Tiểu luận: Tổ chức hoạt động quảng cáo ở một doanh nghiệp (lấy ví dụ tại Tổng công ty viễn thông quân đội Viettel Mobile)
lượt xem 28
download
Doanh nghiệp là một chủ thể kinh doanh, một cơ thể sống của đời sống kinh tế. Cơ thể đó cần được “trao đổi chất”với môi trường sống bên ngoài-thị trường. Quá trình trao đổi chất đó càng diễn ra thường xuyên, liên tục với quy mô càng lớn thì cơ thể đó càng khỏe mạnh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Tổ chức hoạt động quảng cáo ở một doanh nghiệp (lấy ví dụ tại Tổng công ty viễn thông quân đội Viettel Mobile)
- TIỂU LUẬN: Tổ chức hoạt động quảng cáo ở một doanh nghiệp (lấy ví dụ tại Tổng công ty viễn thông quân đội Viettel Mobile)
- Lời mở đầu Doanh nghiệp là một chủ thể kinh doanh, một cơ thể sống của đời sống kinh tế. Cơ thể đó cần được “trao đổi chất”với môi tr ường sống bên ngoài-thị trường. Quá trình trao đổi chất đó càng diễn ra thường xuyên, liên tục với quy mô càng lớn thì cơ thể đó càng khỏe mạnh. Ngựợc lại sự trao đổi chất diễn ra yếu ớt thì cơ thể đó có thể quặt queọ và chết yểu. Một doanh nghiệp muốn tồn tại phải có các họat động cơ bản như: sản xuất, quản lý tài chính, quản lýnhân lực. Bên cạnh đó muốn phát triển, thành đạt cần phải biết kết nối mọi hoạt động của doanh nghiệp với thị trường hay biết lấy thị trường_nhu cầu và ước muốn cuả khách hàng làm chỗ dựa vững chắc nhất cho mọi quyết định kinh doanh. Với tương quan như vậy quảng cáo là hoạt động không thể thiếu của doanh nghiệp. Tổ chức hoạt động quảng cáo là khâu quan trọng kết nối khách hàng với doanh nghiệp. Đặc biệt là với doanh nghiệp viễn thông hay cụ thể là Tổng công ty Viễn thông Quân đội (Viettel Mobile). Chúng ta ngiên cứu các chiến dịch quảng cáo để thấy được từng bước phát triển của họ trong việc củng cố lòng tin với khách hàng cũng như khả năng giới thiệu dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng phức tạp của khách hàng. Được thành lập vào năm 2004 cho đến thời điểm hiện nay Viettel mobile đã lập kỉ lục với 6 triệu khách hàng. Đó là một bước nhảy vọt mà không phải nào cũng có được. Và một phần quan trọng trong thành công đó là có s ự góp mặt của các hoạt động quảng cáo trong suốt thời gian qua. Do vậy nghiên cứu đề tài: Tổ chức hoạt động quảng cáo ở một doanh nghiệp (lấy ví dụ tại Tổng công ty viễn thông quân đội Viettel Mobile) nhằm tìm hiểu về quảng cáo và những ứng dụng thực tế của nó đã đem lại cho các doanh nghiệp hiện nay và cả trong tương lai. Đề án của em gồm 2 chương: Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức hoạt động quảng cáo trong doanh nghiệp. Chương II: Tổ chức hoạt động quảng cáo tại Tổng công ty Viễn thông Quân đội Viettel Mobie.
- Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức hoạt động quảng cáo trong doanh nghiệp I. Quảng cáo và các hình thức quảng cáo 1. Khái niệm quảng cáo (sách giáo trình Quản trị doanh nghiệp thương mại) Theo quan điểm quản lý, quảng cáo là phương sách có tính chất chiến lược để đạt được hoặc duy trì một lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Trong nhiều trường hợp đầu tư cho quảng cáo là một sự đầu tư dài hạn Quảng cáo thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hóa dịch vụ. Quảng cáo trước hết là một hình thức truyền tin thương mại. Quảng cáo là một thông điệp về sản phẩm hàng hóa dịch vụ hay là tư tưởng hành động đén ngưòi nhận tin. Đó là hình thức truyền tin một chiều và phải trả tiền đồng thời cũng là sự hiện diện không trực tiếp của hàng hóa. Đối tượng mà quảng cáo nhằm vào là một nhóm khách hàng nào đó hoặc đại đa số công chúng. Thứ hai, thông điệp quảng cáo được các phương tiện thông tin đại chúng đăng tải như đài phát thanh, ti vi, báo tạp chí…cho đến các phương tiện hiện đại như điện thoại di động, Internet là để truyền tin đến khách hàng tiềm năng . Thứ ba, mục đích của quảng cáo là nhằm lôi cuốn khách hàng, quảng cáo là hình thức truyền thông marketing. Nó vừa là công cụ giúp cho doanh nghiệp bán được nhanh và nhiều hàng. Nó vừa là phương tiện dẫn dắt khách hàng mới đến với doanh nghiệp. Vì vậy quảng cáo là động lực của buôn bán. Vai trò của quảng cáo thể hiện ở nhiều góc đ ộ. Nó được dự tính để hướng một người vào mua một sản phẩm, để hỗ trợ cho một mục tiêu hoặc thậm chí để khuyến khích tiêu dùng ít đi, để tăng khoản thu cho việc thiện, hoặc công khai hóa công đoàn hay các quan điểm chủ đạo của việc kinh doanh.Quảng cáo là sự trình bày để giới thiệu về hàng hóa cho mọi người biết nhằm tranh thủ được nhiều khách hàng. Trong kinh doanh thương mại, quảng cáo không còn là “cái đuôi” của buôn bán mà là một hệ thống phức tạp, một cơ cấu hỗn hợp lồng khít vào cơ cấu tổng quát của cơ chế kinh doanh của doanh nghiêjp
- thương mại. Quảng cáo vừa là sự cần thiết khách quan vừa là sự nỗ lực chủ quan của bản thân doanh nghiệp. Nhờ có quảng cáo, khách hàng biết đến sản phẩm của doanh nghiệp và doanh nghiệp bán được nhiều hàng hóa trong t ương lai. Điều này tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm được chi phí cho một đơn vị hàng hóa bán ra, tăng doanh nghiệp và lợi nhuận. Đồng thời tạo ra khác biệt cho sản phẩm nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Qua quảng cáo doanh nghiệp phải lựa chọn ra cái hay cái tốt của hàng hóa của mình để quảng cáo, cũng từ đó có thể so sánh với sản phẩm cùng loại. Điều này cũng giúp cho doanh nghiệp cải tiến và lựa chọn sản phẩm trong kinh doanh, áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ mới, dịch vụ mới để đáp ứng nhu cầu và yêu cầu của khách hàng. Trong điều kiện nền kinh tế mở, với tiến bộ khoa học công nghệ như vũ bão, nhiều sản phẩm mới được cải tiến với chất lượng cao ra đời nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dung ngày càng phong phú, đa dạng, phức tạp với nhiều nguồn cung ứng, nên quảng cáo ngày càng trở nên quan trọng và không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày. Sự phát triển của quảng cáo phụ thuộc vào sự phát triển của văn hoá, xã hội, sự phát triển của nghệ thuật, sự phát triển của trình độ dân trí, của các phương tiện thông tin và cơ chế quản lí nền kinh tế quốc dân 2. Các hình thức quảng cáo 2.1 Quảng cáo hướng tới người tiêu dùng 2.1.1 Quảng cáo quốc gia Quảng cáo quốc gia là việc quảng cáo cuả chủ sở hữu một sản phẩm hoặc dịch vụ đã nhãn hiệu thương mại được bán thông qua các nhà phân phối hoặc cửa hàng khác nhau ở bất cứ nơi nào. Quảng cáo quốc gia không có nghĩa là sản phẩm cần thiết phải bán ra trong phạm vi quốc gia. Mục tiêu của quảng cáo quốc gia là làm cho người tiêu dùng biết tên của sản phẩm hay dịch vụ, công dụng, lợi ích và những tiện lợi của nó để người tiêu dùng sẽ nảy ra ý muốn mua hoặc đặt mua nó vào khi nào và ở đâu tiện lợi nhất. Quảng cáo quốc gia là hình thức chung nhất, hiếm khi thấy nó đăng tin về giá cá biệt, về những chỉ dẫn mua sản phẩm hoặc các dịch vụ bán đặc biệt kết hợp với việc mua sản phẩm. Quảng cáo quốc gia hướng tới sự hình thành nhu cầu về một sản phẩm, nhất là về sản phẩm bán
- qua các cửa hàng tự phục vụ. Khi mọi người nói tới quảng cáo thì họ thường nghĩ về quảng cáo quốc gia. 2.1.2 Quảng cáo bán lẻ Quảng cáo bán lẻ không chỉ được hướng vào việc bán ra một sản phẩm mà còn hướng vào việc khuyến khích người mua nó ở một cửa hàng đặc biệt. Người làm công việc quảng cáo quốc gia vui mừng bán những sản phẩm của họ ở bất kỵ địa điểm nào. Quảng cáo bán lẻ phải nêu lên cho người tiêu dùng biết lí do mua hàngở cửa hàng đơn nhất ấy. Vì thế quảng cáo bán lẻ có tính đạc thù cao xét theo khía cạnh có lợi cho người tiêu dùng. Về mặt truyền thống, quảng cáo bán lẻ nhấn mạnh tới giá cả, nhất là các mục bán. Nó cũng cho biết giờ mở cửa hàng, các chính sách tín dụng và tin tức bất kì nào khác để phân biệt được giữa một cửa hàng này với các cửa hàng khác cũng bán ra loại hàng hóa như nhau. Giá cả và tiện lợi của sản phẩm là những chủ đề trước hết của loại quảng cáo này. Các kích cỡ hiện có để bán, các kiểu cơ b ản có thể chọn và các cửa hàng chi nhánh có bán loại hàng này cho phép người tiêu dùng nhận biết dược thông tin cơ bản nhanh. Vì những người bán lẻ căn cứ vào sự mua sắm tùy hứng để có một tỷ lệ phần trăm cao trong doanh số bán ra của họ nên các thông tin quảng cáo thường được thiết kế để đề cao hàng có bán, điều này sẽ tạo ra sự buôn bán tích trữ hàng với hy vọng rằng khách hàng sẽ mua các khoản mục được định giá đ ầy đủ khác một khi họ đã vào trong c ửa hàng. 2.1.3 Quảng cáo sản phẩm cuối cùng Quảng cáo sản phẩm cuối cùng kích thích sự hình thành nhu cầu tiêu dùng về các bộ phận cấu thành mà chúng được kết hợp lại với nhau trong khi chế tạo ra các sản phẩm khác. Nhà qu ảng cáo sản phẩm cuối cùng lớn nhất là E.I.Dupont de Nemours & Co. Quảng cáo của hang Dupont nhằm thay mặt người sản xuất kể lại trực tiếp câu chuyện cho người tiêu dùng thành phẩm cuối cùng. Trong việc tạo dựng nhu cầu tiêu dùng Dupont hy vọng rằng nhhững người sản xuất sẽ có thiên hướng về sử dụng các bộ phận cấu thành nhu cầu vào việc chế tạo ra các sản phẩm của họ. Kiểu quảng cáo trực tiếp này được gọi là quảng cáo sản phẩm cuối cùng.
- Bí mật của một dự án bẩt kỳ như vậy đề là sự nỗ lực bán hàng để lôi kéo những người sản xuất mua sản phẩm đã được quảng cáo đưa vàio sản phẩm riêng của họ, để sử dụng cái tên nhãn hiệu hàng của họ. Quảng cáo sản phẩm cuối cùng là một phương án của quảng cáo quốc gia thông thường, nó đề nghị người tuêu dùng mua sản phẩm qua tên hàng. 2.1.4 Quảng cáo đáp ứng trực tiếp Một trong những lĩnh vực phát triển nhanh nhất của nền kinh tế chúng ta là marketing trực tiếp, đó là việc bán một sản phẩm từ người tham gia thị trường tới người tiêu dùng không qua kênh bán lẻ. Quảng cáo dùng trong marketing trựv tiếp là quảng cáo đáp ứng trực tiếp. Ngày nay, chúng ta không chỉ thấy các ví dụ về quảng cáo đáp ứng trực tiếp trên mọi phương tiện mà cả Telemarketing - phiếu bán hàng và nhập hàng được thực hiện qua điện thoại – cũng trở nên rất phổ biến. 2.2 Quảng cáo hướng nghiệp và kinh doanh Có một thế giới quảng cáo mà hầu hết người tiêu dùng ít thấy, trong đó một hãng kinh doanh tìm cách bán một cái gì đó cho một hãng khác kể cả việc quảng cáo hướng tới những người chuyên môn như các nhà vật lí và các nhà kiến trúc là những người chuyên nghiên cứu sản phẩm của nhà quảng cáo để những người khác mua. Hình thức quảng cáo này được thực hiện để hỗ trợ cho việc quảng cáo sản phẩm hướng tới người tiêu dùng vì lợi ích cá nhân của họ.Quảng cáo hướng tới kinh doanh bao gồm các hình thức cụ thể sau: 2.2.1 Quảng cáo thương mại Tất cả các mặt hàng trong một cửa hàng phải được ai đó mua trước khi chúng được phân phát tới cửa hàng khác. Quảng cáo thương mại thường được đăng trên các tạp chí thương mại thông tin về sản phẩm bao gồm: giá cả, sự vận hành đặc thù và về bao gói. Quảng cáo có thể kể về lợi ích mà sản phẩm đang mang lại cho khách hàng và những người bán lẻ khác. mục tiêu của mọi công việc quảng cáo là mang lại khoản lợi nhuận mà cửa hàng có thể thu về qua dự trữ chính sản phẩm đó. Hoạt động quảng cáo thương mại là một sự hỗ trợ quan trọng cho bất kỳ một chiến dịch quảng cáo quốc gia nào.
- 2.2.2 Quảng cáo công nghiệp Người sản xuất là người mua máy móc thiết bị, nguyên vật liệu và các yếu tố dầu vào để chế tạo ra các sản phẩm hàng hóa mà anh ta bán ra. Những ai có máy móc, thiết bị hoặc vật tư để bán cho người sản xuất khác cần phả gửi tin quảng cáo của họ trên tạp chí công nghiệp để người mua được biết. Bản tin quảng cáo về động cơ điện tầu biển là một điển hình về quảng cáo công nghiệp. Nội dung mang tính chất kỹ thuật với sự nhấn mạnh hoàn toàn vào sản phẩm và các chủ đề như tiết kiệm nhiên liệu, các bộ phận thay thế lẫn nhau và không đòi hỏi phải bảo quản phức tạp là những kiểu chủ đề chung cho quảng cáo công nghiệp. Quảng cáo công nghiệp ít khi bán ra sản phẩm. Việc mua sắm các thiêt bị công nghiệp thường là một quá trình phức tạp, đòi hỏi sự tham gia của một số nhà sản xuất quyết định. Công việc của quảng cáo công nghiệp là thiết lập nên một sự tưởng tượng về chất và tạo dựng nên sự nhận biết về tên của sản phẩm; thông tin về lợi thế chủ yếu mà sản phẩm đem lại. 2.2.3 Quảng cáo có tính chất nghiệp vụ Người quan trọng nhất trong quá trình bán ra sản phẩm là người cố vấn về chuyên môn cho người mua như nhà vật lý hay nhà kiến trúc.Lời giới thiệu của thầy thuốc là lý do tác động tốt nhất để người bệnh mua sản phẩm đó. Quảng cáo có tính chất nghiệp vụ cũng có thể được dùng theo một cách gián tiếp hơn. Trong một vài trường hợp công ty có thể tạo dựng uy tín nhờ những khách hàng chuyên môn của mình qua việc chỉ ra tầm quan trọng của khách hàng cho công chúng biết. Những quảng cáo dịch vụ công cộng này có tác dụng hướng dẫn, giáo dục công chúng và tạo dựng mối quan hệ tốt đẹp hơn giữa công ty và khách hàng chuyên môn của họ 2.2.4 Quảng cáo có tổ chức Quảng cáo có tổ chức hay quảng cáo phường hội có một số mục đích riêng và được thể hiện dưới nhiều hình thức. Ở mặt hàng tiêu dùng nó có thể tạo ra một hình tượng như một công dân có tính tập thể tốt. Nó cũng có thể tìm cách chỉ ra việc nghiên cứu sản phẩm diễn ra như thế nào, không chỉ nhằm tìm ra các sản phẩm tốt hơn mà còn giải quyết cả vấn đề xã hội và môi trường nào đó. Khi công tác quảng cáo này hướng trực tiếp tới những ủy viên điều hành hiệp hội thì nó thường nhấn mạnh tới chất lượng sản
- phẩm của công ty. Thông thường quảng cáo có tổ chức sẽ vạch ra vai trò của công ty trong lĩnh vực kỹ thuật cao. Mục tiêu là đẻ chứng minh rằng công ty có thể chế tạo ra một thiết bị đặc biệt và cũng có kỹ năng, kỹ sảo để làm việc trong lĩnh vực khác. Quảng cáo có tổ chức thường phân biệt với các quảng cáo kinh doanh ở chỗ nó xuất hiện trên phạm vi rộng lớn và được viết cho đông đảo khán giả hơn so với các quảng cáo kinh doanh khác. 2.3 Quảng cáo dịch vụ Một số dịch vụ quảng cáo quốc gia như dịch vụ hàng không, ô tô cho thuê, hệ thống hotel và motel, các địa danh du lịch…Hưởng ứng quảng cáo dịch vụ có nghĩa là đi trực tiếp từ triển vọng hoặc qua nhiều nhất là một khâu trung gian. Bên cạnh đó quảng cáo dịch vụ sẽ tạo ra sự độc quyền bởi lẽ không một dịch vụ có thể quảng cáo theo nhiều cách khác nhau để tạo ấn tượng cho khách hàng, thu hút khách hàng đến với sản phẩm của công ty. Quảng cáo có tính mềm dẻo và linh hoạt nên điều quan trọng nhất đối với người làm công tác quảng cáo là phải xác định một cách chính xác xem quảng cáo đóng vai trò gì trong toàn bộ chương trình marketing. Để làm được điều đó cần thiết phải định rõ các điều kiện làm cho quảng cáo thành công. Một danh mục giới hạn các điều kiện ấy bao gồm cả một sản phẩm có chất lượng đã được dán nhãn cùng với sự phân biệt về lợi ích so với đối thủ cạnh tranh của nó và được bán theo giá hợp lí. II. Những giai đoạn của quảng cáo 1. Giai đoạn mở đường Đặc điểm nổi bật là quảng cáo sản phẩm trong giai đoạn mở đường phải chỉ ra cho người tiêu dùng thấy rằng các nhu cầu của họ có thể được thỏa mãn theo cách mới hơn, có hiệu quả hơn. Quảng cáo ở giai đoạn này thể hiện sự cải thiện giúp cho người tiêu dùng tiến tới thực hiện được điều gì đó hiệu quả hơn, an toàn hơn, hinh tế hơn hoặc thoải mái vui vẻ hơn. Giai đoạn mở đường của một sản phẩm thường rất bất lợi cho người sản xuất. Người bán phải mở rộng công việc phân phối sản phẩm, phải tạo ra những đợt thử ngiệm tiêu dùng và mở rộng các thị trường về mặt địa lý. Cùng lúc này, hầu hết các vật phẩm tiêu dùng đòi hỏi chi phí quảng cáo và xúc tiến lớn trong suốt giai đoạn mở đường. Thời
- gian sản phẩm dùng trong giai đoạn mở đường càng ít thì lợi về tài chính đ ối với người sản xuất càng lớn. Do vậy quảng cáo mở đường sẽ thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm khi cản phẩm đó mới xuất hiện trên thị trường. Lợi thế chắc chắn của người quảng cáo mở đường đó là về thời gian, cơ hội để trở thành người đứng đầu trong lĩnh vực này. Tên của người khởi đầu là điều đầu tiên để nhắc nhở về loại sản phẩm và nó tạo nên sự lôi cuốn khách hàng trước khi đối thủ cạnh tranh tiến vào. Người ta quen với nhãn hiệu của người khởi xướng hơn là nhãn hiệu thương mại của người kế tiếp. Họ tin tưởng vào sản phẩm của người đi đầu hơn vì họ cảm thấy nó tốt hơn, có lợi hơn, do có kinh nghiệm hơn. 2. Giai đoạn cạnh tranh Hiếm có một sản phẩm thành công nàomà không qua các cuộc chạy đua gay gắt giữa các đối thủ cùng kinh doanh một loại hàng hóa. Người mở đường giới thiệu một sản phẩm mới chịu một tỷ lệ chi phí cao cho việc phát triển và xúc tiến sản phẩm, cũng như phải chịu rủi ro gắn liền với sự thất bạicó thể có của sản phẩm. Tuy nhiên, một khi người mở đường đã thu hẹp lại những sự bất trắc của một sản phẩm mới bằng việc giới thiệu thành công thì thị trường cũng mở ra cho những người kế tiếp tiềm năng bước vào. Khi người tiêu dùng không còn phân vân “sản phẩm ấy để làm gì?” mà là “mình sẽ mua kiểu nào?” thì khi ấy sản phẩm đã bước vàop giai đoạn cạnh tranh. Chúng ta nói về quảng cáo cho một sản phẩm ở giai đoạn cạnh tranh là quảng cáo cạnh tranh. Mục đích của quảng cáo trong giai đoạn cạnh tranh là để chỉ ra được các nét thống nhất hay những sự hoàn thiện của một loại hàng hóa làm cho nó tốt hơn những hàng hóa khác. 3. Giai đoạn duy trì Khi một sản phẩm đã đạt đến độ chín muồi và dã có được sự chấp nhận rộng rãi thì nó bước vào giai đoạn duy trì. Những nhà quảngcáo có kinh nghiệm biết rằng có những sản phẩm bước vững chắc vào giai đoạn mở đường và giai đoạn cạnh tranh sẵn sang thách thức với “kẻ đứng đầu”. Trong th ực tế, nếu sản phẩm của bạn thực sự duy nhất trong giai đoạn duy trì thì đó có thể trở thành nguyên nhân gây lo lắng. Điều này vó thể chỉ ra rằng loại sản phẩm của bạn dang suy giảm và các nhà sản xuất khác nhận ra tiềm năng
- bán ra nhỏ bé trong thị trường c ủa nó. Giai đoạn duy trì luôn là giai đoạn chuyển tiếp. Sản phẩm của bạn cuối cùng hoặc sẽ suy giảm trước đối thủ cạnh tranh mới hoặc nó sẽ thích nghi thông qua việc ứng dụng công nghệ mới, tiến hành marketing hay xúc tiến bán để lại tiếp thêm sức mạnh cho chính nó. Mục tiêu của quảng cáo duy trì là đảm bảo giữ thị phần và ngăn ngừa việc thí điểm sử dụng những sản phẩm khác của người tiêu dùng. Sản phẩm trong giai đoạn này không nhất thiết phải cắt giảm bớt việc quảng cáo mà chúng cần sử dụng những chiến lược marketing và xúc tiến bán khác so với những chiến lược đã sử dụng trong các giai đoạn mở đường và cạnh tranh. Giai đoạn duy trì cũng được đặc trưng là giai đoạn có lợi nhất. Các chi phí phát triển sản phẩm đã được trừ dần, các kênh phân phối dã hình thành, các quan h ệ bán hàng cũng đã được thành lập. Các công ty luôn có gắng gữ cho sản phẩm của mình ở giai đoạn duy trì càng lâu càng tốt. Như vậy sản phẩm cũng giống như con người. Chúng cũng được sinh ra, trưởng thành và mất đi. Quảng cáo có vai trò khác nhau trong mỗi giai đoạn phát triển của sản phẩm. Quảng cáo được dẫn ra trong giai đoạn giới thiệu hoặc mở đường khác về cách tiếp cận so với việc quảng cáo cho sản phẩm đã có uy tín trong cuộc cạnh tranh với những đối thủ khác hoặc so với người đứng đầu lĩnh vực đang tìm cách duy trì vih trí của mình. Vì sản phẩm chuyển dịch từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, sự chấp nhận của người tiêu dùng cũng thay đổi nên điều này cần phải được phản ánh trong quảng cáo. III. Những quyết định cơ bản trong hoạt động quả ng cáo 1. Xác định mục tiêu quảng cáo Bước đầu tiên phải thực hiện là xác định mục tiêu quảng cáo. Mục tiêu sẽ chi phối toàn bộ quá trình hoạt động quảng cáo. Những mục tiêu này xuất phát từ những quyết định về thị trường mục tiêu, về việc định vị sản p hẩm hàng hóa của doanh nghiệp trên thị truờng và về Marketing- Mix. Tùy theo nh ững điều kiện cụ thể đó mà doanh nghiệp có mục tiêu quảng cáo khác nhau. Mục tiêu quảng cáo còn phụ thuộc vào yêu cầu của hỗn hợp truyền thông của doanh
- nghiệp. Thông thường mục tiêu quảng cáo của doanh nghiệp thường hướng vào những vấn đề sau: - Tăng số lượng hàng tiêu thụ trên thị trường truyền thống. - Mở ra thị trường mới. - Giới thiệu sản phẩm mới. - Xây dựng và củng cố uy tín của những nhãn hiệu hàng hóa đồng thời nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Các mục tiêu quảng cáo có thể được xếp loại tùy theo ý muốn là thông tin, thuyết phục, hay nhắc nhở. Quảng cáo thông tin được dùng nhiều trong giai đoạn đầu của chu kỳ sống của sản phẩm với mục tiêu tạo nhu cầu ban đàu. Quảng cáo thuyết phục trở nên quan trọng trong giai đoạn cạnh tranh khi mục tiêu của doanh nghiệp là làm tăng nhu cầu. Quảng cáo nhắc nhở rất quan trọng trong giai đoạn trưởng thành nhằm duy trì khách hàng. 2. Xác định ngân sách quảng cáo Cần căn cứ vào mục tiêu quảng cáo của doanh nghiệp để xác định ngân sách quảng cáo. Do vậy có bốn phương pháp xác định ngân sách như sau: 2.1 Phương pháp xác định theo tỷ lệ (%) trên doanh số Phương pháp này yêu cầu doanh nghiệp ấn định ngân sách cho quảng cáo bằng một tỷ lệ phần trăm nào đó so với doanh số dự kiến. Ưu điểm của phương pháp này là: Thứ nhất, ngân sách có thể thay đổi theo chừng mực mà doanh nghiệp có thể chịu đựng được, làm cho các nhà quản lý yên tâm vì chi phí tquảng cáo gắn liền với sự tăng, giảm doanh số bán của doanh ngiệp trong chu kỳ kinh doanh Thứ hai, phương pháp này khuyến khích các nhà quảng lý làm quyết định trong khuôn khổ của mối liên hệ giữa chi phí quảng cáo, giá bán và lợi nhuận cho mỗi đơn vị sản phẩm Thứ ba, phương pháp này ổn định cạnh tranh trong tình thế các doanh nghiệp khác cũng xác định ngân sách trên doanh số theo một quan hệ tỷ lệ đã hình thành
- Nhược điểm của phương pháp này đó là chưa có cơ sở thỏa đáng, chưa có luận điểm vững vàng để bảo vệ cho nó và trong một chừng mực nào đó còn luẩn quẩn coi kết quả doanh thu là nguyên nhân của mức độ hoạt động quảng cáo. Từ đó dẫn đến việc khó tranh thủ các cơ hội tăng cường hoạt động thiêu thụ và quảng cáo. 2.2 Phương pháp cân bằng cạnh tranh Phương pháp này đòi hỏi doanh nghiệp xác định mức ngân sách của mình bằng mức ngân của đối thủ cạnh tranh trong khu vực thị trường và trong chu kỳ kinh doanh. Dù sao chi phí của hãng cạnh tranh cho thấy mức độ chi tiêu hợp lí của ngành kinh doanh. Hơn nữa việc duy trì một mức độ chi phí ngang bằng cạnh tranh sẽ loại trừ được cuộc chiến tranh truyền thông. Tuy nhiên trong thực tế khó mà biết được mức chi ngân sách cụ thể ở các doanh nghiệp cho quảng cáo là bao nhiêu? Mặt khác, mục tiêu quảng cáo của các doanh nghiệp khác nhau do vậy không thể căn cứ vào doanh nghiệp khác để xác định ngân sách cho doanh nghiệp mình được. 2.3 Phương pháp căn cứ vào mục tiêu nhiệm vụ phải hoàn thành Trước hết phải xác định các công việc quảng cáo phải làm sau đó xác định chi phí giành cho các hoạt động quảng cáo đó. Phương pháp này yêu cầu các doanh nghiệp phải hình thành ngân sách trên cơ sở những mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể cần phải giải quyết. Ưu điểm của phương pháp này là có cơ sở khoa học hơn. Các nhà quản lý phải trình bày rõ các yêu cầu nhiệm vụ của quảng cáo phải thực hiện, các hoạt động quảng cáo đ ược đề cập và chi phí giành cho nó. Tuy nhiên, ngân sách qủang cáo không được vượt quá ngân sách Marketing của công ty. Khi quyết định ngân sách quảng cáo còn chú ý tới tính chất của loại sản phẩm và vị trí của nó trong chu kỳ sống của sản phẩm trên thị trường. 2.4 Phương pháp theo khả năng Yêu cầu của phương pháp này là doanh nghiệp có khả năng tới đâu thì quyết định mức ngân sách cho quảng cáo tới đó. Phương pháp này không tính đến sự tác động của quảng cáo đối với lượng hàng hóa tiêu thụ, tới doanh số bán ra. Vì thế ngân sách này
- không ổn định hàng năm và gây trở ngại cho việc hình thành chiến lược dài hạn về thị truờng của doanh nghiệp. 3. Quyết định nội dung truyền đạt Nhữnng nhà quảng cáo dùng nhiều giải pháp để hình thành những ý tưởng diễn tả mục tiêu quảng cáo. Một số người sử dụng phương pháp quy nạp bằng cách nói chuyện với khách hàng, với các nhà buôn, các nhà khoa học, các đối thủ cạnh tranh để tìm ra nội dung cần truyền đạt. Một số khác sử dụng phương pháp suy diễn để hình thành nội dung thông điệp quảng cáo. Nhìn chung, nội dung quảng cáo thường được đánh giá dựa trên tính hấp dẫn, tính độc đáo và tính đáng tin cậy. Thông điệp quảng cáo phải nói lên những điều đáng mong ước hay thú vị về sản phẩm. Nó cũng cần nói lên những khía cạnh độc đáo, khác biệt so với những sản phẩm khác. Doanh nghiệp cần phân tích ba tính chất này trong nội dung thông điệp. Sau đó, doanh nghiệp phải thể hiện được nội dung đó trong thông điệp để bảo đảm cho sự thành công của hoạt động quảng cáo. Phải chọn lựa ngôn ngữ, phải xác định cấu trúc thông điệp, lựa chọn phương tiện truyền tin thích hợp, bảo đảm thỏa mãn các yêu cầu của quảng cáo. Các thông điệp quảng cáo có thể trình bày theo nhiều phong thái thể hiện khác nhau như mẩu đời, một lối sống, một sự tưởng tượng. 4. Quyết định phương tiện quảng cáo Doanh nghiệp căn cứ vào mục tiêu quảng cáo, đối tượng quảng cáo và đối tượng nhận tin mà chọn phương tiện truền tin quảng cáo cụ thể. Có thể chọn phương tiện truyền thông đại chúng hoặc phương tiện truyền thông chuyên biệt, phương tiện quảng cáo chính và phương tiện bổ xung v.v.. Những đặc tính quan trọng nhất của phương tiện quảngc áo mà các doanh nghiệp quan tâm khi lựa chọn là mức độ trung thành của khách hàng mục tiêu đối với các phương tiện quảng cáo nhẩt định, sự thích hợp với hàng hóa, đặc thù của thông tin và chi phí. Một số phương tiện quảng cáo mà các doanh nghiệp thường sử dụng: + Báo: Ưu điểm là dễ sử dụng, kịp thời, phổ biến rộng tại thị trường dịa phương, được chấp nhận rộng rãi, độ tin cậy cao.
- Nhược điểm là tuổi thọ ngắn, số lượng độc giả hạn chế. + Tạp chí: Ưu điểm là có độ lựa chọn theo dân số và địa lý cao, có uy tín, có quan hệ với người đọc lâu dài. Nhược điểm là thời gian chờ đợi lâu, một số lượng phát hành lãng phí. + Rađiô: Là phương tiện thông tin đại chúng có khối lượng người nhận thông tin lớn, nhanh và sâu rộng. Ưu điểm là nhiều người nghe, chi phí thấp, linh hoạt về địa lý có thể nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Hạn chế ở chỗ chỉ giới thiệu bằng âm thanh, khả năng gây chú ý thấp, tuổi thọ ngắn. + Tivi: Đây là phương tiện thông tin đại chúng khá phát triển ở cả thành thị và nông thôn. Quảng cáo qua tivi khai thác được các lợi thế về âm thanh, ngôn ngữ, hình ảnh, màu sắc. Đối tượng khán giả thuộc nhiều tầng lớp xã hội, khả năng truy ền thông tin nhanh, dễ dàng tạo nên sự chú ý. Nhược điểm là thời lượng có hạn, chi phí cao, khan giả ít chọn lọc, thời gian ngắn. + Phim quảng cáo: Phương tiện quảng cáo chuyên dùng đặc biệt đối với hàng xuất khẩu, có thể khai thác tốt hình ảnh, âm thanh, màu sắc và cả quy trình sản xuất nguyên liệu đóng gói, nhã, bao bì. Nó chỉ hạn chế vầe đối tượng xem không rộng rãi. + Quảng cáo bằng biển, panô, áp phích: phương tiện này có thể sử dụng lợi thế về kích cỡ, hình ảnh, màu sắc, chỗ gần doanh nghiệp hoặc nơi đông người qua lại. Nhược điểm là nội dung quảng cáo trên đó không thể chi tiết và cụ thể, đồnh thời phụ thuộc vào số người đi qua. + Quảng cáo qua mạng Internet đang trở nên khá phổ biến, là hình thức quảng cáo phù hợp với nhiều thị trường nước ngoài, đảm bảo liên hệ trực tiếp, nhanh chóng và hiệu quả. + Bên cạnh đó còn có quảng cáo qua catalog, bao bì, nhã hiệu, qua truyền miệng, telemarketing, qua hội chợ triển lãm, qua thư… Để lựa chọn phương tiện truyền tin thích hợp, người quảngc áo phải thông qua quyết định về phạm vi, tần suất, cường độ tác động của quảng cáo. Phạm vi chính là số khách hàng cần truyền tin đến họ. Tần suất chính là số lần xuất hiện của quảng cáo. Cường độ chính là mức độ gây ấn tượng của quảng cáo.
- 5. Đánh giá chương trình quảng cáo Đánh giá hiệu quả của quảng cáo là rất cần thiết nhưng cũng rất khó khăn. Trước hết phải dựa vào doanh số để đánh giá hiệu quả quảng cáo. Quảng cáo làm tăng mức độ nhận biết và ưa thích hàng hóa lên bao nhiêu và cuối cùng làm tăng doanh số bán lên bao nhiêu. Phương pháp đánh giá hiệu quả là so sánh khối lượng bán gia tăng với những chi phí quảng cáo trong thời kỳ đã qua. Hiệu quả qua doanh số thường khó xác định bởi doanh số chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố ngoài quảng cáo. Mức độ kiểm soát các yếu tố đó càng cao thì việc xác định hiệu quả của quảng cáo tới doanh số càng thuận lợi và chính xác. Các nhà ngiên cứu đã sử dụng phương pháp phân tích và phương pháp lịch sử để xác định hiệu quả của quảng cáo và doanh số. Hiệu quả quảng cáo còn được đánh giá qua hiệu quả truyền thông bằng các chỉ tiêu như bao nhiêu người biết. bao nhiêu người nhớ, bao nhiêu người ưa thích thông điệp quảng cáo. IV. Những điều kiện để quảng cáo có hiệu quả 1. Điều quan trọng trước tiên sản phẩm phải là hàng hóa thỏa mãn một nhu cầu nhất định Với “hàng hóa” chúng ta hiểu là một sản phẩm mà người tiêu dùng muốn mua và sẽ tiếp tục mua về sau này. Nếu sản phẩm là vật mua có giá trị lâu bền như máy giặt, tivi…thì người mua còn sẵn sàng giới thiệu cho bạn bè hoặc hỗ trợ đắc lưc cho quảng cáo sản phẩm. Mỗi loại hàng hóa lại có tính năng và cách sử dụng nhất định. Nhưng không phải hàng hóa nào cũng thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Mặt khác không hàng hóa nào có thể đáp ứng tất cả mọi nhu cầu của người tiêu dùng. Do vậy hàng hóa đáp ứng tốt nhất một nhu cầu sẽ kích thích được ham muốn mua hàng của người mua. Thất bại của hãng Clairol với sản phẩm máy uốn tóc “Điều kỳ diệu nhỏ” là một ví dụ. Đó là sản phẩm thử ngiệm tốt nhưng đã không được tiếng vang đáng kể trên thị trường. Được bán trên thị trường là một máy sấy tóc có thể giữ được nếp tóc qua ba lần gội, nó vẫn ch ưa hề được ưa chuộng mặc dù chi phí quảng cáo đã lên tới 5 triệu đô la. Các lần kiểm ngiệm đều chỉ ra rằng đây là sản phẩm tuyệt vời nhưng cũng nhận thấy rằng những chiếc máy này đã phải bán nhờ giá trị thẩm mỹ của chúng chứ không phải giá trị
- kinh tế hay công dụng chức năng. Tiềm năng thị trường và các nguồn lực công ty phải đảm bảo hoạt động quảng cáo. 2. Công ty phải tiềm năng, doanh s ố bán ra, doanh thu và lợi nhuận từ sản phẩm của mình Trong một cuộc ngiên cứu về các sản phẩm công nghiệp, người ta nhận thấy rằng việc giới thiệu các sản phẩm mới ra một thị trường nào đó đã làm cho chi phí quảng cáo tăng lên một cách đáng kể. Do vậy cân nhắc kỹ về doanh thu và chi phí để tạo lợi nhuận. Mức độ hoạt động cao của sản phẩm mới trên thị trường làm tăng chi phí quảng cáp lên một cách đáng kể vì các đối thủ cạnh tranh phải thông báo cho khách hàng tiềm năng về lợi ích và đặc điểm sản phẩm của họ. Chi phí quảng cáo là phần quan trọng trong tổng chi phí nhưng quảng cáo lại có vai trò vô cùng quan trọng trong đầu ra của sản phẩm. Do vậy việc xem xét tiềm năng về doanh số bán ra, doanh thu và lợi nhuận từ sản phẩm là điều hết sức cần thiết. 3. Thời hạn của sản phẩm Một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo sự thành công của sản phẩm đó là thời hạn. Quảng cáo để bán ra một sản phẩm hoàn toàn ở ngoài thời vụ của nó là điều khó khăn. Tuy nhiên, quảng cáo có thể xã hội hóa và nâng cao khả năng chấp nhận với tỷ lệ thực hiện những sản phẩm nhất định. Việc sử dụng những sự xác thực nhanh là một phương pháp tạo sự tưởng tượng tập trung về một sản phẩm. Quảng cáo thành công thường là một vấn đề được nêu lên đúng mức cho sản phẩm vào thời điểm thích hợp. Đa số các sản phẩm mới thành công thực sự đều có mặt trước thời điểm cần một chút. Chúng đã đạt tới hướng chính của một xu thế. Nhưng nếu chúng được đưa ra quá sớm và lại có quá nhiều điểm khác biệt thì chúng lại đòi hỏi một sự thay đổi về thói quen. Điều này lại trở nên khó khăn. Để có sự thành công thực sự, một sản phẩm phải có hai thuộc tính là tốt hơn và có tính khác biệt. Ngày nay tiện lợi là chủ đề đầu tiên của công tác quảng cáo sản phẩm mới và cũng là chỗ dựa cho các sản phẩm cũ đang muốn xác định lại vị trí của chúng. Thực phẩm, lương th ực, các thiết bị máy móc và các dịch vụ Ngân hàng tất cả đều tập trung vào để làm giảm nhẹ, thuận tiện cho việc mua hàng, vận hành, sửa chữa và bảo quản.
- 4. Người sản xuất phải tham gia vào việc bán sản phẩm mang tên mình Người sản xuất có cần phải phân phối một sản phẩm mới mang tên hiệu riêng của mình không? Có cần phải tạo ra một nhãn hiệu mới cho nó hay bán nó qua những đại lý bán lẻ lớn theo những nhãn hiệu riêng của họ? Vì chỉ có một số ít sản phẩm có thể được bán ra thị trường một cách thành công khi hàng hóa mang nhãn hiệu cửa hàn, sự lựa chọn đối với các nhà sản xuất là liệu có nên dùng tên hiệu hiện tại của họ hay không? Trước đây, các công ty thường nghĩ bán sản phẩm mới ra thị trường theo những tên hàng khác với những nhãn hiệu hàng hóa đã có uy tín của họ là sự khôn ngoan. Lý do căn bản là nếu sản phẩm mới không thành công nó sẽ không làm tổn hại danh tiếng của các sản phẩm khác của công ty. Tuy vậy, gần đây môi trường cạnh tranh và chi phí tạo dựng uy tín cho sự nhận dạng một mặt hàng mới đã đòi hỏi những người sản xuất phải xem xét lại chiến lược đa dạng hóa mặt hàng. Ngày nay, xu thế là tiếp tục marketing một số sản phẩm có cùng tên nhãn: Diet coke, Diet pepsi, Gillette daisy…chỉ là một số ví dụ về sản phẩm mới mà vẫn giữ tên hiệu tr ước đây. Các nhà sản xuất cũng tìm cách đồng nhất hóa nhãn hàng của họ với công ty như: General Foods, General Electric & ITT đã hoạt động theo các chiến dịch công ty về nhã hiệu hàng riêng của họ. 5. Sản phẩm cần có một sự nhận dạng duy nhất có lợi cho người tiêu dùng Khi có một sản phẩm mới xuất hiện, nó phải thể hiện một giá trị nào đó mà những sản phẩm đang tồ n tại không có. Nếu nó giống như các sản phẩm khác hiện có trong thực tế thì tại sao người ta lại cần chọn nó? Tại sao những người buôn bán lại phải mua tích chúng. Một cách chắc chắn khi bỏ tiền vào quảng cáo là phải nghĩ rằng có sự khác biệt trong quảng cáo để tìm ra các điểm khác biệt còn thiếu ở giá trị sản phẩm. 6. Các cách phân biệt sản phẩm Phân biệt sản phẩm được chia thành bốn loại, mỗi loại lại tạo ra những cơ hội riêng duy nhất cho hoạt động quảng cáo đó là: + Phân biệt theo lợi ích, bằng chứng về lợi ích và bằng chứng so với các đối thủ cạnh tranh thường hiếm thấy nhưng rất có thể thành công. Các sản phẩm thuộc loại này cũng
- tương đối dễ quảng cáo vì chỉ phải làm cho người tiêu dùng nhận biết đ ược rằng chúng đang tồn tại là đủ. + Phân biệt s ản phẩm theo lợi ích nhưng không có bằng chứng. Ở đây có lẽ quảng cáo có ý nghĩa quyết định nhất đối với sự thành công của sản phẩm. Khả năng làm nổi bật những đặc điểm có lợi cho người tiêu dùng được giấu đi một cách sáng tạo thông thường sẽ quyết định sự thành công của một sản phẩm như vậy. Những ôtô chạy tốn ít xăng, các sản phẩm thuốc lá có hàm lượng nicôtin thấp và các thiết bị dùng ít năng lượng là những ví dụ điển hình của kiểu phân biệt này. + Phân biệt sản phẩm không theo lợi ích nhưng rõ rang. Có lẽ sự phê phán chính đối với nhiều sản phẩm đương thời là chúng được thay đổi mà không có lý donào cả, đúng hơn là để đề cao một đặc điểm quan trọng nào đó. Mạ thêm crôm vào xe ôtô hoặc thay đổi nhãn hiệu hay bao gói là ví dụ điển hình của loại phân biệt này. + Phân biệt sản phẩm không theo lợi ích và không nói rõ rang. Khi có sự khác biệt chỉ là rất nhỏ giữa các nhãn hiệu hàng hóa khác nhau của cùng một sản phẩm thì cũng chỉ có rất ít điều để quảng cáo. Đường là một ví dụ tốt về một sản phẩm có sự khác biệt rất nhỏ giữa các nhãn hiệu hàng hóa, kết quả là việc quảng cáo về nhãn hiệu hàng hóa là rất nhỏ, đặc biệt theo quan điểm tiêu thụ đường mạnh. 7. Giá cả hợp lý Giá cả là một trong những biến số của marketing mà ít chịu sự kiểm soát của quảng cáo, nhưn g có tính quyết định đối với sự thành công của quảng cáo. Nói chung, giá cả phải nằm trong ngạch hợp lý và có tính cạnh tranh về kiểu mẫu, chất lượng sản phẩm. Trong hầu hết các trường hợp, nếu sản phẩm của bạn được định giá thấp hơn của đối thủ cạnh tranh trực tiếp thì đó là một sự phân biệt quan trọng cần phải được nhấn mạnh trong quảng cáo. V. Những lỗi quảng cáo nên tránh Quảng cáo có thể là một trong những cách nhanh nhất để đến với thị trường và bành truớng tổ chức việc kinh doanh, nó cũng có thể là cách nhanh nhất khiến bạn bị đẩy ra khỏi thị trường đó. Để công việc kinh doanh phát triển bạn cần lôi cuốn sự chú ý của
- khách hàng tương lai. Quảng cáo có thể có thể giúp bạn thực hiện điều này với điều kiện nó phải được sử dụng phù hợp. Đáng tiếc thay một số doanh nghiệp nhỏ tiêu tốn không biết bao nhiêu tiền vào quảng cáo mà chỉ thu được kết quả khiêm tốn. Do vậy chúng ta cần biết những lỗi cơ bản nên tránh gặp phải để đạt được thành công trong quảng cáo. 1. Quá tập trung chú ý vào sản phẩm bán Nếu chúng ta muốn lôi kéo sự chú ý của khách hàng tương lai hãy nói với họ về nhu cầu và ham muốn của họ chứ đừng chỉ nói đến sản phẩm. Mối liên hệ ban đầu với khách hàng tương lai không phải là cái chúng ta đã có suốt những năm qua, mà là vấn đề họ muốn chúng ta đáp ứng. Hãy sử dụng quảng cáo để nhận dạng ít nhất một vấn đề chung của khách hàng tương lai và lợi ích của việc sử dụng sản phẩm của bạn. 2. Có một thông điệp Marketing kém thuyết phục Chúng ta thường nghe quảng cáo nhiều sản phẩm khác nhau. Mỗi quảng cáo đều mang theo một thông điệp thể hiện tiêu chí của nhà sản xuất và nó gợi ra vài suy nghĩ ở phía người tiêu dùng. Hãy chắc chắn rằng quảng cáo của bạn bao gồm 7-10 từ miêu tả về những quyền bạn đáp ứng, những vấn đề bạn giải quyết để người đọc, người nghe quảng cáo biết bạn có thể đem lại cho họ điều gì. 3. Dùng từ sai Khi bạn chi tiền cho quảng cáo đầu tiên kãy kiểm tra các bản copy để chắc chắn rằng tất cả mọi từ ngữ đều được viết đúng và được lựa chọn hoàn hảo. Lỗi sai khi dùng từ và lỗi in là những điểm rất nên tránh để không gây sự khó chịu cho khách hàng khi đọc chúng khiến họ có ác cảm với công ty và với riêng sản phẩm. Từ đ ó dẫn đến việc sản phẩm, hàng hóa không bán được trên thị trường, cũng từ đó uy tín của doanh nghiệp bị giảm sút.
- 4. Quên thúc đẩy Hầu hết các quảng cáo dễ bỏ qua mục đích thúc đẩy khách hàng tương lai hành động. Nếu bạn muốn thúc đẩy khách hàng tiềm năng tới thăm wedside hay cửa hàng của bạn hay tiếp xúc trực tiếp với bạn hãy thêm vào quảng cáo lời đề nghị kích thích họ hành động theo cái mà bạn muốn. Một số công ty nhỏ hướng khách hàng thăm quan wedside mà ở đó họ quảng cáo là có nhiều thông tin chi tiết, cụ thể và có nhiều sản phẩm mới được cập nhật một cách thường xuyên. Một số khách hàng tiềm năng tới thăm trang wed của công ty, doanh nghiệp, bạn hãy chắc chắn rằng nội dung cũng như cách bài trí hình ảnh của wedside đủ mạnh để thu hút, lôi kéo khách hàng tới mua hàng. 5. Xuất hiện không đủ nhiều Ngoài những quyết định mua hàng tức thời hầu hết khách hàng cần trở nên thân thuộc với sản phẩm của công ty bạn trước đã và điều này phải có thời gian. Nếu bạn muốn quảng cáo của bạn phát huy tác dụng, bạn cần đảm bảo khách hàng tiềm năng được nhìn và được nghe thấy chúng hằng ngày. 6. Thiếu sự bám sát Thỉnh thoảng thúc đẩy bán đòi hỏi phải gửi thư hay điện thoại để liên lạc với khách hàng tương lai. Nếu bạn có được chiến lược hiệu quả khách hàng tiềm năng sẽ cung cáp cho bạn nhiều thông tin giá trị liên quan dến mong muốn, sở thích của họ. Hãy sử dụng wedside, email, điện thoại để theo sát khách hàng. 7. Thiếu sự theo dõi Nếu bạn kiếm được từ quảng cáo nhiều hơn số tiền bạn phải bỏ ra có nghĩa là bạn dang ở hoàn cảnh rất thuận lợi và chiến dịch quảng cáo của bạn tương đối thành công. Những công ty nhỏ thường không thể nói cho bạn biết những nỗ lực nào để đem lại kết quả. Theo dõi mỗi chiến dịch quảng cáo bạn sẽ biết nên tập trung vào đẩutong những chiến dịch tương lai, cái gì bạn cần thay đổi? Cái gì bạn cần hạn chế? - Bạn có biết bạn đã bán được thêm bao nhiêu hàng hóa và doanh số tăng lên là bao nhiêu sau mỗi chiến dịch quảng cáo? - Bạn có đang mắc lỗi nào trong số những lỗi trên đây không?
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tổ chức hoạt động giáo dục STEM cho học sinh ở các trường tiểu học trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên
105 p | 74 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh ở các trường tiểu học thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên
117 p | 172 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3
111 p | 40 | 15
-
Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Bồi dưỡng năng lực tổ chức hoạt động trải nghiệm cho giáo viên tiểu học
294 p | 25 | 11
-
Luận án Tiến sĩ Khoa học Giáo dục: Tổ chức hoạt động xêmina trong giảng dạy học phần phương pháp dạy học Toán cho sinh viên ngành giáo dục tiểu học
198 p | 98 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý bồi dưỡng năng lực tổ chức hoạt động xã hội cho cán bộ đoàn TNCS Hồ Chí Minh các trường trung học phổ thông thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn
136 p | 43 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Phát triển năng lực tổ chức hoạt động trải nghiệm cho giáo viên các trường Tiểu học thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai
126 p | 44 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Tổ chức hoạt động giáo dục toàn diện của giáo viên chủ nhiệm lớp ở các trường trung học phổ thông quận 9, thành phố Hồ Chí Minh
167 p | 14 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Thực trạng tổ chức hoạt động chơi cho trẻ mẫu giáo 5 -6 tuổi theo tiêu chí thực hành áp dụng quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non ở Thành phố Quảng Ngãi
162 p | 33 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Xây dựng và tổ chức hoạt động trải nghiệm trong môn Toán ở các lớp 4,5
109 p | 23 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Đánh giá tổ chức hoạt động trò chơi đóng vai theo chủ đề cho trẻ mẫu giáo ở một số trường mầm non Thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ
105 p | 40 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý bồi dưỡng năng lực tổ chức hoạt động trải nghiệm cho giáo viên Tiểu học huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai
148 p | 28 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý bồi dưỡng kỹ năng tổ chức hoạt động trải nghiệm cho giáo viên tiểu học huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
121 p | 21 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Giáo dục sự tự tin cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi thông qua tổ chức hoạt động ngày lễ, ngày hội tại một số trường mầm non Quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh
132 p | 4 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Bồi dưỡng năng lực tổ chức hoạt động trải nghiệm cho giáo viên tiểu học
27 p | 13 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lý bồi dưỡng kỹ năng tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho giáo viên tiểu học thành phố Hạ Long, Quảng Ninh
109 p | 22 | 3
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Tổ chức hoạt động khám phá khoa học theo định hướng giáo dục STEM cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
28 p | 19 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lí bồi dưỡng kỹ năng tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho giáo viên tiểu học thành phố Hạ Long, Quảng Ninh
109 p | 16 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn