intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Lịch sử Việt Nam: Đường lối đối ngoại từ năm 1975 đến năm 1986

Chia sẻ: Phu Cuong Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:22

540
lượt xem
42
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận trình bày hoàn cảnh lịch sử; đường lối đối ngoại của Đảng; mối quan hệ của Việt Nam với các nước; quan hệ Việt Nam với Trung Quốc; quan hệ với Lào và Campuchia... Mời các bạn cùng tham khảo tiểu luận để nắm chi tiết nội dung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Lịch sử Việt Nam: Đường lối đối ngoại từ năm 1975 đến năm 1986

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA LỊCH SỬ Đề tài: ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 1986 Chương 1: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ 1.1 Tình hình thế giới Từ  thập niên 70 của thế  kỷ  XX, sự tiến bộ  nhanh chống của cách mạng   khoa học và công nghệ đã thúc đẩy lực lượng sản xuất thế giới phát triển  mạnh:  ­ Nhật – Tây Âu đã trở thành hai trung tâm lớn của thế giới. + Hệ thống xã hội chủ nghĩa mở rộng phạm vi. + Tình hình kinh tế ­ xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện sự  trì trệ và mất ổn định. + Đông Nam Á cũng có những chuyển biến.  1973 khủng hoảng năng lượng.  Sau 1975 Mỹ rút quân khỏi Đông Nam Á.  Khối quân sự SeaTo tan rã.   2/1976 cả  nước ký hiệp  ước thân thiện và hợp tác  ở  Đông Nam Á   mở ra cục diện hòa bình và hợp tác trong khu vực. 2.2 Tình hình trong nước ­ Thuận lợi:  + Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Việt Nam hòa bình thống nhất. + Cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội và đạt được một số thành tựa quan   trọng. ­ Khó khăn: 
  2. + Vừa phải khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, vừa phải   đối phó với chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. + Các thế lực thù địch chống phá cách mạng. ­ Tư tưởng chủ quan nóng vội muốn tiến nhanh đến chủ nghĩa xã hội  nên gây khó khăn về kinh tế xã hội.   Thuận lợi và khó khăn nó  ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng, phát  triển đất nước, đường lối đối ngoại của Đảng.
  3. CHƯƠNG II: ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG 2.1.    Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng qua 2 đại hội      2.1.1.    Nội dung đại hội IV            Đại hội lần thứ 4 của Đảng (tháng 12­1976) xác định nhiệm vụ đối  ngoại trong giai đoạn mới là phải: “ra sức tranh thủ những điều kiện quốc  tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, khôi  phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, khoa học, kỹ thuật, củng cố  quốc phòng, xây dựng cơ sở vật chất­kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nước  ta”.           Trong quan hệ với các nước, Đại hội IV chủ trương củng cố tăng  cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã  hội chủ nghĩa; bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam­Lào­ Campuchia; sẵn sàng thiết lập, phát triển quan hệ  hữu nghị  hợp tác với  các nước trong khu vực; thiết lập và mở  rộng quan hệ  bình thường giữa   Việt Nam với tất cả  các nước trên cơ  sở  tôn trọng độc lập chủ  quyền,  bình đẳng và cùng có lợi .             Từ giữa năm 1978, Đảng đã điều chỉnh 1 số chủ trương chính sách   đối ngoại  như: chú trọng củng cố, tăng cường hợp tác về  mọi mặt với   Liên Xô­coi quan hệ với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại   của Việt Nam; nhấn mạnh yêu cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt  Việt Nam­ Lào trong bối cảnh vấn đề  Campuchia đang diễn biến phức  tạp; chủ trương góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á hòa bình, tự do,  trung lập và ổn định; đề ra yêu cầu mở rộng kinh tế đối ngoại.       2.1.2.        Nội dung của đại hội V
  4.           Đại hội lầm thứ V của Đảng xác định: công tác đối ngoại phải trở  thành một mặt trận chủ động, tích cực trong đấu tranh nhằm làm thất bại   chính sách của các thế  lực hiếu chiến mưu toan chống phá cách mạng  nước ta.          Về quan hệ với các nước, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh đoàn kết và  hợp tác toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc, là chiến lược và luôn luôn là  hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; xác định quan hệ  đặc biệt Việt Nam­ Lào­ Campuchia có ý nghĩa sống còn đối với vận   mệnh của ba dân tộc; kêu gọi các nước ASEAN hãy cùng các nước Đông  Dương đối thoại và thương lượng để giải quyết các trở ngại và ổn định;  chủ trương khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc trên các cơ sở  nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình; chủ  trương thiết lập mở rộng quan hệ  bình thường về mặt nhà nước, kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật,với tất  cả các nước không phân biệt chế độ chính trị.          Thực tế cho thấy, ưu điểm trong chính sách đối ngoại của Việt Nam   giai đoạn 1975­1986 là xây dựng hợp tác toàn diện với Liên Xô và các  nước   xã   hội   chủ   nghĩa;   củng   cố   và   tăng   cường   hợp   tác   với   Lào   và  Campuchia; mở rộng quan hệ hữu nghị với các nước không liên kết và các   nước đang phát triển; đấu tranh với sự bao vây, cấm vận của các thế lực  thù địch . 2.2. Mối quan hệ của Việt Nam với các nước      2.2.1.   Quan hệ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa           Sau khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng , Việt Nam thống nhất đất  nước và đi vào xây dựng  trong hòa bình, Liên Xô tiếp tục ủng hộ và giúp  
  5. đỡ  Việt Nam  về nhiều mặt trong khôi phục, phát triển kinh tế, củng cố  quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc.          Đảng cộng sản Việt Nam đã nêu cao chủ trương đoàn kết và hợp tác  toàn diện với Liên Xô như  “ hòn đá tảng của chính sách đối ngoại” trong   đường lối đối ngoại của Đảng và nhà nước Việt Nam . Việt Nam đã tích  cực, chủ  động tăng cường quan hệ  với Liên Xô và đã tranh thủ  được sự  ủng hộ, giúp đỡ to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.          Tháng 9 năm 1975 nhân dịp tổng Bí thư  Lê Duẩn thăm chính thức  Liên Xô, hai bên đã kí 1 số hiệp định hợp tác kinh tế, theo đó Liên Xô giúp   Việt Nam xây dựng 1 số cơ sở kinh tế quan trọng như: nhà máy thủy điện   Hòa Bình, nhiệt điện Phả  Lại, nhà máy xi măng Bỉm Sơn...v..v Hợp tác  khai  thác  dầu khí  từ   đó hình thành liên doanh Việt­Xô. Pê trô  1 trong  những mũi nhọn của nền kinh tế Việt Nam. Tổng số viện trợ và cho vay   của Liên Xô cho Việt Nam năm 1975­1980 trị  giá hơn 2,4 tỷ  rúp chuyển  đổi. Tháng 5/1977, Việt Nam gia nhập ngân hàng của hội đồng kình tế  (SEV). 29/6/1978, tại cuộc họp của hội đồng kinh tế ở  Bucaret (Rumani)   Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức này. Từ đó, Việt  Nam đã gia nhập các hoạt động của SEV. Và có đại diện thường trực tại   cơ   quan   thường   trực   của   SEV   ở   Matxcova.       Ngày 3 tháng 10/1978, Việt Nam và Liên Xô kí hiệp ước hữu nghị và   hợp tác cùng với năm hiệp nghị kèm theo.        Ngày 12/5/1979, hai nước kí kết hiệp nghị liên chính phủ về việc cho   phép tàu thuyền hải quân Liên Xô được ra vào,ghé đậu và máy bay Liên  Xô được hạ  cánh  ở  Cam Ranh.Theo hiệp  định này cảng Cam Ranh là  thuộc chủ  quyền của Việt Nam; Việt Nam thỏa thuận để  Liên Xô tạm 
  6. thời được sử  dụng cảng Cam Ranh cung cấp dịch vụ  cho các tàu chiến   trong 1 thời gian nhất định vì lợi ích chung của 2 nước; Cam Ranh không  phải là 1 căn cứ quân sự.         Việt Nam gia nhập SEV và kí hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên   Xô là 1 bước ngoặc và 1 sự  phát triển mang ý nghĩa chiến lược trong  chính sách đối ngoại của Việt Nam thời kì hiện đại, tác động to lớn đến  nhiều mối quan hệ quốc tế trọng yếu và truyền thống của Việt Nam.        Sau khi hiệp ước Việt­Xô có hiệu lực, Liên Xô đẩy mạnh hợp tác và   giúp đỡ  Việt Nam trên tất cả  các lĩnh vực chính trị, kinh tế,văn hóa, giáo  dục, quân sự, khoa học, kỹ thuật đào tạo hàn vạn cán bộ , công nhân lành   nghề  và nhận hơn 10 vạn người lao đọng  ở  Việt Nam sang làm việc  ở  Liên Xô. Viên trợ  của Liên Xô cho Việt Nam trong các năm 1981­1985  tăng gấp đôi so với 5 năm trước, giá trị tương đương hơn 4,5 tỷ đô la Mỹ.  Việc trao đổi hàng hóa hàng năm giữa 2 nước phát triển thuận lợi.          Ngày 27 tháng 6 năm 1986 tổng Bí thư Lê Duẫn thăm Liên Xô, Liên  Xô quyết định tăng viện trợ  kinh tế  cho Việt Nam hơn 2 lần so với giai   đoạn 1981­1985 trị giá 8,7 tỷ rúp chuyển đổi.         Việt Nam  ủng hộ mạnh mẽ đường lối đối nội, đối ngoại của Liên   Xô, đồng thời cùng với Liên Xô phối hợp hành động và tích cực đóng góp  vào việc củng cố và tăng cường hệ thống xã hội chủ nghĩa.        Sau khi Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất, nhất là từ khi Viêt   Nam trở thành thành viên chính thức của hội đồng tương trợ kinh tế, quan  hệ giữa Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu có những bước   phát triển mới trên nhiều  lĩnh vực. Việt Nam đã kí 1 loạt hiệp  ước hữu   nghị, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, theo đó việc hợp tác trên các 
  7. lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học ,kỹ  thuật và đã được triển  khai thực hiện với những kết quả đáng khích lệ. 2.2.2.   Quan hệ với Trung Quốc          Việt Nam và Trung Quốc là 2 nước láng giềng có chung biên giới   đất liền và biển. nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc có quan hệ  hữu nghị truyền thống lâu đời, đã từng đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau  trong quá trình đấu tranh cách mạng, giữa 2 nước có nhiều nét tương  đồng.                Việt Nam luôn ghi nhớ và biết ơn sâu sắc Đảng, Nhà nước và   Nhân dân Trung Quốc về sự   ủng hộ  mạnh mẽ về chính trị  và tinh thần,  sự  giúp đỡ  to lớn và quan trọng về  vật chất trong hai cuộc kháng chiến  cứu nước của nhân dân Việt Nam và  luôn coi trọng việc gìn giữ quan hệ  láng giềng hữu nghị hợp tác với Trung Quốc.              Sau khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng, cuối tháng 9 năm 1975,  Đoàn đại biểu cấp cao của Đảng và nhà nước Việt Nam do Bí Thư  thứ  nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam Lê Duẫn dẫn   đầu, thăn Trung Quốc để  bày tỏ  sự  biết  ơn chân thành của Đảng, Nhà  nước và nhân dân Việt Nam đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung  Quốc về sự  ủng hộ và giúp đỡ to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,  cứu nước, đồng thời bàn biện pháp tiếp tục củng cố và quan hệ  giữa hai   nước. Nhân dịp này, Chính phủ Trung Quốc cam kết thực hiện các khoản  viện trợ  đã hứa cho Việt Nam trước năm 1975 để  xây dựng 111 công  trình. Tháng 10  năm  1976,  Trung  Quốc  giúp Việt  Nam  một  số  vũ   khí  phòng thủ. Năm 1977, Trung Quốc cho Việt Nam vay 900.000 tấn lương   thực.
  8.              Sau khi nổ ra xung đột biên giới Việt – Trung tại khu vực Cao   Bằng­ Lạng Sơn cuối năm 1976 và tháng 3 năm 1977 giữa lúc tình hình  biên giới phía Tây Nam của Việt Nam ngày càng căng thẳng, Việt Nam và   Trung Quốc tiến hành đàm phán về  vấn đề  biên giới Cao Lạng­ Quảng   Tây. Đoàn Trung Quốc đề  nghị  bàn biện pháp ngăn ngừa xung đột, giữ  quyền trạng trong khi chờ  chính phủ  hai nước đàm phán giải quyết vấn  đề biên giới Trung­ Việt. Đoàn Việt Nam đã yêu cầu bàn biện pháp chấp   dứt các vụ vi phạm biên giới lịch sử.             Ngày 25 tháng 7 năm 1977, Phó Thủ tướng Trung Quốc Lý Tiên   Niệm thông báo cho đại sứ  Việt Nam tại Bắc Kinh rằng Trung Quốc  đồng ý hai bên đàm phám về  vấn đề  biên giới vào hạ  tuần tháng 9 năm  1977 ở cấp thứ trưởng ngoại giao. Cuộc đàm phán đã diễn ra ba vòng: hai   vòng đầu gồm tám phiên từ  ngày 20 tháng Chín đến 2 tháng Mười hai   1977  ở  Bắc Kinh: vòng ba từ  ngày 13 đến 26 tháng Mười hai  ở  Hà Nội.  các vòng đàm phán đã không đạt kết quả.              Từ ngày 20 đến 25 tháng Mười một năm 1977, Tổng Bí thư Ban   Chấp hành Trung  ương Đảng cộng sản Việt Nam Lê Duẩn thăm Trung  Quốc. Trong cuộc hội đàm ở Bắc Kinh, hai bên bất đồng sâu sắc về  vấn  đề Campuchia.                Tháng tư 1978, Việt Nam tiến hành cải tạo công thương nghiệp   ở  thành phố  Hồ  Chí Minh. Vấn đề  người Hoa  ở  Việt Nam được Trung   Quốc nêu lên. Ngày 12 tháng Năm 1978, Trung Quốc gửi công hàm thông  báo Chính phủ Trung Quốc cắt 21 hạng mục công trình viện trợ cho Việt   Nam. Ngày 30 tháng Năm 1978, Trung Quốc tuyên bố  cắt thêm 51 hạng   mục công trình viện trợ  và ngày 3 tháng Bảy, tuyên bố  cắt toàn bộ  viện  
  9. trợ kinh tế, rút hết chuyên gia về nước. các vụ  xung đột liên tiếp diễn ra   trên biên giới Trung­ Việt.         Tháng tám 1978, Trung Quốc và Việt Nam bắt đầu đàm phán về vấn  đề người Hoa. Hai bên tiến hành bảy phiên họp nhưng không đạt kết quả.            Ngày 17 tháng Hai 1979, 60 vạn quân Trung Quốc tiến công vào sâu  Ngày 1 tháng Ba 1979, Trung Quốc đề  nghị  tiến hành đàm phán T trong   lãnh thổ  Việt Nam tại các tỉnh biên giới Bắc Việt Nam. Quan hệ  Việt   Nam­ Trung Quốc bước vào giai đoạn căng thẳng.              rung­ Việt ở cấp thứ trưởng ngoại giao để khôi phục hòa bình, an   ninh ở biên giới, tiến tới giải quyết tranh chấp về biên giới lãnh thổ, ngày   14 tháng Ba 1979, Trung Quốc rút quân khỏi Việt Nam.              Ngày 18 thánh Tư  1979, Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu đàm  phán  ở  Hà Nội, tiếp theo là vòng hai tại Bắc Kinh từ  ngày 9 tháng Sáu  1979.                Tại cuộc đàm phán này, đoàn Việt Nam đưa ra đề  nghị  về  “   những nguyên tắc và nội dung chủ  yếu cho giải pháp về  những vấn đề  trong quan hệ biên giới Việt Nam – Trung Quốc”  đề nghị nêu những biện  pháp cấp bách để  bảo vệ  hòa bình,  ổn định  ở  vùng biên giới hai nước;  khôi phục quan hệ  bình thường giữa hai nước trên cơ  sở  những nguyên   tắc cùng tồn tại hòa bình; giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ trên cơ  sở  tôn trọng đường biên giới lịch sử  do các hiệp  ước Trung­ Pháp 1887­ 1895 hoạch định.               Phía Trung Quốc đưa ra lập trường tám điểm, yêu cầu Việt Nam   công nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc, rút quân khỏi Trường  Sa, thay đổi chính sách đối với Lào­ Capuchia, nêu lên quan điểm của 
  10. Trung Quốc về  giải quyết vấn đề  Campuchia. Cuộc hợp chỉ  đạt được   việc trao trả người bị bắt. Đầu năm 1980 đàm phán đình chỉ.              Lập trường của Việt Nam trong quan hệ Trung Qu ốc đã được thể  hiện trong báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng   Cộng sản Việt Nam lần thứ  V, tháng 3 1982; “ kiên trì chính sách hữu   nghị và láng giềng tốt với nhân dân Trung Quốc, chúng ta chủ trương quan  hệ  bình thường với hai nước trên cơ  sở  các nguyên tắc cùng tồn tại hòa   bình, tôn trọng độc lập, chủ  quyền toàn vẹn lãnh thổ  của nhau và giải  quyết những vấn đề tranh chấp bằng con đường thương lượng”.               Trong vòng Bảy năm (1980­1987). Việt Nam đã 17 lần gửi công   hàm đề nghị nối lại đàm phán Việt­ Trung.                Năm 1982, tại các cuộc đàm phán giữa Liên Xô và Trung Quốc ở  cấp thứ  trưởng ngoại  giao nhằm bình thường hóa quan hệ  Xô­Trung,  Trung Quốc nêu vấn đề  quân đội Việt Nam  ở Campuchia. Cũng tại diễn  đàn này, trong các năm 1983­1984, Trung Quốc luôn nêu ba trở ngại: Liên  Xô ở biên giới Xô­ Trung, quân Liên xô ở Apganixtan và việc Liên Xô tiếp   tục ủng hộ quân đội Việt Nam tại Campuchia, và nhấn mạnh trở ngại thứ  ba là quan trọng nhất.             Phối hợp với diễn đàn đàm phán Liên Xô­Trung Quốc, Việt Nam   thông báo cho Liên Xô lập trường của Việt Nam về  vấn đề  Campuchia,  về  quan hệ Việt Nam­ Trung Quốc và đề  nghị  Việt Nam và Trung Quốc  trực tiếp đàm phán các vấn đề liên quan đến hai nước. 2.2.3.    Quan hệ với Lào và Campuchia           2.2.3.1.   Quan hệ với Lào
  11.             Trong thời kì 1975,1985, quan hệ  hữu nghị  và hợp tác giữa Việt   Nam và Lào phát triển mạnh mẽ. Hai nước đã kí 1 loạt các văn kiện hợp   tác toàn diện như: Tuyên bố chung , Hiệp ước hữu nghị và hợp tác. Hiệp  ước về hoạch định biên giới và Hiệp định hợp tác kinh tế ngày 18/7/1977.   Đây là cột mốc quan trọng nâng cao quan hệ Việt­ Lào lên tầm cao mới.         2.2.3.2.   Quan hệ với Campuchia                          Khác với mối quan hệ  Việt ­Lào   trong quan hệ  Viêt Nam­   Campuchia sau năm 1975 xuất hiện nhiều yếu tố phức tạp. Ngay sau khi   giải phóng Phnom Penh (4.1974), các nhà lãnh đạo cấp cao của Đảng và  nhà nước Campuchia đã phủ nhận sự thật lịch sử, thậm chí đổi trắng thay   đen, vu cáo Việt Nam xâm lược, muốn làm cho Camphuchia trở thành “nô  lệ của Việt Nam”. Đây là một âm mưu đối ngoại lớn đi song song với kế  hoạch   diệt   chủng   bên   trong   của   các   nhà   lãnh   đạo   đảng   cộng   sản   Campuchia, làm cho mối quan hệ giữa hai nước ngày càng căng thẳng và  ngay nên tình trạng bất ổn liên tục ở biên giới Tây Nam nước ta .            Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc thắng   lợi trên bán đảo Đông Dương, chính quyền Campuchia dân chủ do Pol Pot   (Pôn Pốt) cầm đầu thực hiện chính sách diệt chủng đối với đồng bào của   họ,  đồng thời tiến hành những hành động phiêu lưu quân sự  chống Việt  Nam.            Ngày 1.5.1975 , tập đoàn Pol Pot đã dùng lực lượng quân sự  tấn   công,  xâm phạm lãnh thổ  Việt Nam từ Hà Tiên đến Tây Ninh, tiến hành   giết hại Việt kiều trên đất Campuchia. Sau những sự  kiện nghiêm trọng  đó, hai bên nhiều lần trao đổi những đoàn đại biểu cấp cao của Đảng và  Nhà nước để  thảo luận các vấn đề  liên quan đến biên giới. tuy vậy, từ 
  12. năm 1977, quan hệ  giữa hai bên ngày càng xấu đi do những hành động   xâm lấn tăng cường của phía Campuchia.           Trung tuần tháng 12.1978, chính quyền Pol Pot tập trung 19 trong   tổng số  25 sư  đoàn chủ  lực tấn công Việt Nam  ở  khu vực biên giới Tây  Nam. Ngày 25.12.1978, đáp lại lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc  cứu   nước   Campuchia   được   thành   lập   vào   ngày   2.12.1978,   do   ông  Hensomring làm chủ  tịch, các lực lượng quân đội Việt Nam đã phối hợp   với các lực lượng vũ trang của Mặt trận phản công. Ngày 7.1.1979, liên   quân tiến vào giải phóng Phnom Penh.         Phản  ứng quốc tế đối với việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia   không thuận lợi cho Việt Nam. Chỉ  có Liên Xô, Lào và các nước xã hội  chủ  nghĩa ở Đông Âu ra tuyên bố  ủng hộ. Mỹ, Trung Quốc, các quốc gia   ASEAN..v..v.. ra tuyên bố  lên án Việt Nam xâm lược, nhiều thế  lực thù  địch lợi dụng con bài Campuchia, ra sức chống phá và cô lập Việt Nam  trên trường quốc tế, thực hiện chính sách bao vây cấm vận nhằm làm suy   yếu và tạo sức ép với Việt Nam.           Theo yêu cầu của Chính phủ  Cộng hòa Nhân dân Campuchia, Việt   Nam để lại một  lực lượng quân tình nguyện giúp nhân dân Campuchia ổn   định tình hình và xấy dựng lại đất nước. Hai nước đã kí hiệp  ước hòa   bình, hữu nghị và hợp tác vào 2.1979.           Từ năm 1982, hàng năm một  bộ phận quân tình nguyện Việt Nam ở  Campuchia được rút về nước.Song các nước ủng hộ chính quyền ba phái (   lực lượng Pol Pot liên kết với phái Hoàng gia và phái Son San thành lập   vào tháng 6.1981) vịn vào việc Việt Nam đóng quân tại Campuchia để  thực hiện chính sách cấm vận và các hoạt động chống phá Việt Nam. Họ 
  13. đòi Việt Nam rút quân khỏi Canpuchia như  một điều kiên tiên quyết cho  một giải pháp về vấn đề chính trị ở Campuchia, cho việc bình thường hóa  và cải thiện quan hệ giữa họ và Việt Nam.           Từ đầu năm 1985, tình hình có nhiều chuyển biến mới. xu hướng   hòa hoản phát triển mạnh trên thế giới. Các nước lớn liên quan như  Liên  Xô, Trung Quốc, Mỹ không muốn cuộc xung đột Camphuchia kéo dài, làm  ảnh hưởng đến việc triển khai quan hệ giữa họ với nhau và giữa họ  với  khu vực Đông Nam Â.5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp  quốc thành lập nhóm p5 về vấn đề Campuchia. Tuy vậy do tính chất phức  tạp   nên   trải   qua   nhiều   năm.   Nhiều   cuộc   hội   nghị,   đàm   phán,   vấn   đề  Campuchia mới được giải quyết triệt để. Còn trong những năm cuối thập   kỷ 1980, đây vẫn là một trong những điểm nóng thu hút sự quan tâm, dính   liếu của nhiều nước trên thế giới. 2.2.4.    Quan hệ với các nước Đông Nam Á khác           Ngay sau năm 1975 các nước Đông Nam Á có nhiều nguy ngại trong   quan hệ với Việt Nam, họ lo sợ Chủ nghĩa Cộng sản đối với đất nước họ  , họ lo sợ học thuyết Domino của Mỹ sẽ  ứng nghiệm. trong bối cảnh đó   tháng 1.1976, Hội nghị ngoại giao lần thứ 12 của nước Việt Nam dân chủ  cộng hòa đã đưa ra tuyên ngôn về  hoạt động đối ngoại của Việt Nam,   trong đó có nhiệm vụ  “phấn đấu cho một Đông Nam Á độc lập, hoà bình,   trung lập, không có quân đội và căn cứ của đế quốc.            Đến tháng 7.1976, bộ trường ngoại giao Nguyễn Duy Trinh đưa ra   chính sách ngoại giao 4 điểm của nước ta đối với các nước Đông Nam Á .  Nội dung của tuyên bố này phù hợp với những nguyên tắc của Hiệp ước  Bali nên được các nước ASEAN hoan nghênh. Trên cơ sở đó quan hệ Việt 
  14. Nam với các thành viên ASEAN trước khi phát sinh vấn đề Campuchia đã  từng bước cải thiện, chuyễn dần từ quan hệ đối đầu căng thẳng sang đối  thoại và xúc tiến bình thường hóa. Việt Nam lần lượt thiết lâp quan hệ  ngoại giao với các nước ASEAN. Bộ  trưởng bộ  ngoại giao Việt Nam   Nguyễn Duy Trinh, sau đó là thủ tướng Phạm Văn Đồng lần lượt đi thăm  các nước ASEAN vào 12.1977 và 9.1978.                    Tuy nhiên, từ  cuối năm 1978,  ở  Đông Nam Á xuất hiện những   luồng gió ngược chiều khi xung đột biên giới Campuchia­ Viêt Nam bộc  lộ công khai. Khi quân đội Việt Nam vượt qua biên giới tràn qua lãnh thổ  Campuchia giải phóng thủ  đô Phom Penh theo lời kêu gọi của Mặt trận   Dân tộc Đoàn kết cứu nước Campuchia ( 12.1978), các nước ASEAN  lo  ngại chiến tranh có thể lan rộng sang Thái Lan và có thể kéo họ vào cuộc  xung đột khu vực, nên quan hệ  giữa các nước này và Việt Nam trở  nên  căng thẳng, đối đầu kéo dài hơn một thập kỷ về vấn đề Campuchia. Đông  Nam  Á bị  phân thành hai nhóm nước, nhóm ba nước  Đông Dương và  nhóm nước thành viên ASEAN. 2.2.5. Quan hệ với các nước dân tộc chủ nghĩa và không liên kết           Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược 1975, Việt   Nam có uy tín lớn trong các nước dân tộc chủ  nghĩa và không liên kết và  đã tích cực tham gia hoạt động nhằm góp phần phát huy vai trò tích cực  của phong trào không liên kết trong cuộc đấu tranh chống chủ  nghĩa đế  quốc và chủ  nghĩa thực dân, vì hòa bình, độc lập và chủ  quyền của các  dân tộc.               Trong giai đoạn này, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao   với nhiều nước thế giới thứ ba: Nê Pan, Mianma ( từ Tổng lãnh sự lên đại 
  15. sứ   quán   ),   Mandivo,   Côoét,   Thổ   Nhĩ   Kỳ,   Gioocdani,   Li   Băng,   A   Rập,   Xarauy,   Xây   Sen   (   Xri   Lanka),   Dimbabue,   Sát,   Xie   Raleon,  Guyana,GaBông,   TôGô,   Nigie,   Li   Bi,   Mô   dăm   bích,   Capve,   Ruanđa,  Côtđivoa, Ăng gô la, Êtiopia, Nigieria, Xao Tô mê và Prin xi pe, Mê Hi  Cô,Panama,Giamaica,   Cotxta   Rica,   Cô   lôm   bi   a,   Grenada,Nicaragoa,  Êcuadoa.                 Trong các năm 1978­1980, các đoàn chính thức do phó chủ  tịch   nước Nguyễn Hữu Thọ và Đại Tướng Võ Nguyên Gíap dẫn đầu đã thăm  19   nước   trung   đông­   Châu   Phi.Một   số   nguyên   thủ   quốc   gia   như   tổng   thống Ghinê  xích  đạo  (  1977  ),  Xây xen  (1980),  chủ  tịch  MôDămBích  (1984) đã sang thăm Việt Nam .             Với Ấn Độ và một số nước Arập tiến bộ có tiềm lực kinh tế, Việt   Nam đã phát triển quan hệ hợp tác, tranh thủ vốn, vay dầu và lương thực,  đồng thời học hỏi kinh nghiệm của họ trong vấn đề hợp tác khai thác dầu  khí.          Số vốn tranh thủ được từ khu vực này từ năm 1976­1980 là 1,036 tỷ  đô la Mỹ, trong số này khoảng 80 triệu là viện trợ  không hoàn lại và 956   triệu đô la là vốn vây  ưu đãi; trong đó các nước Arập cho vay 913 triệu,   riêng Irắc trên 513 triệu đô la Mỹ, viện trợ  không hoàn lại 40 vạn tấn  dầu, 5 triệu đô la tiền mặt và 200 máy kéo; Li Bi cho vay dầu thô trị  giá   102,7 triệu đô la Mỹ; Angieri cho vay dầu thô trị giá 253,6 triệu đô la Mỹ,  Côoet cho vay tiên mặt với điều kiện  ưu đãi 53 triệu đô la Mỹ  để  Việt  Nam xây dựng 1 số công trình cơ sở hạ tầng.            Trong thời gian Mỹ và 1 số  nước phương tâu thi hành chính sách   bao vây, cấm vận đối với Việt Nam, nhiều nước dân tộc chủ nghĩa, nhiều 
  16. nước thành viên Phong trào Không Liên kết vẫn duy trì quan hệ  tốt với  Việt Nam, đặc biệt là Ấn Độ, Irắc, Angiêri  ,Li Bi..v..v..          Tại các diễn đàn quốc tế quan trọng như hội nghị cấp cao không liên   kết lần thứ năm 1976 tại Côlômbô ( Xri Lanka), hội nghị cấp cao lần thứ  sáu năm 1979 tại LaHaBaNa và hội nghị cấp cao lần thứ bảy năm 1983 tại  NiuĐêLi, Việt Nam đã tích cực và chủ động phối hợp với các nước thành  viên tích cực của phong trào nhằm thực hiện các mục tiêu của phong trào  và có lập trường đúng đắn, trong vấn đề CamPuChia  2.2.6.       Quan hệ với các nước Tư Bản và các Tổ chức quốc tế                  Trong thời gian từ năm 1976 đến 1986, Việt Nam đẩy mạnh  quan hệ  với các nước TBCN, thiết lập các cơ  quan đại diên ngoại giao  Nhật Bản, Canada, CH Liên Bang Đức, Ôxtraylia.           Từ năm 1976 đến trước khi xảy ra vấn đề Campuchia, nhiều đoàn   cấp cao của Việt Nam  đi thăm các nước Tây Âu, Bắc Áu, Nhật Bản   nhằm mở ra quan hệ kinh tế, thương mại, văn hóa, khoa học kỹ thuật với   các nước thuộc khu vực này. Thủ  tướng Phạm Văn Đồng thăm Pháp ,  Phần Lan và Đan Mạch năm 1977. Đây là thời kì Việt Nam vay được vốn  và tranh thủ được viện trợ không hoàn lại, viện trợ nhân đạo, thiết bị kỹ  thuật của 1 số nước tư bản phương tây. Trong thời gian 1976 ­1980, Việt   Nam đã tranh thủ  từ  các nước này 2,263 tỷ  đô la Mỹ, trong đó 54 phần  trăm là cho vay, 46 phần trăm là viện trợ không hoàn lại. Chỉ tính riêng các  nước Bắc Âu , từ sau năm 1975 đến cuối 1978, đã dành cho Việt Nam 612  triệu đô la Mỹ, trong đó 91 phần trăm là viện trợ  không hoàn lại. Thụy   Điển và Pháp nằm trong số những nước viện trợ quan trọng. Việt Nam đã  kí kết nhiều hiệp định hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ  thuật với  
  17. nhiều nước Tây Âu và Bắc Âu như Pháp, Thụy Điển, Bỉ và các hợp đồng   khai thác dầu khí với các công ty dầu khí lớn của Pháp, Đức, Italia.          Trong thời gian chiến tranh, Việt Nam đã có quan hệ  với nhiều tổ  chức quốc tế. Từ  sau ngày giải phóng, Việt Nam đã tham gia 33 tổ  chức  quốc tế  và 19 điều  ước quốc tế. Năm 1977, Việt Nam chính thức gia  nhập Liên Hợp quốc.         Sau khi nổ ra cuộc khủng hoảng Campuchia, từ giữa năm 1979 quan   hệ  kinh tế  giữa Việt Nam và các nước TB phát triển ngày giảm sút hẳn;  đối với một số nước quan hệ trở nên băng giá.Ngân hàng thế giới và Ngân   hàng Châu Á cũng ngừng cấp vốn cho Việt Nam.      Tuy nhiên, quan hệ của Việt Nam với 1 số tổ chức quốc tế vẫn được  duy trì và có những lĩnh vực được đẩy mạnh. Từ  năm 1977­1986, hệ  thống phát triển Liên Hợp Quốc đã viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam   527,9 triệu đô la Mỹ, trong đó phải kể  đến chương trình lương thực thế  giới (WFP) với 253 triệu đô la Mỹ ..v..v..     Sự  tham gia và hợp tác của Việt Nam với các tổ  chức thuộc hệ  thống   phát triển của Liên Hợp Quốc thời kì này đã góp phần giải quyết nhiều  vấn đề kinh tế­ văn hóa và khoa học kỹ thuật, đáng chú ý là: 1. Giúp khắc phục một phần những khó khăn về  kinh tế, xã hội do  chiến tranh để  lại; hỗ  trợ  giải quyết các vấn đề  phát triển và xã  hội, nhất là lĩnh vực giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng,  bảo vệ bà mẹ trẻ em và kế hoạch hóa gia đình, cung cấp nước sạch   và đảm bảo vệ sinh công cộng. 2. Thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao trình độ công nghệ ở  Việt Nam. Thời kỳ  này có 104 viện nghiên cứu của Việt Nam có 
  18. quan hệ hợp tác với các tổ chức của Liên Hợp  Quốc trên các lĩnh  vực năng lượng, công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, thăm dò  địa chất, luyện kim, nông lâm thủy sản. khoảng 5 nghìn lượt cán bộ  khoa học kỹ thuật đã được cử đi đào tạo và khảo sát ở nước ngoài;  hàng chục nghìn người đã được tập huấn kỹ  thuật ngắn hạn theo   dự án. 3. Góp phần phục hồi, xây dựng mới một số  cơ  sở  sản xuất, tăng  cường năng lực phát triển. Từ năm 1977­1986, Chính phủ Việt Nam  đã  cùng chương trình lương thực thế giới triển khái một số dự  án  quan trọng. Nguồn vốn của chương trình phát triển của Liên Hợp  Quốc được sử  dụng vào các lĩnh vực công nghiệp. nguồn vốn này  cũng đã được sử dụng để triển khai những chương trình, dự án kinh  tế  có tính vĩ mô như  quy hoạch tổng thể, tổng quan vùng kinh tế,  góp phần giúp Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới được khởi  sướng từ năm 1986.        Trong các hậu quả  nặng nề  do chiến tranh để  lại, những người  Việt   Nam   “di   tản”   hay”những  người   ra  đi   bất   hợp  pháp”,   “thuyền   nhân” là vấn đề  đã bị  một sô thế  lực thù địch với Việt Nam lợi dùng   hòng gây khó khăn cho Việt Nam ở trong nước và trên Quốc Tế.        Sau ngày 30/4/1975, dòng người ra đi bất hợp pháp diễn ra  ồ   ạt   trong những năm 1978­1979 dòng người ra đi bất hợp pháp tăng lên.  Hầu hết những người di tản đều đi bằng thuyền tới các nước lân cận  Việt Nam do đó được thế giới gọi là “thuyền nhân”, sau đó phần lớn đi  sang Mỹ, một số sang các nước phương Tây khác. Nguyên nhân chính  là các thế  lực thù địch kích động dòng người Việt Nam ra đi bất hợp  
  19. pháp nhằm làm giảm uy tín quốc tế của Việt Nam, làm cho Việt Nam   mất  ổn định về  chính trị­ xã hội, phá hoại đoàn kết dân tộc, gây bất   hòa giữa Việt Nam với các nước láng giềng, là nơi tạm trú đầu tiên  của những người ra đi bằng thuyền. Cũng có người ra đi với hy vọng   sẽ có được cuộc sống kinh tế khá hơn ở nước ngoài.    Chính phủ Việt Nam coi vấn đề người di tản là vấn đề nhân đạo và   chủ trương giải quyết vấn đề đó trên tinh thần nhân đạo, đồng thời đã  tiến hành nhiều biện pháp tích cực, chủ động ngăn chặn dòng người di  tản và chống lại những âm mưu tổ chức đưa người Việt Nam ra đi bất   hợp pháp, tăng cường biện pháp tuyên truyền và tổ  chức cho người   xuất cảnh hợp pháp.Chính Phủ  Việt Nam đã hợp tác có hiệu quả  với  cơ  quan Cao  ủy liên Hợp quốc về người tị  nạn ( HCR) và tổ  chức di   cư quốc tế ( IOM). Theo một  hiệp định ký  ngày 11­6­1975 giữa Việt   Nam và HCR ,  cơ quan về người tị  nạn của Liên Hợp Quốc được lập   một phái đoàn đại diên tại Hà Nội với chức năng chủ  yếu là súc tiến   sự  giúp đở vật chất cho những người di chuyển do chiến tranh  ở Việt   Nam .        Ngày 30­5­1979, Viêt Nam và HCR kí bản ghi nhớ  bảy điểm để  phối hợp tổ chức xuất cảnh có trật tự, gọi là chương trình ODP. Trong  vòng 10 năm ( từ  1980­1990)  đã có 243.995 người được xuất cảnh  thông qua chương trình ra đi có trật tự. Ngày 3/12/1988, hai bên đã kí  thỏa thuận về việc tổ chức hồi hương  những người tự nguyện  trở về  từ các nước cho tạm trú.       Việc giải quyết cho một số người ra đi bất hợp pháp trở về là vấn  đề rất phức tạp, mang tính nhân đạo, nhân quyền và chủ quyền của  
  20. các quốc gia. Do tính chất phức tạp đó nhà nước Việt Nam đã đàm  phán với Cao  ủy Liên Hợp Quốc về người tỵ nạn (HCR),  tổ chức  di cư quốc tế (IOM), liên minh Châu Âu và các nước liên quan  như  Canada, Mỹ, Hà Lan, Đức, một số nước ASEAN để giải quyết vấn  đề   hồi   hương   trên   cơ   sở   vừa   đáp   ứng   được   nguyện   vọng   của  những người Việt Nam ra đi bất hợp pháp tự  nguyện trở  về  Tổ  quốc để đoàn tụ  gia đình, làm ăn, sinh sống, đồng thời tháo gỡ  các  trở ngại, thúc đẩy bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam với các  nước   liên   quan.Đồng   thời,   Việt   Nam   kiên   quyết   phản   đối   việc  cưỡng bức hồi hương dưới bất cứ hình thức nào.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2