫu tương đối giống nhau. Các vận đơn đều gồm hai mặt. Mặt trước được chia thành từng ô và có các chi tiết, theo thứ tự từ trên xuống dưới là: Tên hãng tàu, người gửi hàng, người nhận hàng, bên thông báo, tên tàu, cảng xếp, cảng dỡ, số vận đơn, số phiếu lưu cước tham chiếu xuất khẩu, đại lí giao nhận, nơi xuất xứ của hàng hoá, những chi tiết do người gửi hàng cung cấp (tên hàng, kí mã hiệu, trọng lượng, số lượng, thể tích, số container…), cước phí, phụ phí, trước trả trước hay sau, số lượng bản gốc, ngày phát hành vận đơn, ngày xếp hàng hay ngày nhận hàng, chữ kí… Mặt sau của vận đơn in sẵn các điều kiện, điều khoản chuyên chở (terms and Condition of Carriage) như: các định nghĩa, điều khoản tối cao, cước phí và phục phí, trách nhiệm của người chuyên chở, đi thuê lại, thông báo tổn thất và thời hạn khiếu nại, giao hàng, kiểm tra hàng hóa, container do người gửi hàng đóng, hàng dễ vỡ, hàng nguy hiểm, cầm giữ hàng, tổn thất chung, giải quyết tranh chấp; điều khoản hai tàu đâm va nhau đều có lỗi, điều khoản New Jason… V. NGUỒN LUẬT ĐIỀU CHỈNH CỦA VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN. Vận đơn của các hãng tàu có thể khác nhau về hình thức và nội dung chi tiết các điều khoản. Nhưng tất cả các vận đơn được phát hành liên quan đến vận chuyển hàng hoá bằng đường biển quốc tế đều do một nguồn lực duy nhất điều chỉnh – đó là các Công ước quốc tế về vận đơn và vận tải đường biển. Các quy phạm pháp luật quốc tế này quy định những vấn đề quan trọng trong chuyên chở hàng hoá bằng đường biển như: Trách nhiệm của người chuyên chở, người gửi hàng, hình thức và nội dung vận đơn, thông báo tồn thất, kiếu nại và kiện tụng… http://www.ebook.edu.vn Page 9
- VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN GVHD: Ths.PHAN CHUNG THUỶ Hiện nay có 2 nguồn luật quốc tế chính về vận tải biển, đó là: - Công ước quốc tế để thống nhất một số thể lệ về vận đơn đường biển, gọi tắt là Công ước Brussels 1924 và hai Nghị định thử sửa đổi Công ước Brussels 1924 là : + Nghị định thư sửa đổi Công ước Brussels 1924 gọi tắt là nghị định thư 1968. (Visby Rules - 1968) Nghị định thư năm 1978 - - Công ước của Liên hợp quốc về vận chuyển hàng hoá bằng đường biển, gọi tắt là Công ước Hamburg 1978. Những lưu ý khi sử dụng vận đơn đường biển Vận đơn đường biển là một chứng từ quan trọng trong giao nhận vận chuyển, bảo hiểm, thanh toán và khiếu nại (nếu có). Trong thực tiễn sử dụng vận đơn phát sinh nhiều tranh chấp gây ảnh hưởng đến các bên liên quan do các bên chưa thực sự hiểu hoặc có những cách hiểu khác nhau về giá trị pháp lý của vận đơn, về nội dung và hình thức của vận đơn… Bộ luật Hàng hải Việt Nam. Tại Việt Nam, nguồn luật điều chỉnh vận đơn đường biển là Luật Hàng hải Việt Nam được ban hành vào ngày 30 tháng 06 năm 1990 và có hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 1991. Về cơ bản, Luật Hàng hải giống Qui tắc Hague- Visby Giá trị pháp lý của vận đơn: Theo thông lệ Hàng hải Quốc tế (công ước Brussels 1924, điều 1 khoản b) và Bộ luật Hàng hải Việt nam (điều 81 khoản 3) thì vận đơn là cơ sở pháp lý điều chỉnh quan hệ giữa người nhận hàng và người chuyên chở. Khi xảy ra thiếu hụt, hư hỏng, tổn thất…. đôí với hàng hoá ở cảng đến thì người nhận hàng phải đứng ra giải quyết với người chuyên chở căn cứ vào vận đơn. Trên lý thuyết thì như vậy nhưng trong thực tế có rất nhiều tranh chấp phát sinh xung quanh vấn đề này. Cụ thể là: Trong thương mại hàng hải quốc tế thường lưu hành phổ biến 2 loại vận đơn: vận đơn loại thông thường (gọi là Conline bill) và vận đơn cấp theo hợp đồng thuê tàu (gọi là Congen bill). Điểm khác nhau cơ bản của 2 loại vận đơn này là: Conline bill chức đầy đủ mọi quy định để điều chỉnh quan hệ giữa người nhận hàng và người chuyên chở như phạm vi trách nhiện, miễn trách, thời hiệu tố tụng, nơi giải quyết tranh chấp và luật áp dụng, mức giới hạn bồi thường, các quy định về chuyển tải, giải quyết tổn thất chung, những trường hợp bất khả kháng…. Thông thường loại vận đơn này có đầy đủ 3 chức năng như điều 81 Bộ luật Hàng hải Việt nam quy định. Ngược lại, Congen bill được cấp phát theo một hợp đồng thuê tàu chuyến nào đó. Loại này thường chỉ có chức năng là một biên nhận của người chuyên chở xác nhận http://www.ebook.edu.vn Page 10
- VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN GVHD: Ths.PHAN CHUNG THUỶ đã nhận lên tàu số hàng hoá được thuê chở như đã ghi trên đó. Nội dung của loại vận đơn này rất ngắn gòn và bao giờ cũng phải ghi rõ: phải sử dụng cùng với hợp đồng thuê tàu (to be used with charter parties). Ngoài ra trong vận đơn loại này bao giờ cũng có câu: mọi điều khoản, mọi quy định miễn trách nhiệm cho người chuyên chở đã ghi trong hợp đồng thuê tàu kể cả các điều khoản luật áp dụng và trọng tài phải được áp dụng cho vận đơn (All terms and conditions, leberties and exceptions of the charter party, dated as overleaf, including the law and abitration clause, are herewwith incorporated). * Theo quy định của UCP 600, những vấn đề cần quan tâm tới chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển cụ thể như sau: Các loại chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển UCP 600 đã chia chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển thành 3 loại: - Vận đơn đường biển (Bill of Lading) - Giấy gửi hàng bằng đường biển không lưu thông (Non-Negotiable Seawaybill) - Vận đơn theo hợp đồng thuê tàu (Charter Pary Bill of Lading) Như vậy khi gửi hàng bằng đường biển, tùy theo yêu cầu của tín dụng chứng từ, các loại chứng từ trên đây đều được ngân hàng coi là chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển và chấp nhận để thanh toán. * Hình thức của chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển Chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển có thể phát hành dưới hai hình thức: - Chứng từ giấy: Đối với chứng từ giấy thì bao gồm 2 mặt: mặt 1 sẽ chứa đựng những nội dung theo quy định, mặt 2 chứa đựng các điều kiện và điều khoản chuyên chở. - Chứng từ điện tử: Đối với chứng từ điện tử, UCP 600 không đề cập trong nội dung, mà sẽ có bản phụ trương hướng dẫn cụ thể kèm theo. Nếu phát hành dưới dạng điện tử thì không bao gồm 2 mặt mà bao gồm 2 bộ phận hợp thành: bộ phận thứ nhất gọi là chứng từ vận đơn điện tử (Electronic Bill of Lading text) và bộ phận thứ hai gọi là trang đăng ký chuyển đổi. Song phát hành dưới hình thức nào cũng phải đảm bảo những nội dung được quy định trong UCP 600. * Nội dung của chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển Tên gọi của chứng từ Chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển cho dù được gọi như thế nào, UCP 600 không quan tâm, miễn là nội dung của chứng từ đáp ứng những quy định của UCP. Ví dụ: Một chứng từ khi xuất trình tại ngân hàng có tiêu đề: "Bill of Lading or Seawaybill for Combined transport Shipment or port to port Shipment" chưa phải là http://www.ebook.edu.vn Page 11
- VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN GVHD: Ths.PHAN CHUNG THUỶ cơ sở để ngân hàng chấp nhận hay từ chối, mà việc chấp nhận hay từ chối sẽ phụ thuộc vào nội dung chứng từ thể hiện theo quy định. Người phát hành và người ký chứng từ + Người phát hành chứng từ: Đối với vận đơn đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển, phải chỉ rõ tên người chuyên chở (indicate the name of the carrier), nhưng không được thể hiện và ghi là phụ thuộc vào hợp đồng thuê tàu (contain no indication that it is subject to a charter party). Đối với vận đơn theo hợp đồng thuê tàu, không cần chỉ rõ tên người chuyên chở, nhưng có ghi là phụ thuộc vào hợp đồng thuê tàu (containing an indication that it is subject to charter party). + Người ký chứng từ: Theo UCP 600, người ký các chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển cụ thể như sau: Đối với vận đơn đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển, người ký chứng từ có thể là người chuyên chở hay đại lý hoặc người thay mặt người chuyên chở; thuyền trưởng hay đại lý hoặc người thay mặt thuyền trưởng. Đối với vận đơn theo hợp đồng thuê tàu, người ký chứng từ có khác đôi chút so với người ký chứng từ trên vận đơn đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển. Cụ thể, người ký vận đơn theo hợp đồng thuê tàu có thể là thuyền trưởng hay đại lý hoặc người thay mặt thuyền trưởng; chủ tàu hay đại lý hoặc người thay mặt chủ tàu; người thuê tàu hay đại lý hoặc người thay mặt người thuê tàu (người thuê tàu thường gọi là người chuyên chở). Người ký chứng từ, khi ký phải thể hiện rõ tư cách pháp lý của mình. Riêng đối với đại lý, khi ký, ngoài việc thể hiện là đại lý, còn phải ghi rõ đại lý cho ai, nghĩa là phải ghi rõ tên của người mà mình là đại lý cho họ. * Xếp hàng lên tàu Trên các chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển, UCP 600 quy định rất cụ thể về hàng xếp lên tàu. Chứng từ vận chuyển phải chỉ rõ hàng hóa đã được xếp lên con tàu chỉ định tại cảng giao hàng quy định trong thư tín dụng (indicate that the goods have been shipped on board a name vessel at the port of loading stated in the credit). Nội dung này trên chứng từ có thể được thể hiện bằng hai cách, hoặc là một cụm từ in sẵn (pre-printed wording) hoặc là một ghi chú là hàng đã được xếp lên tàu và có ghi ngày xếp hàng lên tàu (an onboard notation indicating the date on wich the goods have been shipped in board). * Ngày giao hàng Theo quy định của UCP 600 thì ngày phát hành vận đơn sẽ được coi là ngày giao hàng (the date of issuance of the Bill of Lading will be deemed to be the date of http://www.ebook.edu.vn Page 12
- VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN GVHD: Ths.PHAN CHUNG THUỶ shipment), trừ khi trên chứng từ vận chuyển đã có ghi chú ngày xếp hàng lên tàu thì ngày xếp hàng lên tàu sẽ được coi là ngày giao hàng (the date stated in the on board notation will be deemed to be the date of shipment). Như vậy, theo quy định của UCP 600, ngày xếp hàng lên tàu chính là ngày giao hàng. Còn ngày phát hành chứng từ vận chuyển sẽ được coi như ngày giao hàng nếu trên chứng từ không có ghi chú khác về ngày xếp hàng lên tàu. Trên thực tế cũng có những trường hợp ngày phát hành chứng từ vận chuyển có thể trước hoặc sau ngày xếp hàng lên tàu – Trong những trường hợp này không được coi ngày phát hành chứng từ vận chuyển là ngày giao hàng. * Hành trình của hàng hóa Theo UCP 600, hành trình của hàng hóa phải được thể hiện cụ thể trên chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển. Nghĩa là trên chứng từ vận chuyển phải chỉ rõ chuyến hàng được giao từ cảng xếp hàng tới cảng dỡ hàng đã được quy định trong thư tín dụng (indicate shipment from the port of loading to the port of discharge state in the credit). Còn trường hợp trên chứng từ vận chuyển chưa xác định rõ được cảng xếp hoặc ghi cảng dự định xếp hàng thì khi xếp hàng lên tàu phải ghi chú rõ tên cảng xếp như quy định trong tín dụng, ngày xếp hàng lên tàu và tên tàu hàng đã xếp lên. * Chuyển tải Vấn đề chuyển tải được UCP 600 đề cập đối với vận đơn đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển, còn không đề cập đối với vận đơn theo hợp đồng thuê tàu. Ở Điều 20 và 21 của UCP 600, khoản b và c sau khi đưa ra khái niệm về chuyển tải, đã quy định là trên chứng từ vận chuyển có thể ghi hàng hóa sẽ hoặc có thể chuyển tải miễn là toàn bộ hành trình vận chuyển chỉ sử dụng một và cùng một chứng từ. Nếu hàng hóa được giao bằng container, xe moóc hoặc sà lan tàu LASH ghi trên chứng từ, thì ngay cả khi tín dụng thư cấm chuyển tải (even if the credit prohibits transhipment) các ngân hàng vẫn có thể chấp nhận một chứng từ vận chuyển ghi việc chuyển tải sẽ hoặc có thể xảy ra (transhipment will of may take place). * Chứng từ vận chuyển gốc Trong chuyên chở hàng hóa bằng đường biển, khi nhận hàng để chở, người nhận hàng để chở thường phát hành cho người gửi hàng 01 hoặc 01 bộ chứng từ vận chuyển gốc - Ở nội dung này, UCP 600 cũng quy định cụ thể: Khi xuất trình chứng từ vận chuyển gốc tại ngân hàng có thể xuất trình một bản gốc duy nhất nếu phát hành một bản gốc, còn phát hành một bộ thì phải xuất trình trọn bộ chứng từ gốc đã phát hành. * Điều kiện và điều khoản chuyên chở Với điều kiện và điều khoản chuyên chở, UCP 600 chỉ đề cập đối với vận đơn đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển, còn không đề cập đối với vận đơn theo hợp http://www.ebook.edu.vn Page 13
- VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN GVHD: Ths.PHAN CHUNG THUỶ đồng thuê tàu: + Đối với vận đơn đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển, UCP 600 quy định "không thể hiện phụ thuộc vào hợp đồng thuê tàu". Vì vậy, trong nội dung của hai chứng từ này phải "chứa đựng các điều kiện và điều khoản chuyên chở hoặc phải dẫn chiếu tới các nguồn khác chứa đựng những điều kiện và điều khoản chuyên chở (trường hợp vận đơn hay giấy gửi hàng mặt sau để trắng). Về nội dung của các điều kiện và điều khoản chuyên chở, theo quy định của UCP 600, thì các ngân hàng không có trách nhiệm kiểm tra, xem xét. + Đối với vận đơn theo hợp đồng thuê tàu, UCP 600 quy định có ghi trên đó là phụ thuộc vào hợp đồng thuê tàu, mà hợp đồng thuê tàu đã đầy đủ các điều kiện và điều khoản chuyên chở, cho nên UCP 600 không đề cập tới điều kiện và điều khoản chuyên chở trên vận đơn. Về nội dung của hợp đồng thuê tàu, các ngân hàng cũng không có trách nhiệm kiểm tra và xem xét ngay cả khi hợp đồng thuê tàu phải xuất trình theo yêu cầu của thư tín dụng… Trên đây là những quy định về chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển và những nội dung cơ bản cần quan tâm trong chứng từ vận chuyển đường biển khi xuất trình tại ngân hàng theo UCP 600. VI. KHÓ KHĂN CỦA VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN: - Tốc độ gửi vận đơn gốc chậm hơn hàng hóa : Ngày nay, do sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong ngành vận tải biển, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của vận tải container nên tốc độ chuyên chở hàng hoá trong thương mại quốc tế rất nhanh chóng. Trong rất nhiều trường hợp, hành trình của vận đơn theo đường hàng không hay đường bưu điện chậm hơn rất nhiều so với hành trình trên biển của hàng hóa. Do đó, người nhận hàng không có vận đơn để nhận hàng, đồng thời phải mất thêm chi phi lưu kho, lưu bãi. Trong một số trường hợp người nhận hàng muốn nhanh chóng lấy hàng do tính thời vụ của hàng hoá thì họ phải đến ngân hàng xin bảo lãnh để được nhận hàng. Để có thế được bảo lãnh, người nhận hàng phải đặt cọc hay vay ngân hàng tiền, do vậy, họ lại phải chịu thêm chi phí vay tiền bảo lãnh. Như vậy, đôi khi, vận đơn lại cản trở, làm chậm lại sự phát triển của thương mại quốc tế. -Phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, điều kiện hàng hải, gặp nhiều rủi ro như mắc cạn, đắm, cháy, đâm va nhau, va phải đá ngầm, mất tích, cướp biển... Theo thống kê của các công ty bảo hiểm, trung bình hàng tháng trên thế giới có khoảng 300 tàu biển bị các tai nạn trên biển, trong đó có nhiều trường hợp tổn thất toàn bộ. http://www.ebook.edu.vn Page 14
- VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN GVHD: Ths.PHAN CHUNG THUỶ - Tốc độ của tàu biển còn thấp,tốc độ chỉ khoảng 14-20 hải lý/1 giờ và việc tăng tốc độ khai thác của tàu biển còn bị hạn chế -Sử dụng vận đơn đường biển rất tốn kém. Thứ nhất, chi phí in ấn và phát hành vận đơn không nhỏ bởi vận đơn được in thành nhiều bản gốc và bản sao, và mỗi lần gửi hàng là một lần phát hành vận đơn.Thứ hai, việc in ấn B/L đòi hỏi nhiều công sức và tốn kém bởi chữ in mặt sau của B/L thường rất nhỏ, khoảng 0,3mm để chống làm giả .Thứ ba, do vận đơn có tính tiêu chuẩn không cao, mỗi hãng tàu đều phát hành một loại vận đơn khác nhau, do vậy, sử dụng vận đơn lại phải mất thêm chi phí lưu trữ. Theo số liệu của WTO, thng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu năm 1996 đạt 10.380 tỉ đô la Mỹ, trong đó chi phí cho vận đơn là gần 7 %. Sử dụng vận đơn phải sử dụng bản gốc, do đó không áp dụng được những thành tựu của công nghệ tin học, trong khi đó vận chuyển hàng hoá bằng đường biển lại chiếm hơn 80% số lượng hàng hóa trong thương mại quốc tế. Do vậy, vận đơn đường biển cùng một loạt các chứng từ khác trong thương mại quốc tế trở thành trở ngại và tốn kém trong xu thế nên thương mại quốc tế không cần chứng từ. -Việc sử dụng B/L có thể gặp rủi ro trong việc giao nhận hàng hoá (nếu đơn vị bị mất cắp) vì B/L là chứng từ sở hữu hàng hoá…. Như vậy một loại chứng từ mới có thể thay thế được cho B/L và có chức năng tương tự như B/L đã ra đời. Đó là giấy gửi hàng đường biển (seaway bill). Sử dụng seaway bill có thể khắc phục được những tồn tại đã phát sinh của B/L. Thứ nhất, khi sử dụng seaway bill người nhận hàng có thể nhận được hàng hoá ngày khi tàu đến cảng dỡ hàng hoá mà không nhất thiết phải xuất trình vận đơn đường biển gốc vì seaway bill không phải là chứng từ sở hữu hàng hoá. Hàng hoá sẽ được người chuyên chở giao cho người nhận hàng trên cơ sở những điều kiện của người chuyên chở hoặc một tổ chức quản lý hàng hoá tại cảng đến. Thứ hai, seaway bill không phải là chứng từ sở hữu hàng hoá, do đó người ta không nhất thiết phải gửi ngay bản gốc cho người nhận hàng ở cảng đến mà có thể gửi bản sao qua hệ thống truyền số liệu tự động. Như vậy đồng thời với việc xếp hàng lên tàu, người xuất khẩu có thể gửi ngày lập tức seaway bill cho người nhận hàng trong vòng vài phút. Người nhận hàng cũng như người chuyên chở không phải lo lắng khi giao nhận mà không có chứng từ. Thứ ba, khi sử dụng seaway bill, việc in các điều khoản bằng chữ rất nhỏ ở mặt sau được thay thế bằng việc dẫn chiếu đến các điều kiện, quy định liên quan đến vận chuyển ở mặt trước bằng một điều khoản ngắn gọn. Mặt khác người chuyên chở chỉ cần phát hành 1 bản gốc seaway bill trong khi phải phát hành tối thiểu 1 bộ 3 bản gốc nếu sử dụng B/L. http://www.ebook.edu.vn Page 15
- VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN GVHD: Ths.PHAN CHUNG THUỶ Thứ tư, seaway bill cho phép giao hàng cho một người duy nhất khi họ chứng minh họ là người nhận hàng hợp pháp. Điều này giúp cho các bên hữu quan hạn chế được rất nhiều rủi ro trong việc giao nhận hàng, không những thế, vì seaway bill không phải là chứng từ sở hữu hàng hoá nên khi bị mất hay thất lạc thì cũng không ra hậu quả nghiêm trọng nào. Tuy nhiên, seaway bill không phải là không có những hạn chế như seaway bill cản trở mua bán quốc tế (vì seaway bill là rất phức tạp và khó khăn khi người chuyên chở và người nhận hàng là những người xa lạ, mang quốc tịch khác nhau; luật quốc gai của một số nước và công ước quốc tế chưa thừa nhận seaway bill nhưu một chứng từ giao nhận hàng…. Ở Việt nam, việc áp dụng seaway bill vận còn rất mới mẻ, mặc dù đã có cơ sở pháp lý để áp dụng seaway bill. Mục C - điều 80 Bộ luật Hàng hải Việt nam quy định. Người vận chuyển và người giao nhận hàng có thể thoả thuận việc thay thế B/L bằng giấy gửi hàng hoặc chứng từ vận chuyển hàng hoá tương đương và thoả thuận về nội dụng, giá trị của các chứng từ này theo tập quán Hàng hải quốc tế. VII. VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN ĐIỆN TỬ (BOLERO). Nội dung của Vận đơn Bolero (B.B/L): có nội dung cơ bản giống như vận đơn truyền thống do người chuyên chở cấp cho người gửi hàng. B.B/L có thể bị ghi chú sạch hay không sạch (clean or unclean), hàng đã xếp lên tàu hay nhận để xếp phù hợp với tập quán hàng hải quốc tế. B.B/L có thể bao gồm các điều khoản và điều kiện chung của người chuyên chở. Điểm khác biệt so với vận đơn truyền thống là B.B/L không có phần ghi tên người chuyên chở, người gửi hàng, những người được chuyển nhượng khác, đồng thời người chuyên chở không trực tiếp ký vào B.B/L mà ký bằng chữ ký kỹ thuật số vào bức thông điệp trong đó có chứa B.B/L khi người chuyên chở gửi đến trung tâm xử lý B.B/L. Trong thương mại truyền thống, như chúng ta đã biết thông thường người gửi hàng sẽ nhận được bản vận đơn bằng giấy do người chuyên chở phát hành sau khi hàng hoá được xếp lên tàu hoặc hàng hoá đã được nhận để chở. Để thu tiền theo phương thức thư tín dụng (L/C), người gửi hàng sẽ ký hậu vận đơn cho ngân hàng ở nước của người xuất khẩu (ngân hàng thông báo, ngân hàng xuất trình…). Ngân hàng này thông thường là do ngân hàng phát hành tín dụng thư (ngân hàng của người nhập khẩu) chỉ định. Sau khi kiểm tra vận đơn, ngân hàng ở nước người xuất khẩu sẽ ký http://www.ebook.edu.vn Page 16
- VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN GVHD: Ths.PHAN CHUNG THUỶ hậu cho ngân hàng phát hành đồng thời với việc nhận tiền hàng, và ngân hàng phát hành cuối cùng sẽ chuyển vận đơn cho người mua. Vì vận đơn là một chứng từ có thể chuyển nhượng được nên ngân hàng có thể giữ chứng từ này như một sự bảo đảm cho các khoản tín dụng cấp cho nhà nhập khẩu. Khi hàng hoá tới cảng đến, người mua xuất trình vận đơn gốc cho người chuyên chở để nhận hàng. Mục tiêu của việc thay thế hệ thống vận hành vận đơn vốn từ lâu đã đi vào quy củ này là phải giữ được những chức năng truyền thống của vận đơn mà thay thế hình thức tồn tại trên giấy tờ của nó. Một số chức năng của vận đơn truyền thống có thể dễ dàng được thay thế bởi vận đơn điện tử vì đó chỉ đơn giản là sự thay đổi hình thức trao đổi thông tin từ giấy tờ sang dữ liệu điện tử. Tuy nhiên, để thực hiện được chức năng là chứng từ sở hữu hàng hoá, vận đơn điện tử phải được xây dựng trên một cơ sở kỹ thuật khả thi và đáng tin cậy. 1. Khái quát quá trình ra đời và phát triển của các chứng từ vận tải điện tử Vài nét về sự ra đời, phát triển, mục tiêu và các bộ phận chủ yếu của hệ thống Bolero Bolero là viết tắt của “ Bill of Lading Electronic Registry Organization”. Dự án Bolero được sự ủng hộ của Uỷ ban Châu Âu và được thực hiện trên cơ sở sự hợp tác giữa Society for Worldwide Interbank Finance Transaction (SWIFT) và Thorough Transport Mutual Insurance Association Ltd. (TT club). Ý tưởng của các bên khi tiến hành dự án này là nếu một tổ chức chuyên thực hiện việc thanh toán các giao dịch thương mại quốc tế và một tổ chức có chức năng giảm thiểu rủi ro cho các nhà chuyên chở trong các giao dịch này mà hợp tác với nhau để xây dựng và vận hành một hệ thống điện tử thì hệ thống đó dễ được thị trường chấp nhận hơn là một hệ thống do những người chẳng có chút liên quan nào đến thương mại quốc tế tạo lập nên. Hệ thống Bolero được chính thức đưa vào hoạt động từ ngày 27 tháng 9 năm 1999. Bolero bao gồm hai công ty riêng biệt, do đối tượng khác nhau sở hữu nhưng có mối quan hệ hết sức mật thiết với nhau trong việc duy trì hoạt động của cả hệ thống. Bolero Association Limited (BAL) do các thành viên của nó sở hữu. BAL được thành lập năm 1995 và bao gồm tất cả các thành viên của Bolero.net cũng như các tổ chức ngành nghề (cross-industry bodies) ủng hộ mục tiêu tạo ra một nền thương mại điện tử thay thế cho nền thương mại dựa trên giấy tờ từ trước tới nay. Bolero International Limited là một công ty liên doanh giữa SWIFT và TT Club và là người cung cấp các dịch vụ của hệ thống Bolero.net. * Các mục tiêu chính mà dự án Bolero theo đuổi bao gồm: 1. Đảm bảo các dịch vụ do Bolero cung cấp đáp ứng được các yêu cầu của các thành viên; và các dịch vụ thương mại khác có liên quan được phát triển đồng bộ với các http://www.ebook.edu.vn Page 17
- VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN GVHD: Ths.PHAN CHUNG THUỶ dịch vụ trên; 2. Hoạt động như một diễn đàn liên ngành để giải quyết các vấn đề liên quan đến thực tiễn thương mại điện tử trong thương mại quốc tế, tập trung vào các vấn đề liên quan đến các chứng từ có khả năng chuyển nhượng và các chứng từ điện tử tương đương; 3. Tạo lập và phổ biến các chuẩn mực trong thương mại điện tử; 4. Thiết lập một khuôn khổ pháp lý đảm bảo rằng các yêu cầu đối với các chứng từ vận tải truyền thống có thể được đáp ứng bằng các chứng từ điện tử tương ứng mà không làm thay đổi sự cân bằng về rủi ro đã được thiết lập giữa các bên; 5. Làm đầu mối liên lạc với các cơ quan quản lý quốc gia và quốc tế để đảm bảo rằng các nhu cầu của doanh nghiệp được cân nhắc đến một cách đầy đủ trong quá trình hoàn thiện cơ sở pháp lý và cơ sở kỹ thuật phục vụ cho sự phát triển của thương mại. 2 .Nguồn luật điều chỉnh vận đơn đường biển điện tử * Incoterms2000 ICC đã tiên liệu sự phát triển của EDI và đưa ra các qui tắc diễn giải mới. Điều 8A và 8B Incoterms 2000 đề cập tới giá trị hiệu lực của thông tin điện tử: “ở nơi nào người mua và người bán thoả thuận liên lạc bằng điện tử thì có thể dùng thoả thuận trao đổi dữ liệu điện tử (electronic data interchange agreement) có giá trị tương đương thay cho chứng từ thông thường. Vì thế các bên cần phải thoả thuận sẽ sử dụng các thông điệp điện tử thay thế các chứng từ vận tải thông thường trong đó bao gồm cả vận đơn truyền thống. * Qui tắc của CMI đối với vận đơn đường biển điện tử Điểm đáng chú ý của qui tắc này là áp dụng đối với vận đơn phải được kiểm tra. Những qui tắc này đã được tổ chức CMI soạn thảo tại Paris vào tháng 6/ 1990. Và các qui tắc của CMI không mang tính chất bắt buộc. Do vậy, các bên phải thoả thuận các qui tắc này và trên cơ sở đó thống nhất với hợp đồng chuyên chở. Điều 1 nêu rõ: “ Qui tắc này áp dụng bất kỳ lúc nào các bên chấp nhận.” Nếu các bên quyết định chuyển từ vận đơn CMI sang vận đơn giấy tờ thì mã khoá riêng sẽ mất hiệu lực. Điểm mấu chốt của qui tắc CMI chính là sự ra đời của vận đơn đường biển điện tử. Các qui tắc này không nhằm mục đích điều chỉnh về EDI nói chung và vận đơn nói riêng trên cơ sở toàn diện. Do đó, các qui tắc này không nhằm để thay thế luật thực chất áp dụng cho vận đơn. * Quy tắc Bolero. Tuỳ thuộc vào loại vận đơn đường biển điện tử mà có nguồn luật điều chỉnh như khi sử dụng vận đơn Bolero thì sẽ phải theo các qui tắc do Bolero International Limited đưa ra (Bolero rulebook - chủ yếu cũng dựa trên qui tắc của CMI). http://www.ebook.edu.vn Page 18
- VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN GVHD: Ths.PHAN CHUNG THUỶ Cơ sở pháp lý của hệ thống Bolero Để cả hệ thống Bolero có thể hoạt động trôi chảy cần có các thoả thuận giữa (i) những người sử dụng hệ thống với Bolero và (ii) những người sử dụng hệ thống với nhau. Vấn đề này được giải quyết thông qua việc ban hành Bolero Rulebook. Tất cả các thành viên khi gia nhập hệ thống Bolero sẽ bị ràng buộc bởi Bolero Rulebook. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng Bolero Association và Bolero International không đảm bảo cũng như không chịu trách nhiệm về bất kỳ nghĩa vụ nào mà một thành viên phải có với bên kia theo các quy định của Bolero Rulebook hoặc các nguồn luật khác. Về bản chất, Bolero Rulebook quy định cách thức các công ty sử dụng hệ thống Bolero để phát hành vận đơn điện tử. Bolero Rulebook chịu sự điều chỉnh của luật Anh, và các toà án Anh sẽ có thẩm quyền các giải quyết tranh chấp phát sinh có liên quan đến các quy tắc này. Nội dung của Bolero Rulebook khá đầy đủ, chi tiết, bao gồm ba phần chính là: Phần 1: Các định nghĩa và giải thích Phần 2: Các điều khoản chung Phần 3: Hệ thống đăng ký sở hữu Một bộ phận không thể tách rời của Rulebook là Phụ lục quy định cụ thể về các thủ tục vận hành (operational procedures) của hệ thống. Mặc dù bản quy tắc này bao quát nhiều nội dung, điều khoản cốt lõi của nó là các thành viên của hệ thống Bolero chấp nhận các thông điệp điện tử được gửi qua hệ thống Bolero như thể chúng được thể hiện trên giấy và thừa nhận hiệu lực của chữ ký điện tử trong hệ thống Bolero. 3. Quy trình đăng nhập hệ thống Bolero: Gồm 3 bước chính sau đây: • Hình thành hợp đồng: Để trở thành thành viên của hệ thống Bolero, một thành viên phải ký kết ba hợp đồng sau đây: (1) Hợp đồng dịch vụ BAL (BAL Service Contract) để trở thành thành viên của Hiệp hội Bolero (Bolero Association), (2) hợp đồng với từng thành viên khác của hệ thống cam kết tuân thủ Bolero RuleBook và (3) Hợp đồng tiến hành dịch vụ (Operational Service Contract) ký kết với Bolero International để sử dụng các dịch vụ của hệ thống Bolero. • Cung cấp thông tin và các tài liệu chứng minh (Providing information and supporting documentation): Để có thể cung cấp các dịch vụ một cách hiệu quả nhất, Bolero International và Bolero Association đều cần có những thông tin nhất định về người sử dụng như tên công ty, địa chỉ…Một số thông tin về một thành viên còn cần phải có sự xác nhận tin cậy về tính chính xác để các thành viên khác có thể nhận biết http://www.ebook.edu.vn Page 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận: Giới thiệu tổng quan về tập đoàn Trung Nguyên và phân tích SBU
14 p | 1596 | 366
-
GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY UNILEVER VIỆT NAM.
37 p | 1953 | 160
-
Tiểu luận Quản trị chất lượng dịch vụ
17 p | 853 | 127
-
Tiểu luận Triết học: Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần và văn hóa của người Việt
34 p | 292 | 73
-
Tiểu luận: Chiến lược kinh doanh của Zara
11 p | 1391 | 70
-
Tiểu luận: Giới thiệu khái quát về điều tra xã hội học
42 p | 266 | 60
-
Tiểu luận: Các mức độ văn hóa trong FPT
38 p | 366 | 50
-
Tiểu luận: “NIVEA _ Sự chăm sóc nhẹ nhàng cho làn da”
28 p | 356 | 35
-
Tiểu luận: Phân tích các yếu tố văn hóa chính thúc đẩy việc thực thi chiến lược của Vietinbank
24 p | 189 | 29
-
Tiểu luận Quản trị tác nghiệp và điều hành bếp: Lập dự án đầu tư và kế hoạch tổ chức vận hành bộ phận chế biến món ăn tại Nhà hàng chay Tâm Đức
31 p | 186 | 27
-
Tiểu luận: Vấn đề về nhân lực của Công ty Coninco trong quá trình toàn cầu hoá
13 p | 152 | 20
-
Tiểu luận: Chiến lược nổi bật của LG
17 p | 204 | 20
-
Tiểu luận môn Vật lý đại cương A1: Lực hấp dẫn định luật vạn vật hấp dẫn
16 p | 174 | 19
-
Tiểu luận Kinh tế đối ngoại: Nghiệp vụ giao nhận hàng hóa nhập khẩu lẻ container bằng đường biển tại công ty TNHH tiếp vận Đại Giang Sơn
47 p | 110 | 18
-
TIỂU LUẬN: Giới thiệu về Viện Khoa học Lao động và Xã hội, và Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo chiến lược
22 p | 96 | 15
-
Tiểu luận Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp: Trình bày triết lý, chiến lược kinh doanh của Viettel
22 p | 55 | 13
-
Tiểu luận Đánh giá tác động môi trường: Khái quát tác động chính và chỉ ra các vấn đề môi trường quan trọng của dự án Trạm bơm lưu vực Nhiêu Lộc Thị Nghè (Nhóm 1)
12 p | 146 | 10
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn