intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Tình hình vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Đồng Nai – Giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa đấu tranh

Chia sẻ: Pham Quang Phuoc | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:23

132
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận: Tình hình vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Đồng Nai – Giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa đấu tranh nêu lên nhận thức chung về vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý; tình hình vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa đấu tranh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Tình hình vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Đồng Nai – Giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa đấu tranh

  1. MỞ ĐẦU Trong những năm qua, thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và Nhà  nước,   tỉnh   Đồng   Nai   đã   đạt   được  nhöõng thaønh töïu ñaùng keå treân taát caû caùc lónh vöïc chính trò, kinh teá, vaên hoaù xaõ hoäi. Tốc độ  phát triển kinh tế cao,  ổn định, đời sống vật chất và tinh thần  của người dân không ngừng được nâng lên. Tuy nhiên, dưới tác động tiêu cực  của mặt trái nền kinh tế thị trường thì tình hình vi phạm pháp luật trên địa bàn  tỉnh Đồng Nai cũng không ngừng gia tăng và diễn biến hết sức phức tạp. Vi  phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm xảy ra ngày càng nhiều và phổ biến trên  tất cả  các lĩnh vực của đời sống xã hội, gây nên những thiệt hại to lớn về  người và của, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội của địa phương.  Tình hình đó thật sự  là mối lo ngại và là mối quan tâm hàng đầu của các cơ  quan chức năng, đặc biệt là các cơ quan bảo vệ pháp luật, các tổ chức xã hội   và của nhân dân tỉnh Đồng Nai. Đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật, giữ  gìn trật tự  an toàn xã   hội trên địa bàn tỉnh Đồng Nai là nhiệm vụ  vô cùng khó khăn, gian khổ  và  phức tạp. Để  thực hiện tốt nhiệm vụ  này đòi hỏi các chủ  thể  làm công tác   đấu tranh phải nghiên cứu, phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện và sâu  sắc tình hình vi phạm pháp luật tại địa phương, tìm ra những nguyên nhân của   tình trạng này để  từ  đó áp dụng những phương pháp, phương tiện và lực  lượng một cách phù hợp, đạt hiệu quả  cao nhất. Xuất phát từ  nhận thức đó,  với mong muốn tìm ra những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh  phòng, chống vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, tôi chọn đề  tài   “Tình hình vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Đồng Nai – Giải pháp nâng   cao hiệu quả phòng ngừa đấu tranh” làm tiểu luận môn học. 1
  2. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT  VÀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ 1.1. Vi phạm pháp luật 1.1.1. Khái niệm và những dấu hiệu cơ bản của vi phạm pháp luật  Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ  thể  có năng  lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật  bảo vệ. Vi phạm pháp luật là một hiện tượng xã hội có những đấu hiệu cơ bản  sau:  + Vi phạm pháp luật là hành vi nguy hiểm cho xã hội.  Như ta đã biết các quy định của pháp luật được đặt ra là để điều chỉnh  hành vi của con người. Cho nên vi phạm pháp luật trước hết phải là hành vi   của con người hoặc là hoạt động của các cơ  quan nhà nước, các tổ  chức xã  hội... (các chủ thể pháp luật) nguy hiểm hoặc có khả năng gây nguy hiểm cho   xã hội. Khi xác định vi phạm pháp luật thì dấu hiệu hành vi là không thể thiếu   được, nói cách khác, không có hành vi nguy hiểm của con người thì không có   vi phạm pháp luật. Hành vi đó có thể biểu hiện bằng hành động hoặc không  hành động của các chủ  thể pháp luật. Pháp luật không điều chỉnh những suy   nghĩ hoặc những đặc tính cá nhân khác của con người nếu như  những đặc  tính đó không biểu hiện thành các hành vi cụ thể của họ. Vì thế, suy nghĩ, tình   cảm, những đặc tính cá nhân khác của con người và cả  sự  biến cho dù có   nguy hiểm cho xã hội cũng không bị coi là vi phạm pháp luật. + Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật xâm hại tới các quan hệ xã  hội được pháp luật xác lập và bảo vệ.  2
  3. Vi phạm pháp luật không những phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội  của các chủ thể pháp luật, mà hành vi đó còn phải trái với pháp luật, xâm hại   tới các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ. Vì vậy, những hành  vi hợp pháp hay hành vi trái với các quy định của các tổ  chức xã hội, trái với   quy tắc tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo... mà không trái pháp luật thì  không bị  coi là vi phạm pháp luật. Hành vi trái pháp luật  ở  những mức độ  khác nhau đều xâm hại tới những quan hệ xã hội mà mỗi nhà nước xác lập và  bảo vệ. Một cách khái quát, những gì mà pháp luật không cấm, không xác lập   và bảo vệ  thì dù có làm trái, có xâm hại cũng không bị  coi là vi phạm pháp  luật. Như vậy, tính trái pháp luật là dấu hiệu không thể thiếu của hành vi bị  coi là vi phạm pháp luật. + Vi phạm pháp luật là hành vi có lỗi của chủ thể.  Dấu hiệu trái pháp luật mới chỉ là biểu hiện bên ngoài của hành vi, để  xác định vi phạm pháp luật cần xem xét cả  mặt chủ quan của hành vi, nghĩa  là, xác định lỗi (xác định trạng thái tâm lý) của chủ thể khi thực hiện hành vi   trái pháp luật đó. Lỗi là yếu tố chủ quan thể hiện thái độ của chủ thể đối với  hành vi trái pháp luật của mình. Nếu  một  hành vi trái pháp luật được thực  hiện do những điều kiện và hoàn cảnh khách quan, chủ thể hành vi đó không  cố ý và cũng không vô ý thực hiện hoặc không thể ý thức (nhận thức) được,  từ đó không thể lựa chọn được cách xử sự theo yêu cầu của pháp luật thì chủ  thể  hành vi đó không bị  coi là có lỗi và hành vi đó không bị  coi là vi phạm   pháp luật. Kể cả những hành vi trái pháp luật mà chủ  thể  bị  buộc phải thực   hiện trong điều kiện bất khả kháng cũng có thể không bị coi là vi phạm pháp   luật. Như  vậy, những hành vi trái pháp luật mang tính khách quan, không có  lỗi của chủ thể thực hiện hành vi đó (chủ thể không cố ý và cũng không vô ý  thực hiện) thì không bị coi là vi phạm pháp luật. Từ đó có thể  khẳng định là  tất cả mọi vi phạm pháp luật trước hết phải là hành vi trái pháp luật, nhưng  3
  4. ngược lại, không phải tất cả mọi hành vi trái pháp luật đều bị coi là vi phạm   pháp luật. Chỉ  những hành vi trái pháp luật nào có lỗi (được chủ  thể  thực   hiện một cách cố ý hoặc vô ý) mới có thể bị coi là vi phạm pháp luật. + Chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý.  Năng lực trách nhiệm pháp lý là khả năng phải chịu trách nhiệm pháp lý  của chủ  thể  do nhà nước quy định. Thông thường nhà nước chỉ  quy định sự  độc lập phải chịu trách nhiệm về  hành vi của mình đối với những người có   khả năng tự lựa chọn được cách xử sự và có tự do ý chí, nói khác đi, người đó  phải có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi của mình, có điều kiện  lựa chọn và quyết định cách xử  sự  cho mình và chịu trách nhiệm độc lạp về  hành vi của mình. Do vậy, pháp luật chỉ quy định năng lực trách nhiệm pháp  lý cho những người đã đạt được một độ tuổi nhất định, có khả năng lý trí và  có tự  do ý chí. Đối với trẻ  em ít tuổi có thể  nhận thức và điều khiển được  hành vi của mình, nhưng do chưa phát triển đầy đủ về thể lực, trí lực và tâm  sinh lý nên chúng chưa có khả  năng nhận thức và đánh giá được hết những   hậu quả  do hành vi của chúng gây ra cho xã hội nên nhà nước không bắt  chúng phải chịu trách nhiệm pháp lý về  hành vi của mình, không quy định  năng lực phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với chúng. Độ tuổi phải chịu trách   nhiệm pháp lý của con người được pháp luật quy định khác nhau trong mỗi   loại quan hệ xã hội khác nhau hoặc phụ thuộc vào tầm quan trọng, tính chất  của quan hệ  xã hội đó. Đối với những người do mất khả  năng nhận thức   hoặc khả  năng lựa chọn, điều khiển hành vi của mình  ở  thời điểm khi thực   hiện hành vi đó thì pháp luật cũng quy định họ không có năng lực trách nhiệm  pháp lý, do vậy họ  không phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với trường hợp   đó. Chẳng hạn, Điều 12 Bộ  luật Hình sự  Việt Nam quy định: “Người thực   hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc   một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành   vi  của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”. Mỗi nhà nước khác  4
  5. nhau thì có quy định khác nhau về  năng lực trách nhiệm pháp  lý.  Như  vậy,  những hành vi trái pháp luật nhưng khi thực hiện chúng các chủ thể không có  hoặc chưa có năng lực trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật thì  không bị coi là vi phạm pháp luật. 1.1.2. Cấu thành vi phạm pháp luật a. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện ra bên ngoài  của vi phạm pháp luật. Nó gồm những yếu tố sau:  ­ Hành vi trái pháp luật. Bất kỳ  một vi phạm pháp luật nào cũng được  cấu thành bởi hành vi trái pháp luật, nghĩa là, nếu trong thực tế không tồn tại  hành vi trái pháp luật của cá nhân hoặc hoạt động trái pháp luật của tổ chức   cụ thể nào đó thì không có vi phạm pháp luật xảy ra. ­  Hậu quả  (sự  thiệt hại) do hành  vi  trái pháp luật gây  ra cho xã  hội.  Hành vi trái pháp luật  ở những mức độ  khác nhau đều nguy hiểm và gây hại   cho xã hội. Tính nguy hiểm của hành vi trái pháp luật thể  hiện  ở  chỗ  nó đã  hoặc có nguy cơ  gây ra những thiệt hại về  vật chất, về  tinh thần và những   thiệt hại khác cho xã hội. Mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật được  xác định phụ  thuộc vào tính chất và mức độ  thiệt hại thực tế  hoặc nguy cơ  gây hại cho xã hội mà hành vi trái pháp luật đó gây ra. ­  Mối quan hệ  nhân quả  giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả  (sự  thiệt hại) mà nó gây ra cho xã hội. Mối quan hệ  nhân quả  giữa hành vi trái  pháp luật với hậu quả  mà nó gây ra cho xã hội thể  hiện  ở  chỗ  sự  thiệt hại   của xã hội là do chính hành vi trái pháp luật đó trực tiếp gây ra, nói cách khác,   sự  thiệt hại của xã hội xảy ra là hậu quả  tất yếu của hành vi trái pháp luật.  Nếu giữa hành vi trái pháp luật và sự thiệt hại của xã hội không có mối quan  hệ  nhân quả thì sự  thiệt hại của xã hội không phải do hành vi trái pháp luật   đó trực tiếp gây ra mà có thể do những nguyên nhân khác. Ngoài ra trong mặt   5
  6. khách quan của vi phạm pháp luật còn có các yếu tố  khác như  thời gian, địa  điểm và cách thức vi phạm... b. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật Mặt chủ  quan của vi phạm pháp luật là những biểu hiện tâm lý bên  trong của chủ thể vi phạm pháp luật. Nó gồm những yếu tố sau:  ­ Lỗi của chủ  thể vi phạm pháp luật. Lỗi là trạng thái tâm lý của chủ  thể  đối với hành vi vi phạm của mình và hậu quả  do hành vi đó gây ra. Lỗi   thể hiện thái độ  tiêu cực của chủ thể đối với xã hội. Phụ thuộc vào mức độ  tiêu cực trong thái độ của chủ thể khoa học pháp lý chia lỗi ra thành hai loại:  lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Lỗi   vô ý có thể là vó ý vì quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả. + Lỗi cố ý trực tiếp: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là  nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi  của mình gây ra và mong muốn điều đó xảy ra. + Lỗi cố ý gián tiếp: Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là  nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi  của mình gây ra, nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra. + Lỗi vô ý vì quá tự  tin:  Chủ  thể  vi phạm nhận thấy trước hậu quả  nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra nhưng hy vọng, tin tưởng   hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được. + Lỗi vô ý do cẩu thả:  Chủ  thể  vi phạm đã không nhận thấy trước   được hậu quả  nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra, mặc dù có  thể hoặc cần phải nhận thấy trước hậu quả đó. ­ Động cơ vi phạm. Động cơ được hiểu là cái (động lực) thúc đẩy chủ  thể  thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Thông thường khi thực hiện vi  phạm pháp luật chủ  thể  thường được thúc đẩy bởi một động cơ  nhất định  nào đó. Động cơ đó có thể là vụ lợi, trả thù, đê hèn... 6
  7. ­ Mục đích vi phạm. Mục đích là kết quả cuối cùng mà trong suy nghĩ  của mình chủ  thể mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp  luật. Mục đích vi phạm của chủ thể cũng thể  hiện tính chất nguy hiểm của   hành vi. Tuy nhiên, cần chú ý là không phải khi nào kết quả  mà chủ  thể  vi  phạm đạt được trong thực tế  cũng trùng hợp với mục đích mà chủ  thể  vi  phạm mong muốn đạt được. Chẳng hạn, A chỉ  muốn làm B đau (mục đích  gây thương tích) nhưng kết quả  thực tế  B chết (cái chết của B nằm ngoài   mong muốn của A). Hoặc M muốn giết chết N (mục đích giết người), nhưng kết quả thực  tế N không chết (việc N không chết là nằm ngoài mong muốn của M). c. Chủ thể vi phạm pháp luật  Chủ thể vi phạm pháp luật có thể là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực  trách nhiệm pháp lý, nghĩa là theo quy định của pháp luật thì họ  phải chịu  trách nhiệm đối với hành vi trái pháp luật của mình trong trường hợp đó. Ở  mỗi loại vi phạm pháp luật đều có cơ cấu chủ thể riêng, chúng sẽ được xem  xét tỉ mỉ ở các ngành khoa học pháp lý cụ thể. d. Khách thể vi phạm pháp luật Khách thể vi phạm pháp luật là những quan hệ  xã hội được pháp luật   bảo vệ, nhưng bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Những quan hệ xã hội   khác nhau thì có tính chất và tầm quan trọng khác nhau, do vậy, tính chất và  tầm quan trọng của khách thể cũng là những yếu tố để xác định mức độ nguy  hiểm của hành vi vi phạm pháp luật. 1.1.3. Phân loại vi phạm pháp luật Thông thường vi phạm pháp luật được phân chia thành bốn nhóm cơ  bản sau: + Tội phạm  là hành vi nguy hiểm cho xã hội được pháp luật hình sự  quy định, do người có năng lực trách nhiệm hình sự  thực hiện một cách cố  ý  hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, loàn vẹn lãnh thổ TỔ  7
  8. quốc, xâm phạm chế  độ  chính trị, chế  độ  kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng,  an ninh, trật tự  an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ  chức, xâm  phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi   ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự  pháp luật. + Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách  cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội   phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính. + Vi  phạm dân sự  là những hành vi trái pháp luật, có lỗi xâm hại tới  những quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân có liên quan tới tài sản, quan hệ phi   tài sản... + Vi phạm kỷ luật nhà nước là những hành vi có lỗi trái với những quỷ  chế, quy tắc xác lập trật tự  trong nội bộ  một cơ  quan, xí nghiệp, trường   học..., nói cách khác, là không thực hiện đúng kỷ luật lao động, học tập, phục   vụ được đề ra trong cơ quan, xí nghiệp, trường học đó... Cần chú ý là chủ thể  vi phạm kỷ luật chỉ có thể là cá nhân, tập thể (cán bộ, công nhân, công chức,   học sinh...) có quan hệ  ràng buộc (phụ thuộc) với cơ quan, xí nghiệp, trường  học... nào đó. Trong mỗi loại vi phạm pháp luật nói trên còn có thể phân chia   thành từng nhóm nhỏ  hơn. Chẳng hạn, trong Bộ  luật hình sự  Việt nam tội   phạm còn được chia thành các nhóm nhỏ  như: Các tội xâm phạm an ninh   quốc gia; các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự  của   con người; các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân; các tội xâm   phạm sở hữu... 1.2. Trách nhiệm pháp lý 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm pháp lý Trong lĩnh vực pháp lý thuật ngữ  “trách nhiệm”  cũng được sử  dụng  theo hai nghĩa:  8
  9. Theo nghĩa tích cực, trách nhiệm được hiểu là nghĩa vụ (nói đến những  điều pháp luật yêu cầu phải làm trong hiện tại và tương lai). Chẳng hạn,   pháp luật quy định  trách nhiệm cho  một cơ  quan nào đó phải tuyên truyền,  phổ biến một văn bản quy phạm pháp luật cụ thể nào đó hay cơ quán A chịu  trách nhiệm trước cơ quan B; nghĩa thứ hai là hậu quả bất lợi.  Trách nhiệm theo nghĩa thứ hai là phải gánh chịu những hậu quả bất lợi  vì đã vi phạm pháp luật. Đó là sự  phản  ứng, lên án của nhà nước và xã hội   đối với những chủ  thể  vi phạm pháp luật gây hậu quả  xấu cho xã hội. Sau   đây chúng ta nghiên cứu sâu về  trách nhiệm pháp lý theo nghĩa hậu quả  bất   lợi. Sở dĩ nhà nước quy định trách nhiệm pháp lý đối với những chủ thể vi   phạm pháp luật là vì:  Thứ  nhất, trong quy phạm pháp luật nhà nước đã đưa ra trước những  cách xử  sự  có tính khuôn mẫu mà chủ  thể  được phép hoặc buộc phải lựa   chọn khi  ở vào hoàn cảnh, điều kiện đã được dự  liệu. Và chủ  thể  khi ở  vào  hoàn cảnh, điều kiện đã được nhà nước dự liệu thì chỉ được phép hoặc buộc   phải lựa chọn cho mình cách xử  sự  phù hợp từ  những cách xử  sự  mà trong   quy phạm pháp luật đã dự liệu cho trường hợp đó. Thứ hai, các chủ thể pháp luật (trong trạng thái bình thường) luôn hoạt  động có lý trí (họ  ý thức được việc làm của mình, nghĩa là, họ  có khả  năng  nhận thức, điều khiển được hành vi của mình và hậu quả do nó gây ra cho xã  hội) và có tự do ý chí (họ có khả năng và điều kiện để có thể tự lựa chọn cho   mình cách xử sự có thể có trong hoàn cảnh, điều kiện nhất định). Vì vậy, họ  có đủ khả năng và phải chịu trách nhiệm về cách xử sự (hành vi) đã lựa chọn  của mình. Nếu chủ  thể  chọn cách xử  sự  trái với ý chí của nhà nước đã thể  hiện trong quy phạm pháp luật (không lựa chọn cách xử sự mà nhà nước cho  phép hoặc buộc phải thực hiện trong trường hợp đó), thì chủ  thể  phải chịu  trách nhiệm về  việc làm của mình, phải chịu trách nhiệm pháp lý. Như  vậy,   9
  10. trách nhiệm pháp lý chỉ  đặt ra đối với những chủ  thể  có lý trí và có tự  do ý  chí. Cơ sở  của trách nhiệm pháp lý là vi phạm pháp luật, trách nhiệm pháp  lý chỉ xuất hiện khi trong thực tế xảy ra vi phạm pháp luật. Nếu trong thực tế  không có vi phạm pháp luật thì không được truy cứu trách nhiệm pháp lý.   Trách nhiệm pháp lý chỉ được phép áp dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp   luật Không truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi trái pháp luật  được thực hiện trong trường hợp:  a/ Chủ  thể không có năng lực trách nhiệm pháp lý (không có khả  năng   nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình);  b/ Do sự kiện bất ngờ (chủ thể không thể thấy trước hoặc không buộc  phải thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra);  c/ Do phòng vệ chính đáng;  d/ Được thực hiện phù hợp với tình thế cấp thiết. Chỉ  các cơ  quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền hay các chủ  thể được pháp luật trao quyền thì mới có quyền truy cứu trách nhiệm pháp lý   đối với tổ chức hay cá nhân nào đó. Nó thể hiện ở việc các cơ quan nhà nước,  nhà chức trách có thẩm quyền hay các chủ thể có quyền theo trình tự thủ tục   luật định yêu cầu chủ  thể  bị  truy cứu trách nhiệm pháp lý giải thích rõ về  hành vi của mình và buộc chủ  thể  vi phạm phải chịu những thiệt hại nhất   định (về  nhân thân, về  tài sản, về  tự  do...) đã được quy định trong bộ  phận   chế tài của các quy phạm pháp luật. Trách nhiệm pháp lý luôn gắn liền với những biện pháp cưỡng chế  được quy định trong chế  tài các quy phạm pháp luật. Truy cứu trách nhiệm   pháp lý về  thực chất là áp dụng những biện pháp cưỡng chế  đã được quy   định trong bộ phận chế tài của các quy phạm pháp luật đối với các chủ thể vi  phạm pháp luật. Tuy nhiên, bản thân trách nhiệm pháp lý không phải là sự  cưỡng chế mà chỉ là nghĩa vụ phải gánh chịu những biện pháp cưỡng chế do  10
  11. pháp luật qui định. Chủ thể vi phạm pháp luật bị buộc phải thực hiện những   biện pháp cưỡng chế  được quy định  ở  bộ  phận chế  tài của quy phạm pháp  luật. Như  vậy, về  nội dung thì trách nhiệm pháp lý là sự  áp đụng các biện   pháp cưỡng chế đối với chủ thể vi phạm pháp luật, còn về hình thức thì đó là  việc tổ  chức cho chủ  thể  vi phạm pháp luật thực hiện bộ  phận chế  tài của  các quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, cũng cần chú ý là có một số biện pháp cưỡng chế nhà nước  được áp dụng không liên quan gì tới trách nhiệm pháp lý, nghĩa là nó được áp  dụng cả khi không xảy ra vi phạm pháp luật. Chẳng hạn, nhà nước có thể áp   dụng biện pháp cưỡng chế  nhằm cách ly những người mắc một số  bệnh  truyền nhiễm; nhà nước có thể áp dụng biện pháp trong thu, trưng dụng hay   trưng mua một số tài sản nào đó khi thấy cần thiết... Như  vậy, trách nhiệm pháp lý là hậu quả  bất lợi (sự  trừng phạt) đối  với chủ  thể  vi  phạm pháp luật, thể  hiện  ở  mối quan hệ  đặc biệt giữa nhà  nước với chủ thể vi phạm pháp luật, được các quy phạm pháp luật xác lập và  điều chỉnh, trong đó chủ thể vi phạm pháp luật phải chịu những hậu quả bất   lợi, những biện pháp cưỡng chế được quy đinh ở chế tài các quy phạm pháp  luật. 1.2.2. Mục đích việc truy cứu trách nhiệm pháp lý  Mọi hiện tượng vi phạm pháp luật đều có hại cho xã hội vì nó phá vỡ  trật tự  pháp luật, nó trực tiếp hoặc có nguy cơ  gây ra những thiệt hại nhất  định về vật chất và tinh thần cho cá nhân, tổ chức, xâm hại đến các quan hệ  xã hội mà pháp luật bảo vệ. Vì thế, việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với   các hành vi vi phạm pháp luật là nhằm bảo vệ chế độ  xã hội, bảo vệ lợi ích  của nhà nước, quyền, lợi ích của nhân dân, của tổ chức, bảo vệ trật tự pháp  luật, tạo điều kiện cho những quan hệ  xã hội phát triển đúng hướng, đảm  bảo cho quá trình điều chỉnh pháp luật được tiến hành bình thường và có hiệu   quả. 11
  12. Truy cứu trách nhiệm pháp lý trước hết là nhằm mục đích trừng phạt  đối với chủ  thể  vi phạm pháp luật, buộc họ  phải gánh chịu những hậu quả  bất lợi, những biện pháp cưỡng chế  được quy định trong chế  tài các quy  phạm pháp luật. Ngoài mục đích trừng phạt, truy cứu trách nhiệm pháp lý còn  có ý nghĩa rất lớn trong việc phòng ngừa, cải tạo và giáo dục những chủ thể  vi phạm pháp luật (ngăn ngừa sự tiếp tục vi phạm pháp luật của chủ  thể và  cải tạo, giáo dục chủ thể ý thức tôn trọng, thực hiện nghiêm minh pháp luật  và các quy tắc của cuộc sống cộng đồng). Truy cứu trách nhiệm pháp lý còn có tác dụng răn đe tất cả những chủ  thể  khác khiến họ  phải kiềm chế, giữ  mình không vi phạm pháp luật, giáo  dục các tổ  chức và các cơ  nhân ý thức tôn trọng và thực hiện nghiêm minh   pháp luật và các quy tắc của cuộc sống cộng đồng, làm cho mọi người tin   tưởng vào cóng lý, tích cực đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật, từng   bước hạn chế  và tiến tới loại trừ hiện tượng vi phạm pháp luật ra khỏi đời  sống xã hội. 1.2.3. Căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý Để  truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với tổ  chức hay cá nhân nào đó   cần phải xác định được cơ sở thực tiễn và cơ sở pháp lý làm căn cứ cho việc  truy cứu. Về  cơ  sở  thực tiễn để  truy cứu trách nhiệm pháp lý thì phải có vi  phạm pháp luật xảy ra. Về cơ sở pháp lý đó là những quy định pháp luật hiện  hành có liên quan đến vi phạm pháp luật đó và thẩm quyền, trình tự, thủ  tục  để giải quyết vụ việc đó. Khi xác định cơ sở thực tiễn cần xem xét từng yếu tố của cấu thành vi  phạm pháp luật. Điều đầu tiên phải tiến hành là xác định được trong thực tế  đã xảy ra hành vi trái pháp luật nguy hiểm, nếu không xác định được hành vi   trái pháp luật nguy hiểm trong thực tế, thì không được truy cứu trách nhiệm  pháp lý. 12
  13. Tiếp đến là đánh giá mức độ  nguy hiểm của hành vi trái pháp luật đó  thông qua việc xác định hậu quả  (sự  thiệt hại) về  vật chất, về tinh thần và  những thiệt hại khác nếu có do hành vi đó gây ra cho xã hội. Một hành vi trái  pháp luật nhưng gây nguy hiểm cho xã hội không nhiều (những thiệt hại mà  nó gây ra là không đáng kể hoặc nguy cơ gây hại cho xã hội thấp) thì không bị  truy cứu trách nhiệm pháp lý. Trong một số trường hợp mức độ nguy hiểm của hành vi còn là căn cứ  để xác định loại trách nhiệm pháp lý cần truy cứu. Chẳng hạn, căn cứ vào mức độ thương tích của người bị hại mà quyết  định truy cứu trách nhiệm hình sự hay trách nhiệm hành chính. Cần làm rõ mối quan hệ  nhân quả  giữa hành vi trái pháp luật với hậu   quả, tuyệt đối không được suy diễn về  hậu quả, nghĩa là phải xác định một  cách chắc chắn rằng sự thiệt hại của xã hội là do chính hành vi trái pháp luật   đó trực tiếp gây ra. Không thể  bắt chủ  thể  phải chịu trách nhiệm về  những   thiệt hại mà hành vi trái pháp luật của họ không trực tiếp gây ra (giữa hành vi   trái pháp luật của họ  và sự  thiệt hại của xã hội không có mối quan hệ  nhân  quả). Để cải tạo giáo dục chủ  thể vi phạm phạm pháp luật có hiệu quả  khi   truy cứu trách nhiệm pháp lý trong một số  trường hợp cần phải xác định cả  thời gian, địa điểm và cách thức... mà chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp  luật. Khi xác định được những điều nói trên thì việc lựa chọn biện pháp  cưỡng chế  mới chính xác, phù hợp với mục đích cần truy cứu trách nhiệm   pháp lý và đạt được hiệu quả  cao trong việc cải tạo, giáo dục chủ  thể  vi  phạm pháp luật. Việc xác định lỗi, động cơ  và mục đích vi phạm trong nhiều trường   hợp khi truy cứu trách nhiệm pháp lý là rất cần thiết, nó cho phép lựa chọn   được biện pháp cưỡng chế thích hợp. 13
  14. Về nguyên tắc, trách nhiệm pháp lý chỉ áp dụng đối với các chủ thể có  năng lực trách nhiệm pháp lý khi họ  thực hiện hành vi trái pháp luật có lỗi,   tức là chủ  thể  hành vi đó có khả  năng nhận thức được những hậu quả  nguy  hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra nhưng cố ý hoặc vô ý gây ra. Tuy  nhiên, trong một số  trường hợp pháp luật còn cho phép truy cứu trách nhiệm   pháp lý đối với cả  những hành vi trái pháp luật được thực hiện do những   nguyên nhân khách quan hoặc trường hợp thiệt hại do những nguồn nguy   hiểm cao độ như  phương tiện giao thông vận tải cơ  giới, hệ thống tải điện,   nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy , chất độc,   chất phóng xạ, thú dữ... gây ra và một số trường hợp khác trong quan hệ dân   sự  mặc dù không có lỗi chủ  thể  vẫn phải chịu trách nhiệm pháp lý. Chẳng  hạn, cha mẹ hay người giám hộ phải bồi thường thiệt hại do con mình (dưới   mười lăm tuổi) hoặc người mất năng lực hành vi dân sự gây ra. Trong những   trường hợp trên chỉ  áp dụng những biện pháp tác động mang tính chất khôi  phục thiệt hại, không áp dụng các biện pháp trách nhiệm hình sự. Khi xác định chủ  thể  vi phạm pháp luật cần chú ý tới năng lực trách   nhiệm pháp lý của chủ thể  trong mỗi trường hợp cụ thể. Nếu chủ thể là cá   nhân thì phải xác định xem người đó đã đạt được độ  tuổi theo quy định của  pháp luật phải chịu trách nhiệm pháp lý trong trường hợp đó hay chưa? và  trạng thái tâm lý (thần kinh) của họ  như  thế  nào  ở  thời điềm họ  thực hiện   hành vi trái pháp luật đó. Nếu chủ  thể  là tổ  chức thì phải chú ý đến tư  cách  pháp nhân hoặc địa vị pháp lý của tổ chức đó. Khi xem xét khách thể vi phạm pháp luật cần chú ý tới tính chất và tầm  quan trọng của khách thể để đánh giá mức độ nguy hiềm của hành vi vi phạm   pháp luật. Khi xác định cơ  sở  pháp lý cho việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đối   với trường hợp vi phạm pháp luật đó cần chú ý tới trước hết là thẩm quyền   của cơ  quan hay nhà chức trách trong việc giải quyết vụ  việc, trình tự, thủ  14
  15. tục để giải quyết vụ việc đó, các biện pháp mà pháp luật quy định có thể áp   dụng đối với chủ thể vi phạm... Ngoài việc xác định các vấn đề  đó còn phải  xem xét cả  thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với trường hợp vi  phạm cụ  thể  đó và những trường hợp được miễn trách nhiệm pháp lý (nếu   có) khi tiến hành truy cứu trách nhiệm pháp lý. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp  lý là thời hạn do pháp luật quy  định mà khi thời hạn đó kết thúc thì chủ  thể  vi phạm pháp luật sẽ  không bị  truy cứu trách nhiệm pháp lý nữa.  (Thời hạn  là một khoảng thời  gian được  xác định  từ  thời điểm này đến thời điểm khác. Khoảng thời gian đó có thể  tính bằng giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc bằng một sự kiện nào đó). Đối với  các loại vi phạm pháp luật khác nhau thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp  lý được qui định khác nhau. Pháp luật của nhiều nước không áp dụng thời   hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với một số loại vi phạm pháp luật quá  nguy hiểm gây thiệt hại lớn cho xã hội. Ví dụ: Bộ luật hình sự Việt nam quy  định không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự  đối với các tội  xâm phạm an ninh quốc gia; các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội  phạm chiến tranh. Pháp luật cũng có thể  quy định miễn trách nhiệm pháp lý cho một số  chủ thể trong những trường hợp nhất định. Trách nhiệm pháp lý sẽ chấm dứt  khi xẩy ra sự kiện pháp lý thích ứng như có quyết định ân xá; thời hạn trừng   phạt đã kết thúc; nộp phạt xong... 1.2.4. Các loại trách nhiệm pháp lý Trách   nhiệm   pháp   lý   có   nhiều   loại,   thông   thường   chúng   được   chia  thành: Trách nhiệm hình sự; trách nhiệm hành chính; trách nhiệm kỷ  luật,  trách nhiệm dân sự và trách nhiệm vật chất. ­ Trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất do  tòa án áp dụng đối với những chủ thể có hành vi phạm tội. 15
  16. ­ Trách nhiệm hành chính là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ quan nhà  nước hay nhà chức trách có thẩm quyền áp dụng đối với các chủ thể vi phạm  hành chính. ­  Trách nhiệm kỷ  luật  là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ  quan, xí  nghiệp, trường  học...  áp dụng đối với cán bộ, công chức, nhân viên, sinh  viên... của cơ  quan, xí nghiệp, trường học. . .của mình khi họ  vi phạm pháp  luật. ­ Trách nhiệm dân sự là loại trách nhiệm pháp lý do tòa án hoặc các chủ  thể khác được phép áp dụng đối với các chủ thể vi phạm dân sự. ­  Trách nhiệm vật chất  là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ  quan xí  nghiệp:.. áp dụng đối với cán bộ, công chức, công nhân... của cơ  quan, xí  nghiệp trong trường hợp họ gây thiệt hại về tài sản cho cơ quan, xí nghiệp. Để  bảo đảm sự  công bằng và tính hiệu quả  trong việc truy cứu trách  nhiệm pháp lý đối với mỗi trường hợp vi phạm pháp luật cụ  thể  có thể  áp  dụng một hoặc cùng đồng thời nhiều loại trách nhiệm pháp lý. 1.2.5. Những yêu cầu cơ bản đối với việc truy cứu trách nhiệm pháp   lý Việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đòi hỏi phải bảo đảm một số những  yêu cầu cơ bản sau: + Chỉ truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những hành vi trái pháp luật,   có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện. + Bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong hoạt động truy cứu trách nhiệm  pháp lý.  + Bảo đảm sự  công bằng và nhân đạo trong hoạt động truy cứu trách  nhiệm pháp lý. + Bảo đảm tính phù hợp khi truy cứu trách nhiệm pháp lý tức là, cần cá  biệt hóa biện pháp trừng phạt đối với mỗi chủ thể cụ thể phụ thuộc vào mức   độ nguy hiểm do hành vi của họ gây ra, nhân thân của chủ thể, hoàn cảnh xẩy  16
  17. ra vi phạm...; có thể sử dụng cả nhưng tình tiết giảm nhẹ mà pháp luật không  quy định; lựa chọn biện pháp cưỡng chế phải phù hợp với mục đích truy cứu  trách nhiệm pháp lý và nếu mục đích truy cứu đã đạt được trước thời hạn so  với luật định thì có thể giảm nhẹ (chuyển từ tù giam sang cải tạo lao động...)   hoặc xóa trách nhiệm pháp lý. +  Việc truy cứu trách nhiệm pháp lý phải  được tiến hành kịp thời,  nhanh chóng, công minh, chính xác theo đúng pháp luật và phải đạt hiệu quả  cao.  CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH VI PHẠM PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN  TỈNH ĐỒNG NAI VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ  PHÒNG NGỪA ĐẤU TRANH 17
  18. 2.1. Tình hình vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Đồng Nai 2.1.1. Tình hình tội phạm Hàng năm, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai xảy ra khoảng 2000 vụ  án hình  sự, làm chết và bị thương khoảng 250 người, gây thiệt hại về tài sản của Nhà  nước và công dân hàng chục tỉ đồng. Công an Đồng Nai hàng năm đã khởi và  bắt tạm giam hơn 2000 bị  can, tiến hành điều tra và chuyển Viện kiểm sát   truy tố.  Trong tổng số  các tội phạm thì tội phạm hình sự  chiếm tỉ  lệ  cao nhất   (khoảng hơn 80%). Tình hình TPHS trong thời gian gần đây diễn biến phức   tạp, nổi lên là hoạt động của các tổ  chức tội phạm hoạt động theo kiểu "xã   hội đen", các băng nhóm lưu manh côn đồ, lưu manh chuyên nghiệp, tội phạm   sử dụng vũ khí nóng, các băng nhóm tội phạm có mối liên hệ vùng, miền ngày  càng rõ nét, tội phạm hoạt  động mang tính cơ  động cao, tập trung  ở  các  tuyến, địa bàn trọng điểm, sự  câu kết giữa các tổ  chức tội phạm trong nước   và tổ chức tội phạm ở nước ngoài ngày càng nhiều và chặt chẽ hơn.  Tuy chiếm tỉ lệ thấp trong cơ cấu tội phạm những tội phạm kinh tế và  tội phạm ma túy cũng đang diễn biến rất phức tạp. Thủ đoạn hoạt động của  tội phạm này ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Nhiều vụ  án, các đối tượng lợi  dụng kẽ  hỡ của pháp luật và chính sách kinh tế  để  hoạt động phạm tội nên  gây ra nhiều khó khăn trong công tác điều tra, khám phá và xử lý. 2.1.2. Tình hình vi phạm hành chính và dân sự Vi phạm hành chính là loại vi phạm pháp luật phổ biến nhất ở nước ta  nói chung và ở tỉnh Đồng Nai nói riêng. Các lĩnh vực vi phạm hành chính xảy   ra phổ biến nhất là: trật tự an toàn giao thông, trật tự an toàn xã hội, đất đai,   sản xuất kinh doanh,...  Đặc biệt, tình hình vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông hiện  nay rất đáng lo ngại. Nhất là ở những tuyến đường, giao lộ vắng bóng Cảnh  sát giao thông, tình trạng người điều khiển phương tiện ngang nhiên vi phạm  18
  19. giao thông ngày càng phổ  biến, như  một hiện tượng xã hội đáng báo động.  Những hình ảnh người tham gia giao thông cố tình vượt đèn đỏ, đi vào đường   ngược chiều, đường cấm, lấn tuyến, tìm mọi cách chèn lách để  vượt lên  trước phương tiện khác... diễn ra hầu hết ở mọi tuyến đường, giao lộ.  Thời gian qua, lực lượng Cảnh sát môi trường Công an tỉnh đã tích cực   tuyên truyền và kiên quyết xử lý các trường hợp cố tình vi phạm trên lĩnh vực   này.   Tuy   nhiên,   tình   hình   vi   phạm   pháp   luật   về   bảo   vệ   môi   trường   vẫn   thường xuyên diễn ra. Trong quý I­2010, lực lượng Cảnh sát môi trường tỉnh  đã kiểm tra, phát hiện 80 vụ vi phạm Luật Bảo vệ môi trường, như: Vi phạm   quy định về  vệ  sinh an toàn thực phẩm, khai thác khóang sản trái phép, thải   chất gây ô nhiễm môi trường, quản lý và vận chuyển chất thải nguy hại   không đúng quy định... Trong đó, vi phạm các quy định về  vệ  sinh an toàn   thực phẩm và các thủ  tục bảo vệ  môi trường chiếm số  lượng lớn. Cơ  quan   chức năng đã ra quyết định xử  phạt vi phạm hành chính 35 trường hợp, với   tổng số tiền gần 445 triệu đồng.  Bên cạnh vi phạm hành chính thì vi phạm dân sự  cũng thường xuyên  diễn ra. Phổ  biến nhất là vi phạm về  thừa kế, hôn nhân gia đình, hợp đồng  lao động, sản xuất, kinh doanh, đất đai, nhà  ở,... dẫn đến nhiều vụ  khiếu   kiện lên tòa án nhân dân.  2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả  phòng ngừa, đấu tranh vi phạm   pháp luật trên địa bàn tỉnh Đồng Nai Để  phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả  với vi phạm pháp luật thì  trước hết và quan trọng hơn cả là phải nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích những   nguyên nhân, những điều kiện dẫn đến tình trạng nảy sinh hiện tượng vi  phạm pháp luật trong xã hội để  rồi từng bước có kế  hoạch xoá bỏ  những   nguyên nhân và điều kiện đó. Qua nghiên cứu tìm hiểu cho thấy, tình trạng vi phạm pháp luật trên địa  bàn tỉnh Đồng Nai xuất phát từ một số nguyên nhân và điều kiện cơ bản sau:  19
  20. ­ Về mặt khách quan: + Những tác động tiêu cực của tàn dư của xã hội cũ để lại trong kinh tế  và trong sinh hoạt hình thành nên những tư tưởng, suy nghĩ, quan điểm sống   lỗi thời, lạc hậu, không phù hợp với xã hội ngày nay. +  Ảnh hưởng của lối sống và sinh hoạt không lành mạnh từ  các nước   khác tới nhân dân mà nhất là thanh niên đã làm hình thành những lối sống tiêu   cực  như:  chay lười  lao  động, thích hưởng  thụ, chạy theo  đồng tiền, bạo  lực,... + Do xã hội chưa phát triển cao, năng suất lao động còn thấp nên tình  trạng nghèo nàn và lạc hậu của của một số không nhỏ những người lao động  trong xã hội. Điều kiện kinh tế  khó khăn sẽ  là điều kiện thuận lợi dẫn đến  những vi phạm pháp luật. + Sự  lạc hậu trong nhận thức của một số  người so với sự phát triển  của đời sống vật chất xã hội; ý thức và sự  tuân thủ  pháp luật của một bộ  phận nhân dân còn thấp. ­ Về chủ quan: + Sự  yếu kém trong công tác quản lý xã hội dẫn tới quá trình quản lý  các lĩnh vực còn nhiều sơ hở, thiếu sót, dễ bị kẻ xấu lợi dụng. + Hệ  thống pháp luật của Nhà nước ta chưa thực sự  hoàn thiện và  đồng bộ, nhiều quy định của pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẫn chưa đáp  ứng được nhu cầu đòi hỏi của cuộc sống;  + Công tác giáo dục chính trị, pháp luật và đạo đức chưa tốt (nhiều  người vi phạm pháp luật vì không hiểu biết pháp luật). + Tệ nạn và các hiện tượng tiêu cực trong xã hội còn tương đối nhiều.  + Hoạt động của các cơ  quan chuyên môn đấu tranh phòng, chống tội  phạm và những hiện tượng tiêu cực trong xã hội còn thiếu sót và hiệu quả  thấp, chưa đáp ứng được với tình hình thực tế. Ngoài ra còn nhiều những nguyên nhân và điều kiện khác. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0