TIỂU LUẬN: PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA VẬN ĐỘNG HÀNH LANG TRONG VỤ KIỆN CÁ TRA, CÁ BASA CỦA VIỆT NAM
lượt xem 43
download
CHƠNG 1: ẢNH HỞNG CỦA VẬN ĐỘNG HÀNH LANG TRONG VỤ KIỆN CHƠ ĐỘNG KIỆ CÁ TRA, CÁ BASA CỦA VIỆT NAM VIỆ 1.1 TỔNG QUAN VỀ VỤ KIỆN CÁ TRA, CÁ BASA CỦA MỸ ĐỐI VỚI VIỆT NAM KIỆ ĐỐI VIỆ Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá tra, cá basa sang thị trờng Mỹ vào năm 1996. Năm 1998, lợng cá lát catfish không xơng đông lạnh của Việt Nam xuất sang đây mới chỉ có 260 tấn. Nhng đến cuối năm 2001, con số ấy đã vọt lên 7.746 tấn....
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: TIỂU LUẬN: PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA VẬN ĐỘNG HÀNH LANG TRONG VỤ KIỆN CÁ TRA, CÁ BASA CỦA VIỆT NAM
- TRƯỜNG …………………. KHOA………………………. ----- ----- TIỂU LUẬN Đề tài: PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA VẬN ĐỘNG HÀNH LANG TRONG VỤ KIỆN CÁ TRA, CÁ BASA CỦA VIỆT NAM
- PH PHÂN TÍCH ẢNH HỞNG CỦA VẬN ĐỘNG HÀNH LANG TRONG VỤ KIỆN CÁ TRA, CÁ BASA CỦA VIỆT NAM CHƠNG 1: ẢNH HỞNG CỦA VẬN ĐỘNG HÀNH LANG TRONG VỤ KIỆN CÁ TRA, CÁ BASA CỦA VIỆT NAM 1.1 TỔNG QUAN VỀ VỤ KIỆN CÁ TRA, CÁ BASA CỦA MỸ ĐỐI VỚI VIỆT NAM Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá tra, cá basa sang thị trờng Mỹ vào năm 1996. Năm 1998, lợng cá lát catfish không xơng đông lạnh của Việt Nam xuất sang đây mới chỉ có 260 tấn. Nhng đến cuối năm 2001, con số ấy đã vọt lên 7.746 tấn. Với giá thành rẻ hơn từ 0,08 đến 1USD/pound và chất lợng không thua kém catfish Mỹ, cá Việt Nam đã gây ảnh hởng không nhỏ tới việc tiêu thụ catfish của Mỹ, bằng chứng là tổng giá trị catfish bán ra của Hiệp hội các nhà nuôi cá nheo Mỹ(CFA) giảm mạnh, từ 446 triệu USD năm 2000 xuống còn 385 triệu USD năm 2001. Dới sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ từ các sản phẩm cá của Việt Nam, CFA đã phải hành động nhằm đánh bật con cá của Việt Nam ra khỏi thị trờng Mỹ. 9/2001 vụ kiện bắt đầu nổ ra bằng việc Mỹ mở cuộc chiến về tên gọi catfish đối với sản phẩm cá tra, cá basa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trờng này. CFA dựa vào Luật Ngân sách nông nghiệp 107-76 của Mỹ để cấm loại cá này của Việt Nam đợc nhập vào nớc này với tên gọi catfish và đạo luật HR.2646 cấm hoàn toàn việc dùng tên catfish cho các loại cá tra, cá basa của Việt Nam trong tất cả các khâu bán lẻ, bán sỉ, nhà hàng, thông tin, quảng cáo... trong vòng 5 năm. Cha dừng ở đây, CFA vin tiếp vào điều khoản 10806 của đạo luật An ninh nông trại và Đầu t nông thôn mới nhất để xác lập chủ quyền tuyệt đối trên thơng hiệu catfish. Tháng 12/2001, bất chấp sự phản đối từ phía Việt Nam, Quốc hội Mỹ đã thông qua lệnh cấm tạm thời (có hiệu lực tới ngày 30/9/2002), theo đó, chỉ có
- catfish của Mỹ mới đợc gọi là catfish, còn cá của Việt Nam phải đợc gọi bằng tên basa hay tra. Sau khi dự luật đợc thông qua, nó đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ không chỉ của d luận Mỹ mà còn chịu sự phản đối của d luận thế giới. Thợng nghị sĩ Phil Gramm, bang Texas khẳng định: “ Những ngời kiếm sống trong ngành khoa học nuôi cá gọi nó là catfish, vậy cớ sao chúng ta(Quốc hội Mỹ) lại muốn gọi nó khác đi”. Ông Gramm cùng thợng nghị sĩ John Mccain đa ra một điều khoản bổ xung nhằm bác bỏ dự luật cấm Việt Nam sử dụng nhãn catfish, tuy nhiên, đề nghị của hai ông đã bị bác bỏ (theo báo Washington Post ngày 27/122001). Sau khi giành chiến thắng về tên gọi catfish, Hiệp hội các nhà nuôi cá nheo Mỹ(CFA) tiếp tục mở một cuộc tấn công khác: khởi kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá cá tra, cá basa. Theo Timothy R. Brown, tác giả bài viết “Ngành nuôI cá catfish Mỹ tiếp tục chiến đấu” đăng trên AP ngày 26/2, khơI mào chiến dịch mới chính là những ng dân ở thành phố Indianola (bang Mississipi, nơi đóng đô của CFA và chiếm tới 94% sản phẩm catfish của toàn bộ mi ền Nam nớc Mỹ). Nhóm ng dân này sẽ thuê hẳn một vài chuyên gia tầm cỡ từ Washington hỗ trợ cho các văn phòng t vấn luật của bang, nhằm nỗ lực chuẩn bị cho đòn trừng phạt đối với cá giá rẻ của Việt Nam. Phó chủ tịch điều hành CFA Hugh Warren quy chụp cho những lô cá xuất khẩu của Việt Nam là những sản phẩm rẻ tiền, kém chất lợng mà ngời ta không thể tìm thấy ở một xởng sản xuất cỡ gia đình nh các trại cá của Mỹ. Ông này cho rằng, mặc dù sản phẩm rẻ tiền của Việt Nam đang chiếm tới 20% thị phần và hấp dẫn những nhà hàng, khách sạn, nhng “ những nhà hàng, khách sạn này chỉ quan tâm tới giá cả chứ chẳng để ý đến chất lợng của sản phẩm”. Phóng viên Timothy nhận xét một cách khách quan rằng, những ngời nuôI cá catfish Mỹ không thể chạy đua về giá với sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam bởi chi phí đầu vào (đặc biệt là về nhân công và thuế ) quá cao. Trớc sức ép của cá da trơn đến từ Việt Nam, giá catfish Mỹ đã rớt thê thảm, từ 0.74 USD/ pound năm 2000 xuống còn 0.58 USD, thậm chí có lúc chỉ khoảng 0.2 USD/ pound. Theo Phó chủ tịch Warren: “ Mức giá nh vậy không đủ bù cho chi phí sản xuất. ít nhất phải bán đợc 65-70 cent/ pound, may ra ngời nuôi cá mới có thể hoà vốn”. Ngày 28/6/2002, CFA đã đệ đơn kiện lên Uỷ ban hiệp thơng Quốc tế Mỹ (ITC). Họ đã tính toán rất kĩ lỡng trong cuộc đi kiện lần này, bằng chứng đợc thể hiện ngay từ cách nộp đơn kiện của họ: nộp đơn vào đúng lúc 4 giờ chiều ngày làm việc cuối cùng trong tuần (thứ 6, ngày 28/6). Theo luật Mỹchỉ sau 20 ngày nhận đơn kiện, bên bị kiện sẽ phải điều trần trớc ITC. Nh vậy, phía Việt Nam đã mất đI 3 ngày để chuẩn bị. Là đơn kiện nhng khối lợng rất đồ sộ với hơn 200 trang kèm theo 37 phụ lục, trong đó phân tích chi tiết về
- tình hình thị trờng cá nheo Mỹ, thị phần cá da trơn filê đông lạnh của Việt Nam tại Mỹ cũng nh ảnh hởng của sản phẩm “rẻ tiền” (theo cách gọi của CFA) đối với ngành sản xuất trong nớc. Cha dừng lại ở đó, CFA tiếp tục chiến dịch của mình bằng cách nộp đơn lên Bộ Thơng mại Mỹ (DOC) cho rằng, đã xuất hiện “tình trạng khẩn cấp”.để chứng minh điều đó CFA đã đa ra các luận điểm: + Các nhà xuất khẩu Việt Nam biết cá tra, cá basa filê đông lạnh bị bán phá giá. + Các nhà xuất khẩu có thông tin về việc áp thuế chống phá giá đối với công ty của mình với mức 25% hoặc cao hơn nữa trong giai đoạn điều tra ban đầu của DOC. + Các nhà xuất khẩu Việt Nam đã tăng số lợng hàng sang Mỹ sau khi CFA nộp đơn yêu cầu điều tra chống phá giá . + Tính từ ngày 28/6/2002, số lợng hàng xuất khẩu sang Mỹ tăng ở mức 15% hoặc cao hơn nữa so với thời gian trớc ngày nộp đơn yêu cầu điều tra chống phá giá. + Cần áp dụng hồi thuế chống phá giá để đảm bảo hiệu quả của thuế chống phá giá sẽ đợc ban hành vào ngày 24/1/2003. Tháng 11/2002 bất chấp sự phản đối từ phía Việt Nam, DOC đã kết luận Việt Nam là nớc có nền kinh tế phi thị trờng, việc kết luận này dựa trên đánh giá theo các tiêu chí của Mỹ nó đặt cơ sở cho việc xem xét áp dụng mức thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng cá tra, cá basa của Việt Nam. Ngày 28/1/2003, DOC tạm thời xác định mức thuế chống bán phá giá đối với cá tra, cá basa của Việt Nam trong khoảng từ 31,45% - 63,88% tuỳ theo nhóm mặt hàng và doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, cá basa của nớc ta. Cụ thể nh sau: Tên công ty Mức thu ế Agifish 31,45% Cataco 41,06% Nam Việt 38,09% Vĩnh Hoàn 37,94% Các công ty khác 36,76% có tham gia vụ kiện Các công ty 63,88% không tham gia vụ kiện
- Tháng 3/2003, DOC đã cử đoàn quan chức sang Việt Nam để nghiên cứu điều tra tình hình sản xuất cá tra, cá basa tại các tỉnh vùng DBSCL của Việt Nam để xác định lần cuối mức thuế xuất chống bán phá giá. Các doanh nghiệp Việt Nam đã đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của đoàn điều tra và chứng minh năng lực cạnh tranh dựa trên quy trình tổng hợp khép kín, từ sản xuất con giống, nuôi cá thơng phẩm, đến chế biến và xuất khẩu các sản phẩm cá tra, cá basa. Tuy nhiên, đoàn điều tra của DOC đã bác bỏ các tài liệu từ phía các doanh nghiệp đa ra và không công nhận quy trình khép kín trong việc sản xuất cá tra, cá basa. Họ chỉ chấp nhận tính giá thành sản phẩm này từ khâu chế biến và đem so sánh nó với nớc thứ 3 là Bangladesh một nớc không có quy trình sản xuất khép kín nh Việt Nam. Đầu tháng 5, Bộ Thơng mại Mỹ đã gợi ý Bộ Thơng mại hai bên sẽ tiến hành đàm phán “ về một thoả thuận về đình chỉ vụ kiện” này. Từ 2-9/5/2003, hai bên đàm phán, nhng do quan điểm của hai bên rất khác nhau, cả về phơng pháp luận và mức độ tiếp cận thị trờng Mỹ cho mặt hàng cá tra, cá basa filê đông lạnh của Việt Nam nên hai bên đã không đạt đợc thoả thuận cuối cùng. Ngày 17/6/2003, ITC mở phiêu điều trần vể vụ kiện cá tra, cá basa . Trong buổi điều trần này, đại diện của chính phủ Việt Nam và đại diện của VASEP đã phát biểu trớc ITC về vụ kiện này và yêu cầu Mỹ xem xét vụ kiện một cách khách quan. Tuy nhiên, đến ngày 23/7/2003 ITC đa ra phán quyết cuối cùng về vụ kiện cá tra, cá basa. Theo đó, cơ quan này đã khẳng định các doanh nghiệp Việt Nam bán cá tra, cá basa vào thị trờng Mỹ thấp hơn giá thành, gây tổn hại tới ngành sản xuất cá da trơn của Mỹ và ấn định mức thuế suất bán phá giá rất cao, từ 36.84-63.88%.Cụ thể nh sau: Tên công ty Mức thu ế Agifish 44,76% Cataco 45,55% Nam Việt 52,90% Vĩnh Hoàn 36,84% Các công ty khác 44,66% có tham gia vụ kiện Các công ty 63,88% không tham gia vụ kiện
- Sau khi đa ra phán quyết thiếu công bằng, đến ngày 7/8/2003, Bộ Thơng mại Mỹ chính thức công bố áp đặt thuế chống bán phá giá đối với 11 doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu mặt hàng filê đông lạnh cá tra, cá basa vào thị trờng này.Về phía Việt Nam, sau khi lấy ý kiến, các doanh nghi ệp xuất khẩu cá tra, basa của Việt Nam đều nhất trí tiếp tục theo đuổi vụ kiện. VASEP sẽ nộp đơn kiện lên toà án quốc tế thơng mại Mỹ. 1.2 QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG HÀNH LANG TRONG VỤ KIỆN Năm 1998, lợng cá tra, cá basa filê đông lạnh của Việt Nam xuất khẩu sang thị trờng Mỹ chỉ có 260 tấn, nhng đến năm 2001 con số này đã tăng vọt lên 7.746 tấn. Lo ngại trớc sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ đó, hiệp hội nuôi catfish ở các tiểu bang Mississipi, Lousiana, Askansa, Alabama đã sử dụng vận động hành lang (Lobby) để bảo vệ quyền lợi kinh tế của mình, dới áp lực của các lobby của CFA buộc các nghị sĩ ở các tiểu bang miền Nam phải có tác động tới Quốc hội Mỹ ra nghị quyết cản trở nhập cá tra, cá basa của Việt Nam vào Mỹ. Tờ Washington Post ngày 10/9/2001 viết: “ Việt Nam đang bán phá giá sang Mỹ hàng ngàn tấn cá basa trong năm nay, gây thiệt hại cho các nhà nuôi cá nội địa. Nhiều nghị sĩ mu ốn Quốc hội yêu cầu gắn nhãn sản phẩm Việt Nam cho mặt hàng này”. Hai hạ nghị sĩ Dân chủ, Marion Berry và Mike Ross của bang Arkansar(nơi có nguồn cung cấp cá basa lớn thứ 3 ở Mỹ, sau Mississipi và Alabama) yêu cầu các hãng bán buôn không chỉ xác định rõ xuất xứ của cá basa Việt Nam, mà còn gắn cho sản phẩm này mác “basa Mekong”, “cá trê” hoặc “cá trê basa” để phân biệt với cái mà họ gọi là cá basa Mỹ “thứ thiệt”. Hạ nghị sĩ Berry đã theo đuổi vấn đề này với giới chức thơng mại của Tổng thống Mỹ và cũng có dịp đề cập với các quan chức Việt Nam. Ông Berry tuyên bố, sẽ tìm cách đa các điều khoản trên vào dự luật khi nó đợc trình trớc Hạ viện hoặc đợc đa ra thảo luận tại Thợng viện Mỹ tới đây. Duới sự tác động mạnh mẽ của lobby, tháng 9/2001 các đại biểu mi ền Nam nớc Mỹ đã trình lên Quốc hội để tránh dùng từ catfish cho việc mua bán cá tra, cá basa trên thị trờng Mỹ. Không những thế, chính quyền liên bang còn quyết định chi 6 triệu USD để mua catfish cho chơng trình ăn tra ở các trờng học, chiêu bài này đã làm tăng hình ảnh về thơng hiệu catfish cho cá da trơn của Mỹ. Đến tháng 12/2001 Quốc hội Mỹ thông qua lệnh cấm tạm thời, theo đó, chỉ có catfish của Mỹ mới đợc gọi là catfish, còn cá của Việt Nam phải đợc gọi bằng tên basa hay tra. Vậy do đâu lại có lệnh cấm oái ăm về tên gọi nh vậy? Các nhà vận động hành lang cho ng dân Mỹ lập luận rằng, cá của Việt Nam không hẳn là catfish và ngời Việt Nam đang lợi dụng thành quả tiếp thị của những ngời nuôi cá Mỹ.
- Tuy nhiên, sau khi lệnh cấm trên có hiệu lực, cá tra, cá basa của Việt Nam xuất khẩu sang thị trờng Mỹ vẫn đợc ngời tiêu dùng chấp nhận, điều đó chứng tỏ rằng sản phẩm này vẫn đợc ngời dân Mỹ chấp nhận và cũng khẳng định rằng cá Việt Nam không “lợi dụng thành quả tiếp thị của các nhà nuôi cá Mỹ”, cá của Việt Nam đợc ngời tiêu dùng Mỹ chấp nhận là do có lợi thế về giá cả và chất lợng. Lo ngại trớc tình hình đó, CFA lại bắt đầu một chiến dịch chống cá tra, basa filê đông lạnh của Việt Nam bằng cách kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá sản phẩm này sang thị trờng Mỹ. Chiến dịch đợc khơi mào ở thành phố Indianola (bang Mississipi, nơi đóng đô của CFA và chiếm tới 94% sản phẩm catfish của toàn bộ mi ền Nam nớc Mỹ). Nhóm ng dân này sẽ thuê hẳn một vài chuyên gia tầm cỡ từ Washington hỗ trợ cho các văn phòng t vấn luật của bang và vận động hành lang cho vụ kiện. Chiêu bài mà họ sử dụng trong cuộc chiến này đó là qui cho những lô cá xuất khẩu của Việt Nam là những sản phẩm rẻ tiền, kém chất lợng mà ngời ta không thể nào tìm thấy ở một xởng sản xuất cỡ gia đình nh ở các trại cá của Mỹ ( phó Chủ tịch điều hành CFA). Ông này cho rằng mặc dù sản phẩm rẻ tiền của Việt Nam đang chiếm tới 20% thị phần và rất hấp dẫn các nhà hàng, khách sạn, nhng “những nhà hàng khách sạn này chỉ quan tâm tới giá cả chứ chẳng để ý tới chất lợng của sản phẩm. Thêm vào đó các nhà vận động hậu trờng cho vụ kiện còn cho rằng cá tra, cá basa của Việt Nam đợc nuôi trong môi trờng bị nhiễm chất độc màu da cam gây ảnh hởng tới sức khoẻ của ngời tiêu dung, trong khi đó chính ngời Mỹ đã rải chất độc này trong cuộc chiến tranh với Việt Nam. Ngày 28/6/2002, CFA đệ đơn kiện lên Uỷ ban hiệp thơng quốc tế Mỹ kiện Việt Nam bán phá giá cá tra, cá basa sang thị trờng Mỹ. Cùng với thời gian đó, ngày 2/7/2002, hai nghị sĩ Mike Ross và Ronnie Shows, đại diện cho CFA lại gửi th trực tiếp đến bà Deanna Tanner Okun, Chủ tịch Uỷ ban Hiệp thơng Quốc tế Mỹ, nêu luận điểm: “ Đại diện cho những ngời nuôi catfish Mỹ, chúng tôi khẩn cấp đề nghị Uỷ ban cân nhắc một cách có thiện chí đối với đơn kiện của CFA về việc cá tra, cá basa filê đông lạnh nhập từ Việt Nam đợc bán phá giá, gây cạnh tranh và làm thiệt hại tới các nhà nuôi cá catfish nội địa.” Ngày 28/1/2003, DOC ra quyết định tạm thời xác định mức thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm cá của Việt Nam trong khoảng 31,45% - 63,88%, quyết định này của DOC đa ra đã bất chấp luận điểm của Việt Nam đa ra: việc sản xuất cá tra, basa của Việt Nam đợc thực hiện theo quy trình liên hoàn, khép kín. DOC nói cha xem xét đến yếu tố này do còn nhiều khúc mắc. Đến tháng 3/2003, DOC đã cử đoàn quan chức sang Việt Nam khảo sát, chính họ đã thừa nhận quá trình sản xuất, chế biến cá tra, basa ở Việt Nam là theo chu trình khép kín. Song, ở quyết định cuối cùng, DOC lại cho rằng, ở Bangladesh không có
- doanh nghi ệp nào sản xuất theo chu trình khép kín nh các doanh nghiệp tại Việt Nam, nên giá thành sản xuất đợc tính từ giai đoạn chế biến. Tại sao họ lại đa ra quyết định trái ngợc lại với những gì họ đã khẳng định? Đó chính là do áp lực của các lobby của các tập đoàn nuôi cá da trơn Mỹ. Cuối tháng 4/2003, Bộ Thơng mại Mỹ đã gợi ý Bộ Thơng mại hai bên sẽ tiến hành đàm phán “ về một thoả thuận đình chỉ vụ kiện” này. Từ ngày 2-9/5/2003, hai bên đã tiến hành đàm phán nhng do quan điểm rất khác nhau nên cuộc đàm phán đã không đạt đợc thoả thuận cuối cùng. Mỹ đã đa ra hạn mức xuất khẩu cá tra, basa filê đông lạnh của Việt Nam vào Mỹ với mức rất thấp và ấn định giá bán xuất khẩu rất cao, không thực tế nhằm cản trở việc nhập khẩu sản phẩm cá tra, basa của Việt Nam. Trong cuộc đàm phán này, Việt Nam dựa vào chu trình sản xuất khép kín đối với loại sản phẩm này và đề xuất áp dụng hạn ngạch đối với cá tra, cá basa ở các mức: năm 2003 bằng 90%; năm 2004 bằng 95%; năm 2005 bằng 100% mức năm 2002. Ngày 23/7/2003, ITC tiến hành bỏ phiếu để đa ra kết luận, tham gia bỏ phiếu có 4 thành viên của ITC ( thiếu 2 ngời) và cả 4 thành viên này đều bỏ phiếu thuận theo DOC và khẳng định Việt Nam đã bán phá giá cá tra, basa sang thị trờng Mỹ. Về phía Việt Nam, theo luật của Mỹ, công ty đại diện pháp lý không đợc sử dụng vận động hành lang, vì vậy, VASEP đã thuê hai công ty nổi tiếng để thực hiện việc này. Nhờ việc sử dụng vận động hành lang, chúng ta đã có đợc sự ủng hộ của 6 thợng nghị sĩ, các nghị sĩ này đã yêu cầu Quốc hội Mỹ xem xét lại các quyết định của mình trong cả cuộc chiến về tên gọi catfish cũng nh cuộc chiến chống bán phá giá, nhng những yêu cầu này đã bị bác bỏ. Trong thời gian diễn ra vụ kiện có rất nhiều tờ báo nổi tiếng lên tiếng ủng hộ Việt Nam, và sản phẩm cá tra, cá basa đã đợc rất nhiều d luận Mỹ ủng hộ. Ngày 7/8/2003, DOC chính thức công bố áp đặt thuế chống bán phá giá đối với 11 doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu cá tra, cá basa filê đông lạnh sang thị trờng nớc này. Sau khi đa ra quyết định, đã có rất nhiều d luận trên thế giới phản đối kết luận này của Mỹ, trong đó có sự chỉ trích của Thủ tớng Malayxia và của Tổng Th kí Liên Hợp Quốc. Cũng trong ngày 7/8, VASEP đã gửi đơn kiện lên Toà án Quốc tế Thơng mại Hoa Kỳ, các thành viên của VASEP đều nhất trí theo đuổi vụ kiện này tới cùng . “VASEP sẽ kiện về sự bất nhất giữa quyết định sơ bộ và quyết định cuối cùng của ITC, họ không tôn trọng ngay chính kết luận và lời cam kết của họ” ( theo lời của ông Nguyễn Hữu Dũng, Tổng Th kí VASEP).
- CH CHƠNG 2: PHÂN TÍCH ẢNH HỞNG CỦA VẬN ĐỘNG HÀNH LANG TRONG VỤ KIỆN CÁ TRA, CÁ BASA CỦA VIỆT NAM 2.1 KHÁI NIỆM VẬN ĐỘNG HÀNH LANG 2.1.1 ĐỊNH NGHĨA VẬN ĐỘNG HÀNH LANG Vận động hành lang hay còn gọi là lobby là việc các quan chức chính phủ, các cá nhân có uy tín đại diện cho một cộng đồng ngời đa ra ý kiến đóng góp vào các dự thảo luật của chính phủ, kêu gọi sự ủng hộ của các cá nhân khác hoặc thơng lợng các vấn đề khi xảy ra tranh chấp nhằm đạt đợc lợi ích của cộng đồng mà mình đại diện. 2.1.2 PHƠNG THỨC VẬN ĐỘNG HÀNH LANG TRÊN THỊ TRỜNG MỸ Mỹ là quê hơng của chủ nghĩa lobby(lobbism), không chỉ ở thị trơng Mỹ, mà ngay tại các thị trờng khác lobby đợc coi là một hoạt động bình thờng và rất tích cực. Washington là thủ đô của dân chuyên lobby, gồm 129 cựu nghị sĩ thờng xuyên “lo lắng” của những cộng đồng, chủng tộc khác nhau. Lobby ở Mỹ đợc thành lập thành nhóm thờng đợc gọi là “các đại lý có ảnh hởng”. Các nhóm lobby ở Washington đạt đợc rất nhiều hiệu quả, khi mỗi nhóm xuất phát từ quyền lợi bản thân tiến hành giám định kĩ thuật chi li tỷ mỉ ( và biết rằng các đối thủ cạnh tranh không hề kém cạnh) và trả giá cho việc này. Theo thống kê, hiện nay có khoảng 3700 nhóm lợi ích đặc biệt đăng kí vận động hành lang. Việc vận động hành lang đợc thực hiện ở tất cả các khía cạnh trên đất Mỹ từ kinh tế, chính trị, pháp luật...Đối với các nghị sĩ Quốc hội Mỹ thì vận động hành lang là hoạt động
- cần thiết và không thêt tách rời đối với tiến trình lập pháp của Hoa Kỳ. Theo thống kê, có hơn 90% nỗ lực của các lobby hớng vào giải quyết các vấn đề đối nội, tuy nhiên cung có khoảng 600 chuyên gia thờng xuyên làm việc với Quốc hội Mỹ về vấn đề đối ngoại. Đối với tiến trình lập pháp, các lobby thờng trực tiếp đa ra các dự thảo luật hoặc đóng góp ý kiến của mình cho các dự thảo luật và vận động để tranh thủ sự ủng hộ của các nghị sĩ Quốc hội khác nhằm đạt đợc lợi ích của nhóm cộng đồng do mình đại diện. Về chính trị, vận động hành lang ảnh hởng trực tiếp tới quá trình quá trình bầu cử của một quốc gia, đặc biệt là ở Mỹ bầu cử theo phổ thông đầu phiếu và Hạ viện phải ra ứng cử định kì hai năm một lần. Các cử tri có thể thể hiện sự ủng hộ của mình cho một nghị sĩ không chỉ bằng các lá phiếu mà có thể bằng cả việc đóng góp tiền cho quỹ bầu cử của nhân vật ấy. Từ đó các nghị sĩ quốc hội nhận ra rằng trách nhiệm của họ là làm hàI lòng các cử chi đã bỏ phiếu cho họ. Để làm đợc điều đó, họ phải bỏ lá phiếu lập pháp phản ánh đợc phần lớn mối quan tâm của các cử chi hoặc chuẩn bị để bào chữa không bị bỏ phiếu phản đối khi thời gian bầu cử tới gần. Mặc dù các hạ nghị sĩ đơng nhiệm thờng đợc giới lãnh đạo Hạ viện và Thợng viện chỉ thị bỏ phiếu theo quan điểm của Đảng nhng họ vẫn chú ý tới kết quả của các cuộc thăm dò d luận quần chúng và quan điểm của các cử tri ở các quận hoặc các bang của họ. Các hạ nghị sĩ đơng nhiệm đặt tầm quan trọng rất lớn vào các quan điểm chính sách đợc bày tỏ trong th, các cuộc điện thoại, các th điện tử, các cuộc gặp gỡ cá nhân với những cử tri khu vực bầu cử. Cứ mỗi cá nhân gọi điện thoại hoặc viết một lá th cho quan chức do mình bầu ra có thể cho rằng có thêm 10 công dân đợc quyền bầu cử khác ủng hộ quan điểm đó. Do vậy mà ảnh hởng của vận động hành lang có thể đợc nhân lên 10 lần. ở Mỹ, nếu một Nghị sĩ Quốc hội nhận đợc một số lợng lớn những ý kiến phản hồi của cử tri về một vấn đề và nhà lãnh đạo yêu cầu ông ta bỏ phiếu ngợc lại với những ý kiến của cử chi, thờng là tiếng nói của cử tri sẽ giành đợc sự ủng hộ cuối cùng của lá phiếu. Các cử chi cũng có thể tăng cờng ảnh hởng của mình bằng cách tham gia một nhóm lợi ích đặc biệt hoặc một hiệp hội quốc gia. Là một thành viên của một hiệp hội quốc gia, họ tham gia vào quá trình hoạch định chính sách nội bộ và dựa vào các quan chức bầu ra hoặc những nhân viên chuyên nghiệp của hiệp hội để thay mặt cho họ vận động hành lang Quốc hội. Do vậy mà một nhà vận động hành lang cho một hiệp hội đại diện cho tiếng nói của nhiều ngời ủng hộ quan điểm chính sách trớc quốc hội. Giữa các quốc gia cũng có thể sử dụng vận động hành lang để tranh thủ sự ủng hộ về một chính sách đối ngoại, ví dụ nh cá nhân Tổng thống Mỹ đã gặp gỡ với Thủ tớng Nhật để tranh thủ sự ủng hộ của Nhật trong chiến dịch đánh Afganistan. Luật Mỹ cấm chính quyền nớc ngoài tham gia vận động hànhlang nhng
- không cấm ngời nớc ngoài tham gia vận động. Vì thế các Tổng thống Mỹ vẫn có thể mời nhiều “bạn nớc ngoài” vào nhà Trắng rồi vận động gây quỹ bầu cử cho đảng mình, mi ễn là sự ủng hộ đó phải là t nhân. Các nhóm lobby nớc ngoài cũng có thể ảnh hởng tới quá trình bầu cử ở Mỹ thông qua việc các thành viên trong nhóm góp tiền ủng hộ cho quỹ tranh cử của nghị sĩ mà họ ủng hộ. Năm 1996, đã nổ ra vụ scandal quanh nỗ lực của Bắc Kinh gây ảnh hởng lên quá trình bầu cử, bằng việc tài trợ cho các quỹ vận động tranh cử của Bill Clinton và vài nghị sĩ. Nhng các cuộc điều tra cho thấy không có sự dính líu của Trung Quốc vào việc này. Vận động hành lang cũng làm ảnh hởng trực tiếp tới chính sách đối ngoại, đặc biệt là các chính sách đối ngoại về kinh tế của Mỹ. Thông thờng tai Mỹ các nhóm lobby nớc ngoàI đợc thành lập theo từng quốc gia nh lobby Đức, Italia, Hylap, Nga... Hoạt động của các nhóm lobby này thờng là vận động để thiết lập các mối quan hệ kinh tế giữa hai quốc gia. Ví dụ nh: vận động chính phủ Mỹ tăng cờng đầu t về kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng cho quốc gia mà các nhóm lobby đại diện. Không chỉ có nhóm lobby nớc ngoài, ngay cả lobby trong nớc cũng vận động hành lang cho nớc khác. Ví dụ nh, Quốc hội Mỹ tự mình bắt tay vào vận động hành lang cho Nga hay Văn phòng Nông nghiệp Mỹ đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc vận động hành lang để gia hạn quy chế tối huệ quốc cho Trung Quốc. NgoàI ra các “đại lý có ảnh hởng” cũng vận động hành lang cho các vấn đề xã hội, điển hình nh việc nhóm lobby Israel đã thành công trong việc tổ chức tốt cho 6 triệu ngời Do Thái ở Mỹ. 2.1.3 TÁC DỤNG VÀ Ý NGHĨA CỦA VẬN ĐỘNG HÀNH LANG 2.1.3.1 TÁC DỤNG Sử dụng lobby giúp các cử chi có thể bảo đảm đợc lợi ích hoặc đạt đợc lợi ích của mình. Đặc biệt là khi một số lợng lớn các cử chi có chung một lợi ích liên kết lại với nhau thành những hiệp hội để bảo vệ lợi ích của mình. Các quan chức cũng nh các chuyên gia của hiệp hội sẽ xem xét các dự luật có liên quan, sau đó đa ra các ý kiến đóng góp vào dự thảo luật đó theo hớng có lợi cho quyền lợi của cả hiệp hội. Hoặc tự hiệp hội sẽ đa ra các dự thảo luật trình lên Quốc hội để bảo vệ quyền lợi của mình khi quyền lợi đó bị một nhóm cộng đồng khác đe doạ. Đảm bảo quyền lợi và mối quan tâm của các công dân trớc khi một dự thảo luật trở thành luật, nó cho phép cử tri đợc lên tiếng đây là một cách bảo đảm quyền công dân tại Mỹ. Thông thờng một dự thảo luật trớc khi đợc quốc hội thông qua bằng việc bỏ phiếu của các nghị sĩ thì các công dân đã trực tiếp góp ý kiến hoặc đại diện của họ là các chuyên gia
- vận động hành lang đã góp ý kiến cho các nghị sĩ đó. Các nghị sĩ không thể không quan tâm tới những ý kiến của các cử tri của mình, vì vậy việc họ có bỏ phiếu thông qua hay không thông qua dự luật đó đã chịu sự góp ý của các cử tri đã bầu họ và nó đảm bảo quyền lợi của nhóm cử tri này. Thông thờng trong một quốc gia, lợi ích của nhóm cộng đồng này sẽ là thiệt hại của cộng đồng khác nếu một dự thảo luật đợc thông qua. Làm giảm áp lực về công việc trong các chơng trình và dự án của chính phủ. Theo nhận xét của giới chuyên môn nếu không có giới lobby, chính phủ Mỹ sẽ ngập đầu trong các chơng trình và các dự án. Các nghị sĩ Quốc hội sẽ không phải nghiên cứu, phân tích các chơng trình, dự án một cách cụ thể và chi tiết , họ chỉ cần xem xét tới ảnh hởng của chơng trình hay dự án đó tới nhóm cử chi đã bỏ phiếu cho họ và nhiệm vụ của họ là hớng các chơng trình, dự án này theo hớng có lợi cho nhóm ngời đó. Việc này đợc thực hiện với cả các chơng trình, dự án mang tính quốc gia cũng nh quốc tế. Sử dụng lobby có thể dung hoà lợi ích giữa các nhóm cộng đồng. Các nhóm cộng đồng có thể sử dụng lobby nhằm đạt đợc lợi ích của mình, tuy nhiên trong thực tế lợi ích của các nhóm cộng đồng luôn mâu thuẫn với nhau vì vậy thờng xảy ra tranh chấp giữa các nhóm ngời này. Để giải quyết tranh chấp này, các bên có thể sử dụng sức ép từ các lobby để giải quyế vụ việc ngoài toà án. Thông thờng là cùng nhau đàm phán để dung hoà lợi ích sao cho cả hai đều có lợi, nh vậy cả hai bên đều có thể đạt đợc lợi ích của mình đồng thời giảm chi phí nếu đa nhau ra toà ( ở Mỹ chi phí kiện tụng thờng là rất lớn). Đối với các nhóm cộng đồng mang tính quốc gia, nếu vận dụng tốt lobby sẽ tạo điều kiện tốt cho việc thiết lập mối quan hệ giữa hai quốc gia, tạo điều kiện cho việc phát triển đất nớc. Vận động hành lang của các nhóm cộng đồng dân tộc có khả năng tăng cờng viện trợ hoặc đầu t về nớc mình nhằm phát triển đất nớc về mọi mặt nh về cơ sở hạ tầng, kinh tế, giáo dục, khoa hoc... ĐIũu này đã đợc chứng minh bằng thực tế bởi các nhóm lobby Nga, Trung Quốc, Israel... trên đất Mỹ. Các nghị sĩ Mỹ đều là những đại diện cho tiếng nói của một cộng đồng ngời, là những ngời đã bỏ phiếu cho họ giữ chức vụ đó, vì vậy tham gia vận động hành lang một mặt là để thực hiện trách nhiệm của họ đối với nhóm cử tri đã bầu họ, đồng thời đây cũng là một cách nhằm tăng khả năng ảnh hởng, tranh thủ sự ủng hộ của các cử tri, điều này là rất quan trọng nó ảnh hởng trực tiếp tới “ cái ghế” mà họ đang ngồi nhất là khi thời gian tái bầu cử sắp tới gần. 2.1.3.2 Ý NGHĨA
- Vận động hành lang là một mặt hoạt động cần thiết và không thể tách rời của tiến trình lập pháp Mỹ. Nó đảm bảo quyền và mối quan tâm của của công dân Mỹ đợc xem xét, góp ý kiến trớc khi một dự thảo luật trở thành luật. Nó cho phép cử tri đợc lên tiếng và thông qua đó đảm bảo rằng nguyên tắc của nền dân chủ tại Mỹ đợc tuân thủ. Điều này là rất quan trọng đối với một nớc đề cao tự do nh nớc Mỹ. Khi mỗi dự thảo luật đợc đa ra thảo luận, các cử tri hoặc đại diện của họ sẽ đóng góp ý kiến của mình vào các dự thảo luật đó, đồng thời các nghị sĩ Quốc hội cũng đa ra ý kiến của mình nhằm đạt đợc lợi ích của một nhóm ngời nào đó. Nh vậy, vận động hành lang giúp giải quyết tốt hơn quyền và nghĩa vụ của công dân Mỹ cũng nh quyền và nghĩa vụ của các nghị sĩ Quốc hội. Vận động hành lang rất có ý nghĩa trong các mối quan hệ quốc tế cả về kinh tế lẫn chính trị. Đối với kinh tế quốc tế, vận động hành lang có thể là cách dùng để khơi mào các cuộc chiến thơng mại, có thể giúp các bên chiếm đợc u thế trong các cuộc tranh chấp và có thể giành đợc thắng lợi khi sử dụng vận động hành lang. Tuy nhiên vận động hành lang cũng là phơng pháp giúp các bên tranh chấp chuyển từ đối đầu sang đối thoại, giúp cho hai bên cùng có lợi. Về chính trị, sử dụng vận động hành lang có thể làm tăng cờng sự ủng hộ của các quốc gia khác, nhất là những nớc có tầm ảnh hởng rộng rãI trên thế giới, điều này đặc biệt quan trọng trong tình hình bất ổn định của thế giới nh hiện nay. Vận động hành lang giúp các nớc giảI quyết mối bất hoà trên bàn đàm phán, nh các vấn đề về chiến tranh, hạt nhân, từ đó tháo gỡ dần các mối bất đồng tạo điều kiện cho quan hệ giũa các nớc tiếp tục phát triển, tạo điều kiện cho thế giới ngày càng đi vào ổn định, tạo môi trờng thuân lợi cho việc hợp tác, phát triển giữa các quốc gia. Nh vậy vận động hành lang đã, đang và sẽ đóng góp rất nhiều cho sự ổn định hợp tác, phát triển cho các tổ chức trong và ngoài nớc cũng nh sự hợp tác giữa các quốc gia. Tuy nhiên nếu lam dụng vận động hành lang quá mức, sẽ nảy sinh nhiều bất đồng, làm cản trở tới việc hợp tác phát triển của các bên. ĐIũu này đã và đang xảy ra khi mà các nhà vận động hành lang, các tổ chức, chính phủ coi đạo đức là thứ yếu trong kinh doanh, chỉ bảo vệ hay bảo hộ quyền lợi cho một nhóm ngời bất chấp sự phản đối mạnh mẽ của d luận. Chính những hành động này sẽ làm tổn hại đến quan hệ hợp tác giữa các tổ chức, các quốc gia. 2.1.4 SỰ CẦN THIẾT CỦA VẬN ĐỘNG HÀNH LANG Đối với các chính phủ, vận động hành lang giúp họ giải quyết một cách có hiệu quả các chơng trình, dự án, các chính sách đối nội đối ngoại. Vận động hành lang giúp giảm thiểu gánh nặng từ công việc giúp các quan chức chính phủ minh mẫn từ đó giúp họ làm việc có
- hiệu quả hơn. Đồng thời vận dụng hành lang là một phơng thức tốt để họ quyền và nghĩa vụ đối với ngời dân thông qua việc bảo vệ cho lợi ích của một cộng đồng ngời, đồng thời nó cũng đảm bảo quyền tự do đợc tham gia , đóng góp ý kiến vào việc hoạch định chính sách chính phủ của các cử chi. Vận động hành lang giúp nhà nớc tiết kiệm đợc tiền và các nhà làm luật chỉ chờ việc quyết định phơng án tối u. Đối với các doanh nghiệp hoặc các ngành, thì vận động hành lang sẽ giúp họ bảo vệ lợi ích của mình, chống lại sự cạnh tranh của các đối thủ khác. Thông qua vận động hành lang, các tổ chức có thể gây áp lực đối với chính phủ từ đó đa ra các đạo luật có lợi cho hoạt động cũng nh lợi ích của họ, đồng thời làm giảm lợi ích , lợi thế cạnh tranh của đối thủ. Vận động hành lang cũng là một phơng thức nhằm giảI quyết các mối bất đồng giữa các bên, nếu sử dung vận động hành lang đúng cách các bên có thể giải quyết mâu thuẫn với nhau ngoài toà án ( nơi chỉ có một bên đạt đợc lợi ích) sao cho cả hai bên đều đạt đợc lợi ích và nó giúp cho các bên giảm chi phí khi đa nhau ra toà. 2.2 VẬN ĐỘNG HÀNH LANG TRONG VỤ KIỆN CÁ TRA, CÁ BASA CỦA VIỆT NAM 2.2.1. SỰ VẬN ĐỘNG HÀNH LANG CỦA VỤ KIỆN CÁ TRA, CÁ BASA. Trong