intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Phân tích rủi ro quốc gia

Chia sẻ: Sdgvfcxg Sdgvfcxg | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:36

484
lượt xem
51
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài Phân tích rủi ro quốc gia nêu lý thuyết về rủi ro quốc gia những ảnh hưởng của rủi ro quốc gia đối với hoạt động của ngân hàng quốc tế. Thực tế về ảnh hưởng của những rủi ro này đối với hoạt động của ngân hàng quốc tế trong thời gian qua. Một số khía cạnh thực tế về rủi ro quốc gia ở Việt Nam giai đoạn hiện nay Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro quốc gia và gia tăng thu hút đầu tư cũng như hoạt động của các tổ chức đa quốc gia nói chung và ngân hàng quốc tế nói riêng tại Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Phân tích rủi ro quốc gia

  1. PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG QUỐC TẾ ĐỀ TÀI PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG LỚP: NH Đêm 1 – Khóa 22 –Nhóm 5.2 Danh sách nhóm: Nguyễn Hoàng Anh Nguyễn Thị Ngọc Anh Đặng Thị Thu Hương Phạm Quốc Kỳ Thái Kim Loan Nguyễn Bùi Thiên Lý TP. Hồ Chí Minh, tháng 03 năm 2014 NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 1
  2. PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG LỜI NÓI ĐẦU Xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra hết sức mạnh mẽ trên toàn thế giới trong hầu hết mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Sự phát triển nhanh chóng của kinh tế từng quốc gia khiến cho mọi nguồn lực trong nước bị tận dụng một cách triệt để và sự liên kết giữa các quốc gia để tối ưu hóa hiệu quả của các nguồn lực này cho phát triển kinh tế là một xu hướng tất yếu. Nhu cầu tìm kiếm các thị trường mới nhằm mục đích mở rộng và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực khiến cho các luồng vốn quốc tế liên tục được chu chuyển qua lại từ quốc gia này sang quốc gia khác, từ châu lục này sang châu lục khác. Đi cùng với xu hướng toàn cầu hóa và chu chuyển vốn quốc tế được diễn ra sôi động trong nửa cuối của thế kỷ 20 và những năm đầu thế kỷ 21, các cầu nối cho các nguồn lực này là các ngân hàng quốc tế cũng liên tục được ra đời và phát triển. Với đặc trưng riêng có là có hệ thống mạng lưới trải rộng tại nhiều quốc gia trên thế giới, hoạt động cung cấp hàng hóa dịch vụ cho nhiều nền kinh tế khác nhau, trong nhiều nền văn hóa khác nhau và quan trọng nhất là dưới nhiều thể chế chính trị khác nhau nên các công ty đa quốc gia nói chung và ngân hàng quốc tế nói riêng thường phải đối mặt với rất nhiều rủi ro mang tính chất quốc gia như nợ công chính phủ, rủi ro về tỷ giá, rủi ro về lạm phát, rủi ro về bất ổn chính trị, rủi ro về bạo loạn hay thiên tai... của nước sở tại. Do đó, nhu cầu về hệ thống quản trị rủi ro của các công ty đa quốc gia nói chung và ngân hàng quốc tế nói riêng trong giai đoạn hiện nay là hết sức bức thiết và vấn đề rủi ro quốc gia là vấn đề mà các tổ chức này hết sức quan tâm, bỏ nhiều công sức cũng như tiền bạc để đánh giá nhân tố này trước khi quyết định tham gia vào thị trường một quốc gia. Việt nam chúng ta cũng đang trong quá trình hội nhập mạnh mẽ, các hàng rào thuế quan dần được gỡ bỏ, các chính sách thu hút đầu tư hết sức tích cực của chính phủ trong thời gian qua khiến dòng vốn đầu tư nước ngoài liên tục được đổ vào. Dòng vốn này góp phần rất lớn trong sự tăng trưởng vượt bậc của nền kinh tế Việt Nam suốt giai đoạn từ những năm 1990 trở lại đây. Tuy nhiên, dòng vốn quốc tế đang ngày càng trở nên khó tính trong việc chọn lựa bến đỗ mà rủi ro quốc gia là một nhân tố hết sức quan trọng được các tổ chức quốc tế hết sức cân nhắc. Hiện tại cũng đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề rủi ro quốc gia của một số tác giả trên thế giới, tuy nhiên ở Việt Nam vẫn chưa có nhiều nghiên cứu chính thức về vấn đề này do đó nhóm 5.2 lớp Ngân hàng đêm 1 xin thực hiện một nghiên cứu sơ bộ về "Phân tích ảnh hưởng của rủi ro quốc gia đối với hoạt động của ngân hàng quốc tế" nhằm mục đích làm rõ hơn về khái niệm rủi ro quốc gia và những tác NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 2
  3. PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG động của loại rủi ro này đối với các công ty đa quốc gia nói chung và ngân hàng quốc tế nói riêng. Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề trọng tâm như sau: - Lý thuyết về rủi ro quốc gia - Những ảnh hưởng của rủi ro quốc gia đối với hoạt động của ngân hàng quốc tế - Thực tế về ảnh hưởng của những rủi ro này đối với hoạt động của ngân hàng quốc tế trong thời gian qua. - Một số khía cạnh thực tế về rủi ro quốc gia ở Việt Nam giai đoạn hiện nay - Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro quốc gia và gia tăng thu hút đầu tư cũng như hoạt động của các tổ chức đa quốc gia nói chung và ngân hàng quốc tế nói riêng tại Việt Nam. NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 3
  4. PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG CHƯƠNG 1 LÝ THUYẾT VỀ RỦI RO QUỐC GIA 1. Khái niệm về rủi ro quốc gia Đối với bất kỳ hoạt động đầu tư nào, vấn đề rủi ro luôn được đề cập đến khi đánh giá tính hiệu quả của hoạt động đầu tư đó. Ngày nay, trong quá trình toàn cầu hóa, sự chu chuyển vốn giữa các quốc gia càng diễn ra mạnh mẽ hơn. Vấn đề xem xét đánh giá mức độ rủi ro của từng quốc gia được đặt ra cũng trở nên phổ biến như việc đánh giá rủi ro của bất kỳ hoạt động đầu tư nào đó. Rủi ro quốc gia đề cập đến rủi ro mà một quốc gia sẽ không thể thực hiện, giữ đúng được lời hứa đối với các cam kết tài chính của mình. Khi mà một quốc gia không hoàn thành được nhiệm vụ đề ra thì nó sẽ gây hại đến hoạt động của tất cả các công cụ tài chính khác trong quốc gia đó cũng như đến những quốc gia mà nó có quan hệ. Rủi ro quốc gia áp dụng cho cổ phiếu, trái phiếu, quỹ tương hỗ, quyền chọn và hợp đồng tương lai mà được phát hành trong một quốc gia cụ thể. Loại rủi ro này hầu hết thường được thấy tại các thị trường mới nổi hay các quốc gia bị thâm hụt cán cân thương mại nghiêm trọng. Rủi ro quốc gia còn ám chỉ đến khả năng có thể xảy ra khi mà một chính phủ hay người đi vay từ một quốc gia cụ thể có thể không có khả năng hay không sẵn sàng để thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ nợ của họ đối với một hay nhiều người cho vay nước ngoài hay nhà đầu tư nước ngoài. Rủi ro quốc gia theo Bourke (1990) là khả năng của một quốc gia để tạo ra đủ dự trữ ngoại hối để đáp ứng cho những nghĩa vụ nợ bên ngoài. Những yếu tố quan trọng của rủi ro quốc gia là tình trạng hoạt động mậu dịch (xuất khẩu trừ nhập khẩu chia cho GNP) và mức độ nợ nước ngoài. Roy (1994) đã bổ sung định nghĩa này và mô tả rủi ro nợ của chính phủ. Đây là những khả năng tiềm tàng đối với những mất mát tài chính mà có nguồn gốc từ các sự kiện kinh tế hay chính trị. Rủi ro này có thể nảy sinh từ việc nắm giữ những trái quyền công hay tư nhân. Rủi ro quốc gia là một định nghĩa rộng hơn của rủi ro tín dụng và cho vay xuyên biên giới. Nếu rủi ro này được xem xét từ khía cạnh một danh mục cho vay thì nó bao gồm cả các yếu tố hệ thống (rủi ro không thể đa dạng hóa) và các yếu tố phi hệ thống (rủi ro có thể đa dạng hóa). Một quan điểm chủ yếu của lý thuyết tài chính là rủi ro tổng hợp được cấu thành từ rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống. Rủi ro hệ thống cũng có thể xem như là rủi ro không NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 4
  5. PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG thể tránh được hay rủi ro không thể đa dang hóa. Rủi ro phi hệ thống cùng một lúc có thể được mô tả như là rủi ro chính trị và rủi ro có thể đa dạng hóa. Rủi ro này là có thể tránh được nhưng nó làm giảm tỷ suất sinh lợi và rủi ro này có thể tiến tới 0 khi một lượng các chứng khoán (các tài sản vay mượn quốc tế) lựa chọn ngẫu nhiên được thêm vào danh mục. Rủi ro phi hệ thống có thể được giảm thiểu một cách đáng kể với một lượng vừa phải các chứng khoán được đa dạng hóa. Rủi ro quốc gia là rủi ro mà các điều kiện và các sự kiện kinh tế, xã hội, chính trị ở một quốc gia sẽ ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích của một quá trình đầu tư. Rủi ro quốc gia cũng bao gồm các khả năng quốc hữu hóa hay sung công tài sản, sự từ chối trả nợ nước ngoài của chính phủ, việc kiểm soát ngoại hối, sự đánh giá thấp tiền tệ hay mất giá, phá giá tiền tệ. Thuật ngữ rủi ro quốc gia thường được sử dụng gắn với đầu tư xuyên biên giới và được phân tích từ viễn cảnh của nhà đầu tư nước ngoài. Rủi ro quốc gia là rủi ro đơn nhất mà nhà đầu tư nước ngoài phải đối mặt khi đầu tư vào một quốc gia khi so sánh đầu tư vào quốc gia khác. Rủi ro quốc gia là một phần đơn lẻ của rủi ro đầu tư, được gây ra trong một quốc gia. Việc hiểu về thuật ngữ rủi ro quốc gia đến mức độ nào là phụ thuộc vào dạng đầu tư. Có 3 dạng đầu tư nước ngoài phổ biến: cho vay, đầu tư vốn cổ phần, và đầu tư trực tiếp FDI. Cho vay bao gồm cho vay trực tiếp, hoặc mua trái phiếu của chính phủ hay trái phiếu các công ty tư nhân ở quốc gia đó. Vốn cổ phần bao gồm đầu tư vào những công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán hay không được niêm yết trên thị trường chứng khoán ở quốc gia đó. Đầu tư trực tiếp bao gồm việc đầu tư vào xí nghiệp và tài nguyên như hầm mỏ hay giếng dầu và các tài sản thực khác. Liên quan đến việc cho vay, người đi vay có thể phân loại thành hai nhóm: chính phủ vay và vay có bảo đảm của chính phủ, và vay từ các công ty tư nhân không có bảo đảm. Khi thuật ngữ rủi ro quốc gia được sử dụng trong cho vay xuyên biên giới và người đi vay là chính phủ thì rủi ro tín dụng được biết đến như là rủi ro thể chế (sovereign risk) hay rủi ro tín dụng quốc gia. Rủi ro tín dụng là rủi ro mà người đi vay sẽ không hoàn thành đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng vay mượn dẫn đến những mất mát cho người cung cấp tín dụng hay người cho vay. Rủi ro quốc gia đối với nhà đầu tư bao gồm cả khả năng “tăng giá” tiềm tàng và rủi ro “giảm giá” và có thể đo lường bằng phương sai của thu nhập. Trong hầu hết các trường hợp khả năng các sự kiện tiêu cực sẽ làm tăng giá trị đầu tư là rất thấp. Do đó rủi ro quốc gia có thể xem như là những tác động mang tính quốc gia đến thu nhập từ đầu tư. 2. Phân loại rủi ro quốc gia NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 5
  6. PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG Có nhiều quan niệm trong việc phân loại rủi ro quốc gia, trong đó có những quan niệm chủ chốt như sau: a. Quan điểm thứ 1: Một phân loại tương đối hợp lý đối với rủi ro quốc gia là rủi ro kinh tế, rủi ro thương mại và rủi ro chính trị. - Rủi ro kinh tế: Là các rủi ro xảy ra khi có sự thay đổi của các nhân tố kinh tế vĩ mô của một quốc gia điển hình như lãi suất hay tỉ giá hối đoái gây ảnh hưởng tới lợi nhuận của đầu tư. - Rủi ro thương mại: Rủi ro liên quan đến một đầu tư xác định, chẳng hạn như rủi ro liên quan đến việc hoàn thành đầy đủ các hợp đồng với các công ty tư nhân hay đối tác địa phương. - Rủi ro chính trị: Đối với nhiều quốc gia là loại quan trọng nhất. Một quốc gia là một thực thể chính trị với những luật lệ và quy định áp dụng đối với đầu tư. Thêm vào đó những điều luật bảo vệ quyền đối với tài sản cá nhân, sự sẵn sàng và khả năng của một chính phủ thay đổi những luật lệ và quy định này sẽ tạo thành một nguồn rủi ro đối với đầu tư. Rủi ro chính trị cũng có thể gây ra bởi hành vi của nhà nước hay các công ty sở hữu nhà nước trên thị trường, hay trong các trường hợp nguy kịch như chiến tranh và bạo loạn. b. Quan điểm thứ hai: Kiểu phân loại rủi ro quốc gia thứ 2 là phân loại rủi ro quốc gia thành rủi ro chính trị, rủi ro kinh tế, rủi ro tài chính. Đây là cách phân loại phổ biến nhất và thường được các tổ chức xếp hạng sử dụng. - Rủi ro chính trị: thể hiện tính ổn định về mặt chính trị của một quốc gia mà có thể ảnh hưởng đến khả năng và thiện chí trong việc đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của mình. Rủi ro chính trị tăng lên từ các sự kiện như chiến tranh, xung đột nội bộ hay xung đột bên ngoài, khủng bố… dẫn đến những thay đổi trong chính phủ. Rủi ro chính trị còn được thể hiện thông qua những vấn đề bất ổn chính trị của quốc gia láng giềng. - Rủi ro kinh tế: thể hiện sức mạnh hay sự yếu kém của nền kinh tế của một quốc gia. - Rủi ro tài chính: thể hiện khả năng của một quốc gia để đáp ứng cho việc thanh toán các khoản tín dụng chính thức, thương mại… nước ngoài.  Rủi ro kinh tế và rủi ro tài chính phản ánh năng lực chi trả của một quốc gia đối NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 6
  7. PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG với các khoản nợ của mình, trong khi đó rủi ro chính trị lại phản ánh thiện chí trả nợ đó. c. Quan điểm thứ ba: Quan điểm thứ 3 đối với việc phân loại rủi ro quốc gia hướng cụ thể vào từng loại rủi ro. Các nhà phân tích có khuynh hướng phân loại rủi ro quốc gia vào 6 loại chính: rủi ro kinh tế, rủi ro chuyển giao, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro vị trí hay vùng lân cận, rủi ro thể chế, rủi ro chính trị. Nhiều loại trong số các rủi ro này chồng chéo lẫn nhau, dựa trên mối quan hệ quốc tế của nền kinh tế trong nước với hệ thống chính trị và cộng đồng quốc tế. Mặc dù nhiều nhà phân tích rủi ro có thể không đồng ý hoàn toàn với cách phân loại này nhưng các khái niệm này có khuynh hướng thể hiện rủi ro quốc gia. - Rủi ro kinh tế: một sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu kinh tế hay tỷ lệ tăng trưởng mà tạo ra một thay đổi chủ yếu trong thu nhập kỳ vọng của một đầu tư. Rủi ro này phát sinh từ khả năng tiềm tàng của những thay đổi bất lợi trong mục tiêu của các chính sách kinh tế chủ yếu (chính sách tài khoá, chính sách quốc tế, chính sách phân bổ của cải hay chính sách sản xuất) hay phát sinh từ một thay đổi đáng kể trong lợi thế so sánh của quốc gia (như cạn kiệt tài nguyên, suy thoái công nghiệp, dịch chuyển dân cư). - Rủi ro chuyển giao: rủi ro phát sinh từ một quyết định bởi chính phủ một quốc gia về việc hạn chế sự di chuyển của dòng vốn nước ngoài. Những hạn chế này có thể là: gây khó khăn cho việc chuyển lợi nhuận, cổ tức, hay vốn về nước. Rủi ro chuyển giao cũng có thể hiểu là khả năng mà một tài sản không thể chuyển đổi sang một đồng tiền thanh toán (đồng tiền có khả năng chuyển đổi) bởi vì quốc gia vay nợ thiếu ngoại hối cần thiết hay kiềm chế khả năng này. - Rủi ro tỷ giá: một sự biến động bất lợi không mong đợi trong tỷ giá hối đoái. Trong ngắn hạn, rủi ro đối với nhiều đồng tiền có thể được loại bỏ ở một chi phí có thể chấp nhận được thông qua các cơ chế phòng ngừa khác nhau và các hợp đồng tương lai. Một chính sách tỷ giá hối đoái cố định của một quốc gia có thể giúp cô lập rủi ro rủi ro tỷ giá. Kiềm chế mức độ thả nổi tỷ giá cùng với việc chính phủ cố gắng kiểm soát đồng tiền trong một phạm vi chật hẹp, có khuynh hướng gây ra rủi ro cao hơn là hệ thống tỷ giá cố định hay tỷ giá chuẩn tiền tệ. Hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi thông thường duy trì rủi ro thấp hơn đối với việc gây ra một sự dịch chuyển tỷ giá bất lợi không mong đợi. Mức độ đánh giá cao hay thấp của một đồng tiền cũng có thể giúp cô lập rủi ro tỷ giá hối đoái. NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 7
  8. PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG - Rủi ro vị trí hay rủi ro vùng lân cận: bao hàm các hiệu ứng dây chuyền gây nên bởi những khó khăn trong một khu vực, bởi một nước đối tác của một quốc gia, hay trong các quốc gia với những tính chất tương tự. - Rủi ro thể chế: liên quan đến việc hoặc một chính phủ sẽ không sẵn lòng hay không thể đáp ứng được các nghĩa vụ nợ, hoặc là có thể bội ước các cam đoan đối với các khoản vay nợ. - Rủi ro chính trị: liên quan đến một thay đổi trong thể chế chính trị xuất phát từ một thay đổi trong quyền lực kiểm soát chính phủ, cơ cấu xã hội, hay nhân tố phi kinh tế khác. Loại rủi ro này bao hàm khả năng tiềm tàng đối với những xung đột bên trong và bên ngoài, rủi ro sung công. Đánh giá rủi ro này đòi hỏi phân tích nhiều nhân tố, bao gồm các mối quan hệ của các đảng phái khác nhau trong một quốc gia, quá trình ra quyết định trong chính phủ, và lịch sử của quốc gia đó. 3. Các nhân tố tác động đến rủi ro quốc gia a. Các nhân tố kinh tế vĩ mô Nhân tố đầu tiên trong các nhân tố này là quy mô và cấu trúc của nợ nước ngoài trong mối quan hệ với nền kinh tế của quốc gia đó, bao gồm: - Mức độ hiện tại của nợ ngắn hạn và khả năng tiềm tàng đưa đến một cuộc khủng hoảng thanh khoản. - Quy mô nợ nước ngoài của khu vực công, khả năng của chính phủ để tạo ra đủ thu nhập, từ thuế và các nguồn khác, để đáp ứng nghĩa vụ nợ. b. Điều kiện và tính dễ tổn thương của tài khoản vãng lai của quốc gia cũng là một nhân tố quan trọng, bao gồm: - Mức dự trữ quốc tế. - Mức dự trữ nhập khẩu được cung cấp bởi dự trữ quốc tế của quốc gia. - Tính quan trọng của hàng hóa xuất khẩu với tư cách là một nguồn thu nhập, sự hiện hữu của bất kỳ cơ chế ổn định giá, và tính dễ tổn thương của quốc gia đối với một sự sụt giảm trong thị trường xuất khẩu hay trong giá cả của một hàng hóa xuất khẩu. - Khả năng tiềm tàng đối với những biến động đột ngột trong tỷ giá hối đoái và tác động lên giá trị xuất khẩu và nhập khẩu của quốc gia. c. Vai trò của các nguồn vốn nước ngoài trong việc đáp ứng nhu cầu tài trợ của quốc gia là một sự suy xét quan trọng khác trong việc phân tích rủi ro quốc gia, NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 8
  9. PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG bao gồm: - Việc tiếp cận các thị trường tài chính quốc tế của quốc gia và những ảnh hưởng tiềm tàng của một tổn thất trong tính thanh khoản của thị trường. - Mối quan hệ của quốc gia với các nhà cấp tín dụng của khu vực tư nhân, bao gồm sự tồn tại của những cam kết vay mượn và thái độ của các chủ ngân hàng đối với quan hệ trong việc cho vay thêm đối với các nhà đi vay trong quốc gia đó. - Vị thế hiện thời của quốc gia đối với các nhà cấp tín dụng đa phương và chính thức, bao gồm khả năng của quốc gia để có đủ tư cách và chịu đựng được những chương trình điều chỉnh kinh tế của IMF hay các chương trình phù hợp khác. - Xu hướng trong đầu tư nước ngoài và khả năng của quốc gia trong việc thu hút Những cơ hội của tiến trình tư nhân hóa của các thực thể thuộc sở hữu nhà nước. d. Các yếu tố thuộc môi trường xã hội, chính trị và pháp luật - Tiềm lực tự nhiên và nguồn nhân lực của quốc gia. - Thiện chí và năng lực của chính phủ để nhận biết những vấn đề kinh tế và vấn đề ngân sách và hành động để sữa chữa bổ sung thích hợp. - Mức độ tác động của tư tưởng bè phái, chính trị hay xung đột vũ trang đến chính phủ của quốc gia đó. - Bất cứ xu hướng nào về việc đánh thuế giá cả, lãi suất, hay kiểm soát ngoại hối. - Mức độ mà hệ thống pháp luật có thể bảo vệ một cách công bằng lợi ích của các nhà tín dụng nước ngoài và nhà đầu tư. - Các chính sách khuyến khích của chính phủ trong việc quản lý hiệu quả rủi ro của các tổ chức định chế. - Mức độ gia nhập của quốc gia vào hệ thống pháp luật và các chuẩn mực kinh doanh quốc tế. e. Một số các nhân tố kinh tế vĩ mô quan trọng khác, bao gồm: - Mức độ mà nền kinh tế của quốc gia có thể bị tác động bất lợi thông qua sự lây lan các vấn đề khó khăn từ các quốc gia khác. - Quy mô và tình hình của hệ thống ngân hàng của quốc gia, bao gồm hệ thống giám sát hoạt động ngân hàng và bất kỳ gánh nặng tiềm tàng của các khoản nợ bất ngờ mà một hệ thống ngân hàng yếu kém có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với chính phủ. - Quy mô của vay mượn trực tiếp từ chính phủ hay sự can thiệp khác của chính phủ NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 9
  10. PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG có thể tác động bất lợi đến tính hoàn hảo của hệ thống ngân hàng, hay cơ cấu và khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp hay các công ty được ưu đãi. - Mức độ tác động mà các điều kiện kinh tế vĩ mô có thể gây ra bất lợi đối với rủi ro tín dụng của các đối tác của nhà đầu tư trong quốc gia đó. - Viễn cảnh kinh tế của bất kỳ ngành công nghiệp mục tiêu của quốc gia. - Đầu tư nước ngoài trong tương lai. 4. Rủi ro quốc gia và hoạt động của ngân hàng quốc tế Cũng là một loại công ty đa quốc gia (TNCs), ngân hàng quốc tế mang đầy đủ các đặc trưng nổi bật của một TNCs như: - Đa dạng hoá (Diversification). Để thoả mãn nhu cầu đa dạng của thị trường mục tiêu nước ngoài, ngân hàng quốc tế không có cách lựa chọn tích cực nào khác là phải đa dạng hoá sản phẩm, và do đó mỗi nhóm sản phẩm của công ty phải theo hướng “cá biệt hoá” (Differentiation). Đặc trưng này là sự quán triệt nguyên lý chung “tư duy toàn cầu, hành động địa phương” (Thinking global, Action Local) như đã nói trên để thực hiện chiến lược cụ thể “sản phẩm toàn cầu, thị hiếu địa phương” (Global Product, Loccal Tastes). - Tiêu chuẩn hoá (Standardization). Ngân hàng quốc tế xác định những nhu cầu, thị hiếu giống nhau của thị trường nước ngoài khác nhau trên phạm vi địa lý rộng để hướng vào những sản phẩm tiêu chuẩn hoá nhằm thoả mãn nhu cầu đồng nhất của số khách hàng đông nhất trên nhiều thị trường, nhất là thị trường toàn cầu. - Quốc tế hoá (Internationalization). Đây là đặc trưng nổi bật của ngân hàng quốc tế diễn ra chủ yếu ở pha 3 trong tiến trình mở cửa quốc tế. Đó cũng là quá trình nỗ lực để mở rộng hoạt động kinh doanh của ngân hàng quốc tế ra hàng loạt quốc gia trên toàn khu vực có nhiều lợi thế nhất. Đặc trưng này còn gọi là đa quốc gia hoá hay khu vực hoá (như toàn bộ khu vực châu á- Thái bình dương hay trên toàn bộ châu Âu…). - Toàn cầu hoá (Globalisation). Đặc trưng này của ngân hàng quốc tế thường thể hiện rõ nhất trong pha 4 của tiến trình mở cửa quốc tế. Toàn bộ hoạt động chiến lược Marketing – mix của TNCs lớn thường mở rộng trên cấp độ toàn cầu, như chiến lược thị trường toàn cầu, chiến lược sản phẩm toàn cầu, chiến lược giá toàn cầu. Đây cũng là đặc trưng nổi bật hiện nay của nhiều công ty, điển hình như Coca – Cola, IBM, P&G, Toyota… Đặc trưng này cũng là mục tiêu cao nhất mà ngân hàng quốc tế hướng tới, theo đó người lãnh đạo ngân hàng quốc tê cần phải rất chú trọng nguyên tắc: “xem xét toàn bộ thị trường thế giới như một đơn vị kinh tế thống nhất”. NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 10
  11. PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG Và cũng do đó, các ngân hàng quốc tế cũng phải chịu những rủi ro như các công ty đa quốc gia mà loại rủi ro nghiêm trọng nhất phải đề cập đến là rủi ro quốc gia. Cụ thể như: 1.Rủi ro xuất phát từ chế độ chính trị và luật pháp của một quốc gia Sự chiếm hữu tài sản doanh nghiệp của chính phủ các nước Chính phủ các nước có thể chiếm hữu tài sản của các công ty đa quốc gia nói chung và ngân hàng quốc tế nói riêng bằng hai con đường chính: tịch thu và sung công. Tịch thu được hiểu là sự thu hồi các tài sản của các doanh nghiệp nước ngoài mà không có bất kỳ một sự đền bù nào. Ví dụ, Bộ Tư pháp Mỹ ngày 18/9/2013 cho biết nước này đã giành lại quyền kiểm soát một tòa cao ốc ở khu vực Manhattan được cơ quan công tố cho là thuộc sở hữu bí mật của Iran. Việc thu và bán tòa nhà 36 tầng nằm ở Đại lộ số 5 tại trung tâm New York sẽ là "vụ thu giữ lớn nhất từng liên quan tới chủ nghĩa khủng bố" như tuyên bố của Bộ Tư pháp. Các công tố viên cáo buộc những chủ nhân của tòa nhà là Quỹ Alavi và Quỹ Assa, đã chuyển tiền cho thuê tòa nhà và các khoản tiền khác tới ngân hàng Meli do chính quyền Iran sở hữu. Alavi cũng điều hành một tổ chức từ thiện cho Iran và quản lý tòa nhà cho chính quyền. Theo cáo buộc của cơ quan công tố, tòa nhà được xây dựng vào những năm 1970 bởi một tổ chức phi lợi nhuận do Shah Iran điều hành và được cấp vốn bởi Ngân hàng Meli. Nó đã bị chính quyền Iran mới sung công sau cuộc cách mạng 1979. Họ nói rằng tổ chức phi lợi nhuận của Shah là quỹ Pahlavi đã được đổi tên thành Quỹ Mostazafan ở New York, sau đó là quỹ Alavi. Cựu chủ tịch quỹ Alavi đã thừa nhận có tội hồi năm 2009 vì cản trở chính quyền, khi hủy bỏ các chứng cứ liên quan tới vụ việc, vốn được chính quyền đệ trình lên tòa án hồi năm 2008. Quỹ Alavi tuyên bố sẽ kháng án. Quỹ nói trên trang web rằng họ "thất vọng" trước phán quyết và đã "không có cơ hội phản bác chứng cứ của chính quyền trước một thẩm phán". Cấm vận và trừng phạt thương mại (Embargo and Sanction) Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đã ký kết các bản hiệp định và thỏa thuận quốc tế về những luật lệ, nguyên tắc, tiêu chuẩn trong hành vi giao dịch thương mại trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, chính phủ các quốc gia vẫn có thể đơn phương dùng đến các chính sách trừng phạt và cấm vận thương mại nhằm đối phó với các động thái gây hấn của các nước khác. Trừng phạt thương mại là một hình thức cấm các giao dịch thương mại quốc tế, thường được một hoặc một nhóm các quốc gia sử dụng để đối phó với một quốc NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 11
  12. PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG gia khác khi nhận định rằng quốc gia này có những động thái đe dọa hòa bình và an ninh. Cấm vận là những lệnh cấm chính thức đối với một hay một vài quốc gia đặc biệt về xuất khẩu hoặc nhập khẩu một số loại hàng hóa, hoặc về các phương thức vận chuyển. Lệnh cấm vận thường được ban hành trong thời gian chiến tranh, hoặc khi có căng thằng gia tăng giữa các quốc gia. Cấm vận là một trong những hình thức ngăn chặn giao dịch thương mại trên một số mặt hàng nhất định đối với một số quốc gia nhất định. Việc cấm vận và trừng phạt thương mại này ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của ngân hàng quốc tế, vốn dĩ dựa vào thương mại quốc tế để hoạt động. Ví dụ như Ngân hàng Hoàng gia Scotland (RBS) ngày 11/12/2013 đã phải đồng ý nộp phạt 100 triệu USD để dàn xếp những cáo buộc liên quan đến việc vi phạm các lệnh trừng phạt của Mỹ do có quan hệ làm ăn với Iran, Myanmar và Sudan. Tuyên bố của Bộ Tài chính Mỹ nêu rõ ngân hàng RBS đã vi phạm lệnh cấm vận của Washington khi tiến hành các giao dịch bí mật với các khách hàng Iran và các nước chịu lệnh trừng phạt trong giai đoạn 2005 - 2009, cũng như thực hiện hơn 3.500 vụ giao dịch trị giá 500 triệu USD với các ngân hàng có quan hệ làm ăn với khách hàng Sudan và Iran trong giai đoạn 2002 - 2011. Tổng số tiền phạt mà RBS phải trả là 133 triệu USD, trong đó 50 triệu USD được nộp cho Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ (Fed), 50 triệu USD nộp cho Cơ quan quản lý tài chính bang New York, còn 33 triệu USD phải nộp phạt cho Bộ Tài chính Mỹ. Song RBS sẽ chỉ phải nộp 100 triệu USD, vì Bộ Tài chính Mỹ cho biết họ hài lòng với khoản chi trả từ phần nộp phạt cho Fed. Trong một thông báo, RBS đã phải ngậm đắng lên tiếng thừa nhận và bày tỏ sự "hối tiếc sâu sắc" về những hành vi vi phạm lệnh trừng phạt của Mỹ. Ngân hàng này cũng đã đồng ý tiến hành các thủ tục cần thiết nhằm ngăn chặn sự việc này tái diễn, đồng thời đã sa thải một số nhân viên liên quan đến vụ việc trên. Tẩy chay kinh tế (boycotts) đối với một số quốc gia hay một số doanh nghiệp Người tiêu dùng và một số nhóm quyền lợi đặc biệt đôi khi vẫn thường tẩy chay một số doanh nghiệp nếu họ nhận thấy các doanh nghiệp này gây ảnh hưởng xấu đến thị hiếu tiêu dùng ở địa phương. Khách hàng cũng thường từ chối ủng hộ các doanh nghiệp nếu cho rằng hành vi kinh doanh của các doanh nghiệp đó là không phù hợp. Tẩy chay (boycotts) được hiểu là động thái tự nguyện từ chối việc tham gia các giao dịch thương mại đối với một quốc gia hay một công ty nào đó. Tẩy chay và các hình thức phản đối giao dịch thương mại khác của người dân sẽ dẫn đến doanh số bán hàng giảm, còn các chi phí NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 12
  13. PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG liên quan đến hoạt động quan hệ cộng đồng sẽ tăng lên do doanh nghiệp phải tăng cường cải thiện hình ảnh của công ty trong dân chúng. Đối với hệ thống ngân hàng quốc tế, khi có động thái tẩy chay từ phía khác hàng đối với chính ngân hàng hoặc chính phủ nơi mà ngân hàng có trụ sở thì tình hình kinh doanh của ngân hàng chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ. Ví dụ như ngày 4/3/2014, Chính phủ Nga đã tuyên bố trong trường hợp Mỹ tiến hành các biện pháp trừng phạt do vấn đề Ukraine, Nga sẽ buộc phải chuyển sang loại tiền tệ khác, tạo lập hệ thống thanh toán riêng. Chính phủ Nga cũng cảnh báo: “Ý đồ áp đặt trừng phạt chống Nga sẽ biến thành sự phá sản của hệ thống tài chính Mỹ, dẫn đến chấm dứt sự thống trị của Mỹ trong hệ thống tài chính toàn cầu”. Và cũng theo thông tin chính phủ Nga công bố, ngay cả khi lệnh trừng phạt được tiến hành, Nga sẽ buộc phải xác nhận thực tế không thể trả nợ cho các ngân hàng Mỹ. Phía Nga cũng cho hay, các lệnh trừng phạt của Mỹ là con dao hai lưỡi, nếu Mỹ đóng băng các tài khoản của Nga, thì, tương tự, các khoản nợ của Nga bằng đồng đô-la cũng sẽ bị đóng băng. Điều này có nghĩa là các ngân hàng và các doanh nghiệp của Nga sẽ không phải trả nợ cho các đối tác Mỹ và nếu Mỹ đóng băng các tài khoản của doanh nghiệp và công dân Nga, thì Moscow “sẽ kêu gọi tất cả bán tháo trái phiếu quốc gia của Mỹ”, Trong một động thái liên quan, Bộ Tài chính Nga thông báo từ ngày 4/3 sẽ ngừng mua dự trữ ngoại tệ. Như vậy, nếu lệnh cấm vận của Mỹ đối với Nga được ban hành thì cả hệ thống ngân hàng của Mỹ và Nga sẽ phải chịu không ít thiệt thòi. Hay như ngày 17/03/2012, hiệp hội Viễn thông Tài chính Liên Ngân hàng toàn thế giới (SWIFT), chuyên tạo thuận lợi cho các hoạt động chuyển tiền vừa cấm 30 nhà băng Iran sử dụng dịch vụ. Đây là hệ quả trực tiếp từ các hành động đa phương và mang tính quốc tế nhằm siết chặt các biện pháp trừng phạt tài chính đối với Iran. Đánh giá về tác động của lệnh cấm vận này, theo Ali Ansari - chuyên gia về Trung Đông của Viện Nghiên cứu chính sách Chatham House tại Anh, việc cấm các ngân hàng của Iran tiếp cận với SWIFT có thể sẽ "thắt thòng lọng vào cổ" quốc gia này. Bằng việc buộc SWIFT không cho Iran sử dụng dịch vụ của công ty này, các nước phương Tây đang tìm cách gây thêm khó khăn cho Iran trong việc bán dầu cho ngay cả những đối tác thiện chí nhất. Thông thường, một chiếc tàu chở dầu có thể chuyên chở lượng dầu trị giá tới 100 triệu USD, chính vì vậy việc thanh toán qua ngân hàng điện tử là điều rất quan trọng. NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 13
  14. PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG Không chỉ SWIFT, tháng 1/2012, EU đã phong tỏa tài sản của 116 cá nhân và 442 công ty và thực thể, trong đó có Ngân hàng Trung ương Iran. Những biện pháp này là một phần trong nỗ lực toàn cầu nhằm buộc Iran từ bỏ chương trình hạt nhân được cho là phục vụ những mục đích quân sự. Tuy nhiên, các nhà phân tích cho rằng Iran có thể sẽ tìm một vài cách để tránh bị tác động của các biện pháp trừng phạt, như trực tiếp đổi dầu lấy tiền mặt, vàng hoặc các tài sản khác. Thậm chí, Iran có thể "trộn" dầu của họ vào dầu của các nước khác tại các "ga cuối" quốc tế và các đường ống dẫn dầu để ngụy trang. Bên cạnh đó, quốc gia Hồi giáo này cũng có thể sẽ nhận được sự giúp đỡ từ ngân hàng trung ương của những nước có mối quan hệ thân thiết với Iran. Các biện pháp trừng phạt phần nào cũng gây ra những ảnh hưởng thực sự, tác động đến lĩnh vực xuất khẩu dầu mỏ của Iran, làm sụt giá đồng rial và khiến các doanh nghiệp cũng như giới chóp bu Iran khó khăn hơn khi chuyển tiền cũng như gây khó khăn cho người dân nước này trong việc nhận tiền từ người thân đang sinh sống ở nước ngoài gửi về. Chiến tranh, đảo chính, và cách mạng Chiến tranh, đảo chính và cách mạng có tác động lớn đối với hoạt động kinh doanh. Những sự kiện chính trị này có thể không ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp, tuy nhiên chúng lại có tác động gián tiếp hết sức mạnh mẽ. Điển hình như vụ khủng hoảng chính trị đang diễn ra ở Ukraine. Ngày 27/02/2014, tiếp sau ngân hàng lớn nhất nước Nga Sberbank, ngân hàng lớn thứ hai của Nga VTB cũng vừa ra thông báo ngừng hoạt động cho vay mới tại Ukraine. Động thái mới nhất của các ngân hàng hàng đầu của Nga này càng làm gia tăng mối quan ngại về những rủi ro tài chính ở Ukraine sau khi Tổng thống nước này, Viktor Yanukovich, bị phế truất cuối tuần trước. Phát biểu tại cuộc họp báo ngày 26/2, Giám đốc điều hành VTB, Andrei Kostin, nói rằng "khó có thể đánh giá rủi ro vào thời điểm hiện nay." Chính vì vậy, VTB đã ngừng cung cấp các khoản cho vay mới cho cả các công ty lẫn cá nhân tại Ukraine. NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 14
  15. PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG Trước đó, ngày 21/2, German Gref, người đứng đầu ngân hàng lớn nhất nước Nga Sberbank, cũng thông báo Sberbank sẽ tạm ngừng cho các doanh nghiệp Ukraine vay, ngoại trừ các doanh nghiệp có quy mô lớn và tình hình tài chính tốt. Trong 5 năm kể từ sau sự sụp đổ của ngân hàng đầu tư Lehman Brothers (Mỹ), trong khi các ngân hàng nước ngoài khác cắt giảm tỷ lệ các khoản cho vay có nguy cơ bị mất mát hay thua lỗ từ mức 40% giá trị tài sản của các ngân hàng Ukraine trong năm 2008 xuống 20% năm 2012, thì các ngân hàng Nga không thay đổi và hiện giữ tỷ lệ này ở mức 12%. VTB cho hay giá trị các khoản tín dụng của ngân hàng này có nguy cơ bị tổn thất tại Ukraine hiện vào khoảng 20 tỷ rúp (560 triệu USD), trong khi của Sberbank là 130 tỷ rúp (4 tỷ USD). Hoạt động kinh doanh của VTB tại Ukraine hiện chiếm khoảng 2-3% tổng giá trị hoạt động kinh doanh của VTB, trong khi của Sberbank là chưa đầy 1%. Ngân hàng lớn thứ hai nước Nga này cũng khẳng định sẽ tiếp tục hoạt động tại Ukraine trong dài hạn. Tổng thống Nga Vladimir Putin cho hay các ngân hàng Nga ước tính giá trị những khoản tín dụng của các ngân hàng này có nguy cơ bị thiệt hại tại Ukraine vào khoảng 28 tỷ USD. Gazprombank, Vnesheconombank (VEB), Sberbank và VTB là những ngân hàng cho vay chủ chốt tại đây. Cả hai hãng xếp hạng tín nhiệm Moody's và Fitch tuần này đều cảnh báo những rủi ro mà những ngân hàng trên phải đối mặt khi cung cấp các khoản cho vay cho các doanh nghiệp Ukraine, nếu nền kinh tế này trượt vào suy thoái và đồng nội tệ hryvnia tiếp tục sụt giảm mạnh. Nạn khủng bố Khủng bố (terrorism) là hình thức sử dụng vũ trang và vũ lực nhằm đạt được một mục tiêu chính trị nào đó, bằng cách đe dọa và tác động lên nỗi sợ hãi của con người. Trong những năm gần đây, khủng bố trở thành một dạng rủi ro quốc gia hết sức nghiêm trọng. Nạn khủng bố đang không ngừng leo thang trên khắp thế giới, mà một ví dụ điển hình là vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Hoa Kỳ. Không chỉ lấy đi sinh mạng của NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 15
  16. PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG hàng trăm con người, vụ khủng bố còn gây thiệt hại nghiêm trọng đối với thị trường tài chính New York cũng như làm ngưng trệ hoạt động kinh doanh của vô số doanh nghiệp. Nạn khủng bố khiến người dân sợ hãi, dẫn tới giảm lượng tiêu thụ hàng hóa và có nguy cơ dẫn đến nên khủng hoảng kinh tế. Các ngành thương mại dịch vụ như du lịch, hàng không, giải trí và các ngành bán lẻ hàng hóa đặc biệt bị ảnh hưởng. Nạn khủng bố cũng tác động xấu đến các thị trường tài chính, cụ thể là trong quãng thời gian sau cuộc tấn công 11/9/2001, giá trị thị trường chứng khoán Hoa Kỳ giảm khoảng 14%. Bên cạnh chế độ chính trị, những khác biệt trong hệ thống luật pháp ở các quốc gia khác nhau cũng là một nguyên nhân tạo nên rủi ro quốc gia. Đặc biệt liên quan đến kinh doanh quốc tế là luật thương mại và tư pháp, trong đó luật thương mại bảo trùm toàn bộ các giao dịch thương mại, còn Tư pháp điều tiết mối quan hệ giữa các cá nhân và các tổ chức, bao gồm các điều luật hợp đồng cũng như trách nhiệm và bổn phận của mỗi bên nảy sinh trong những trường hợp vi phạm. Ở nhiều nước trên thế giới, hệ thống luật pháp thiên về bảo vệ quyền lợi của các cá nhân, các tổ chức bản địa. Các bộ luật thường được xây dựng nhằm khuyến khích hoạt động kinh doanh và thúc đẩy kinh tế ở địa phương. Hệ thống luật pháp ở cả “nước chủ nhà” và “nước ngoài” đều tạo nên những khó khăn thử thách khác nhau đối với các công ty đa quốc gia nói chung và ngân hàng quốc tế nói riêng. Rủi ro quốc gia nảy sinh từ môi trường pháp lý ở nước ngoài Đối với một số quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển, để bảo hộ cho nền kinh tế trong nước cũng như các ngân hàng nội và sự yếu kém trong một số mảng quản lý khiến cho chính phủ các quốc gia này sử dụng luật pháp như một công cụ để cấm một số hoạt động giao dịch của ngân hàng. Việc này gây ra không ít cho những ngân hàng ngoại, vốn dĩ đang chật vật với việc gây dựng cơ sở ở nước sở tại. Chẳng hạn như tại Anh, trong báo cáo công bố ngày 26/2/2014, Cơ quan Luật lệ An toàn (PRA) thuộc Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) đã đưa ra những quy định mới mang tính bắt buộc đối với các ngân hàng nước ngoài không thuộc Liên minh châu Âu (EU) mở chi nhánh ở Đảo quốc này. Một số ngân hàng nước ngoài có nguy cơ bị cấm hoạt động ở Anh do không thỏa mãn những điều kiện khắt khe lần đầu tiên được áp dụng này. PRA sẽ yêu cầu các ngân hàng nước ngoài phải đáp ứng những tiêu chuẩn về hoạt động giám sát của Anh trong lĩnh vực tài chính. Đây được coi là điều kiện tiên quyết để xem xét liệu ngân hàng nước ngoài có được phép mở NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 16
  17. PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG chi nhánh hoạt động ở Anh hay không. Nếu không đạt được những tiêu chuẩn này, các ngân hàng nước ngoài có thể bị cấm hoạt động ở Anh. Trước đây, các chi nhánh ngân hàng của Iceland từng mở dịch vụ nhận tiền gửi ở Anh. Sau đó, họ đã không thể thanh toán do lâm vào khủng hoảng, buộc giới chức Anh phải vào cuộc nhằm giảm thiểu thiệt hại cho người gửi tiền. Trong khuôn khổ những quy định mới, các ngân hàng nước ngoài phải cung cấp thông tin về thực trạng tài chính cho PRA. Trên cơ sở đó, PRA sẽ phân tích và đánh giá mức độ ảnh hưởng đối với hệ thống tài chính Anh trong trường hợp ngân hàng gặp rắc rối. Ngoài ra, các ngân hàng cũng phải chuẩn bị những phương án và giải pháp ứng phó với nguy cơ xảy ra khủng hoảng. PRA còn quy định rằng họ có thể sẽ rút giấy phép kinh doanh của các ngân hàng ở một quốc gia nào đó, nếu họ thấy lo ngại về chất lượng của hoạt động giám sát nội địa. Quy định này đã châm ngòi cho nhiều ý kiến phản đối và chỉ trích cho rằng Anh đang cố ý bảo hộ cho các ngân hàng thuộc khối Eurozone mà bỏ quên đi sự thiệt thòi của các ngân hàng nước ngoài khác trong bối cảnh Chính phủ Anh đang tìm cách thu hút các ngân hàng nước ngoài, đặc biệt là từ Trung Quốc, nhằm tăng cường vị thế của Trung tâm tài chính London. Rủi ro quốc gia nảy sinh từ môi trường pháp lý ở nước mình Theo thống kê từ ngân hàng nhà nước, các ngân hàng ngoại kiếm lãi gấp hơn 8 lần so với những ngân hàng nội mà phần lợi nhuận này phần nhiều là nhờ chiêu thức mua bán ngoại tệ lòng vòng, lách luật. Khi mà ngân hàng nội địa bị ràng buộc bởi hàng loạt các quy định hành chính liên quan đến kinh doanh ngoại tệ, không thể lách luật, thì ngân hàng nước ngoài tỏ ra linh hoạt. Suốt một thời gian dài họ mua bán đô la Mỹ với doanh nghiệp thông qua một ngoại tệ thứ ba để đạt được tỷ giá mong muốn và khi NHNN cấm nghiệp vụ này, họ vẫn sử dụng ngoại tệ thứ ba thông qua một ngân hàng thứ ba. Thí dụ doanh nghiệp XYZ muốn mua đô la Mỹ của họ, thì đầu tiên doanh nghiệp đó phải mua euro của ngân hàng nội địa XYZ với một tỷ giá thỏa thuận. Họ bán euro cho ngân hàng XYZ để XYZ bán cho doanh nghiệp. Có euro rồi, doanh nghiệp bán lại cho họ cũng theo giá thỏa thuận vào ngày hôm sau, làm sao tương ứng với sự chênh lệch của đô la Mỹ (giữa giá niêm yết của ngân hàng và giá thị trường tự do) mà họ bán cho doanh nghiệp. Trên hợp đồng, giá mua bán đô la vẫn tuân thủ quy định của NHNN, nhưng trên thực tế, sau một sự lòng vòng, giá thực mua - bán đã khác nhiều. Ngoài ra một số ngân hàng nước ngoài áp dụng phí ngoại tệ linh hoạt (flexible fees) khi doanh nghiệp chuyển khoản ra nước ngoài, mở L/C, bảo lãnh… Với các công ty đa NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 17
  18. PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG quốc gia, việc đưa ra các mức phí càng thuận lợi hơn, nhất là khi các công ty này nhập khẩu máy móc, nguyên vật liệu, triển khai dự án đầu tư. Không phải ngẫu nhiên, các công ty của nước nào thì thường giao dịch với ngân hàng của nước ấy mở ở Việt Nam. Chẳng hạn các công ty Hàn Quốc giao dịch với ngân hàng Hàn Quốc, Đài Loan với Đài Loan, Pháp với Pháp, Úc với Úc…Ngân hàng trong nước không thể “bắt chước” cách kinh doanh ấy của ngân hàng nước ngoài vì nếu làm vậy có thể bị thanh tra, kiểm tra liên tục. Tuân thủ đúng quy định, ngân hàng nội khó tìm lợi nhuận từ kinh doanh ngoại hối. Một khi giá mua bán đô la Mỹ chuyển khoản và tiền mặt luôn kịch trần và bằng nhau, các ngân hàng cổ phần chỉ còn cách giới thiệu các doanh nghiệp với nhau để tự thương lượng. Hậu quả là doanh thu kinh doanh ngoại tệ của nhiều ngân hàng cổ phần sụt giảm mạnh, có ngân hàng thậm chí lỗ ở mảng này trong khi các ngân hàng quốc tế khác lại lãi một cách mạnh mẽ. 2. Rủi ro từ yếu tố kinh tế và tài chính của một quốc gia Rủi ro đến từ các yếu tố tăng trưởng của nền kinh tế Đây là yếu tố đầu tiên mà các công ty đa quốc gia nói chung cũng như ngân hàng quốc tế nói riêng rất cân nhắc khi quyết định có tham gia hay tiếp tục đầu tư hay kinh doanh tại một quốc gia. Tăng trưởng kinh tế của một quốc gia thể hiện giá trị tăng thêm của sản phẩm dịch vụ trong một năm mà quốc gia đó sản xuất được, nó là nhân tố tiên quyết quyết định sự thịnh vượng của một quốc gia. Nền kinh tế tăng trưởng cao, nhu cầu về vốn hiển nhiên sẽ lớn và hiệu quả tất yếu sẽ là các tổ chức kinh doanh tiền tệ nói chung cũng như ngân hàng quốc tế nói riêng sẽ có nhiều cơ hội để kinh doanh cũng như nhiều cơ hội đề phát triển hơn. Ngược lại, với một nền kinh tế đầy bất ổn với tỷ lệ tăng trưởng thấp, doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả sẽ kéo theo sự hoạt động kém hiệu quả của hệ thống ngân hàng nói chung và khả năng thua lỗ cũng như mất vốn lớn. Rủi ro đến từ các biến động trong tỷ giá hối đoái Khi tham gia vào hoạt động kinh doanh tại nước sở tại, các công ty đa quốc gia nói chung cũng như ngân hàng quốc tế nói riêng phải chịu rất nhiều áp lực đến từ tỷ giá hối đoái của quốc gia đó. Có rất nhiều phương thức tỷ giá mà các quốc gia có thể chọn lựa, tỷ giá hối đoái thả nổi hoàn toàn, tỷ giá hối đoái cố định, tỷ giá hối đoái thả nổi có điều chỉnh. Với mỗi phương thức điều hành tỷ giá sẽ phát sinh mỗi vấn đề khác nhau cho các thành NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 18
  19. PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG phần của nền kinh tế mà ngân hàng quốc tế là một trong những đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Vốn dĩ không có sẵn nguồn nội tệ để kinh doanh tại các quốc gia sở tại nên hệ thống ngân hàng quốc tế phụ thuộc rất lớn vào chính sách tỷ giá của quốc gia đó. Nếu quốc gia áp dụng tỷ giá hối đoái cố định vào một ngoại tệ mạnh nào đó, ngân hàng quốc tế có thể phần nào yên tâm về khả năng chủ động về nguồn vốn nội tệ của mình để phục vụ kinh doanh, ngược lại khi chính phủ thả nổi tỷ giá thì ngân hàng quốc tế sẽ gặp phải rủi ro rất lớn trong việc kinh doanh bằng nội tệ tại quốc gia sở tại đó. Rủi ro đến từ biến động trong lãi suất Lãi suất là một yếu tố quan trọng, ảnh hưởng then chốt đến kết quả hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng nói chung và ngân hàng quốc tế nói riêng. Đối với các ngân hàng hoạt động theo mô hình truyền thống, thu nhập từ lãi vốn là nguồn thu nhập chính, chiếm bình quân khoảng 80% nguồn thu nhập của ngân hàng, còn với hệ thống ngân hàng hiện đại, thu nhập từ lãi vốn cũng chiếm tỷ trọng không nhỏ, không dưới 50%. Do đó sự biến động về lãi suất là cả một vấn đề đối với hệ thống ngân hàng nói chung chứ không riêng gì ngân hàng quốc tế. Với hệ thống ngân hàng quốc tế, dòng vốn của nó được huy động từ rất nhiều quốc gia trên thế giới và sẽ được phân bổ vào các nền kinh tế theo thứ tự ưu tiên về mức lãi suất cho vay đang được áp dụng trong nền kinh tế đó. Nếu lãi suất cho vay có sự biến động đột ngột theo chiều hướng đi xuống sẽ khiến các ngân hàng quốc tế phải chịu cảnh sụt giảm trong lợi nhuận hoặc mất rất nhiều chi phí để di chuyển dòng vốn đến các quốc gia khác có mức lãi suất cao hơn. Rủi ro đến từ nợ công quốc gia Rủi ro đến từ nợ công quốc gia là loại rủi ro được gây ra bởi tình trạng mất khả năng thực hiện nghĩa vụ của chính phủ một quốc gia đối với một số quốc gia khác hay một tổ chức hay một doanh nghiệp hay một ngân hàng quốc tế nào đó. Nhìn chung, yếu tố này ít gây ra ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống ngân hàng quốc tế bởi các chương trình tài trợ vốn cho chính phủ các quốc gia thường được thực hiện bởi ngân hàng thế giới hoặc các tổ chức kinh tế phi ngân hàng khác. Rủi ro gây ra bởi nợ công quốc gia chủ yếu tác động gián tiếp đến hệ thống ngân hàng quốc tế thông qua việc nợ công quá mức cho phép sẽ làm đổ vỡ nền kinh tế tại quốc gia sở tại mà ngân hàng quốc tế đang hoạt động, từ đó gây nên các rủi ro cho các ngân hàng này trong việc kinh doanh cũng như di chuyển dòng vốn ra khỏi quốc gia này. NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 19
  20. PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA PGS. TS TRƯƠNG THỊ HỒNG CHƯƠNG II THỰC TẾ VỀ RỦI RO QUỐC GIA TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI TẠI MỘT SỐ GIAI ĐOẠN 1. Rủi ro quốc gia tại Thái Lan năm 1997 Những tiềm ẩn rủi ro Thái Lan bắt đầu thời kỳ công nghiệp hóa đất nước từ năm 1961. Tốc độ tăng trưởng GDP trong thập niên 60 vào khoảng 8%/năm, thập niên 70 vào khoảng 7%/năm, thập niên 80 vào khoảng 8%/năm. Tổng sản phẩm nội địa theo đầu người tăng từ mức 440USD năm 1995 lên 3012USD năm 1996. Giá trị xuất khẩu theo đầu người đạt 630USD năm 1991 tăng lên 1177USD năm 1996. Với mức lãi suất tiết kiệm trong nước cao, bình quân là 16,3%/năm, trong khi ở Mỹ là 7,6%/năm. Cộng thêm chính sách tỷ giá hối đoái gần như là cố định, đã tạo nên môi trường kinh doanh hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư tài chính, cho vay ngắn hạn và tín dụng thương mại. Nguồn tiền dồi dào, nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp cao, dẫn đến tín dụng tăng trường nóng, các ngân hàng và các công ty tài chính Thái Lan tích cực vay nợ từ nước ngoài để tài trợ cho các doanh nghiệp trong nước, các dự án bất động sản, thị trường chứng khoán. Khi rủi ro bộc phát: Hàng loạt doanh nghiệp phá sản. Do các doanh nghiệp gia tăng vay vốn bên ngoài mà không thực sự quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn vay, ROA của đa số doanh nghiệp đến năm 1996 chỉ đạt 1%/năm trong khi đó lãi suất cho vay đã trên 16%/năm. Hệ thống ngân hàng kinh doanh ngày càng kém hiệu quả. Kiểm soát lỏng lẻo, đầu tư nhiều vào các dự án bất động sản, cho vay kinh doanh chứng khoán, nợ xấu gia tăng. Thị trường bất động sản đóng băng và dần suy thoái. Do đầu tư quá ồ ạt vào bất động sản, tỷ lệ phòng trống không cho thuê được của các tòa nhà cao ốc văn phòng lên đến 20%, các công ty chủ đầu tư gặp khó khăn lớn trong việc tìm nguồn trả nợ, cộng thêm vào là mức lãi suất cho vay rất cao. NH ĐÊM 1 – NHÓM 5.2 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2