intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào các chỉ số giá trong thị trường mới nổi

Chia sẻ: Gnfvgh Gnfvgh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:30

118
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận: Hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào các chỉ số giá trong thị trường mới nổi nhằm trình bày về tổng quan các kết quả nghiên cứu trước, phương pháp nghiên cứu. Nội dung và các kết quả nghiên cứu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào các chỉ số giá trong thị trường mới nổi

  1. HIỆU ỨNG TRUYỀN DẪN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀO CÁC CHỈ SỐ GIÁ TRONG THỊ TRƯỜNG MỚI NỔI bởi Michele Ca’ Zorzi , Elke Hahn và Marcelo Sánchez GVHD: TS. NGUYỂN KHẮC QUỐC BẢO Nhóm 13 - NHĐêm2 - K22 1. Tạ Thị Lê Na 2. Nguyễn Thị Tâm Thương 3. Bùi Thị Thúy Vân 1
  2. Nội dung Tóm tắt 3 1. Giới thiệu 4 2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước 6 3. Phương pháp nghiên cứu 10 4. Nội dung và các kết quả nghiên cứu 13 5. Kết luận 18 Tài liệu tham khảo 19 Phụ lục 21 2
  3. Tóm tắt Bài nghiên cứu xem xét mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào các chỉ số giá ở 12 thị trường mới nổi khu vực Châu Á, Mỹ Latin, Trung và Đông Âu. Kết quả bài nghiên cứu dựa trên mô hình véc tơ tự hồi quy (VAR), có phần nào khác biệt với những nghiên cứu trước đây, rằng hiệu ứng ERPT ở các nước có nền kinh tế mới nổi luôn luôn cao hơn các nước phát triển. Đối với thị trường mới nổi chỉ số lạm phát là một con số (đặc biệt là các nước Châu Á), mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào giá nhập khẩu và giá tiêu dùng là thấp và không giống với các nước phát triển. Nghiên cứu này cũng tìm thấy bằng chứng về mối tương quan chặt chẽ giữa mức độ truyền dẫn và lạm phát, phù hợp với giả thuyết của Taylor, sau khi loại trừ phân tích hai nước (Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ). Tóm lại, mối tương quan giữa chính sách mở cửa nền kinh tế và truyền dẫn tỷ giá hối đoái tuy hợp lý về mặt lý thuyết, nhưng về tính thực nghiệm thì còn thấp. Từ khóa: Hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá hối đoái, thị trường mới nổi 3
  4. 1. Giới thiệu Nắm bắt được sự tác động của những thay đổi trong tỷ giá hối đoái đến các chỉ số giá là điều rất quan trọng để đánh giá sự phù hợp của chính sách tiền tệ đối với sự biến động của giá cả. ERPT được định nghĩa là phần trăm thay đổi giá nhập khẩu đồng nội tệ từ 1% thay đổi trong tỷ giá giữa quốc gia xuất khẩu và nhập khẩu (Goldberg và Knetter 1997). Hai vai trò quan trọng của ERPT là khả năng dự báo lạm phát và những tác động chính sách về nó lên chính sách tiền tệ. Về cơ bản, vai trò quan trọng nhất của ERPT là ảnh hưởng của nó trong khả năng dự báo lạm phát, rất quan trọng đối với bất kỳ Ngân hàng Trung ương nào trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Củng cố một đánh giá tốt của ERPT giúp các Ngân hàng Trung ương có thể hiểu được ảnh hưởng, mức độ và thời gian của bất kỳ cú sốc tỷ giá hối đoái thay đổi trong lạm phát. Các nghiên cứu thực nghiệm đã chứng tỏ rằng những thay đổi trong tỷ giá hối đoái và chỉ số giá không tồn tại trong ngắn hạn. Một nghiên cứu lý thuyết, được phát triển trong hơn ba thập niên qua, đã tìm ra nhiều nguyên nhân khác nhau lý giải vì sao ERPT tác động đến giá nhập khẩu và giá tiêu dùng là chưa hoàn toàn. Những phân tích thực nghiệm cũng đã có những minh chứng cho thấy rằng hiệu ứng ERPT có sự khác biệt đáng kể tùy thuộc vào mỗi quốc gia. Taylor (2000) đã đưa ra giả thuyết rằng sự phản ứng của giá đối với sự biến động của tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát. Bài viết nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của ERPT đến giá trong 12 thị trường mới nổi ở khu vực châu Á, Mỹ Latin, Trung và Đông Âu. Để thực hiện được điều này, chúng tôi sử dụng chiến lược mô hình hóa cho các nước tiên tiến được phát triển bởi McCarthy (2000) và được áp dụng bởi Hahn (2003) cho khu vực đồng Euro. Chúng tôi sử dụng mô hình véc tơ tự hồi quy (VAR), trong đó bao gồm các biến cơ sở như biến đầu ra, tỷ giá hối đoái, giá nhập khẩu, giá tiêu dùng, lãi suất ngắn hạn và giá dầu. Những véc tơ tự hồi quy đều được xem là những biến nội sinh. Cú sốc tỷ giá được xác định bằng cách áp dụng mô hình VAR đệ quy, các biến được sử dụng là các biến sai phân bậc nhất để đảm bảo tính dừng của các biến. Chúng tôi tiến hành thực hiện phân tích độ nhạy để đưa ra thứ tự các biến thích hợp. Chúng tôi ước lượng mô hình cho các nền kinh tế phát triển, cụ thể là khu vực đồng Euro, Mỹ và Nhật Bản, và lấy đó để làm chuẩn cho mục đích so sánh. Kết quả cho thấy ERPT là giảm dần theo chuỗi giá (giá nhập khẩu – giá sản xuất – giá tiêu dùng) , cụ thể là sự truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến giá nhập khẩu là lớn hơn giá giá tiêu dùng. Bên cạnh đó, hiệu ứng ERPT là rất khiêm tốn (thấp) ở các nước phát triển, đặc biệt là đối với Mỹ và giá tiêu dùng của Nhật Bản. Những cú sốc tỷ giá có vai trò không lớn trong việc giải thích sự biến động trong CPI ở Mỹ và Anh trong cả khoảng thời gian 2 4
  5. năm. Trong khi đó, ở Nhật Bản, vai trò của tỷ giá trong việc giải thích sự biến động của CPI là lớn hơn. Một vài nghiên cứu trước thì cho rằng hiệu ứng ERPT khu vực đồng Euro cao hơn Mỹ, đối với cả giá tiêu dùng và nhập khẩu. Phân tích của chúng tôi phần nào đã phản bác lại (trái ngược với) những nghiên cứu trước đây, rằng hiệu ứng ERPT ở các nước mới nổi luôn luôn cao hơn các nước phát triển. Đối với các nền kinh tế mới nổi có lạm phát một con số (hầu hết các nước Châu Á), hiệu ứng ERPT là thấp và không giống với các nước phát triển. Tổng quát hơn, bài viết chứng minh được mối tương quan giữa hiệu ứng ERPT và lạm phát, phù hợp với giả thuyết của Taylor đã đưa ra. Những kết quả nghiên cứu này trở nên xác thực hơn chỉ sau khi hai nước ngoại biên (Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ) được loại trừ, bởi những khó khăn tiềm ẩn liên quan đến sự bất ổn nghiêm trọng của nền kinh tế vĩ mô trong hai nước này. Tóm lại, mối tương quan giữa chính sách mở cửa nền kinh tế truyền dẫn tỷ giá hối đoái tuy hợp lý về mặt lý thuyết, nhưng về tính thực nghiệm thì còn thấp. Bài báo sử dụng mô hình véc tơ tự hồi quy (VAR) để ước lương cấp độ ERPT giữa các quốc gia khác nhau, ví dụ như khu vực đồng Euro, Mỹ và Nhật Bản thuộc nhóm tiêu chuẩn. Những véc tơ tự hồi quy đều là các biến nội sinh. Các tài liệu đã ước tính mô hình một phương trình hoặc hệ phương trình cho một quốc gia cụ thể, hoặc xây dựng mô hình một phương trình cho một tập hợp các nước (ví dụ như Choudhri và Hakura, 2006, và Mihaljek et al., 2000). Trong nghiên cứu này, chúng tôi áp dụng phương pháp tiếp cận của chúng tôi với một số lượng đáng kể các nước thuộc ba thị trường chính mới nổi trên thế giới, cụ thể là, châu Á, Mỹ Latinh, Trung và Đông Âu. Đồng thời, chúng tôi sử dụng cách tiếp cận tương tự với ba nền kinh tế công nghiệp lớn, đảm bảo kết quả so sánh chéo giữa các quốc gia. Bằng cách ước lượng mô hình cho mỗi quốc gia trong thời gian dài nhất có thể, để ước tính được mức độ truyền dẫn chính xác nhất có thể ở mỗi quốc gia. Về mặt này, dữ liệu để phân tích là dữ liệu theo quý và có thể so sánh cũng như phù hợp với từng quốc gia, và sử dụng những dữ liệu có sẵn cho các thị trường mới nổi. Điều này cũng giúp chúng ta đáp ứng những yêu cầu của một phương pháp tiếp cận dựa trên mối tương quan của các biến để tránh bỏ sót các biến. Sau đó chúng tôi sử dụng kết quả của quốc gia chúng tôi để kiểm tra những suy luận thông thường rằng ERPT trong thị trường mới nổi cao hơn trong các nền kinh tế công nghiệp và để điều tra mẫu của hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá thông qua mối tương quan, theo hướng của McCarthy (2000) và Choudhri và Hakura (2006). Dù ERPT có cao hơn hoặc không cao hơn trong các thị trường mới nổi, thì cũng ảnh hưởng đến việc xác định cán 5
  6. cân thương mại và lựa chọn chế độ tỷ giá của một nước. Một hiệu ứng truyền dẫn tương đối cao cho những nước đang phát triển được xem là một cơ sở tốt để các nước đang phát triển lựa chọn chế độ cố định hay thả nổi. Điều đó cũng rất là quan trọng bởi vì hiệu ứng truyền dẫn thấp trong các thị trường mới nổi có thể cho rằng sức mạnh thị trường của những doanh nghiệp trong những quốc gia này liên tục tăng và không giảm, theo xu hướng toàn cầu hóa. Những thị trường mới nổi, với những đặc điểm riêng biệt đã làm nó trở nên khó khăn hơn khi muốn ước lượng độ tin cậy của ERPT. Một số quốc gia Châu Á thường xuyên theo đuổi chính sách linh hoạt nhằm mục đích kiểm soát tỷ giá. Các quốc gia Trung và Đông Âu đã trải qua những biến đổi cơ bản của nền kinh tế trong những năm 1990. Kết luận lại, Thổ Nhĩ Kỳ và một số quốc gia Châu mỹ Latin đã chịu ảnh hưởng mạnh do những bất ổn kinh tế vĩ mô bởi tỷ lệ lạm phát cao và sự thay đổi tỷ giá mạnh mẽ. Những kết quả của chúng tôi chỉ hỗ trợ phần nào quan điểm về ERPT trong những thị trường mới nổi cao hơn những nước phát triển ( sử dụng như một tiêu chuẩn Mỹ, khu vực đồng Euro và Nhật). Cụ thể hơn, hiệu ứng truyền dẫn tác động đến giá tiêu dùng là khá nhỏ. Bài viết này hỗ trợ tổng thể học thuyết của Taylor, chứng thực được mối tương quan giữa hiệu ứng truyền dẫn và lạm phát trong thị trường mới nổi. Mối liên kết này mang ý nghĩa thống kê để xác định những phối hợp khác nhau sau khi hai nước ngoại biên được loại trừ. Như trong các tài liệu liên quan, có một mối tương quan yếu giữa sự sụt giảm tỷ giá hối đoái và lạm phát xuất phát từ nghiên cứu trường hợp của những nước có nền kinh tế mở cửa cao và những nước này chịu ít áp lực lên lạm phát sau khi sự mất giá lớn của các đồng tiền của họ. Phần còn lại của bài viết gồm : Phần 2 và 3 tổng quan về các nghiên cứu, mô tả phương pháp nghiên cứu và dữ liệu của những nước mà chúng ta xét tới. Phần 4 trình bày những kết quả thực nghiệm . Và cuối cùng là phần 5 bao gồm những kết luận chính. 2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây Công trình nghiên cứu về hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào các chỉ số giá đã được phát triển trong hơn hai thập niên qua. Xuất phát từ nhiều quan điểm khác nhau, các nghiên cứu thực nghiệm đã chứng thực vai trò của ERPT trong nền kinh tế nhỏ và lớn. Các nghiên cứu được tiến hành ở những nước phát triển bao gồm Anderton (2003), Campa and Goldberg (2004), Campa et al. (2005), Gagnon và Ihrig (2004), Hahn (2003), Ihrig et al. (2006) và McCarthy (2000). Bên cạnh đó cũng có những nghiên cứu dành cho nền kinh tế thị trường mới nổi, trong đó bao gồm sự so sánh chéo giữa các quốc gia như Choudhri và Hakura (2006), Frankel et al. (2005) và Mihaljek et al. (2000). 6
  7. Theo Goldber, P.K., and M.M. Knetter (1997) hiệu ứng ERPT được định nghĩa là sự thay đổi tỷ lệ phần trăm trong giá nhập khẩu địa phương tiền tệ do sự thay đổi 1% trong tỷ giá hối đoái giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu. Có rất nhiều nghiên cứu về đặc tính của hiệu ứng ERPT. Hung, Kim và Ohno (1993) cho thấy rằng hầu như không có bất kỳ mối tương quan giữa kích thước của quốc gia và mức độ điều chỉnh giá xuất khẩu. Ngoài ra, Yang (1997) phát hiện hiệu ứng truyền dẫn tương quan dương với sự khác biệt sản phẩm và âm đến tính đàn hồi của chi phí cận biên. Sau đó, Yang (1998) phát hiện hiệu ứng là không đầy đủ, và là lớn hơn cho xuất khẩu hơn so với nhập khẩu của Mỹ. Bổ sung ý kiến của Yang, Kardasz và Stollery (2001) đo lường hiệu ứng ERPT tại Canada cho rằng hiệu ứng truyền dẫn khác nhau rất nhiều giữa các ngành. Không những thế, Campa và Goldberg (2005) hiệu ứng ERPT khác nhau rất nhiều giữa các quốc gia. Cụ thể, Choudhri và Hakura (2001) cho rằng đối với các nước lạm phát cao, hiệu ứng ERPT cao hơn và ngược lại. Trong nghiên cứu thực nghiệm của Michele Ca’ Zorzi, Elke Hahn & Marcelo Sánchez (2007) hiệu ứng ERPT là không hoàn toàn và thấp ở các nước mới nổi có lạm phát là một con số.Thậm chí hiệu ứng truyền dẫn của tỷ giá đến từng thành phần của chuỗi phân phối cũng rất khác nhau, McCarthy (2000) sử dụng dữ liệu giá nhập khẩu , PPI và CPI hàng quý của 9 nước phát triển cho thấy rằng hiệu ứng truyền dẫn là rất nhỏ, và lớn nhất về giá nhập khẩu, thứ hai trên PPI, và sau đó chỉ số giá tiêu dùng. Nhiều nghiên cứu cũng khẳng định ERPT có khuynh hướng giảm trong những năm gần đây. Kim (1990) cho rằng độ nhạy của giá nhập khẩu đối với các thay đổi của tỷ giá giảm trong những năm 1980, với hành vi “định giá thị trường” với dữ liệu giá trị nhập khẩu đơn vị hàng quý của Mỹ. An, Lian (2006), hiệu ứng ERPT ở các quốc gia là không hoàn toàn và mức độ ngày càng giảm. Hai ông cho rằng mức độ truyền dẫn là lớn hơn trong các nền kinh tế nhỏ có tỷ trọng nhập khẩu lớn, ít biến động trong tỷ giá và GDP, có tỷ lệ lạm phát cao và có nhiều cú sốc trong chính sách tiền tệ. Hiệu ứng truyền dẫn lớn đối với những nước có thị phần nhập khẩu lớn và các cú sốc tỷ giá hối đoái dai dẳng hơn. Trong dài hạn, Hufner và Schroder (2002) và Kikuchi và Sumner (2002) cho rằng hiệu ứng ERPT là hoàn toàn. Những nghiên cứu gần đây như Kara và Ogunc (2005) cho thấy hiệu ứng ERPT chậm lại và giảm sau khi áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi. Paul Castillo, Luis R. Maertens Odría y Gabriel Rodríguez(2011) đo lường hiệu ứng ERPT giảm đáng kể từ khi Peru áp dụng lạm phát mục tiêu. Theo một cách truyền thống, các nhà kinh tế đã đơn giản hóa giả thuyết rằng các sản phẩm và dịch vụ đồng nhất ở các nước khác nhau sẽ có cùng mức giá, nghĩa là sức mua 7
  8. tương đương (Điều kiện ngang bằng sức mua -PPP). Tuy nhiên, theo thực nghiệm cho thấy, giả định này nhìn chung không được ủng hộ, ít nhất là trong trường hợp nghiên cứu ở các quốc gia nhỏ, trong ngắn và trung hạn. Phù hợp với bằng chứng này, nghiên cứu lý thuyết, được phát triển trong hơn hai thập niên qua, đã tìm ra nhiều nguyên nhân khác nhau lý giải vì sao ERPT tác động đến giá là chưa hoàn toàn. Nghiên cứu thực nghiệm đã chứng tỏ rằng PPP không tồn tại trong ngắn hạn. Có rất nhiều lí do khiến ngang giá sức mua không được duy trì liên tục do bên cạnh chênh lệch về lạm phát thì tỷ giá hối đoái còn chịu rất nhiều ảnh hưởng của các nhân tố khác dẫn đến mô hình lí thuyết PPP trong thế giới thực rất khó xảy ra với những giả định hoàn hảo như không có chi phí vận chuyển, thuế quan và hạn ngạch, cạnh tranh hoàn hảo…. Dornbusch (1987) đã chứng minh sự truyền dẫn không hoàn toàn phát sinh ở các công ty hoạt động trong thị trường cạnh tranh không hoàn hảo và điều chỉnh sự tăng giá để đáp ứng với cú sốc tỷ giá. Các công ty có sức mạnh độc quyền bán các sản phẩm khác biệt, có động cơ để bán lại với giá khác nhau tại các thị trường có sở thích khác nhau. Trong một thị trường nhất định, quyền định giá của họ được xác định bởi mức giá mà họ tính phải tương đối so với các đối thủ cạnh tranh của họ. Thay đổi trong tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến mức giá tương đối và do đó ảnh hưởng đến sức mạnh độc quyền và do quyết định giá của doanh nghiệp: kết quả là và hiệu ứng ERPT có thể chỉ là một phần. Burstein et al. (2003) lại nhấn mạnh vai trò của các yếu tố đầu vào (phi thương mại) của chuỗi hàng hóa thương mại. Burstein et al. (2005) chỉ ra vấn đề đo lường trong chỉ số CPI, đó là đã lờ đi việc điều chỉnh chất lượng của hàng hóa thương mại khi có sự điều chỉnh lớn trong tỷ giá. Một lý luận khác đã nhấn mạnh vai trò của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong việc hạn chế ảnh hưởng của sự thay đổi tỷ giá lên giá (Gagnon và Ihrig, 2004). Devereux và Engel (2001) và Bacchetta và Van Wincoop (2003) đã khảo sát vai trò của giá đồng nội tệ trong việc giảm mức độ ERPT. Sự khác biệt về chính sách tiền tệ: Hiệu ứng ERPT cũng có thể phụ thuộc vào chính sách tỷ giá và chính sách tiền tệ của một quốc gia. Chính sách tiền tệ ổn định hơn và tỷ lệ lạm phát thấp thấp hơn sẽ dẫn đến mức độ hiệu ứng ERPT thấp hơn, vì ít có khả năng nhà xuất khẩu nước ngoài sẽ truyền dẫn các thay đổi tỷ giá hối đoái (Taylor, 2000). Chứng minh cho những lý thuyết khác nhau, nghiên cứu thực nghiệm ở cả những nền kinh tế tiên tiến và mới nổi đều cho thấy hiệu ứng ERPT là không hoàn toàn. Những nghiên cứu cũng tìm thấy bằng chứng về sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia, và đã đặt ra câu hỏi về những yếu tố cơ bản nào quyết định mức độ truyền dẫn. Taylor (2000) đã đưa ra giả thuyết rằng sự phản ứng của giá đối với sự biến động của tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát. Lý do cho điều này liên quan đến mối tương quan giữ mức độ và 8
  9. tính dai dẳng của lạm phát, cùng với mối tương quan giữa lạm phát và hiệu ứng truyền dẫn. Mối tương quan thứ hai được thể hiện như sau: lạm phát càng dai dẳng, sự biến động của tỷ giá càng ít và nhiều công ty sẽ thay đổi giá cả hàng hóa, chứ không phải tỉ suất lợi nhuận, nên dẫn đến việc ERPT sẽ cao hơn. Vì vậy, ERPT phải cao hơn ở những nước, nơi mà những thay đổi tỷ giá thường kéo dài (tỷ giá ổn định hơn). Các bằng chứng từ các nghiên cứu khác nhau hỗ trợ tổng thể cho giả thuyết Taylor. Mối tương quan giữa mức độ truyền dẫn và lạm phát dường như mạnh hơn khi nghiên cứu thị trường mới nổi (tham khảo bảng dữ liệu trong Choudhri và Hakura, 2006). Không có gì là đáng ngạc nhiên khi lập luận lý thuyết của Taylor trở nên ý nghĩa hơn đối với trường hợp tỷ lệ lạm phát cao.3 Một yếu tố quan trọng khác quyết định ERPT, từ một quan điểm mang tính lý thuyết đó là mức độ mở cửa thương mại của một nước. Những nước có nền kinh tế mở cửa cao và chịu ít áp lực lên lạm phát (giá nhập khẩu và giá tiêu dùng) sau sự mất giá lớn của các đồng tiền của họ. Tuy nhiên, vấn đề trở nên phức tạp hơn khi cho rằng lạm phát có thể tỷ lệ nghịch với sự mở cửa nền kinh tế, như thực nghiệm được khám phá bởi Romer (1993)4. Một sự thay đổi trong tỷ giá có thể được truyền trực tiếp hoặc gián tiếp đến giá cả. Kênh truyền dẫn trực tiếp được điều khiển bởi khu vực bên ngoài nước như giá mặt hàng nhập khẩu. Sự thay đổi trong giá nhập khẩu gần như được truyền dẫn vào giá sản xuất và tiêu dùng của nền kinh tế nếu các nhà sản xuất tăng giá của họ phù hợp với sự tăng lên trong giá nhập khẩu. Kênh truyền dẫn gián tiếp của tỷ giá đề cập đến cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường quốc tế. Một sự giảm sút trong tỷ giá làm cho sản phẩm nội địa trở nên rẻ hơn đối với người tiêu dùng nước ngoài và hệ quả là tổng cầu và xuất khẩu sẽ tăng lên đem đến sự tăng lên trong mức giá nội địa. Sự giảm sút trong tỷ giá về lâu dài sẽ đem đến sự tăng lên trong mức giá còn sản lượng chỉ tăng lên tạm thời (Kahn 1987). 3 Điều đáng chú ý là hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá cũng có thể cao hơn trong thị trường mới nổi bởi vì khu vực tư có ít các công cụ bảo vệ hơn. Trong một thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, nó hàm ý rằng tỷ giá hối đoái ảnh hưởng nhiều hơn đến hành vi định giá. Định giá thị trường được định nghĩa là sự thay đổi % trong giá sản phẩm của nước xuất khẩu theo đồng tiền của nước xuất khẩu do một sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái %. Như vậy, mức độ của định giá thị trường lớn hơn, thì mức độ của hiệu ứng ERPT thấp hơn. 4 Tác giả đã cung cấp một giải thích lý thuyết cho kết quả này, liên quan đến những khó khăn trong việc theo đuổi các chính sách ổn định trong nền kinh tế mở, nhỏ. 9
  10. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Phương pháp Phân tích được thực hiện bằng cách sử dụng một mô hình VAR tiêu chuẩn như trong (1): = + ∅ + Với là vector của biến nội sinh, c là hằng số, ∅ là ma trận hệ số tự hồi quy và là quá trình nhiễu trắng . Việc xác đinh các cú sốc cấu trúc được thực hiện bằng cách đưa những biến được quan tâm vào một cách thích hợp và dùng phân tích Cholesky cho ma trận phương sai của phần dư . Như một điểm khởi đầu của việc phân tích, mô hình VAR sáu biến tương tự như của McCarthy, 2000 và Hahn, năm 2003, phát triển. Mô hình VAR cơ bản áp dụng cho các quốc gia khác nhau bao gồm chỉ số giá dầu, oil t, biến sản lượng y t, tỷ giá hối đoái et, chỉ số giá nhập khẩu pimpt, chỉ số giá tiêu dùng cpit và lãi suất ngắn hạn it. Tỷ giá hối đoái và hai biến giá là các biến quan trọng trong phân tích của chúng tôi. Các biến sản lượng và chỉ số giá dầu được thêm vào để mô tả tác động đến nền kinh tế. Việc đưa lãi suất trên thị trường tiền tệ, bao gồm cả tác động của chính sách tiền tệ, ảnh hưởng đến quan hệ truyền dẫn. Trong mô hình cơ sở các biến được liệt kê ở trên. Ta sử dụng phương pháp đệ quy để xác định những cú sốc ảnh hưởng đến biến tương ứng và các biến sau và đưa ra độ trễ, nhưng không có tác động (ảnh hưởng) tới những biến trước. Đây là phương pháp để sắp xếp các biến theo một thứ tự thích hợp, để có 1 chuỗi những tác động. Ta tìm được biến đầu tiên trong chuỗi của chúng ta đó là giá dầu. Giá dầu ảnh hưởng đến tất cả các biến khác trong hệ thống nhưng giá dầu không bị ảnh hưởng bởi các biến khác. Các biến tiếp theo trong hệ thống là sản lượng và tỷ giá hối đoái. Chúng ta ngầm giả có những cú sốc tác động lên tỷ giá hối đoái và cú sốc tỷ giá hối đối cũng tác động lên các biến sau nó. Các biến giá được đưa vào tiếp theo cũng bị ảnh hưởng bởi tất cả các cú sốc nói trên. Sau chuỗi giá cả, giá nhập khẩu đi trước giá tiêu dùng cho thấy những cú sốc giá nhập khẩu tác động trên giá tiêu dùng nhưng không phải ngược lại. Lãi suất được đưa vào cuối cùng, đại diện cho thị trường tiền tệ và một phần của chính sách tiền tệ, chịu tác động của tất cả các biến trong mô hình. Thứ tự săp xếp các biến trên là một trong những lựa chọn hợp lý. Do đó, chúng tôi tiến hành phân tích độ nhạy sử dụng 2 mô hình thích hợp khác. 10
  11. 3.2. Mô tả dữ liệu Trong nghiên cứu này chúng tôi tập trung phân tích những nước từ ba khu vực lớn của thế giới, Châu Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan và Hồng Kông), Trung và Đông Âu (Cộng hòa Séc, Hungary, Ba Lan) cộng với Thổ Nhĩ Kỳ, và Châu Mỹ La Tinh (Argentina, Chile và Mexico). Đây là những quốc gia có nền kinh tế mới nổi trong vùng5. Đối với mỗi nước, ta thu thập dữ liệu theo quý càng xa càng tốt. Đối với giá dầu, ta lấy chỉ số giá dầu thô tính bằng đô la Mỹ. Biến sản lượng là GDP, mặc dù trong một vài trường hợp chúng tôi đã sử dụng chỉ số sản xuất công nghiệp để có được một khoảng thời gian dài hơn cho mẫu. Đối tỷ giá hối đoái, chúng ta sử dụng tỷ giá hối đoái danh nghĩa hiệu dụng. Hơn nữa, nhập khẩu nội tệ và giá tiêu dùng được bao gồm, ngoại trừ Trung Quốc, vì không có thống kê giá tiêu dùng cùng với chuỗi giá nhập khẩu. Cuối cùng, lãi suất ngắn hạn đại diện cho công cụ của chính sách tiền tệ. Mẫu được xác định bằng dữ liệu sẵn có6, nó thay đổi giữa các nước (có phụ lục cho một mô tả chi tiết về các nguồn dữ liệu, và các hàng đầu tiên trong Bảng 1 và 2 cho thời gian của mẫu thu thập). Một bảng tóm tắt của các điều kiện kinh tế vĩ mô trung bình tại các thị trường mới nổi trong giai đoạn mẫu được thể hiện trong Bảng 1. Lạm phát trung bình tương đối thấp ở các nước châu Á, đặc biệt là trong các trường hợp của Đài Loan và Singapore. Hai nước quản lý để kết hợp tăng trưởng GDP thực cao, lạm phát thấp và tỷ giá hối đoái danh nghĩa hiệu dụng ổn định, cả về giá trị và về sự biến động. Trung và Đông Âu đã kết hợp tăng trưởng sản lượng khoảng 2 và 3% là tỷ lệ tương đối cao và đang giảm lạm phát. Giảm phát đã đạt được ghi nhận tại Cộng hòa Séc, trong bối cảnh nền kinh tế suy thoái kéo dài trong một số năm sau khi cuộc khủng hoảng ngân hàng năm 1997. Trong giai đoạn xem xét, sự trở lại với hệ thống nền kinh tế thị trường, Cộng hòa Séc, Hungary và Ba Lan, một phần liên quan đến hiệu ứng Balassa-Samuelson, bị đánh giá thấp của giai đoạn đầu của tái cơ cấu. 5 Quốc gia có kích thước tương đối lớn đã được loại trừ khỏi phân tích là Brazil, bởi vì các kết quả thu được không hợp lý, mức độ biến động trong các dữ liệu cao và lạm phát hàng năm cao hơn 1000% trong suốt thời gian giữa 1992Q1 và 1994Q4. 6 Chúng tôi lựa chọn nguồn dữ liệu từ những tổ chức quốc tế (Thống kê của IMF tài chính quốc tế, chỉ số kinh tế chính OECDs ', và BIS, và nguồn khác) tiếp theo các nguồn trong nước (nguồn có sẵn thường xuyên thông qua các nhà cung cấp tin dữ liệu quốc tế). Yêu cầu đặt ra là phải một bộ dữ liệu phù hợp và tránh gián đoạn dữ liệu do lỗi trong quá trình tổng hợp dữ liệu. 11
  12. Một số quốc gia đã trải qua áp lực lạm phát lớn trong giai đoạn mẫu được xem xét. Điều kiện kinh tế vĩ mô tài chính không chắc chắn, trầm trọng là Argentina, với cơn bão tài chính kéo dài và tình trạng siêu lạm phát. Áp lực lạm phát cao và biến động tỷ giá hối đoái cao ởThổ Nhĩ Kỳ với những khó khăn tài chính nghiêm trọng nổ ra nhiều lần. Ở Mexico, bất ổn thị trường được thể hiện bởi sự biến động tỷ giá hối đoái danh nghĩa hiệu dụng cao. Chile giữ lạm phát trung bình thấp hơn khoảng 13% như ghi nhận từ năm 1980. Cuối cùng, nhiều thị trường mới nổi có nền kinh tế mở trong mẫu của chúng ta. Lấy chuẩn là % nhập khẩu trên GDP, chúng ta thấy rằng các nền kinh tế mở nhất trong mẫu của chúng ta là Hồng Kông, Singapore tiếp theo là Cộng hòa Séc và Hungary. Các nền kinh tế lớn hơn, Trung Quốc và Argentina tương đối khép kín so với các thị trường mới nổi khác trong nghiên cứu này. Mức độ ERPT trong mỗi quốc gia được được đo lường bởi mô hình (1) cho các vector được chọn của các biến nội sinh, dữ liệu là chuỗi thời gian. Kiểm tra Unit root test cho thấy hầu hết các biến trong các nước được coi không dừng (chỉ có lãi suất dừng trong một số trường hợp), trong khi kiểm định đồng liên kết Johansen cung cấp thể hiện mối quan hệ cân bằng dài hạn có thể có giữa các biến trong một số quốc gia. Kiểm định đồng liên kết sẽ kiểm định chuỗi phần dư sau mô hình có dừng không, nếu các chuỗi trong mô hình là không dừng mà chuỗi phần dư là dừng nghĩa là nó đồng liên kết, nó sẽ có quan hệ cân bằng với nhau trong dài hạn. Đối với chuỗi không dừng ta tiền hành lấy sai phân bật một để được một chuỗi dừng cho mô hình VAR. Mô hình Var sau khi lấy sai phân bậc một của các biến, bỏ qua với mô hình Error Correction Vector Model (VECM), đối với mô hình VECM thì có thể áp dụng khi có đồng liên kết, có thể dẫn đến số sai nếu các biến hội tụ. Tuy nhiên, trong phân tích của chúng tôi: (i) tập trung vào các động lực ngắn hạn bỏ qua mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa các biến, và (ii) mẫu ngắn hạn trong một số các thị trường mới nổi nền kinh tế. Một lựa chọn khả thi sẽ là một mô hình VAR cho các cấp bậc của biến. Tuy nhiên, đáng nói là ước lượng cho các biến và VECM cũng không giải quyết được vấn đề (xem, ví dụ, Favero, 2001). Nếu xảy ra đồng liên kết, dùng các phương pháp cũ thì tham số không còn ý nghĩ nữa. Các VECM sẽ mang lại ước tính không phù hợp nếu vector đồng liên kết sai được đưa vào mô hình.7 Cụ thể hơn, mô hình VAR của các biến không dừng gồm các biến ∆oil t , ∆y t , ∆et , ∆pimpt , ∆cpit và cuối cùng, tùy thuộc vào kết quả kiểm định Unit root test, chọn it hoặc ∆it . Tất cả các mô hình được ước lượng với hằng số và biến giả theo mùa. Chiều dài độ trễ của VAR cho mỗi quốc gia được xác định bằng cách nhìn vào các tiêu chí thông tin khác nhau cũng như 12
  13. một số kiểm định khác. Tiêu chí thông tin được sử dụng để giúp xác định độ dài trễ tối ưu, nhưng quyết định cuối cùng dựa trên các kiểm định trên từng biến của mô hình. Trong hai phần tiếp theo, chúng tôi lần thảo luận về các kết quả cho ERPT đến giá trong nước trong nền kinh tế thị trường mới nổi và so sánh chúng với nhóm kiểm soát chúng ta là mô hình cho nền kinh tế tiên tiến. Sau đó chúng tôi tìm mối liên hệ của ERPT giữa các quốc gia và một số yếu tố quyết định bằng cách tính toán hệ số tương quan. Cuối cùng, chúng tôi kiểm định những kết quả này bằng cách áp dụng hai mô hình nhận dạng thay thế. 4. Nội dung và các kết quả nghiên cứu Ước lượng của ERPT trên giá nhập khẩu và giá tiêu dùng cho tất cả các nước thị trường mới nổi trong mẫu của chúng tôi được tóm tắt trong Bảng 3 và 4 cho 4 quý và 8 quý. Đối với hầu hết các quốc gia kết quả của chúng tôi nói chung có vẻ hợp lý cả về chỉ số CPI và giá nhập khẩu. ERPT giảm dọc theo chuỗi giá, giá nhập khẩu cao hơn giá tiêu dùng. Đặc biệt, một năm sau cú sốc truyền dẫn vào giá nhập khẩu cao trong các trường hợp của Argentina, Chile, Hungary, Mexico, Ba Lan và Thổ Nhĩ Kỳ, thấp hơn một chút tại Cộng hòa Séc và Hàn Quốc , và khá thấp ở hầu hết các nước châu Á khác9. ERPT vào chỉ số CPI cao nhất ở Hungary và Mexico. Ở châu Á, truyền dẫn vào chỉ số CPI thấp cả bốn quý và tám quy. Trường hợp của Singapore, các hệ số không có ý nghĩa thống kê và tiến gần về 0. Chúng tôi áp dụng mô hình tương tự cho khu vực đồng tiền chung Châu Âu, Mỹ và Nhật Bản, và thấy được hệ số truyền dẫn tại các thị trường mới nổi cao hơn. Ở bảng 5 , kết quả ước lượng cho khu vực đồng tiền chung Châu Âu phù hợp với nghiên cứu trước đây (xem Hahn, 2003)10 hay phương pháp khác (xem ví dụ Anderton, 2003, và Campa et al., 2005, cho giá nhập khẩu). Kết quả cũng cho thấy sự truyền dẫn tỷ giá hối và cả giá nhập khẩu và giá tiêu dùng ở Hoa Kỳ thấp, (xem Gagnon và Ihrig, 2004, giá tiêu dùng). 7 Marcet (2005) chỉ ra rằng ấp dụng kỹ thuật cho đồng liên kết và VAR bậc cao hơn không tốt hơn lấy sai phân. 8 Chiều dài trễ lựa chọn cho các nền kinh tế thị trường mới nổi nói chung là bốn, ngoại trừ Đài Loan, Cộng hòa Séc và Hungary (ba độ trễ) và Chile (hai). Trên cơ sở kiểm định Unit Root test, lấy sai phân của biến lãi suất danh nghĩa của Hungary và Hàn Quốc, và cùng độ trễ cho tất cả các quốc gia mới nổi khác. Đối với những nước phát triển, độ trễ là 3 được sử dụng cho Mỹ và 2 cho khu vực tiền chung Châu Âu và Nhật Bản, tương ứng, lãi suất lấy sai phân bậc 1 cả ba nền kinh tế phát triển. 9 Hai năm sau cú sốc dự toán cao hơn, nhưng với sự không chắc chắn lớn xung quanh dự toán trong các quốc gia này vẫn không thống kê khác nhau từ một. 13
  14. Tại Nhật Bản, truyền dẫn tỷ giá hối vào chỉ số CPI rất nhỏ cả 4 quý và 8 quý. Về giá nhập khẩu, Nhật Bản cao hơn khu vực đồng tiền chung Châu Âu và Mỹ, kết quả tương tự khi ước lượng cho 1 năm. So sánh hệ số ước tính truyền dẫn tỷ giá của các nền kinh tế phát triển và nền kinh tế mới nổi, kết quả của chúng tôi không phải lúc nào ERPT của thị trường mới nổi cao hơn so với các nước phát triển. Cụ thể hơn, chúng ta thấy rằng trong nền kinh tế mới nổi lạm phát thấp (đặc biệt là các nền kinh tế châu Á) truyền dẫn vào giá tiêu dùng là khá thấp. Tiếp theo chúng tôi phân tích về các yếu tố quyết định kinh tế vĩ mô của ERPT. Tương quan giữa hệ số truyền dẫn và lạm phát có đúng với giả thuyết của Taylor. Chúng tôi phân tích mối quan hệ giữa hệ số ERPT và lạm phát cho các thị trường mới nổi sau một năm trong mẫu (xem hình 1)11 . Hình 1: Truyền dẫn vào giá tiêu dùng và lạm phát trung bình ở thị trường mới nổi (Trục tung: thay đổi của giá tiêu dùng sau khi tỷ giá thay đổi 1% sau một năm; trục tung: lạm phát trung bình) Lưu ý: Các mô hình được sử dụng là mô hình cơ sở (xem văn bản chi tiết). Các nước trong bảng xếp hạng là: Argentina (AG), Thổ Nhĩ Kỳ (TK), Mexico (MX), Cộng hòa Séc (CZ), Hungary (HN), Ba Lan (PL), Chile (CL), Hàn Quốc (KR), Trung Quốc (CN), Hồng Kông (HK), Đài Loan (TW), Singapore (SG). 10 Khác nhau giữa phân tích của chúng tôi và Hahn (2003) là Hahn sử dụng giá nhập khẩu phi dầu mỏ. Khi truyền dẫn thì hàng hóa như dầu là cao, hệ số truyền dẫn cho tổng giá nhạp khẩu cao hơn giá nhâp khẩu loại trừ dầu mỏ là hợp lý. 11 Biểu đồ tương tự cho quý 4 và quý 8. 14
  15. Như hình 1, hai vùng được xác định. Vùng đầu tiên, lạm phát trung bình hàng năm ít hơn 10% , hệ số ERPT thấp (thường ít hơn 10%). Vùng 2, trong đó lạm phát trung bình hàng năm cao hơn - từ 10 đến 20%, hệ số ERPT đến giá tiêu dùng cao hơn (khoảng 40%). Kết quả trên hình 1 cho thấy những quốc gia này phù hợp với giả thuyết Taylor. Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ đi ngược lại với thuyết Taylor, có lạm phát trung bình cao trong (trên 60%) trong khi hệ số truyền dẫn vào giá tiêu dùng thấp. Nếu hai nước này được đưa vào phân tích, giả thuyết của Taylor sẽ bị phá vỡ. Phương pháp VAR không thể áp dụng cho những nước có nền kinh tế bất ổn với lạm phát cao hay siêu lạm phát. Lấy ví dụ Argentina, mẫu có quá nhiều vấn đề cần quan tâm bao gồm sự tăng đột ngột trong các biến tài chính (tốc độ điều chỉnh ở cấp độ "bình thường"). Ta giới hạn mẫu để loại trừ siêu lạm phát, mẫu lại trở nên quá ngắn và mang tính cục bộ, có thể dẫn đến sai lệch cái nhìn về lạm phát cao. Ví dụ khi kết thúc giai đoạn lạm phát cao, ổn định kinh tế vĩ mô vẫn đang tiếp diễn, và kết hợp tăng giá đồng tiền (phục hồi từ đánh giá thấp mạnh thường liên quan đến tập phim siêu lạm phát). Trong những trường hợp đó, khó có thể khôi phục lại mối quan hệ cơ bản giữa tỷ giá và giá cả với những tác động bất thường trong môi trường kinh tế không ổn định. Mô hình VAR không phải lúc nào cũng phù hợp tất cả các nền kinh tế, khi giá, tỷ giá, lãi suất quá bất ổn. Do đi ngược với giả thuyết Taylor, ta sẽ loại 2 mẫu Thổ Nhĩ Kỳ và Argentina. Để xem xét về mối tương quan của truyền dẫn tỷ giá và lạm phát ta dùng 2 công cụ đo lường hệ số tương quan của Pearson và Spearmen xếp hạng hệ số tương quá giữa hệ số truyền dẫn với một tham số. Kết quả thể hiện trong Bảng 6. Kết quả cho thấy rằng có tương quan giữa lạm phát và hệ số truyền dẫn ở 4 quý và 8 quý. Hệ số tương quan có ý nghĩa thống kê cả trong trường hợp của Pearson và hệ số tương quan Spearman mẫu 4 quý và 8 quý với mức ý nghĩa 1%. Các khác của nền kinh tế vĩ mô cũng có tương quan với ERPT, mặc dù mức độ có ý nghĩa nhỏ hơn. Như nghiên cứu Choudhri và Hakura (2006) và McCarthy (2000), chúng ta không thấy có tương qua của truyền dẫn tỷ giá vào giá tiêu dùng và nền kinh tế mở. Phù hợp với kết quả trước đó không có tương quan giữa lạm phát và mở cửa theo báo cáo của Romer (1993). Sau khi điều chỉnh lạm phát, hệ số tương quan giữa sự truyền dẫn và cởi mở tích cực hơn, mặc dù không có ý nghĩa thống kê. Kiểm định Robustness Trong phần này, chúng tôi đánh giá mức độ kết quả nghiên cứu rất nhạy với sự lựa chọn sắp xếp chặt chẽ và một vài thay đổi trong các biến số. Chúng tôi ước lượng lại mô hình với hai mô hình lựa chọn sắp thứ tự nhận dạng, dựa trên hai lựa chọn các biến số trong phân tích Cholesky. Trong phần đầu, chúng ta thực hiện sắp xếp thứ tự các biến sau đây (lựa chọn mô hình 1), chỉ số giá dầu oilt, lạm phát it, biến sản lượng yt, tỷ giá hối đoái et, chỉ số giá nhập khẩu pimpt, chỉ số giá tiêu dùng cpit, đặc biệt ở đây lãi suất được để trước 15
  16. tỷ giá hối đoái, như đề xuất trong ví dụ bởi Choudhri è al (2002). Sự sắp xếp này cho phép cùng với sự phản ứng của tỷ giá hối đoái để truyền dẫn trong công cụ chính sách tiền tệ. Điều này có thể giải thích những tiêu chuẩn căn bản trong kinh doanh chêch lệch lãi suất, bằng cách đổi đồng tiền có lãi suất cao hơn – bằng những thứ khác nhau– thu hút tiền tệ bằng cách khai thác làm mất đi phương trình kinh doanh chênh lệch giá. Ước lượng tỷ giá truyền dẫn dưới sự nhận biết thay thế các lựa chọn tương tự như những cuộc thảo luận trong phần trước (xem bảng 7 và bảng 8). Một trường hợp ngoại lệ đó là Hungary, ở đây ước lượng truyền dẫn tỷ giá cả hai giá nhập khẩu và chỉ giá tiêu dùng CPI giảm đáng kể. Về giá nhập khẩu, một năm trước sau cú sốc hệ số truyền dẫn cao và khác nhau đáng kể một trong những nước Argentina, Mexico và Balan. Trường hợp nước Chile, hệ số truyền dẫn giá nhập khẩu được dựa trên giá thấp và gần với mức của nước Cộng hòa Séc và Hàn Quốc một năm sau cú sốc (ở khu vực giữa vùng 0,7 và 0,8). Một năm sau cú sốc, mức độ truyền dẫn giá nhập khẩu vẫn còn rất thấp trong trường hợp nước Singapore và Đài Loan, mặc dù trong trường hợp trước đây nó tăng lên trong 2 năm sau cú sốc. Về chỉ số giá CPI, hệ số truyền dẫn vẫn như trước hầu như luôn nhỏ hơn so với giá nhập khẩu tương đương. Hiện nay hệ số được tìm thấy là mức cao nhất một năm sau cú sốc ở Cộng hòa Séc, Mexico và Ba Lan. Ở Châu Á, truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến giá tiêu dùng là một trong nhiều thời kỳ giá thấp. Trường hợp ở Singapore, dù điểm ước lượng hệ số số âm, nó không khác nhau đáng kể gần bằng 0. Kết quả tổng thể đó là tất cả các nước có đặc điểm chung là chỉ số lạm phát trung bình ít hơn 10% có đặc điểm bởi ước lượng mức độ truyền dẫn tỷ giá ở mức vừa phải. Trước đó Agentina và Thổ Nhĩ Kỳ hiệu ứng truyền dẫn giá tiêu dùng ở mức thấp. Loại trừ 2 quốc gia này, sự tương quan hoàn toàn giữa truyền dẫn và lạm phát vẫn còn được tìm thấy sau cả bốn và 8 rưỡi, mặc dù mức độ ý nghĩa thấp hơn so với phương pháp kịch bản đầu mà chúng tôi đã xem xét (xem bảng 9). Đo lường sự bất ổn của nền kinh tế vĩ mô (các biện pháp khác của sự bất ổn kinh tế vĩ mô) cũng có mối tương quan hoàn toàn với mức độ truyền dẫn tỷ giá ở các mức độ khác nhau có ý nghĩa ở cả năm đầu và năm thứ hai. Cuối cùng, một lần nữa chúng tôi không tìm thấy bằng chứng của sự tương quan hoàn toàn ý nghĩa thống kê giữa truyền dẫn tỷ giá và nền kinh tế mở, sau khi kiểm soát lạm phát. Xem xét lựa chọn mô hình (lựa chọn mô hình thứ hai) cho trường hợp đường gốc bao gồm cả sự thay đổi các biến số lẫn xếp thứ tự lựa chọn các biến số trong phân tích Cholesky. Ở mô hình trước, chúng tôi đã bao gồm 1 biến giá dầu có thể được giải thích như kết quả đạt được mà còn cung cấp các chi phí nước ngoài do đó đã giúp gỡ rối tác động kết quả tỷ giá hối đoái ngoại sinh từ những chi phí nước ngoài. Lập luận tương tự áp dụng giá trong nước. Do đó chúng tôi thay đổi lựa chọn mô hình giá dầu bởi giá sản xuất 16
  17. trong nước ppit nó tính đến sự cần thiết của mô hình dè sẻn. Một biến thay thế để sử dụng cho mục đích này có thể là tiền công. Tuy nhiên, những biến này chưa thể đưa ra để xem xét ở các nước. Cần chú ý đến thứ tự các biến, trong mô hình 2 chúng ta đưa ra các quan điểm lý thuyết thuyết phục hơn bởi giả định cho rằng tỷ giá hối đoái không cùng bị ảnh hưởng bởi bất kỳ cú sốc của biến số khác trong hệ thống, tức là các biến sắp xếp theo thứ tự: et, pimpt, yt, ppit, cpit, it. Có một lý thuyết lớn hơn cho rằng thảo luận truyền dẫn tỷ giá trên cơ sở mô hình cấu trúc khác nhau, kết luận những lý thuyết khác nhau liên quan tới xác định tỷ giá hối đoái dựa vào giả thiết cơ bản của mô hình (xem ví dụ Maston, 1990 và Devereux et al 2006). Trong mô hình này, một vai trò quan trọng là giả định liệu các công ty định giá bằng đồng tiền địa phương nơi họ bán sản phẩm hoặc đồng tiền nơi sản xuất. Trong khi các mô hình này cung cấp những hiểu biết rõ ràng về các khái niệm truyền dẫn tỷ giá dựa vào các giả định cơ bản khác nhau của mô hinh, nó ngầm chứa xu hướng đi đến kết luận mối tương quan giữa tỷ giá hối đoái và một tập hợp nền tảng cơ sở hợp lý. Tất cả bài nghiên cứu này có khả năng chịu sự phê bình rằng phê bình mà các biến số kinh tế vĩ mô giải thích một phần nhỏ tỷ giá hối đoái trong ngắn và trung hạn. Đặc biệt, nó khó để phát hiện trở lại trạng thái ban đầu có nghĩa là tỷ giá hối đoái thực- sau cùng sự thay đổi xu hướng bởi sự phát triển tỷ giá hối đoái danh nghĩa nó không dễ giải thích nền tảng này. Mối liên kết này, lựa chọn mô hình 2 cho phép tỷ giá hối đoái bị ảnh hưởng bởi những cú sốc của biến số khác nhưng chỉ với độ trễ, ngầm giả định cùng với các hệ số khác ít nhất (giống như “noise trading” hoặc xem xét những thông tin không hoàn hảo – cả hai đều rất quan trọng trong bối cảnh thị trường mới nổi) có xu hướng chiếm ưu thế. Mặc dù mô hình tương đối khác nhau, những kết quả mà chúng ta đạt được là đáng chú ý tương tự như đã thảo luận ở phần trước ( bảng 10 và bảng 11). Truyền dẫn đến giá nhập khẩu được tạo lập ở phần 1, cả chuỗi thời gian một hai năm ở các nước Argentina, Chile, Hungary, Poland, Mexico và Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi ước tính thấp hơn nhiều ở các nước Châu Á và Cộng hòa Séc. Truyền dẫn giá tiêu dùng cho kết quả thấp hơn so với truyền dẫn giá nhập khẩu ở tất cả các nước và trường hợp một số nước Châu Á gần bằng 0 sau chuỗi thời gian một và hai năm. Lặp lại phân tích mối tương quan chúng ta tìm thấy bằng chứng quan trọng của mối liên hệ thống kê giữa truyền dẫn CPI và lạm phát (ở mức 1%), sau khi loại trừ mẫu Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ (xem bảng 12). Hệ số tương quan giữa truyền dẫn CPI và đo lường lại sự bất ổn kinh tế vĩ mô luôn có ý nghĩa thống kê khi xem xét chuỗi thời gian. Mối liên hệ giữa truyền dẫn CPI và chính sách mở cửa lại tác động, sau khi kiểm soát lạm phát, nhưng không có ý nghĩa thống kê. 17
  18. 5. Kết luận Bài nghiên cứu này cung cấp bằng chứng thực nghiệm mô hình truyền dẫn tỷ giá trên thế giới, giá trong nước dựa trên các mô hình véc tơ tự hồi quy xem xét ở một số nước, bao gồm một số nước lớn ở thị trường mới nổi từ ba khu vực lớn đang nổi lên trên thế giới và kiểm soát một nhóm các nước công nghiệp. Kết quả chỉ ra sự suy giảm truyền dẫn tỷ giá theo chuỗi giá ở tất cả các nước. Phân tích này phần nào đã trái ngược với những nghiên cứu trước đây, rằng hiệu ứng ERPT ở các nước có nền kinh tế mới nổi luôn luôn cao hơn nền kinh tế phát triển. Đối với thị trường mới nổi tỷ lệ lạm phát hàng năm chỉ có một chữ số (hầu như các nước Châu Á) truyền dẫn tỷ giá ở mức độ thấp và không giống như các nền kinh tế phát triển. Tổng quát hơn về triển vọng, chúng ta thấy rằng mối liên quan giữa truyền dẫn và lạm phát có ý nghĩa thống kê khi ngoại trừ 2 nước (Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ), mà kết quả cho thấy không đáng tin cậy, được loại trừ. Ngoài ra, các bằng chứng của mối tương quan giữa truyền dẫn và chính sách mở cửa dường như yếu hơn mối tương quan giữa truyền dẫn và lạm phát, sau khi kiểm soát mức lạm phát. Chúng tôi đưa ra một số khuyến nghị cho chính sách tiền tệ như sau: NHNN có thể sử dụng một chính sách tỷ giá linh hoạt hơn. Điều này sẽ giúp cho NHNN thêm quyền tự do trong việc thực hiện chính sách tiền tệ để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác, cho phép NHNN kịp thời đáp ứng cho cả hai cú sốc trong nước và cú sốc nước ngoài, trong khi mang ít rủi ro hơn về tác động của thay đổi tỷ giá đến lạm phát. Thứ hai, bởi vì lạm phát tại Việt Nam chủ yếu là gây ra bởi những cú sốc trong giá dầu và phản ứng điều chỉnh của chính sách tiền tệ, nên việc thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ có thể kiềm chế lạm phát. NHNN phải có được một sự độc lập khỏi chính phủ để không bị thống trị tài khóa và ngưng sự can thiệp vào tỷ giá hối đoái là đề nghị để đối phó với lạm phát của Việt Nam. Thứ ba, sự tăng trong cầu không gây ra áp lực lớn lên lạm phát tại Việt Nam. Điều này gợi ý rằng chúng ta không nên thắt chặt chính sách tiền tệ trong khi tình hình nhu cầu trong nước tăng. Hạn chế của bài viết: Có nhiều biến kinh tế vĩ mô khác chưa được đưa vào xem xét trong nghiên cứu. Nghiên cứu xem xét sự chuyển dịch ở mức giá chung, chưa xem xét sự chuyển dịch ở mức ngành và mức sản phẩm. Nghiên cứu đã phải đối mặt với những hạn chế nhất định liên quan đến dữ liệu đầy đủ. Nếu như dữ liệu chỉ số giá sản xuất có sẵn, chúng ta sẽ có mô hình VAR tốt hơn cũng như kết quả tốt hơn. 18
  19. Tài liệu tham khảo Anderton, R. (2003), Extra-Euro Area Manufacturing Import Prices and Exchange Rate Pass-Through, ECB Working Paper No. 219. Bacchetta, P. and van Wincoop, E. (2003), Why do Consumer Prices React Less than ImportPrices to Exchange Rates?, Journal of European Economic Association, 1, 662- 670. Burstein, A., Eichenbaum, M. and Rebelo, S. (2005), Large Devaluations and the Real ExchangeRate, Journal of Political Economy, 113, 742-784. Burstein, A., Neves, J. and Rebelo, S. (2003), Distribution Costs and Real Exchange Rate Dynamics During Exchange-Rate-Based-Stabilizations, Journal of Monetary Economics, 50,1189-1214. Campa, J. and Goldberg, L. (2004), Exchange Rate Pass-Through into Import Prices, CEPR Discussion Paper No. 4391. Campa, J., Goldberg, L. and González-Mínguez, J. (2005), Exchange Rate Pass-Through to Import Prices in the Euro Area, Federal Reserve Bank of New York Staff Paper No. 219. Choudhri, E. and Hakura, D. (2006), Exchange Rate Pass-Through to Domestic Prices: Does the Inflationary Environment Matter?, Journal of International Money and Finance, 25, 614-639. Choudhri, E., Faruqee, H. and Hakura, D. (2002), Exchange Rate Pass-Through in Different Prices, IMF Working Paper, No. 02/224. Conover, W. (1999), Practical Nonparametric Statistics, New York: John Wiley and Sons. Devereux, M, and Engel, C. (2001), “Endogenous Currency of Price Setting in a Dynamic Open Economy Model”, NBER Working Paper No. 8559. Devereux, M., Lane, P. and Xu, J. (2006), Exchange Rates and Monetary Policy in Emerging Market Economies, Economic Journal, 116, 478-506. Dornbusch, R. (1987), Exchange Rates and Prices, American Economic Review, 77, 93- 106. Fagan, G., Henry, J. and Mestre, R. (2005), An Area-Wide Model (AWM) for the Euro Area, Economic Modelling, 22, 39-59. Frankel, J., Parsley, D. and Wei, S. (2005), Slow Pass-Through Around the World: A New Import for Developing Countries, NBER Working Paper No. 11199. Gagnon, J. and Ihrig, J. (2004), Monetary Policy and Exchange Rate Pass-Through, International Journal of Finance and Economics, 9, 315-338. 19
  20. Hahn, E. (2003), Pass-Through of External Shocks to Euro Area Inflation, European Central Bank Working Paper No. 243. Ihrig, J., Marazzi, M. and Rothenberg, A. (2006), Exchange Rate Pass-Through in the G-7 countries, International Finance Discussion Paper No. 851, Federal Reserve Board of Governors. McCarthy, J. (2000), Pass-Through of Exchange Rates and Import Prices to Domestic Inflation in Some Industrialised Economies, Federal Reserve Bank of New York Staff Report No. 111. Marcet, A. (2005), Overdifferencing VAR's is OK, mimeo, Universitat Pompeu Fabra. Marston, R. (1990), Pricing to Market in Japanese Manufacturing, Journal of International Economics, 29, 217-36. Meese, R. and Rogoff, K. (1983), Empirical Exchange Rate Models of the Seventies: Do they Fit Out of Sample?, Journal of International Economics, 14, 345-73. Mihaljek, D. and Klau, M. (2000), A Note on the Pass-Through from Exchange Rate and Foreign Price Changes to Inflation in Selected Emerging Market Economies, BIS Papers, 8, 69-81. Romer, D. (1993), Openness and Inflation: Theory and Evidence, Quarterly Journal of Economics, 4, 869-903. Taylor, J. (2000), Low Inflation, Pass-Through and the Pricing Power of Firms, European Economic Review, 44, 1389-1408. Nguyễn Thị Ngọc Trang, Lục Văn Cường (2012), Sự chuyển dịch tỷ giá hối đoái vào các mức giá tại Việt Nam. Công trình dự thi giải thưởng nghiên cứu khoa học sinh viên “Nhà kinh tế trẻ - Năm 2012”, Hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào các chỉ số giá trong nước. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2