vụ kiện này, cả hai bên, Hiệp hội các nhà nuôi cá da trơn Mỹ (CFA) và Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam (VASEP) đều sử dụng hoạt động vận động hành lang để giành lấy lợi thế. Một công ty luật có uy tín đánh giá rất khách quan rằng, cha bao giờ thấy có một vụ kiện nào đợc lobby sâu nh vụ kiện này (theo báo Thanh Niên ngày 13/8/2003). Đúng nh vậy, CFA đã tận dụng hết khả năng, kinh nghiêm và những lợi thế khác nh về tổ chức, tài chính để ráo riết vận động hành lang có lợi cho mình. Ngay từ khi thấy nguy cơ bị cạnh tranh từ phía các sản phẩm cá tra, cá basa filê đông lạnh từ Việt Nam, CFA đã bắt đầu chuẩn bị tài liệu cho cuộc chiến thơng mại đối với cá tra, cá basa của Việt Nam. Nh vậy họ đã tính toán rất kĩ lỡng và đã vạch rõ kế hoạch cho cuộc chiến lần này, so với phía Việt Nam CFA đã có lợi thế ngay từ ban đầu về cả thời gian chuẩn bị lẫn kế hoạch thực hiện. Vụ kiện bắt đầu vào 9/2001, CFA đã sử dụng phơng thức vận động hành lang gây áp lực đối với các đại biểu mi ền Nam ( nơi sản xuất cá da trơn lớn nhất nớc Mỹ) buộc họ phải trình lên quốc hội một dự thảo luật để tránh dùng từ catfish cho việc mua bán cá tra, cá basa trên thị trờng Mỹ. Nh vậy khởi thuỷ của việc khởi kiện cá tra, basa của Việt Nam chính là tác động của lobby để bảo vệ quyền lợi kinh tế của các Hiệp hội nuôi cá da trơn Mỹ. CFA đã gây áp lực trực tiếp tới các đại biểu Hạ viện, nơi mà các đại biểu phải ra ứng
- cử 2 năm một lần vì vậy các đại biểu miền Nam không thể không để ý tới lợi ích của cử tri đơn vị mình. Thêm vào đó, CFA đã tận dụng đợc lợi thế về thời gian, khi mà việc khởi sự việc tranh cử Tổng thống sẽ diễn ra trong năm tới điều đó đã làm cho áp lực của lobby càng lớn hơn. Chính vì những lí do đó mà các nghị sĩ ở các tiểu bang mi ền Nam không thể không bênh vực cho quyền lợi của các tập đoàn nuôi catfish. Tôi đồng ý với ý kiến cho rằng: ngay cả Tổng thống Bush cũng không thể không quan tâm tới các lá phiếu của cộng đồng nuôI cá catfish ( nh cuộc bầu cử lần trớc ông Bush chỉ thắng Al Gore trên dới 300 phiếu ở bang Florida). Đây là chiến lợc hết sức đúng đắn và khôn ngoan của CFA, để đạt đợc mục đích của mình do đã gắn lợi ích đó với lợi ích của các đại biểu mi ền Nam. Hơn thế, dới tác động của lobby, chính quyền liên bang đã chi 6 triệu USD để mua catfish cho chơng trình ăn tra của các trờng học, khoản tiền hỗ trợ này đã làm tăng hình ảnh catfish Mỹ trên thị trờng. Tháng 12/2001, Quốc hội Mỹ thông qua lệnh cấm tạm thời về tên gọi catfish đối với sản phẩm cá filê đông lạnh của Việt Nam. Lí do mà các nhà vận động hành lang của CFA đa ra không phải là không có lý khi họ cho rằng: Việt Nam đang lợi dụng thành quả tiếp thị của những ngời nuôi cá Mỹ, các nhà nuôi cá Mỹ đã biết liên kết với nhau và mở chiến dịch tiếp thị cho thơng hiệu catfish (chi phí đó lên tới 4,5 triệu USD vào năm ngoái) và trong khi khởi kiện về tên gọi họ lại đợc chính quyền liên bang hỗ trợ 6 triệu USD nhằm tăng cờng hình ảnh catfish Mỹ. Ngoài ra với cách lập luận này họ đã đánh trúng vào điểm yếu của cá Việt Nam, mặc dù cá của Việt Nam cung là catfish nhng chúng ta không có thơng hiệu riêng cho sản phẩm này khi xuất khẩu sang thị trờng Mỹ, thêm vào đó, chiến lợc tiếp thị đối với cá tra, basa của chúng ta là hầu nh không có, chỉ khi vụ kiện diễn ra thì mới có nhiều ngời biết đến sản phẩm này của Việt Nam, nhiều ngời dân Mỹ còn viết th hoặc gọi điện để tìm hiểu sản phẩm này của Việt Nam. Khi Quốc hội Mỹ đa ra lệnh cấm đối với tên gọi catfish và cá của Việt Nam không hẳn là catfish thì không chỉ Việt Nam mà ngay cả d luận Mỹ và thế giới đều cho rằng đạo luật đó là phi lí nhng không có lí do gì bắt bẻ họ vì quyết định đó cũng một phần do sự thiếu kinh nghiệm của Việt Nam: kinh doanh trên thị trờng Mỹ mà không nắm rõ luật chơi. Sau khi chiến thắng ở cuộc chiến về nhãn hiệu sản phẩm, CFA tiếp tục chuẩn bị để đa Việt Nam ra toà, lần nay CFA khởi kiện Việt Nam bán phá giá cá tra, cá basa. Ngay từ đầu năm 2002, CFA đã tiến hành các bớc đi để chuẩn bị kiện Việt Nẩm toà và trong các bớc di lần này CFA cũng đã đánh giá rất cao vai trò của vận động hành lang. Tháng 2/2002 các ng dân thành phố Indianola (bang Mississipi, nơi đóng đô của CFA và chiếm tới 94% sản phẩm catfish của toàn bộ miền Nam nớc Mỹ) đã thuê hẳn một vài chuyên gia tầm cỡ từ
- Washington để hớng dẫn các thủ tục pháp lí đồng thời thực hiện chiến dịch vận động hành lang cho catfish Mỹ. Chiêu bài mà họ đa ra để vận động lần này là qui cho cá của Việt Nam rẻ một cách giả tạo, chất lợng sản phẩm thấp, đợc nuôi trong môi trờng bị nhiễm chất độc màu da cam... Những lập luận mà họ đa ra là hết sức phi lý nhng dới tác động của lobby, DOC đã không công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trờng đó là cơ sở cho việc xem xét việc bán phá giá của Việt Nam, từ đó không công nhận chu trình sản xuất khép kín đối với sản phẩm cá tra, cá basa của Việt Nam. Ngày 23/7/2003 ITC bỏ phiếu thuận theo đề nghị của DOC và khẳng định Việt Nam bán phá giá sản phẩm này vào thị trờng Mỹ. Về phía Việt Nam, VASEP đã thuê 2 công ty để vận động hành lang cho mình. Việc vận động hành lang của VASEP cũng đã đạt đợc một số kết quả: đợc sự ủng hộ của 6 nghị sĩ Quốc hội Mỹ, đợc nhiều d luân ủng hộ... tuy nhiên những kết quả đó không đủ để chúng ta bảo vệ sản phẩm của Mình trên thị trờng Mỹ. Việc thơng lợng giữa hai bên cũng đã không đem lại hiệu quả vì bất đồng về lợi ích. VASEP đã đề xuất việc áp dụng hạn ngạch trong 3 năm với sản phẩm cá tra, cá basa trong 3 năm, tuy nhiên đề xuất đó đã bị từ chối vì đơn giản nó không phải là giải pháp tốt để đảm bảo quyền lợi cho các nhà nuôi cá da trơn Mỹ. Theo tôi, Việt Nam thất bại trong vụ kiện này là do ảnh hởng của vận động hành lang của CFA, tôi tin rằng giới quan chức của DOC cũng nh ITC cũng biết rằng những kết luận mà họ đa ra là vô lí nhng họ đã bị áp lực của lobby của các tập đoàn nuôi cá nheo Mỹ và đó cũng là xuất phát từ lợi ích của bản thân họ. Tuy nhiên những kết luận đó cũng xuất phát từ những nhợc điểm từ phía Việt Nam. Thứ nhất, đó là việc còn quá ít kinh nghiệm khi kinh doanh trên thị trờng Mỹ, sản phẩm của chúng ta sang Mỹ mà không có thơng hiệu, VASEP đã không điều chỉnh số lợng xuất khẩu làm cho lợng này tăng đột biến, chính điều này đã làm cho CFA cảm thấy nguy cơ cạnh tranh và là lí do đầu tiên cho cuộc tranh chấp. Thêm vào đó, khi vụ kiện diễn ra, việc chuẩn bị thông tin của chúng ta không chu đáo để DOC vịn vào đó và bắt bẻ chúng ta. Tôi đồng ý với quan điểm của TS. Bùi Kiến Thành (Chuyên gia t vấn cao cấp Công Ty t vấn Phát triển đầu t thơng mại Mỹ, trụ sở tại Việt Nam) trong cuộc trả lời phỏng vấn của VIETNAMNET: “ Tôi không khẳng định việc Việt Nam thất bại trong vụ kiện cá basa là không sử dụng lobby. Vấn đề là ta phải dùng lobby để dàn xếp vụ việc ngoài toà án, tìm phơng thức giải quyết cho các bên cùng có lợi. Trong vụ kiện này, VASEP đã sử dụng lobby không đúng cách, VASEP đã sử dụng lobby nhằm mục đích thắng kiện mặc dù đã biết các vụ kiện trớc Bộ Thơng mại Mỹ thì kết quả là hơn 90% đều nghiêng về phía Mỹ nh
- vậy khác nào chúng ta đang đi vào “cõi chết”. Tôi cũng đồng ý với ý kiến của ông khi cho rằng cái mà chúng ta thiếu trong vụ kiện này là thơng lợng, tức là việc dàn xếp vụ kiện này ngoài toà án. Đây là một cách tốt nhất để bảo vệ quyền lợi của VASEP cũng nh tạo điều kiện cho đối phơng cùng có lợi. Vậy vấn đề giải pháp nào có thể dung hoà đợc lợi ích của cả hai bên? Để đa ra đợc một giải pháp hoàn thiện là một việc không dễ dàng nó phải dựa vào khả năng và tình hình thực tế của cả VASEP lẫn CFA, đồng thời giải pháp đó phải đủ hấp dẫn để CFA gạt vụ kiện này sang một bên mà vẫn có thể giúp VASEP phát triển đợc sản phẩm cá tra, cá basa trên thị trờng Mỹ. TS Bùi Kiến Thành đã đa ra giải pháp đó là: Việt Nam đề xuất với Mỹ rằng hai bên hai bên sẽ hợp tác với nhau để phát triển nghề nuôi cá basa trên sông Mississipi, Missouri, Tennesi ( đây là những con sông lớn ở miền Nam nớc Mỹ, không kém gì Tiền Giang, Hậu Giang của Việt Nam và hoàn toàn có thể nuôi cá đợc) và cùng xuất khẩu sản phẩm này ra khắp thế giới. Theo tôi đây là một giải pháp tơng đối hấp dẫn, nó kết hợp đợc khả năng tài chính dồi dào của CFA cùng với khả năng kĩ thuật trong việc nuôi thuỷ sản của Việt Nam nh vậy lợi ích của cả hai bên đều đợc đảm bảo, mặt khác giảI pháp này tạo điều kiện công ăn việc làm cho một số lớn lao động Mỹ, đồng thời giảm ô nhiễm môi trờng khi nuôi cá trên dòng nớc chảy chứ không phải trên các ao tù, đầm lầy nh ở Mỹ hiện nay. Tuy nhiên, tôi không đồng ý với quan điểm của ông khi cho rằng việc gia nhập WTO không ảnh hởng gì đến kết quả của vụ tranh chấp này. Nếu Việt Nam đã là thành viên của WTO thì chắc chắn kinh nghiệm kinh doanh quốc tế của chúng ta sẽ nhiều hơn so với hiện nay, tầm ảnh hởng của Việt Nam sẽ lớn hơn, nó tạo điều kiện cho quá trình vận động hành lang nh thế cơ hội để bảo đảm lợi ích cá tra, cá basa của Việt Nam sẽ tăng lên. Sau khi nhận đợc kết luận cuối cùng của DOC, VASEP đã khởi kiện lên Toà án Thơng mại Quốc tế Mỹ, hiện nay vụ kiện này vẫn cha kết thúc nhng theo tôi khả năng giành thắng lợi của VASEP là rất nhỏ ngay cả dùng lobby để kiện tụng hay để thơng lợng vì nớc Mỹ không thể xử thắng cho Việt Nam trong cơ chế bầu cử theo phổ thông đầu phiếu nh hiện nay, tất cả nghị sĩ Mỹ kể cả Tổng thống đều phải bảo vệ lợi ích cho cử chi của mình; còn dùng lobby để gây áp lực nhằm giải quyết vụ kiện ngoài toà án lúc này thì đã quá trễ. 2.2.2 ẢNH HỞNG CỦA VẬN ĐỘNG HÀNH LANG TRONG VỤ KIỆN Nếu theo dõi vụ kiện từ đầu có thể thấy rằng, CFA đã sử dụng hoạt động vận động hành lang trong suốt tiến trình của vụ kiện này. Và việc họ giành thắng lợi cũng chính là do tác động của vận động hành lang. Còn việc con cá của Việt Nam thua kiện trên thị trờng Mỹ cũng một phần là do vận động hành lang là một khái niệm quá mới mẻ đối với
- không chỉ với chính phủ mà còn cả với các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu loại sản phẩm này. Trong vụ kiện này, CFA đã có chiến lợc và kế hoạch rõ ràng cho việc vận động hành lang, nhờ có nó CFA đã đI từ chiến thắng này tới chiến thắng khác, đầu tiên là việc lôi sản phẩm cá tra, basa filê đông lạnh lên bàn nghị sự của quốc hội, sau đó là lệnh cấm việc sử dụng tên gọi catfish và cuối cùng là áp đặt mức thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm của Việt Nam. Nếu không có việc vận động hành lang thì ngay cả việc các nghị sĩ mi ền Nam trình lên quốc hội về dự thảo luật về tên gọi catfish cũng khó có thể thực hiện đợc chứ cha nói đến việc Mỹ bỏ ngoài tai búa rìu d luận, bỏ qua những cam kết về bình đẳng trong hiệp định thơng mại đã kí giữa hai nớc để đa ra các quyết định mang tính bảo hộ đối với sản phẩm cá tra, basa của Việt Nam. Nếu không có vận động hành lang thì Mỹ không thể có cơ sở để làm những việc đó, vì thực chất sản phẩm cá tra, cá basa của Việt Nam bớc vào thị trờng Mỹ một cách sòng phẳng, đúng theo quy luật của nền kinh tế thị trờng. Sản phẩm này có lợi thế hơn so với Mỹ là do giá nhân công rẻ, đợc sản xuất theo một chu trình khép kín, công việc nuôi cá đợc tiến hành ở các con sông có dòng chảy, ngợc lại, catfish Mỹ đợc nuôi trong các ao tù đầm lầy, giống chủ yếu là do đánh bắt, giá nhân công và thuế lại cao , những lợi thế đó mới chính là lí do khiến cho cá của Việt Nam đợc tiêu thụ với giá thành rẻ hơn và chất lợng cá tốt hơn so với catfish của Mỹ. Tuy nhiên, bất chấp những căn cứ đó các nhà vận động hành lang vẫn lôi đợc sản phẩm này của Việt Nam ra toà. Tại sao họ có thể làm đợc việc đó? Theo tôi đó chính là sự đối sử không bình đẳng của một nớc lớn với một nớc nhỏ, một mặt họ kêu gào tự do hoá thơng mại, mặt khác họ lại bảo hộ cho các sản phẩm nội địa bất chấp sự phản đối của d luận quốc tế, và hậu thuẫn sau nó là một cơ chế bầu cử theo phổ thông đầu phiếu, là cơ chế mà các nghị sĩ bất chấp vấn đề đạo đức trong kinh doanh, không quan tâm tới việc mất công bằng đang xảy ra. Công việc của các nghị sĩ này chỉ là bảo đảm lợi ích cho các cử chi đã bầu họ nhằm giữ đợc “chiếc ghế” mà họ đang ngồi bất chấp việc đạt đợc lợi ích đó là đúng hay sai. Chính những hạn chế đó đã tạo điều kiện cho các nhợc điểm của hoạt động vận động hành lang nảy nở và phát triển. Và một khi các nhợc điểm này đợc công nhận thì việc bảo hộ thơng mại càng trở nên dễ dàng đặc biệt là ở Mỹ, bất chấp việc nó đã đi ngợc lại với xu hớng phát triển của thế giới. Tuy nhiên, đây là những điều thờng thấy ở các nớc lớn vì vậy muốn thâm nhập vào thị trờng các nớc này chúng ta phải chấp nhận thực tế đó. VASEP thua kiện trên đất Mỹ, mặc dù chúng ta đã nhận đợc rất nhiều sự ủng hộ của d luận Mỹ, của thế giới và một số nghị sĩ Quốc hội Mỹ. Nhng theo tôi, VASEP cũng phải xem xét lại cách mà họ đã hành động
- trong vụ kiện, theo tôi VASEP đã quá tin tởng vào việc DOC cũng nh ITC sẽ xử kiện một cách công bằng nên họ mới đa ra quyết định theo đuổi vụ kiện cho tới cùng, bằng chứng đợc thể hiện ngay từ cách họ vận động hành lang: vận động hành lang để thắng kiện. Nhiều nghị sĩ Quốc hội Mỹ đã trực tiếp đề nghị Quốc hội và các uỷ ban xem xét lại những quyết định của mình, nhng những đề nghị đó đã bị bác bỏ, nh vậy có thể khẳng định Việt Nam thua kiện chính là do thua ở cách vận động hành lang. Sau khi những quyết định đầu tiên đợc đa ra, VASEP vẫn tin tởng vào sự đối xử công bằng của Mỹ, điều này chỉ chứng tỏ sự non nớt trong kinh nghiệm kinh doanh quốc tế của chúng ta. Trong tiến trình của vụ kiện này, VASEP đã có những cơ hội để thay đổi cục diện nhng những cơ hội đó đều bị bỏ qua. Ví dụ nh trong khi vụ kiện vẫn đang đợc tiến hành, VASEP có thể thuê lobby vận động cho ngời tiêu dùng Mỹ và các doanh nghiệp nhập khẩu cá tra, basa của Việt Nam thấy đợc thiệt hại của họ khi áp dụng thuế bán phá giá đối với sản phẩm này của Việt Nam, mặt khác tăng cờng hình ảnh của cá tra, basa trên thị trờng Mỹ, theo tôi, khi đó chính ngời tiêu dùng và các doanh nghiệp nhập khẩu sản phẩm này sẽ trực tiếp vận động và gây áp lực ngợc lại đối với Quốc hội và các uỷ ban Thơng mai của Mỹ, nếu làm đợc điều đó thì cha chắc CFA đa đợc sản phẩm cá của Việt Nam ra toà (nơI mà 90% chiến thắng thuộc về Mỹ). Từ đó hai bên có thể ngồi lại với nhau để đa ra các giải pháp sao cho cả hai bên đều có lợi. Nh vậy ảnh hởng của vận động hành lang lên vụ kiện là rất rõ ràng, có thể khẳng định chính là do vận động hành lang mà CFA đã giành thắng lợi trong vụ kiện này ( mặc dù hiện nay vụ kiện cha thật sự kết thúc nhng khả năng thay đổi tình thế của Việt Nam là hầu nh không thể nếu vẫn sử dụng phơng pháp kiện tụng). Cuộc chiến thơng mại này có thể coi nh cuộc chiến về vận động hành lang giữa các bên và bên nào sử dụng vận động hành lang hiệu quả hơn thì bên đó sẽ giành thắng lợi. 2.3 NGUYÊN NHÂN, U ĐIỂM, NHỢC ĐIỂM CỦA VẬN ĐỘNG HÀNH LANG TRONG VỤ KIỆN 2.3.1 U ĐIỂM Việc thắng kiện do vận động hành lang đã giúp CFA bảo vệ đợc thị trờng trong nớc, thông qua vận động hành lang CFA đã nhận đợc sự hỗ trợ đáng kể từ chính quyền liên bang và Bộ Nông nghiệp Mỹ từ đó làm tăng cờng hình ảnh catfish Mỹ trên thị trờng và tăng khả năng cạnh tranh của họ tại thị trờng nội địa. Mặc dù là bên thua kiện, nhng thông qua vận động hành lang cá tra, cá basa của Việt Nam đã đợc d luận nớc Mỹ cũng nh nhiều
- nớc trên thế giới biết đến, đây là một cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng sản phẩm của mình sang nhiều thị trờng khác. Vận động hành lang là một khái niệm còn mới mẻ đối với chính phủ cũng nh các doanh nghiệp Việt Nam, qua vụ kiện lần này Việt Nam sẽ có thêm kinh nghiêm về kinh doanh quốc tế cũng nh kinh nghiệm về vận động hành lang trên thị trờng Mỹ. Qua vụ kiện lần này, Việt Nam sẽ làm quen với cơ chế Mỹ và những phơng thức giảI quyết các vụ tranh chấp về kinh tế. Sau vụ kiện này, thông qua vận động hành lang họ đã tranh thủ đợc sự ủng hộ của các tổ chức thơng mại quốc tế của Mỹ, tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc tranh chấp thơng mại của họ sau này. 2.3.2 NHỢC ĐIỂM Vận động hành lang trong vụ kiện này đã “bóp méo” sự thật. Thực chất trong vụ kiện này Việt Nam không bán phá giá sản phẩm cá tra, cá basa sang thị trờng Mỹ, nhng do tác động của vận động hành lang, các Quốc hội Mỹ, cũng nh các uỷ ban thơng mại Mỹ là DOC và ITC đã bất chấp sự thật đó, để bảo vệ cho sản phẩm trong nớc có khả năng cạnh tranh kém hơn. Ngời tiêu dùng Mỹ sẽ phải tiêu thụ sản phẩm cá tra, basa filê đông lạnh của Việt Nam với giá cao hơn do mức thuế chống bán phá giá cho sản phẩm này của Việt Nam là quá cao, hoặc là phải tiêu dùng các sản phẩm catfish của Mỹ với chất lợng thấp hơn so với sản phẩm của Việt Nam. Các nhà nhập khẩu cá tra, basa Việt Nam của Mỹ sẽ gặp khó khăn khi phải chịu mức thuế nhập khẩu cao đối với sản phẩm này, chắc chắn sẽ làm giảm lợi nhuận của họ. Việc xuất khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam sang thị trờng Mỹ trong thời gian tới sẽ gặp nhiều khó khăn do mức thuế quá cao làm ảnh hởng tới lợng xuất khẩu cũng nh doanh thu của sản phẩm này ở thị trờng Mỹ. Và nó ảnh hởng trực tiếp tới ngành thuỷ sản và hàng ngàn hộ nuôi cá tra, cá basa của Việt Nam. Do vận động hành lang, các đại biểu cũng nh các cơ quan có liên quan của Mỹ đã ra những quyết định không công bằng với cá tra, cá basa của Việt Nam, đI ngợc lại với những cam kết trong hiệp định thơng mại song phơng giũa hai nớc, từ đó làm cản trở quan hệ song phơng giũa Mỹ và Việt Nam. CFA đã sử dụng vận động hành lang một cách tháI quá, nhằm mục đích bảo hộ thơng mại cho sản phẩm của mình, trong cuộc chiến này vận động hành lang đợc sử dụng nh một phơng thức bảo hộ các sản phẩm trong nớc. Từ đó tiếp tục khơI mào cuộc chiến bảo hộ
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài thảo luận: Phân tích ảnh hưởng của môi trường kinh doanh quốc tế của Mỹ đến hoạt động kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp
45 p | 2759 | 247
-
Tiểu luận: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến mực độ hài lòng của nhân viên trong tổ chức
28 p | 778 | 201
-
Đề tài: Phân tích ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI với phát triển kinh tế của thành phố Hà Nội giai đoạn 2002-2012 và định hướng đến năm 2020
65 p | 309 | 73
-
Tiểu luận: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn của Ngân hàng thương mại (NHTM)? Đề ra giải pháp gia tăng nguồn vốn huy động
10 p | 561 | 71
-
Tiểu luận: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới tỉ suất lợi nhuận, ý nghĩa thực tiễn
9 p | 1070 | 65
-
Tiểu luận: Phân tích ảnh hưởng của văn hóa doanh nghiệp đến sự phát triển của doanh nghiệp
18 p | 843 | 58
-
Tiểu luận: Phân tích kinh tế Brasil
37 p | 235 | 37
-
Tiểu luận: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn của NHTM. Giải pháp gia tăng huy động vốn
17 p | 223 | 34
-
Tiểu luận: PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA ĐẾN MARKETING TẠI AI CẬP VÀ NAM PHI
20 p | 257 | 28
-
Tiểu luận: Phân tích và chứng minh những ảnh hưởng của môi trường, hoạt động, quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh đến sự thay đổi trọng tâm của kế toán quản trị trên thế giới qua các giai đoạn
24 p | 216 | 24
-
Tiểu luận: Phạm vi ảnh hưởng của thuế
23 p | 231 | 24
-
Tiểu luận: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn của Ngân hàng thương mại. Các giải pháp gia tăng nghiệp vụ huy động
25 p | 190 | 19
-
Tiểu luận: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn của NHTM? Giải pháp
12 p | 160 | 18
-
Tiểu luận Quản trị chiến lược: Phân tích ảnh hưởng của môi trường vĩ mô đến việc quyết định chiến lược Công ty cổ phần Kinh Đô
18 p | 63 | 18
-
Tiểu luận Quản trị chiến lược: Phân tích ảnh hưởng của môi trường vĩ mô đến việc quyết định chiến lược của Công ty Cổ phần Kinh Đô
18 p | 52 | 17
-
Tiểu luận: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn của Ngân hàng thương mại? giải pháp gia tăng vốn huy động
13 p | 134 | 14
-
Tiểu luận: Phân tích ảnh hưởng của hoạt động xúc tiến bán hàng đến khối lượng đặt hàng sản phẩm downy của P&G tại các đại lý ở thành phố Huế
30 p | 175 | 12
-
Tiểu luận: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn của NHTM. Giải pháp gia tăng nguồn vốn huy động
8 p | 140 | 9
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn