Tiểu luận môn Tiếng Việt thực hành: Hiện tượng từ vay mượn trong Tiếng Việt
lượt xem 31
download
Tiểu luận nhằm giúp người đọc hiểu được nguồn gốc, vai trò xuất hiện của từ thuần Việt và từ vay mượn trong tiếng Việt. Làm rõ vai trò của từ thuần Việt và từ vay mượn trong ngôn ngữ tiếng Việt; làm rõ vai trò của từ thuần Việt và từ vay mượn trong ngôn ngữ tiếng Việt.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận môn Tiếng Việt thực hành: Hiện tượng từ vay mượn trong Tiếng Việt
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TIỂU LUẬN KẾT THÚC MÔN HỌC ĐỀ TÀI: HIỆN TƯỢNG TỪ VAY MƯỢN TRONG TIẾNG VIỆT Môn học: Tiếng Việt Thực Hành Giảng viên hướng dẫn: Nhóm sinh viên thực hiện:
- HỌC KỲ II – NĂM HỌC: 2018 2019 TP. Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 05 năm 2019
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TIỂU LUẬN KẾT THÚC MÔN HỌC ĐỀ TÀI: HIỆN TƯỢNG TỪ VAY MƯỢN TRONG TIẾNG VIỆT Môn học: Tiếng Việt Thực Hành Giảng viên hướng dẫn: Nhóm sinh viên thực hiện:
- HỌC KỲ II – NĂM HỌC: 2018 2019 TP. Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 05 năm 2019
- MỤC LỤC 5
- LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài "Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc”. (Chủ tịch Hồ Chí Minh). Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có gốc nguồn xa xưa nhất trên hoàn cầu. Tiếng nói của người Việt Nam đã được hình thành và phát triển qua hàng ngàn năm gắn liền với lịch sử dân tộc. Nhờ được sinh sống trên đất Tổ, người Việt Nam ngày xưa đã có thể hình thành được một ngữ hệ dân tộc vững chắc, hòng sau đó tuy bị gần ngàn năm Bắc thuộc, vẫn bảo tồn được tiếng nói của mình. Sau ngàn năm tiến hoá, tiếng Việt đã hoàn thiện mình với những gì nó vốn có và những gì học hỏi được từ những ngôn ngữ khác. Nhu câu giao tiêp gi ̀ ́ ưa nh ̃ ưng ̃ ngươi noi cac ngon ng ̀ ́ ́ ̂ ữ khac nhau đa khiên cho yêu tô cua ngon ng ́ ̃ ́ ́ ́ ̉ ̂ ữ nay xuât hi ̀ ́ ện ̂ ư kia va ngu trong ngon ng ̃ ̀ ̛ơc lai. ̣ ̣ Hiện tượng vay mượn từ trong tiếng Việt không còn là hiện tượng mới nhưng vẫn luôn là vấn đề nhức nhối thường trực đối với người Việt Nam. Trong quá trình giao lưu ngôn ngữ, người Việt tiếp thu được rất nhiều lợi ích nhưng điều này cũng đặt ra những thách thức đối với việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Hiểu được điều đó, nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài hiện tượng vay mượn từ ngữ trong tiếng Việt để làm rõ sự Việt hoá từ mượn, nhu cầu, nguồn gốc của từ mượn trong tiếng Việt và lợi ích của nó cũng như thực trạng đáng lo ngại của hiện tượng chêm xen từ ngữ. Từ đó chúng ta sẽ có ý thức hơn về việc sử dụng từ mượn có chọn lọc và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. 2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: từ thuần Việt và từ vay mượn trong tiếng Việt. 3. Mục đích nghiên cứu 6
- Giúp người đọc hiểu được nguồn gốc, vai trò xuất hiện của từ thuần Việt và từ vay mượn trong tiếng Việt. Làm rõ vai trò của từ thuần Việt và từ vay mượn trong ngôn ngữ tiếng Việt. Làm rõ cách sử dụng của từ thuần Việt và từ vay mượn trong ngôn ngữ tiếng Việt. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp phân tích tổng hợp. Phương pháp logic, thống kê. Sưu tầm tài liệu và sắp xếp theo mục tiêu đề tài. Truy cập internet. 7
- CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT HIỆN TƯỢNG TỪ VAY MƯỢN TRONG TIẾNG VIỆT 1.1 Khái niệm Căn cứ vào nguồn gốc của các từ, các nhà nghiên cứu chia từ vựng tiếng Việt thành hai lớp: từ thuần Việt và từ mượn hay còn gọi là từ ngoại lai. Từ mượn (hay còn được gọi là từ vay mượn, ngoại lai) là những từ vay mượn của nước ngoài (đặc biệt là tiếng Hán) được nhập vào ngôn ngữ của ta để biểu thị sự vật, hiện tượng, đặc điểm… mà tiếng Việt chưa có từ thích hợp để biểu thị nhằm tạo sự phong phú cho ngôn ngữ. Từ mượn là từ vay mượn từ tiếng nước ngoài (ngôn ngữ cho) để làm phong phú thêm cho vốn từ vựng của ngôn ngữ nhận. Gần như tất cả các ngôn ngữ trên thế giới đều có từ mượn, vì một ngôn ngữ vốn dĩ không có đủ vốn từ vựng để định nghĩa cho tất cả các khái niệm và việc chuyển ngữ từ vựng từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác để là xu thế tất yếu trong quá trình hội nhập của một nền văn hóa. Tuy nhiên, việc tạo mới và sử dụng các từ mượn cũng cần hết sức quan tâm để tránh làm mất đi bản sắc ngôn ngữ nhận, đánh mất sự đa dạng của ngôn ngữ; để tránh điều đó chỉ nên sử dụng từ mượn trong một ngôn ngữ khi ngôn ngữ đó không có từ thay thế hoặc từ thay thế quá dài và phức tạp (Theo WikipediA Bách khoa toàn thư mở). Từ mượn xuất hiện trong một ngôn ngữ khi từ đó được nhiều người nói ngôn ngữ đó sử dụng và mang một ý nghĩa nhất định. Trong tiếng Việt có rất nhiều từ mượn có nguồn gốc từ tiếng Hán (từ Hán Việt gốc Trung Quốc và từ HánViệt gốc Nhật), tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga... Ví dụ: 8
- Từ thuần Việt: cưới nhau, đàn bà, người già Từ HánViệt: hôn nhân, phụ nữ, phụ lão Từ mượn tiếng Pháp: ba tê (tiếng Pháp: pâté), bánh ga tô (gâteau), bia (bière), bít tết (bifsteck), bơ (beurre), búp bê (poupée), ghita (guitare)… Từ mượn tiếng Anh: intơnét (tiếng Anh: internet), láptóp (laptop), xe gíp (jeep), oẳn tù tì (one two three), sănquích (sandwich)… Từ mượn tiếng Nga: Bônsêvích (Đảng Bolshevik của Nga), Mácxít ( Marksist), Xôviết (Soviet)… 1.2 Nhu cầu sử dụng từ vay mượn trong tiếng Việt Như chúng ta đã biết tiếng Việt trong giai đoạn hiện nay chứa đựng nhiều từ ngữ giống nhau hoặc tương tự với từ ngữ trong nhiều thứ tiếng khác nhau như: tiếng Mường, tiếng Thái, tiếng TàyNùng, tiếng Bana, tiếng Gialai, tiếng Êđê, tiếng Hán, tiếng Pháp, tiếng Nga… Từ mượn giúp làm phong phú thêm cho vốn từ vựng của ngôn ngữ nhận. Trong một số trường hợp, một ngôn ngữ buộc phải dùng từ mượn do không có từ tương đương thay thế hoặc do sự tiện lợi, phổ biến của từ mượn. Từ mượn góp phần làm cho kho tàng từ ngữ tiếng Việt trở nên đa dạng, phong phú hơn, dễ hiểu, sinh động và trực quan hơn. Theo thống kê của H. Maspéro, vào năm 1972 thì có hơn 60% từ Việt có gốc Hán. Tiếng Việt thời kì đầu còn thiếu rất nhiều từ, nhất là trong các lĩnh vực văn hóa, văn học – nghệ thuật, luật pháp, chính trị, kinh tế, quốc phòng, giáo dục. Để bổ sung những từ còn thiếu, người Việt một mặt đã tạo ra một số từ mới trên cơ sở các nguyên tắc cấu tạo từ tiếng Việt, song mặt khác cũng đã vay mượn một số lượng lớn từ ngữ tiếng Hán. Việc vay mượn các từ ngữ tiếng Hán đã diễn ra trong một thời gian rất dài, ngay từ khi tiếng Việt còn chưa trở thành ngôn ngữ độc lập. Do được sử dụng nhiều nên từ ngữ tiếng Việt thường có đặc điểm của từ ngữ giao tiếp hàng ngày. Điều đó làm cho chúng không thể dùng để biểu thị các sắc thái nghĩa trang trọng hay khái quát. Để khắc phục tình trạng này, tiếng Việt vay mượn một số từ ngữ tiếng Hán có 9
- nghĩa cơ bản giống với từ tiếng Việt nhưng được bổ sung thêm một sắc thái nghĩa khác. Điều này làm xuất hiện những cặp từ đồng nghĩa, trong đó từ thuần Việt và từ HánViệt chỉ có sắc thái nghĩa khác nhau. Ví dụ: Từ thuần Việt gây cảm giác thô tục, ghê sợ hoặc đau đớn còn từ HánViệt tạo cảm giác lịch sự, trung hòa. Ví dụ: Từ thuần Việt: chảy máu, chết, nôn Từ HánViệt: xuất huyết, từ trần, thổ Nước Việt Nam từng là thuộc địa của Pháp nên tiếng Pháp có điều kiện du nhập vào Việt Nam. Trong quá trình giao lưu văn hóa và ngôn ngữ đó người Việt đã vay mượn nhiều từ gốc Pháp để chỉ những khái niệm mà thường thì trong tiếng Việt không có. Phần lớn các từ đó đã bị thay đổi cả về cách đọc lẫn chữ viết để phù hợp với đặc trưng của tiếng Việt, vốn là ngôn ngữ không biến hình và đặc biệt trong thời gian gần đây là tiếng Anh. Tiếng Việt mượn khá nhiều từ tiếng Anh trong ẩm thực, thể thao và giải trí. Bởi vì tiếng Anh được coi là ngôn ngữ giao tiếp quốc tế. Ngoài ra ở Việt Nam tiếng Anh còn là ngôn ngữ bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông và cũng là ngoại ngữ được sử dụng rộng rãi. Vì thế dù nhiều từ đã có từ thuần Việt nhưng mọi người vẫn quen sử dụng từ mượn tiếng Anh. Trong xu thế chung như giai đoạn hiện nay thì sự tiếp xúc ngôn ngữ đang ngày càng phát triển sâu rộng trên nhiều mặt của đời sống kinh tế chính trị xã hội nên các từ mượn không chỉ dừng lại ở các thuật ngữ chuyên ngành mà còn rất đa dạng và phong phú bởi các từ liên quan đến đời sống bình thường phục vụ cho nhu cầu giao tiếp hàng ngày (ẩm thực, trang phục, giải trí, tình cảm…). Vì vậy, “có thể coi các từ vay mượn là các kí hiệu ngôn ngữ xã hội” vì các từ lúc này “Phản ánh những biến động trong xã hội của ngôn ngữ đi vay” (Nguyễn Văn Khang, Từ ngoại lai trong tiếng Việt, 2007). Điều đó giúp thể hiện rõ ràng hơn về tình hình phát triển của xã hội Việt Nam hiện nay. Điển hình như nước việc sử dụng tiếng Anh phổ biến hơn trong xã hội ngày nay cho thấy nước Việt Nam ta cũng đang trên đà hội nhập quốc tế để phấn đấu trở thành một nước CNHHĐH. Tuy nhiên, mỗi 10
- một người Việt Nam cần phải học cách sử dụng từ vay mượn nước ngoài sao cho thật hay, thật hợp lí, mang lại hiệu quả cao nhất trong diễn đạt ngôn ngữ mà không làm mất đi sự trong sáng thuần túy của tiếng Việt. 11
- 1.3 Sự việt hóa từ mượn Cũng giống như những ngôn ngữ khác, hiện tượng tiếp nhận từ ngữ của một ngôn ngữ vào tiếng Việt không diễn ra một cách đơn giản mà các từ mượn phải chịu sự biến đổi theo quy luật của tiếng Việt. Quá trình đồng hoá các từ ngoại lai diễn ra trên cả bốn mặt là ngữ âm, chữ viết và ngữ nghĩa. 1.3.1 Việt hóa ngữ âm Về mặt ngữ âm, hệ thống ngữ âm của tiếng Việt được hình thành dần dần trên cơ sở phương ngữ Bắc Bộ với sự bổ sung thêm một số yếu tố của các phương ngữ khác. Vì thế, đứng trước những biến thể địa phương, cần lựa chọn biến thể nào phù hợp với hệ thống ngữ âm chuẩn của tiếng Việt. Chẳng hạn, giữa các biến thể dô và vô, nhâng dâng và nhân dân, dĩa và đĩa, gáo và gạo,... thì vô, nhân dân, đĩa, gạo,... là chuẩn. Khi các địa phương dùng các từ khác nhau để chỉ cùng một sự vật, hiện tượng thì từ của phương ngữ Bắc Bộ được coi là chuẩn. Chẳng hạn, giữa các từ mô và đâu, nỏ và không, chộ và thấy,... thì các từ đâu, không, thấy là chuẩn. Thực tế, chuẩn ngữ âm hình thành dần dần, không thể đòi hỏi các địa phương trong cả nước phát âm các từ thống nhất ngay được. Tuy nhiên, không thể coi nhẹ vấn đề chính âm. Vai trò của nhà trường và các phương tiện thông tin đại chúng là vô cùng quan trọng trong vấn đề này. Cách phát âm của các từ mượn cần phải phù hợp với hệ thống ngữ âm tiếng Việt, những âm mà tiếng Việt không có hoặc có nhưng xuất hiện ở những vị trí bất thường, trái với ngữ âm tiếng Việt sẽ bị biến đổi thành các âm tiếng Việt có cách phát âm gần giống hoặc bị bỏ qua, không chuyển đổi thành âm tiếng Việt nào. Ví dụ: poupée: búp bê; équipe: ê kíp. Tiếng Việt gọi sự chuyển đổi ngữ âm này là "phiên âm". Tiếng Việt không có các tổ hợp phụ âm nên khi được phiên âm sang tiếng Việt các tổ hợp phụ âm sẽ bị loại bỏ theo các cách sau: 12
- Âm tiết hóa các phụ âm cấu thành nên các tổ hợp phụ âm đó. Nguyên âm thêm vào để tạo thành âm tiết thường là "ơ". Ví dụ: địa danh tiếng Pháp "Genève" /ʒə.nɛv/ được phiên âm là "Giơnevơ", phụ âm /v/ được âm tiết hóa thành "vơ". Bỏ qua một bộ phận của tổ hợp phụ âm. Ví dụ: từ tiếng Pháp "gramme" /gram/ được phiên âm là "gam", phụ âm /r/ trong phụ âm kép /gr/ bị bỏ qua. Áp dụng đồng thời cả hai cách trên. 1.3.2 Việt hóa chữ viết Về mặt chữ viết, chữ quốc ngữ là cơ sở tốt để thống nhất chính tả giữa các vùng. Ngôn ngữ trước hết là để nói, nhưng trong thực thế giao lưu văn hoá và xã hội ngày nay, chữ viết có một tác dụng quyết định đối với cuộc sống. Vì thế, chuẩn chính tả là cơ sở để bảo đảm và củng cố tính thống nhất của ngôn ngữ. Người miền Nam có thể nói coong cháo, nhâng dâng, gất... nhưng khi viết thì phải viết con cháu, nhân dân, rất…Người miền Bắc có thể phát âm lẫn lộn châu với trâu, nồi với lồi, xung với sung…nhưng khi viết thì phải viết con trâu, châu báu, xung đột, bổ sung, lồi lõm, cái nồi…Trong việc chuẩn hoá từ vựng tiếng Việt, cần lưu ý ba mảng khác nhau: các từ thông thường, các tên riêng, và các thuật ngữ khoa học, kĩ thuật. Khi viết bằng chữ quốc ngữ theo đúng cách phát âm trong thực tế của từ mượn. Trong tiếng Việt chúng được nói như thế nào thì ghi lại bằng chữ quốc ngữ đúng như thế. Các âm tiết có thể được viết liền nhau hoặc viết tách rời, có khoảng trắng giữa các âm tiết hoặc nối với nhau bằng các dấu gạch ngang đặt giữa các âm tiết, ví dụ : vali, va li, vali. Các từ mượn được viết tách rời các âm tiết thường là từ có hai âm tiết. Trong một số trường hợp khi các âm tiết được viết liền nhau, không có khoảng trắng hoặc dấu gạch ngang xen vào giữa các âm tiết, nếu không được chỉ rõ cách đọc từ trước người đọc có thể đọc sai hoặc phân vân không biết nên đọc thế nào mới đúng vì không biết một chữ cái nào đó là chữ cái cuối cùng của một âm tiết hay là chữ cái đầu tiên của một âm tiết khác sau âm tiết đó. 13
- 1.3.3 Việt hóa ngữ nghĩa Về mặt ngữ nghĩa, một đơn vị từ vựng hợp chuẩn là đơn vị có khả năng diễn đạt chính xác nhất nội dung cần diễn đạt, tự thân nó lại ngắn gọn, không gây hiểu lầm. Trước đây, có người đã dùng từ "mẹo" để diễn đạt khái niệm "ngữ pháp". Mặc dù từ "mẹo" ngắn gọn, lại rất Việt Nam nhưng không chính xác, dễ gây hiểu lầm nên không thể coi là từ hợp chuẩn. Khi dùng từ này, người ta dễ liên tưởng đến nghĩa gốc của nó là "cách khôn ngoan, thông minh được nghĩ ra trong một hoàn cảnh nhất định để giải quyết việc khó", trong khi ngữ pháp lại là quy luật khách quan, không phải con người tự nghĩ ra. Mặt khác, khi cần diễn đạt khái niệm "ý nghĩa ngữ pháp" thì nếu nói "ý nghĩa mẹo" thì thật khó mà hiểu được. Ví dụ: để diễn đạt khái niệm "performative" nếu dùng thuật ngữ "ngữ vi" cũng dễ nhầm là phạm vi ngôn ngữ. Theo chúng tôi, thuật ngữ "ngôn hành" là thích hợp hơn. Khi tiếp nhận, tiếng Việt có thể thể không tiếp nhận tất cả các ý nghĩa của từ trong ngôn ngữ khác hoặc mang một ý nghĩa hoàn toàn mới. Ví dụ: từ "balle" trong tiếng Pháp có các nghĩa là "quả bóng" và "đầu đạn", nhưng tiếng Việt chỉ tiếp nhận từ này với ý nghĩa "quả bóng". Trong việc chuẩn hoá từ vựng tiếng Việt, cần lưu ý ba mảng khác nhau: các từ thông thường, các tên riêng, và các thuật ngữ khoa học, kĩ thuật. 1.4 Hiện tượng chêm xem ngôn ngữ 1.4.1 Khái niệm và thực trạng về việc chêm xem ngôn ngữ ở nước ta hiện nay Trong quá trình hội nhập và phát triển tất yếu sẽ kéo theo sự tiếp xúc, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nền văn hóa, trong đó có ngôn ngữ. Đây cũng là hiện tượng mang tính phổ biến mà Việt Nam chúng ta cũng không phải và không thể là trường hợp ngoại lệ. Mặt tích cực là đã góp phần làm phong phú thêm cho kho từ vựng của ngôn ngữ dân tộc, đặc biệt là những thuật ngữ mới trong các lĩnh vực khoa học và kỹ thuật; làm đa dạng hơn các hình thức giao tiếp, và về phương diện 14
- nào đó, nó giúp chúng ta có điều kiện tiếp cận nhanh với những nền văn hóa và văn minh phát triển hơn. Bên cạnh đó, về văn hóa nói chung, nó cũng có thể gây nên những tác động tiêu cực, đó là sự xô bồ, lai căng, thậm chí chủ nhân văn hóa còn quay lưng lại với văn hóa truyền thống nếu chủ thể tiếp nhận chưa có được sự chuẩn bị đầy đủ khả năng lựa chọn; về ngôn ngữ nói riêng, những biểu hiện trong cách nói, cách viết “khác lạ” đã làm mất đi bản sắc vốn có của tiếng Việt. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để những giá trị của văn hóa truyền thống, mà cụ thể là văn hóa ngôn ngữ không bị phủ định bởi sự phát triển của văn minh và ngược lại, nó không trở thành lực cản cho sự phát triển ấy; chúng phải trở thành điểm tựa và thúc đẩy lẫn nhau trên con đường phát triển của xã hội. Trong lời ăn tiếng nói, trong văn bản tiếng Việt hiện nay rất phổ biến hiện tượng chêm xen từ ngữ ngoại (chủ yếu là tiếng Anh). Ví dụ “Mày fair play quá”, “Download xong chưa?”, “Nhiều fan hâm mộ ghê”, “Open tour này dành cho nhóm khách teen”, “Lập trình viên là một hotjob nhất bây giờ” thậm chí có thể gồm cả cách nói có từ viết tắt như: “Khu công nghiệp này xây bằng vốn ODA”, “Mức độ tăng trưởng GDP là 8,5%”… Đáng chú ý là có những từ gốc ngoại đã được Việt hoá từ lâu, nay trong không khí cởi mở thời mở cửa, hội nhập, lại “vô tư” phục hồi nguyên dạng: xe bus (so sánh: xe buýt), vải line (lanh), tole Hoa Sen (tôn lợp mái), bếp gas (ga), may complete (com lê), gatau sinh nhật (bánh ga tô). 1.4.2 Hậu quả của hiện tượng chêm xem ngôn ngữ Việc sử dụng ngôn ngữ này trong một thời gian dài, liên tục, không có sự tự giác và kiểm soát sẽ hình thành một thói quen vào trong tiềm thức của mọi người khiến cho họ sử dụng nó trong vô thức. Làm cho đa số các bạn trẻ hiện nay đều gặp không ít rắc rối với việc viết sao cho đúng chính tả, đặt câu sao cho đúng ngữ pháp hay sử dụng từ ngữ như thế nào cho đúng với ngữ nghĩa, phù hợp với hoàn cảnh. 15
- 1.4.3 Những giải pháp thiết thực nhằm đẩy lùi hiện tượng chêm ngôn ngữ Nhà nước cần có các văn bản quy định cụ thể về cách sử dụng tiếng nước ngoài trong các loại hình văn bản, trên các hình thức truyền thông, quảng cáo. Các cơ quan báo chí, truyền thông, bên cạnh việc tuyên truyền, khuyến cáo, họ phải trở thành những người mẫu mực trong việc sử dụng ngôn từ. Ở nhà trường, bên cạnh việc giáo dục cho học sinh thấy rõ được cái đẹp, cái tinh tế, bản sắc và tiềm năng của tiếng Việt chúng ta, với phương châm: có hiểu mới yêu, có yêu mới trân trọng, mới làm tốt việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, các thầy cô giáo phải là tấm gương trong việc thực hiện nhiệm vụ đó. Ngôn ngữ của các thầy cô giáo phải trong sáng, chuẩn mực, phù hợp với quy tắc và phong cách tiếng Việt. Giao lưu, tiếp xúc ngôn ngữ là hiện tượng xã hội. Để hạn chế những tiêu cực trong tiếp nhận, sử dụng cần có sự tham gia của toàn xã hội, trong đó gia đình và các tổ chức đoàn thể xã hội đóng vai trò quan trọng. Gia đình cần thường xuyên nhắc nhở và giáo dục con em mình trong việc sử dụng ngôn ngữ đúng chuẩn mực; cần thận trọng trong việc sử dụng ngôn ngữ khi giao tiếp với nhau giữa các thành viên gia đình, tập thể; không để những hiện tượng xấu trong giao tiếp ngôn ngữ ảnh hưởng tiêu cực đến con em mình. Các tổ chức đoàn thể mà hạt nhân là đoàn thanh niên, tổ chức các diễn đàn, bên cạnh tìm hiểu kiến thức về tiếng Việt còn hướng tới việc tạo môi trường thực hành ngôn ngữ, đồng thời cần kịp thời điều chỉnh những sai lạc trong tiếp nhận, sử dụng các ngôn ngữ ngoại lai. 16
- CHƯƠNG 2: PHÂN LOẠI TỪ VAY MƯỢN THEO NGUỒN GỐC 2.1 Từ mượn tiếng Hán 2.1.1 Từ mượn HánViệt Sau 1000 năm Bắc thuộc, văn hóa Hán xâm nhập và chi phối sinh hoạt xã hội người Việt khá sâu đậm. Ðặc biệt là chữ Hán đã được dùng làm chữ viết chính thức của ta trong hàng thế kỷ, chính vì thế, tiếng Việt vay mượn từ tiếng Hán là điều không thể tránh khỏi. Về mặt ngôn ngữ, tuy người Việt vẫn nói tiếng Việt nhưng tiếng Hán, nhất là trong những phạm vi triết học, chính trị và kỹ thuật được người Việt vay mượn rất nhiều. Hiện nay, số lượng từ Hán Việt chiếm hơn 60% trong vốn từ vựng tiếng Việt. Ða số từ Hán Việt là từ đa âm tiết.Tuy nhiên, các từ tiếng Hán khi đi vào tiếng Việt đã được Việt hóa về cách đọc cho phù hợp với hệ thống ngữ âm của tiếng Việt. Đó gọi là cách đọc HánViệt. Cách đọc này đã được hoàn thiện từ khoảng thế kỉ X XI và được sử dụng ổn định cho đến nay. Điều đó có nghĩa là các từ vay mượn của tiếng Hán được người Việt đọc theo âm cổ – âm tiếng Hán đời Đường – có sự Việt hóa ít nhiều cho phù hợp với hệ thống ngữ âm tiếng Việt. Không những thế, tiếng Việt còn dùng các yếu tố gốc Hán để tạo ra từ mới chỉ dùng trong tiếng Việt, ví dụ: tiểu đoàn, đại đội, hoặc kết hợp một yếu tố gốc Hán với một yếu tố thuần Việt để tạo ra từ mới, ví dụ: binh lính, tàu hỏa, đói khổ. Ngày nay, khi muốn sử dụng một thuật ngữ mới, người ta đều có xu hướng dùng từ HánViệt như: "lập trình", "vi mạch", "cộng hòa",…Ngoài ra, còn có các từ gốc Hán được tiếp nhận bằng con đường khẩu ngữ với phát âm của một phương ngữ nào đó của tiếng Hán hiện đại: ca la thầu, mì chính, quẩy, hủ tiếu,... Những từ này là từ mượn và thường không được xem là từ Hán–Việt. 2.1.2 Mục đích vay mượn từ HánViệt Nhìn chung, tiếng Việt vay mượn các từ tiếng Hán nhằm hai mục đích như sau: 17
- Thứ nhất: bổ sung những từ còn thiếu: Trong thời kì đầu, tiếng Việt còn thiếu rất nhiều từ cần bổ sung, người Việt một mặt đã tạo ra một số từ mới trên cơ sở các nguyên tắc cấu tạo từ tiếng Việt, song mặt khác cũng đã vay mượn một số lượng lớn từ ngữ tiếng Hán. Những từ ngữ vay mượn từ xa xưa của tiếng Hán đã bị thay đổi nhiều trong tiếng Việt và chúng hoạt động giống như từ thuần Việt nên nhiều người vẫn nghĩ rằng đó là từ thuần Việt, ví dụ: buồn, mây, chè… Vì vậy, khi nói đến từ ngữ gốc Hán trong tiếng Việt, người ta thường nghĩ đến những từ được vay mượn trong thời kì tiếng Việt đã trở thành ngôn ngữ độc lập và được đọc theo một nguyên tắc chung giống nhau: đọc theo âm HánViệt. Ví dụ: Các từ trong lĩnh vực văn hóa: lễ nghi, lễ hội, văn minh. Các từ trong lĩnh vực văn họcnghệ thuật: tiểu thuyết, hội họa, điêu khắc. Các từ trong lĩnh vực luật pháp: hiến pháp, luật sư, tòa án, quy định. Các từ trong lĩnh vực chính trị: chính phủ, độc lập, phụ thuộc, dân chủ. Các từ trong lĩnh vực kinh tế: công nghiệp, tư bản, tỷ giá, chứng khoán. Có thể thấy rằng, đây chủ yếu là những thuật ngữ khoa họcchuyên môn. Thứ hai: Tạo ra một lớp từ có sắc thái nghĩa khác với từ đã có trong tiếng Việt: Trong giao tiếp hàng ngày, tiếng Việt được sử dụng nhiều nên mất đi sắc thái trang trọng hay khái quát. Do đó, ta đã vay mượn một số từ ngữ tiếng Hán có nghĩa cơ bản giống với từ tiếng Việt nhưng được bổ sung thêm một sắc thái nghĩa khác. Điều này làm xuất hiện những cặp từ đồng nghĩa, trong đó từ thuần Việt và từ HánViệt chỉ có sắc thái nghĩa khác nhau. Ví dụ: ̀ ́ ́ ́ ̃ ́ ́ ́ ́ ̃ ừu tượng, khai quat nên mang tinh chât Vê săc thai y nghia: co săc thai y nghia tr ́ ́ ́ ́ ̣ tinh tai, không g ̃ ợi hinh. ̀ Ví dụ: Thao môc ̉ ̣ = cây co, viêm ̉ = loet, ̉ ́ thô huyêt ̣ ́ = hôc mau… ́ 18
- ́ ̉ ̉ ̉ ̀ ừ han Viêt mang săc thai trang trong, thanh Vê săc thai biêu cam, cam xuc: nhiêu t ̀ ́ ́ ́ ̣ ́ ́ ̣ ̃ ́ ̀ ừ thuân Viêt mang săc thai nha( trong khi đo nhiêu t ̀ ̣ ́ ̣ ́ thân mât, trung hoa, khiêm ̀ ́ nha…) ̃ Ví dụ: Phu nhân = vợ, hi sinh = chêt… ́ ́ ừ Han Viêt co phong cach got giua va th Vê săc thai phong cach: t ̀ ́ ́ ́ ̣ ́ ́ ̣ ̃ ̀ ương đ ̀ ược dung ̀ ̣ ́ ̣ ̀ ́ ̀ ́ ̣ nhin chung co trong phong cach khoa hoc, chinh luân, hanh chinh( con tiêng Viêt ́ ̀ ́ ̣ ̉ ́ ̣ ̣ mau săc đa phong cach: giot giua, cô kinh, sinh hoat, thông dung… ̀ ́ ́ ̃ Ví dụ: huynh đệ = anh em, băng h ̀ ưũ = ban be, ̣ ̀ thiên thu = mai mai, ̉ ̣ ̃ ̃ khâu phât tâm ̣ ̣ xà = miêng nam mô bung bô dao găm… ̀ 2.2 Từ mượn tiếng Pháp Việt Nam từng là thuộc địa của Pháp nên tiếng Pháp có điều kiện du nhập vào Việt Nam. Trong quá trình giao lưu văn hóa và ngôn ngữ đó người Việt đã vay mượn nhiều từ gốc Pháp để chỉ những khái niệm mà thường thì trong tiếng Việt không có. Phần lớn các từ đó đã bị thay đổi cả về cách đọc lẫn chữ viết để phù hợp với đặc trưng của tiếng Việt. Ví dụ: ban công (balcon), buýt (bus), áp phích (affiche), cà rốt (carotte),… 2.3 Từ mượn tiếng Nga Ngay từ thời xa xưa, Nga đã là một nước có mối quan hệ về văn hóa, thương mại, quân sự, chính trị với nhiều nước trên thế giới nên không thể tránh khỏi quá trình du nhập từ vay mượn vào ngôn ngữ của mình. Lịch sử cho thấy mối quan hệ của Việt Nam với Liên Xô trước đây, và với Liên Bang Nga ngày nay luôn nồng ấm, tin cậy, vượt qua mọi thử thách của thời gian và những biến động của lịch sử. trong những năm tháng cam go của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, Việt Nam luôn nhận được sự ủng chí tình của nhân dân Liên Xô không chỉ về tiền bạc, hiện vật mà các chuyên gia Liên Xô còn sang tận nơi giúp Việt Nam phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội…Đặc biệt là khi truyền bá chủ nghĩa Mác – Lenin, Hồ Chí Minh đã dịch và viết lại bằng tiếng Việt cho phù hợp với cách tiếp cận của người Việt lúc bấy giờ. Ngôn ngữ Nga cũng theo đó du nhập vào Việt Nam, và từ mượn tiếng 19
- Nga cũng theo đó ra đời. Ví dụ: Bônsêvích (Большевик), Mácxít (mарксист), xô viết (cовет)… 2.4 Từ mượn tiếng Anh Ở Việt Nam tiếng Anh là ngôn ngữ bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông và cũng là ngoại ngữ được sử dụng rộng rãi. Không những thế hệ thuật ngữ quốc tế cũng chủ yếu dựa trên tiếng Anh nên việc vay mượn từ tiếng Anh trong thuật ngữ là điều không thể tránh khỏi. Ví dụ như trong lính vực lập trình khoa học máy tính, người ta thống nhất sử dụng những thuật ngữ đo lường bộ nhớ máy tính như bit (byte), kilobyte (KB), megabyte (MG)… Ngay cả đối với các hệ thống đo lường cũng vậy. Ví dụ: gam (gram), lit (litre), met (metre)… Và có rất nhiều từ mượn tiếng Anh chúng ta sử dụng tong đời sống hằng ngày rất quen thuộc. Ví dụ: cờlíp (clip), intơnét (internet), pia (PR), tivi (TV), sô (show)… 2.5 Từ mượn các ngôn ngữ khác Ngoài những ảnh hưởng của tiếng Hán, tiếng Việt còn chịu ảnh hưởng của một số ngôn ngữ châu Á khác, đặc biệt là các ngôn ngữ Khơme (Khmer), ngôn ngữ Tày Thái, ngôn ngữ Ấn Độ (tiếng Phạn, tiếng Pali). 2.5.1 Ảnh hưởng của ngôn ngữ Khơme Có ảnh hưởng lớn nhất trong số các ngôn ngữ kể trên là tiếng Khơme. Do sự tiếp xúc khá thường xuyên với tiếng Khơme, một số lượng khá lớn từ tiếng Khơme đã đi vào tiếng Việt và giữ vai trò quan trọng trong lớp từ cơ bản của tiếng Việt. Trong thời gian gần đây (từ khoảng thế kỉ XIX), giữa tiếng Khơme và tiếng Việt đã có những mối quan hệ trực tiếp mà chủ yếu là qua phương ngữ Nam Bộ. Các mối quan hệ này đã để lại một số từ chỉ các loại cây cỏ đặc trưng cho vùng Nam Bộ như: xoài, thốt nốt, sầu riêng, hay từ biểu thị hoạt động, cách thức hoạt động của người và động vật như: nhậu (= ăn và uống), tùm lum (= lung tung), xài(ăn, dùng), cà lăm, cà nhắc, ba lăng nhăng. Nói chung, các từ ngữ gốc Khơme được Việt hóa cao độ trong tiếng Việt nên nhiều người Việt vẫn coi đây là những từ thuần Việt. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận môn Kỹ năng tạo lập văn bản
53 p | 608 | 58
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Việt ở các trường tiểu học quận Hoàn Kiếm, Hà Nội theo tiếp cận năng lực
98 p | 174 | 40
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Quản lý chất lượng giảng dạy môn Tiếng Việt lớp 5 ở một số trường tiểu học tại quận 6, thành phố Hồ Chí Minh
122 p | 203 | 39
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý dạy học môn Tiếng Việt tại các trường tiểu học vùng dân tộc thiểu số Xê Đăng tỉnh Kon Tum
104 p | 157 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Việt theo chương trình giáo dục phổ thông mới ở các trường tiểu học huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
97 p | 70 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Việt theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh các trường tiểu học thành phố Gia Nghĩa tỉnh Đắk Nông
120 p | 56 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý dạy học môn tiếng Việt cho học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang theo Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018
147 p | 76 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số ở các trường tiểu học trên địa bàn huyện Đăk Glong, tỉnh Đắk Nông
191 p | 59 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý dạy học môn tiếng Việt tại các trường tiểu học quận Cầu Giấy, Hà Nội theo hướng phát triển năng lực người học
118 p | 21 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh ở các trường phổ thông dân tộc bán trú tiểu học huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên
116 p | 64 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Phát triển năng lực cảm xúc - xã hội cho học sinh thông qua dạy học môn Tiếng Việt lớp 3
121 p | 30 | 9
-
Khóa luận tốt nghiệp: Tìm hiểu hứng thú học tập môn Tiếng Việt của học sinh lớp 4 dân tộc thiểu số tại trường Tiểu học Qúy Hòa – Lạc Sơn – Hòa Bình
66 p | 69 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh người dân tộc thiểu số ở trường tiểu học huyện Ba Chẽ tỉnh Quảng Ninh
137 p | 39 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Việt theo Chương trình giáo dục phổ thông mới ở các trường tiểu học huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
97 p | 43 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý dạy học môn tiếng Việt ở các trường phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học và Trung học cơ sở huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái
123 p | 41 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Thiết kế một số dự án dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 4
126 p | 48 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Việt theo định hướng phát triển năng lực học sinh tại các trường tiểu học quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng
161 p | 3 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn