intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: TRÁCH NHIỆM ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chia sẻ: Pham Vu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:140

82
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'tiểu luận: trách nhiệm đào tạo nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trường ở việt nam hiện nay', luận văn - báo cáo, báo cáo khoa học phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: TRÁCH NHIỆM ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

  1. TIỂU LUẬN: TRÁCH NHIỆM ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
  2. Trong thời đại ngày nay, nguồn nhân lực được coi là yếu tố hàng đầu quyết định quy mô, tốc độ, tính chất và hiệu quả của sự phát triển kinh tế - xã hội ở mọi quốc gia. Đào tạo nguồn nhân lực này là trách nhiệm của xã hội, của nhà nước, của các cộng đồng và của mỗi công dân. Nhu cầu tạo dựng nguồn nhân lực này đòi hỏi phải phân định vai trò của các bộ phận trong nguồn nhân lực (đội ngũ trí thức, tầng lớp chính khách và doanh nhân). Với Việt Nam hiện nay, việc tạo dựng và phát triển tam giác nhân lực này là trách nhiệm xã hội của toàn thể cộng đồng, của cả quốc gia, trước hết là của Nhà nước, không ai có thể làm thay Nhà nước trong việc xây dựng chiến lược tổng thể về phát triển nhân lực. Sự phát triển các lực lượng sản xuất của nhân loại suốt chiều dài lịch sử đã tích tụ trong nó sự phát triển mang tính bùng nổ trong giai đoạn hiện nay và tạo nên bước nhảy vọt mới của đời sống kinh tế nói riêng, đời sống xã hội nói chung. Sự hình thành kinh tế tri thức đang mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại với rất nhiều hệ quả mà hiện nay, chúng ta chưa thể nhận thức và thấu hiểu hết. Có lẽ cuộc khủng hoảng toàn cầu mà chúng ta đang chứng kiến hiện nay chỉ là một trong nhiều biểu hiện của sự xung đột giữa kinh tế tri thức đang hình thành và ngày một phát triển với những thể chế cũ do nền đại công nghiệp tạo nên nhưng đã không còn thích ứng với thời đại mới. Ngay cả con người cũng đã không còn thích ứng với những hoạt động của nền kinh tế mới theo những quy tắc khác với thời đại công nghiệp. Kinh tế tri thức dù mới chỉ hình thành ở mức độ khiêm tốn so với nền đại công nghiệp đang thống trị khắp nơi, nhưng nó lại đang đòi hỏi bản thân con người cũng phải thay đổi trên nhiều phương diện. Trong thời đại ngày nay, khi mà kinh tế tri thức đang ngày càng trở thành hiện thực với tốc độ nhanh hơn nhiều so với tốc độ phát triển kinh tế công nghiệp trước đây, thì nguồn nhân lực của quốc gia trở thành nguồn lực chính yếu nhất cho sự phát triển đất nước. Muốn đẩy nhanh sự phát triển, thực hiện phát triển bền vững cả từ nội dung môi trường tự nhiên lẫn môi trường xã
  3. hội, cả từ góc độ vi mô lẫn vĩ mô thì không thể không tạo dựng nguồn nhân lực quốc gia. Cách mạng khoa học và công nghệ là một đặc điểm nổi trội của thế giới hiện nay, một mặt, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của kinh tế tri thức; mặt khác, tạo cơ hội tốt cho các quốc gia đang phát triển có thể phát triển nhanh, bền vững. Nếu nhanh chóng nắm bắt được các thành tựu và vận dụng được chúng vào đời sống kinh tế - xã hội thì các quốc gia này có thể đẩy nhanh tốc độ phát triển để đạt tới trình độ phát triển cao của thế giới. Nhưng, cách mạng khoa học và công nghệ cũng tạo nên thách thức rất lớn cho chính họ, bởi nếu không tận dụng được cơ hội ấy thì khoảng cách tụt hậu càng xa và tình trạng tụt hậu càng trở nên trầm trọng. Cơ hội và thách thức đan xen nhau, cùng tác động lên các quốc gia đang phát triển. Quốc gia nào có điều kiện chủ quan tốt, có thể tận dụng được cơ hội thì quốc gia đó có thể phát triển nhanh chóng, có thể thoát khỏi nguy cơ tụt hậu ngày càng xa nhanh hơn các quốc gia khác. Một trong những yếu tố chủ quan đặc biệt quan trọng chính là nguồn nhân lực. Có được nguồn nhân lực tốt mới có thể thay đổi cơ chế, nhanh chóng thích ứng và nắm bắt cơ hội, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khác. Toàn cầu hóa là đặc điểm thứ ba của thời đại ngày nay. Nó đang diễn ra với quy mô và tốc độ ngày càng nhanh và mạnh. Không chỉ có toàn cầu hóa về kinh tế, mà cả văn hóa, chính trị, lối sống và nhiều mặt khác của đời sống xã hội. Nó lôi kéo ngày càng nhiều nước trực tiếp tham dự vào tiến trình của nó, và nó buộc họ phải can dự ngày càng sâu hơn, mạnh hơn, toàn diện hơn vào quá trình ấy và buộc các quốc gia, buộc toàn thế giới phải từng bước thay đổi, không có cách nào cản được. Không chỉ các quốc gia phải thay đổi mà toàn cầu hóa cũng buộc mỗi con người phải thay đổi để thích ứng với thế giới và đời sống xã hội đang thay đổi. Trong toàn cầu hóa, sự trì trệ đồng nghĩa với lạc hậu và chậm tiến. Thế giới đang buộc các quốc gia và mỗi con người phải thay đổi. Nhận thức được sự thay đổi để đồng hành cùng thế giới, chủ động, tích cực hội nhập cùng sự thay đổi, tham gia tích cực vào sự thay đổi để cùng thay đổi thế giới trở thành trách nhiệm của mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng, mỗi con người. Nói cụ thể hơn, trong mỗi quốc gia đó là trách nhiệm của xã hội, của nhà nước, của các cộng đồng và của mỗi công dân. Nhưng, để thay đổi, để thực thi trách nhiệm, dù đó là trách nhiệm của xã hội hay của
  4. nhà nước, của các cộng đồng hoặc của cá nhân thì nguồn nhân lực vẫn là yếu tố căn bản để tích cực, chủ động tham gia việc thay đổi thế giới. Tạo dựng nguồn nhân lực tốt mới có thể chủ động và tích cực tham gia toàn cầu hóa, góp phần làm thay đổi thế giới và thích ứng được với sự thay đổi. Nhưng, tạo dựng nguồn nhân lực đáp ứng tốt đòi hỏi ấy đang là bài toán phức tạp cho tất cả các quốc gia muốn tích cực và chủ động hội nhập toàn cầu hóa cùng nhân loại. Nhiều người cho rằng, để phát triển thì quốc gia cần có các yếu tố, như thể chế, quan hệ sản xuất tiên tiến, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự, kinh tế thị trường,… Đương nhiên, các yếu tố ấy đều đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của các quốc gia đương đại. Nếu nhìn từ góc độ các yếu tố bên trong, nội bộ quốc gia thì đó là những yếu tố có tính quyết định. Nếu xét từ góc độ nguồn lực thì đó là một trong những nguồn lực của phát triển, có thể gọi là nguồn lực thể chế bên cạnh các nguồn lực tự nhiên, nguồn lực con người, nguồn lực tài chính. Nhưng, chúng không thể thể hiện vai trò của mình, thậm chí không thể hiện hữu sức mạnh của mình nếu thiếu yếu tố con người hay nói cách khác là thiếu nguồn nhân lực. Như vậy, có thể nói, trong thời đại ngày nay, nguồn nhân lực là yếu tố hàng đầu trong sự phát triển của các quốc gia. Nó quyết định quy mô, tốc độ, tính chất và hiệu quả của sự phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Vai trò mới và mức độ quyết định của nó đối với sự phát triển do chính các đặc điểm và các quá trình đang diễn ra trong xã hội hiện đại ấn định. Nhưng, nếu hiểu nguồn nhân lực là toàn bộ số dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng tham gia lao động thì đó vẫn là cách hiểu chung. Nhu cầu về tạo dựng nguồn nhân lực trong các xã hội hiện đại đòi hỏi phải phân định vai trò của các bộ phận trong nguồn nhân lực. Thực tế phát triển của các quốc gia cũng như lý luận phát triển nói chung cho thấy không phải tất cả các bộ phận của nguồn nhân lực đều có vai trò như nhau đối với sự phát triển. Trong việc tạo dựng nguồn nhân lực thì đội ngũ tri thức, tầng lớp chính khách và doanh nhân là ba bộ phận quan trọng nhất, quyết định chất lượng nguồn nhân lực và chất lượng phát triển của đất nước. Cụ thể hơn, về nội dung, đội ngũ trí thức ở đây bao gồm cả lực lượng lao động có tay nghề cao(1) (vậy nên có người gọi đây là tầng lớp kỹ nghệ gia), tầng lớp chính khách bao gồm cả các nhà quản lý bậc trung và cao cấp (vậy nên có người gọi là tầng lớp quản lý gia), tầng lớp doanh nhân gồm các doanh nhân hạng vừa và
  5. lớn. Chính những người này là lực lượng chủ chốt của nguồn nhân lực. Nếu từ góc độ trình độ, chất lượng nguồn nhân lực thì đây chính là nguồn nhân lực chất lượng cao của xã hội hiện đại. Một quốc gia hiện đại không thể phát triển được nếu thiếu một trong ba đỉnh của tam giác nhân lực này. Chỉ khi có được tam giác nhân lực này thì các nguồn lực khác mới được khai thác tốt, mới phát huy được vai trò của chúng, khả năng phát triển nhanh của đất nước mới trở thành khả thi. Kinh tế tri thức càng phát triển thì đội ngũ trí thức và lao động có tay nghề cao cũng là lực lượng then chốt cho mọi sự phát triển nói chung, quyết định tốc độ phát triển xã hội và định hướng phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, và với tư cách hiền tài, nguyên khí quốc gia, lực lượng này sẽ quyết định tương lai của đất nước. Việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao này cần phải trên cơ sở tư duy mới, với những quan niệm mới, cách làm mới, phù hợp với những quy tắc mới của kinh tế tri thức, khác với các quy tắc của kinh tế công nghiệp đang thống trị hiện nay. Cùng với trí thức, tầng lớp doanh nhân và giới quản lý gia cũng đóng vai trò đặc biệt trong sự phát triển của xã hội hiện đại. Những tư tưởng mới, những phát kiến khoa học, kỹ thuật hay công nghệ mới của giới tri thức khó có thể trở thành những sản phẩm có tính chất đại trà hoặc đưa vào cuộc sống xã hội, trở thành các sản phẩm thương mại, nếu không có từng lớp doanh nhân, nghĩa là các sản phẩm trí tuệ sẽ không trở thành các sản phẩm tiêu dùng và tạo ra lợi nhuận thực tế được. Tuy nhiên, dù tầng lớp doanh nhân và trí thức có tài năng và đội ngũ hùng hậu bao nhiêu đi nữa mà đội ngũ quản lý gia quốc gia yếu kém thì chẳng những sức mạnh, năng lực chung của họ không được phát huy cho sự phát triển chung, mà nói chung là xã hội khó có được một hợp lực chung đủ mạnh để đưa đất nước phát triển nhanh, mạnh, đúng hướng, bền vững. Cả ba tầng lớp ấy tạo dựng tam giác nhân lực doanh nhân -trí thức - quản lý gia làm thay đổi nền tảng chất lượng nguồn nhân lực của xã hội, quyết định tốc độ và cả xu thế phát triển xã hội tương lai. Trong cơ cấu xã hội, thuộc về tầng trên của nó, nếu có thể nói như vậy, sự gắn kết giữa các tầng lớp chính khách, doanh nhân và trí thức là một đòi hỏi thiết yếu và quan trọng. Về phương diện nội lực, nếu ba tầng lớp này thống nhất với nhau sẽ tạo nên một cỗ xe tam mã có sức mạnh quyết định đến tốc độ và chất lượng phát triển của bất cứ quốc gia nào. Bất cứ khi nào và bất cứ ở đâu, không có được cỗ xe tam
  6. mã này, do dù chỉ là một tầng lớp nào đó đứng ngoài hoặc quay lưng lại, thì tốc độ và chất lượng phát triển chắc chắn sẽ có vấn đề, sự vận động của xã hội sẽ gặp nhiều trục trặc và trở ngại. Sự thống nhất của ba tầng lớp này trong việc phát triển quốc gia, dân tộc là yếu tố có tính quyết định, có thể lôi cuốn toàn bộ xã hội, tất cả các tầng lớp lao động tuân thủ một guồng máy chung trên công trường xây dựng quốc gia và chủ động hội nhập quốc tế trong quá trình toàn cầu hóa. Nói đến yếu tố nhân lực trong thực chất, trước hết phải nói đến ba tầng lớp này, dù vai trò của mỗi tầng lớp trong phát triển và hội nhập quốc tế có khác nhau, nhưng chúng bổ sung cho nhau. Thiếu vắng bất cứ một tầng lớp nào cũng dẫn đến những hệ quả xấu cho sự phát triển. Trong thời đại ngày nay, ba tầng lớp này là lực lượng tiên phong và chủ đạo trong việc đáp ứng những đòi hỏi của thời đại, tương hợp với các đặc điểm cơ bản của thời đại đã nói ở phần đầu bài viết. Bất cứ quốc gia nào hiện nay cũng không thể bắt tay vào xây dựng kinh tế tri thức, sử dụng cách mạng khoa học, công nghệ và tham gia toàn cầu hóa nếu không có ba tầng lớp trên đủ mạnh. Thế và lực của mỗi quốc gia trong thế giới hiện đại phần nhiều được quyết định bởi cỗ tam mã này. Xét riêng từ góc độ nguồn nhân lực, có thể nói, tam giác nhân lực chất lượng cao này chính là đầu tàu cho sự vận động của xã hội hiện đại. Toàn cầu hóa đặt ra cho nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam một thách đố lớn, mang tính chất tổng hợp, khó vượt qua như đã nói ở phần trên. Đó là nguy cơ dãn rộng hơn nữa khoảng cách tụt hậu so với các nước phát triển hơn. Đây là một thách đố với tất cả các nước, dù mỗi nước mức độ gay cấn của thách đố có khác nhau. Để giải quyết thách đố này, không thể dựa vào ai khác ngoài tam giác nhân lực chất lượng cao này với tư cách lực lượng chủ lực, chủ đạo và quyết định tốc độ, quy mô, phương thức vận động của đời sống xã hội. Chính vì vậy, đối với một số nước, vấn đề cấp thiết là phải nhanh chóng tạo dựng cho được ba tầng lớp đó đủ mạnh và gắn kết thực sự giữa họ với nhau. Nếu có được điều đó, việc giải quyết các vấn đề khác có thể dễ dàng thực hiện. Đáng tiếc là trong nhiều thập niên ở thế kỷ XX, một số nước do không chú ý đến điều này nên đã phải trả giá đắt cho sự phát triển và hội nhập trong toàn cầu hóa hiện nay. Đây là một bài học chung, quý báu đối với tất cả các quốc gia, dân tộc đang mong muốn phát triển nhanh.
  7. Đối với Việt Nam, việc tạo dựng tam giác nhân lực có tính quyết định đến tốc độ và định hướng phát triển xã hội Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Định hướng và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa được hay không phụ thuộc trực tiếp vào ba trụ cột nhân lực này. Tam giác nhân lực này là cốt lõi của nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Khác với các nước đã phát triển, hiện nay nước ta chưa thể bắt tay trực tiếp vào việc xây dựng nền kinh tế tri thức, mà phải phát triển kinh tế thị trường, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa để trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, chủ động hội nhập quốc tế trong khả năng có thể. Trong điều kiện đó, việc tạo dựng tam giác nhân lực chất lượng cao càng trở nên cấp thiết và có ý nghĩa đặc biệt. Hiện nay, ở Việt Nam, việc phát triển nguồn nhân lực nói chung, xây dựng và phát triển tam giác nhân lực nói trên chưa được chú tâm nghiên cứu một cách tổng hợp(2). Một số quan niệm sai lầm đang tồn tại trong xã hội đã gây cản trở hoặc khó khăn cho việc tạo dựng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh các trụ cột nhân lực nói trên, lại càng chưa giúp cho việc kết nối ba trụ cột đó thành tam giác nhân lực mạnh đối với sự phát triển xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Ai sẽ đóng vai trò quyết định trong sự phát triển xã hội, nếu không phải là tam giác nhân lực nói trên. Chính vì vậy, theo chúng tôi, hiện nay, đối với Việt Nam, việc tạo dựng tam giác nhân lực: trí thức - quản lý gia -doanh gia trở thành một nhiệm vụ chiến lược hết sức quan trọng đối với sự phát triển tương lai của Việt Nam. Việt Nam có thịnh vượng, có thể sánh vai được với các quốc gia hùng cường hay không, có thể nhanh chóng đạt đến kinh tế tri thức hay không phụ thuộc ở mức độ rất lớn vào việc tạo dựng tam giác nhân lực nói trên. Trong chiến lược phát triển đất nước không thể thiếu chiến lược phát triển tam giác nhân lực này. Hơn thế, chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao này phải được xem là nội dung then chốt và căn bản nhất. Đó có thể gọi là chiến lược tạo dựng và phát triển nhân tài. Đáng tiếc, trong chiến lược phát triển đất nước hiện nay, nội dung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao này chưa được chú trọng đúng theo tầm vóc và ý nghĩa của nó. Chúng ta cũng chưa có một chiến lược riêng về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thích hợp với những đòi hỏi cho giai đoạn phát
  8. triển hiện nay và sắp tới. Có lẽ cũng bởi vậy mà trong các chính sách liên quan đến đào tạo, tuyển chọn, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh nhân lực chất lượng cao, tính chất vụn vặt, rời rạc, tản mạn, lạc hậu với thực tiễn, chồng chéo, trái ngược nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau, mâu thuẫn với các nội dung trong các chính sách khác,… đang chậm được khắc phục. Tình trạng không đồng bộ trong các chính sách đang tạo nên những bất cập, cản trở sự hình thành, phát triển và sự thống nhất của tam giác nguồn nhân lực, gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển và đồng thuận xã hội. Theo chúng tôi, xây dựng chiến lược quốc gia phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, hay có thể gọi là chiến lược quốc gia phát triển nhân tài cho đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay là một trong những nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược, đặc biệt quan trọng. Chưa có được nhận thức đầy đủ và đúng đắn, chưa có một chiến lược quốc gia thống nhất về xây dựng tam giác nhân lực và các giải pháp triển khai chiến lược ấy một cách hữu hiệu, đất nước ta chưa có được những đảm bảo vững chắc để phát triển bền vững, lâu dài, nhanh, mạnh, có thể rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam vẫn trong tình trạng dồi dào lao động phổ thông mà thiếu lao động chất lượng cao. Trí thức đầu đàn thiếu đã đành, nhưng đội ngũ trí thức nói chung vừa yếu lại vừa không đồng bộ, nhiều ngành thiếu trầm trọng, hiệu quả và chất lượng lao động chưa cao, thậm chí một bộ phận đang có nguy cơ tụt hậu. Đội ngũ doanh nhân chưa đủ thời gian để trưởng thành, chưa đủ chất lượng và đồng bộ để có thể gánh vác trách nhiệm với dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập và phát triển. Tính chất chộp giật, thậm chí lừa dối trong kinh doanh, tầm nhìn ngắn hạn, thiếu bao quát và thụ động vẫn khá phổ biến. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, lãnh đạo nói chung chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển khiến cho hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước không được như mong muốn. Tư duy phiến diện, thiếu tầm nhìn xa, lãnh đạo và quản lý theo kiểu “chữa cháy”, “nước đến chân mới nhảy” còn tương đối phổ biến ở các cấp, các ngành. Nói chung, tính chuyên nghiệp trong lao động của cả ba đỉnh tam giác nhân lực còn rất yếu và thiếu khiến cho chất lượng của cả ba không đáp ứng được đòi hỏi của sự phát triển trong giai đoạn mới. Từ trước đến nay, chúng ta vẫn tập trung nhiều hơn vào việc phát triển nguồn nhân lực theo diện rộng, đại trà, với mọi thành phần, tầng lớp dân cư. Điều đó là hết sức
  9. cần thiết và đúng đắn. “Quân đông” là quan trọng và cần thiết, nhưng đã đến giai đoạn “quân tinh” là một đòi hỏi có ý nghĩa thành bại(3). Không có “quân tinh” là những doanh nhân giỏi, những nhà quản lý cừ, những nhà khoa học, kỹ thuật viên cao cấp xuất sắc, chúng ta không thể có kinh tế thị trường phát triển, không thể có nền công nghiệp hiện đại, tiềm lực kinh tế không đủ lớn, càng không thể tham gia toàn cầu hóa trên vị thế bình đẳng với các nền kinh tế phát triển cao… Với nền kinh tế có trình độ phát triển ngày càng cao thì nguồn nhân lực đông về lượng không phải là một lợi thế, mà chính nhân lực chất lượng cao mới là lợi thế và là động lực then chốt cho sự phát triển. Nếu ngay từ bây giờ, chúng ta không có chiến lược, chủ động trong việc tạo dựng đội “quân tinh” ấy, chắc chắn chúng ta sẽ chậm bước vào kinh tế thị trường phát triển cao và lại càng chậm bước vào kinh tế tri thức hơn. Tạo dựng sự “tinh nhuệ” không thể chỉ bằng giáo dục, đào tạo như trước đến nay trong ý thức xã hội vẫn thường quan niệm. Trong việc tạo dựng hay phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay, chúng ta vẫn thường hiểu rằng, đó trước tiên là nhiệm vụ của ngành giáo dục - đào tạo, tiếp đến là của Nhà nước. Điều đó cũng có nghĩa rằng, để tạo dựng tam giác nguồn nhân lực thì trách nhiệm hàng đầu cũng thuộc ngành giáo dục - đào tạo. Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ thì việc quy trách nhiệm như vậy không hoàn toàn thỏa đáng trong bối cảnh Việt Nam hiện nay. Thực tiễn cho thấy, khi tình hình đất nước thay đổi, ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam đã không đáp ứng được đòi hỏi của sự phát triển. Ít nhất cũng đã hai thập niên nay, giáo dục và đào tạo của Việt Nam loay hoay cố tìm lời giải trong hướng đi và giải pháp để có thể tạo dựng nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển. Nhưng cho đến nay, đáp số cho bài toán nguồn nhân lực nói chung vẫn chưa có. Theo chúng tôi, để tạo dựng và phát triển nhân lực chất lượng cao mà chỉ dựa vào riêng ngành giáo dục - đào tạo là phiến diện và không thể thoát ra khỏi tình trạng hiện nay. Bấy lâu nay, xã hội gần như mặc nhiên xem ngành giáo dục - đào tạo được giao và đương nhiên, bản thân ngành giáo dục - đào tạo cũng tự nhận về mình nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và bồi duỡng nhân tài, nghĩa là ngành giáo dục - đào tạo có trách nhiệm tạo dựng và phát triển tam giác nhân lực. Trong thực tế, xã hội đang rất bức xúc về giáo dục và đào tạo. Các sản phẩm mà nó tạo ra không được xã hội hoàn toàn tin tưởng và an tâm khi sử dụng. Đào tạo nhân lực nhưng nhân lực
  10. không đáp ứng được nhu cầu xã hội, bồi dưỡng nhân tài nhưng nhân tài không phát huy được khả năng của họ, nâng cao dân trí nhưng cả dân trí lẫn quan trí chưa theo kịp thực tiễn đất nước. Những hệ quả đó không thể chỉ do một ngành giáo dục và đào tạo như dư luận xã hội vẫn quan niệm Nếu xem xét rộng hơn, bao quát tổng thể hơn việc tạo dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thì chỉ riêng ngành giáo dục và đào tạo khó có thể làm được. Ngành giáo dục và đào tạo khó có thể hoàn thành được nhiệm vụ đó, vì những công việc ấy quá to lớn so với khả năng hiện tại của ngành. Nếu tiếp tục kiểu tư duy phiến diện, nhìn nhận về chức năng, nhiệm vụ và quy trách nhiệm cho riêng ngành giáo dục - đào tạo trong việc tạo dựng và phát triển tam giác nhân lực nói trên thì sẽ không thích dụng trong những điều kiện mới của quốc gia và thời đại. Đất nước đang cần một tư duy mới về giáo dục và đào tạo, cần một tư duy tổng thể, bao quát, nhìn xa thấy rộng về tạo dựng và phát triển nguồn nhân lực, trong đó đặc biệt quan trọng là tạo dựng và phát triển tam giác nhân lực chất lượng cao. Thực tiễn cho thấy, các doanh nghiệp, các cộng đồng và cá nhân càng không thể tự mình làm được việc đó. Tạo dựng và phát triển tam giác nhân lực là trách nhiệm xã hội của toàn thể cộng đồng, của cả quốc gia, nhưng trách nhiệm ấy không thể không có địa chỉ cụ thể. Đã đến lúc cần nhìn nhận thấu đáo hơn về trách nhiệm xã hội trong vấn đề này. Theo chúng tôi, để tạo dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trước hết cần có một chiến lược quốc gia thống nhất về nguồn nhân lực chất lượng cao, hay gọi là chiến lược phát triển nhân tài, nhận được sự đồng thuận xã hội. Chiến lược ấy phải được xây dựng trên một nền tảng tư duy mới, “đứng ra ngoài”, “đứng trên” ngành giáo dục - đào tạo, có tầm bao quát tổng thể, nhìn xa, thấy rộng, kết hợp được những tinh hoa dân tộc với những thành tựu hiện đại của thế giới. Chỉ có trong chiến lược tổng thể ấy mới có thể xác định rõ trách nhiệm xã hội cụ thể cho từng địa chỉ cụ thể. Và như vậy, trách nhiệm đầu tiên hiện nay - trách nhiệm trong việc xây dựng chiến lược nói trên - là thuộc về Nhà nước. Không ai có thể làm thay Nhà nước trong việc xây dựng chiến lược và cũng không nên chậm trễ hơn nữa trong việc xây dựng chiến lược này./. (*) Phó giáo sư, tiến sĩ khoa học, Phó viện trưởng Viện Triết học, Viện Khoa học xã
  11. hội Việt Nam. (1) Cho đến nay khái niệm trí thức ở Việt Nam vẫn chưa có cách hiểu thống nhất. Cuộc thảo luận về trí thức diễn ra khá sôi nổi vẫn chưa thể kết thúc và cũng chưa thể đưa ra được một cách hiểu về trí thức Việt Nam có thể được chấp nhận rộng rãi. Nghị quyết Trung ương 7 khóa X (tháng 7 – 2008) về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, xác định trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội. Theo chúng tôi, có thể hiểu trí thức là những người lao động trí tuệ, có trình độ học vấn, chuyên môn cao; bằng lao động và các sản phẩm lao động củamình, có khả năng gây tác động, gây ảnh hưởng đến sự thay đổi, phát triển của lĩnh vực chuyên môn của mình, từ đó gây ảnh hưởng đến sự phát triển của đời sống xã hội. (2) Trong hơn một thập niên qua đã cú khỏ nhiều cụng trỡnh nghiờn cứu nguồn nhõn lực dưới các góc độ cụ thể của các ngành hẹp, như giáo dục, đào tạo, xuất hiện khá nhiều, nhưng dưới góc độ chung, tổng hợp, bao quát thỡ lại chưa có nhiều. Do vậy, những cách nhỡn đơn lẻ, phiến diện, tản mạn,… về xây dựng và phát triển nguồn nhân lực vẫn đang có ảnh hưởng lớn trong xó hội. (3) Trong thực tế hiện nay, có rất nhiều thí dụ minh chứng cho điều này. Chẳng hạn, không có nhân lực chất lượng cao, việc xuất khẩu lao động của ta gặp rất nhiều khó khăn và người lao động Việt Nam thường phải làm những công việc có thu nhập không cao, lao động giản đơn, không có chuyên môn, kỹ thuật, như chăm sóc người già, người bệnh, là công việc gia đình, xây dựng những công trình giản đơn. Các hãng lớn từ các nước khác khi vào nước ta tuyển nhân sự đều phàn nàn về tình trạng thiếu nhân lực đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng, v.v.. XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC SINH THÁI MỘT TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA CON NGƯỜI ĐỐI VỚI TỰ NHIÊN
  12. PHẠM THỊ NGỌC TRẦM (*) Bài viết nêu lên những đặc trưng cơ bản của đạo đức sinh thái khác với đạo đức xã hội nói chung. Trong quan hệ đạo đức sinh thái, con người bao giờ cũng là chủ thể, còn tự nhiên bao giờ cũng là khách thể; sự tác động giữa chúng chỉ đi theo một chiều là mang lại lợi ích cho con người và xã hội, bỏ quên lợi ích và giá trị nội tại của các khách thể tự nhiên. Vì vậy, con người đã mang lại hậu quả khôn lường cho môi trường sống. Bài viết đã chỉ ra rằng, đạo đức sinh thái đòi hỏi một sự tự ý thức rất cao. Đây chính là chỗ gặp nhau, chỗ gắn bó giữa đạo đức sinh thái và trách nhiệm xã hội của con người đối với tự nhiên. Cuối cùng, bài viết khẳng định, trước vấn đề lợi ích trong nền kinh tế thị trường và thực trạng suy thoái nghiêm trọng của môi trường tự nhiên, vấn đề xây dựng đạo đức sinh thái càng trở nên bức xúc hơn lúc nào hết và phải được tiến hành ở mỗi thành phần cấu trúc của nó: ý thức đạo đức sinh thái, quan hệ đạo đức hành vi, kết hợp đạo đức với trách nhiệm xã hội của con người đối với tự nhiên. Xã hội loài người đang tồn tại trong môi trường sinh thái - nhân văn hay môi trường tự nhiên - người hoá. Bằng sức sáng tạo của trí tuệ và lao động được định hướng bởi trí tuệ đó, con người với tư cách một thực thể sinh học - xã hội đã không ngừng khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường xung quanh nhằm đáp ứng các nhu cầu sống ngày càng cao của mình và sự phát triển của xã hội. Song, cũng chính trong quá trình say sưa “nhào nặn” các tạo phẩm thiên nhiên sẵn có thành những tạo phẩm văn hoá, con người đã phạm phải những sai lầm nghiêm trọng đối với môi trường thiên nhiên, đã tàn phá chính nguồn sống và “thân thể vô cơ” của mình. Bởi vậy, ngày nay, hơn lúc nào hết, đạo đức sinh thái đang trở thành một yêu cầu mới đối với phẩm chất của con người và theo đó, việc xây dựng đạo đức sinh thái cũng trở thành một trách nhiệm xã hội của con người đối với môi trường sống. 1. Đạo đức và đạo đức sinh thái Sống trong môi trường tự nhiên - người hoá, con người luôn phải chịu sự ràng buộc và quy định bởi các mối quan hệ: 1- giữa con người với con người (giữa các cá nhân với nhau); 2 - giữa con người với xã hội (giữa cá nhân với các cộng đồng người lớn, nhỏ khác nhau); và 3 - giữa con người với tự nhiên (môi trường xung quanh). Đạo
  13. đức được hình thành và giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong việc hướng dẫn, điều chỉnh hành vi của con người nhằm điều hoà các mối quan hệ đó. Đạo đức có liên quan trực tiếp đến lợi ích, “lợi ích đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức”(1). Hay, lợi ích chính là nguồn gốc sâu xa của đạo đức. Lợi ích, xét về phương diện đạo đức, không phải chỉ là cái thoả mãn nhu cầu, đáp ứng được nhu cầu của chủ thể, mà còn phải đáp ứng được cả nhu cầu của khách thể. Nói đến lợi ích là phải nói đến giá trị. Bởi vì, chỉ có những gì (cả vật chất lẫn tinh thần) thoả mãn được nhu cầu và mang lại lợi ích cho con người (cả cá nhân lẫn cộng đồng, xã hội) mới được coi là có giá trị. Trong các quan hệ đạo đức xã hội, con người (có thể là một cá nhân hay một cộng đồng) vừa là chủ thể, vừa là khách thể. Do vậy, giá trị đạo đức và các chuẩn mực giá trị đạo đức trong các quan hệ đạo đức xã hội không thể chỉ là những gì mang lại lợi ích cho chủ thể, mà còn phải bảo đảm sự hài hoà giữa lợi ích của chủ thể và lợi ích của khách thể; đồng thời, lợi ích của chủ thể và khách thể đó còn phải phù hợp với xu hướng phát triển chung của xã hội và xu thế vận động của thời đại. Trên đây, chúng ta mới xét đến lợi ích, giá trị trong mối quan hệ với đạo đức xã hội. Vậy, trong đạo đức sinh thái thì sao? Đạo đức sinh thái là gì? Những đặc trưng cơ bản của đạo đức sinh thái? Có hay không có những chuẩn mực đạo đức sinh thái? Tại sao ngày nay xây dựng đạo đức sinh thái phải trở thành một trách nhiệm xã hội quan trọng của con người đối với tự nhiên, đặc biệt cấp thiết trong điều kiện kinh tế thị trường? Trước tiên, cần phải khẳng định rằng, đạo đức sinh thái là một dạng thức đặc biệt của đạo đức xã hội, là thứ đạo đức được thể hiện trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên (với môi trường sống chung quanh). Đúng như C.Mác đã viết: “Bản chất con người của tự nhiên chỉ tồn tại đối với xã hội; vì chỉ có trong xã hội, tự nhiên đối với con người mới là một cái khâu liên hệ con người với con người; ... chỉ có trong xã hội, tự nhiên mới biểu hiện ra là cơ sởcủa sự tồn tại có tính chất người của bản thân con người. Chỉ có trong xã hội, tồn tại tự nhiên của con người mới là tồn tại có tính chất người của con người đối với con người và tự nhiên mới trở thành con người đối với con người”(2). Là một dạng đặc biệt của đạo đức xã hội, đạo đức sinh thái bao gồm những quan điểm, quan niệm, tư tưởng, tình cảm, những nguyên tắc, chuẩn mực quy định, điều
  14. chỉnh hành vi của con người trong quá trình biến đổi và cải tạo tự nhiênnhằm phục vụ cho sự sống của con người, cho sự tồn tại và phát triển không ngừng của xã hội trong những điều kiện tự nhiên - xã hội nhất định. Ngoài những đặc trưng cơ bản của đạo đức xã hội, đạo đức sinh thái còn có những nét đặc thù riêng, đó là: - Trong quan hệ đạo đức sinh thái, con người bao giờ cũng là chủ thể, còn tự nhiên luôn là khách thể. Chủ thể và khách thể đạo đức xã hội tác động qua lại với nhau tuân theo những chuẩn mực giá trị đạo đức. Nếu bên chủ thể chỉ biết đến lợi ích của riêng mình, bất chấp lợi ích của khách thể (từ cá nhân cho đến xã hội) thì bị coi là kẻ vô đạo đức, có thể bị trừng phạt hay bị trả giá ngay. Trong đạo đức sinh thái, con người với tư cách chủ thể đạo đức luôn chủ động quan hệ và tác động lên tự nhiên một cách có ý thức, có mục đích là mang lại lợi ích về cho mình. Trong khi đó, sự tác động của tự nhiên lên con người và xã hội chỉ là sự tác động mù quáng, vô thức, hay chỉ là “sự phản xạ tự nhiên”. Do vậy, sự ứng xử vô đạo đức của con người đối với tự nhiên cứ thế được “tích luỹ” lại, mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên ngày càng sâu sắc dần, nhưng con người không thể nhận biết được, hay đúng hơn là không thể lường trước được hậu hoạ. Đến lúc con người nhận thức ra “sự trả thù” của tự nhiên thì đã quá muộn và khi đó, con người phải gánh chịu hậu quả nặng nề do mình gây ra cho môi trường tự nhiên và cũng là cho chính bản thân mình. - Đạo đức gắn liền với giá trị. Trong đạo đức sinh thái, lợi ích và giá trị có tính đặc thù. Tất cả những thuộc tính khách quan vốn có của khách thể tự nhiên hợp thành bản chất khách quan của nó, tức là giá trị nội tại của khách thể tự nhiên đó. Đây chính là những giá trị vốn có, tự thân của chúng, chứ không phụ thuộc gì vào nhu cầu và lợi ích của con người. Giá trị nội tại của các khách thể tự nhiên chính là sự sống và phục vụ cho sự sống, còn cái mà con người tiếp cận, nhận thức và sử dụng được từ các yếu tố tự nhiên, tức là cái phục vụ được cho lợi ích của con người, làgiá trị sử dụng của các khách thể tự nhiên. Các giá trị này không hoàn toàn phụ thuộc vào giá trị nội tại của chúng, mà chủ yếu bị quy định bởi nhu cầu và lợi ích của con người, bởi sự nhận thức của con người, bởi trình độ phát triển của khoa học và công nghệ của xã hội. Do vậy, một khi những điều kiện này thay đổi, thì lập tức, những giá trị sử dụng của các khách thể tự nhiên cũng bị thay đổi theo. Trong quan hệ với tự nhiên, con người chỉ tập trung khai thác những giá trị sử dụng và thực dụng của các
  15. khách thểtự nhiên nhằm phục vụ cho nhu cầu và thoả mãn được lợi ích ngày càng cao của mình, nhưng lại quên đi giá trị nội tại của chúng là sự sống và phục vụ cho sự sống. Với cách “hành xử” như vậy, con người đã vô tình vi phạm nghiêm trọng đến đạo đức sinh thái. Chẳng hạn, việc khai thác và sử dụng rừng một cách bừa bãi trên khắp thế giới trong nhiều thế kỷ qua, nhất là trong thế kỷ vừa qua, đã mang lại hậu hoạ sinh thái vô cùng nặng nề, mà một trong những thảm hoạ nguy hiểm nhất hiện nay là sự biến đổi khí hậu toàn cầu theo chiều hướng tiêu cực. Những thảm hoạ sinh thái đó không chỉ đang tàn phá tự nhiên, mà còn tàn phá cả chính sự sống của con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Điều này đã chứng tỏ rằng, con người chưa nhận thức được thấu đáo giá trị nội tại của thực vật, của rừng đối với đời sống của vạn vật, trong đó có con người và xã hội, mà chỉ biết khai thác giá trị sử dụng của chúng đến cạn kiệt. - Trong đạo đức sinh thái, mối quan hệ chỉ theo một chiều, nghĩa là chỉ có con người chủ động quan hệ, tác động lên các khách thể tự nhiên, chỉ có con người tự giác đặt ra các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực giá trị phục vụ cho lợi ích của mình,... để từ đó, tự điều chỉnh hành vi ứng xử của mình đối với tự nhiên. Do vậy, để đảm bảo được sự hài hoà về lợi ích giữa con người và tự nhiên, đòi hỏi con người phải có tính tự giác, tự ý thức rất cao. Muốn thực hiện được điều này, một mặt, con người cần phải biết nuôi dưỡng, phát huy tình yêu vốn có của mình đối với thiên nhiên, “nhân chi sơ tính bản thiện”, nuôi dưỡng tinh thần, đạo lý “Thiên - Nhân hoà đồng”, “Thiên - Nhân hợp nhất”;mặt khác, cần phải có những hiểu biết sâu sắc về các giá trị của các yếu tố tự nhiên, các quy luật tồn tại, vận động và phát triển của chúng, phải có nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí và trách nhiệm quan trọng của con người trong mối quan hệ với tự nhiên. Trên cơ sở những hiểu biết đó, con người mới có thể lựa chọn, xác định được những chuẩn mực hành vi đạo đức đúng đắn, phù hợp trong quá trình khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. 2. Đạo đức sinh thái và trách nhiệm xã hội Đạo đức sinh thái có mối quan hệ chặt chẽ với trách nhiệm xã hội của con người đối với tự nhiên. - Đạo đức sinh thái và trách nhiệm xã hội, trước tiên, đều được hiểu là thuộc lĩnh vực hoạt động tinh thần của con người, là ý thức về nghĩa vụ, bổn phận, đạo lý của con
  16. người đối với tự nhiên. Tuy nhiên, đó không phải là ý thức, tình cảm thuần tuý nằm trong đầu óc con người, mà phải được biểu hiện qua hành động cụ thể của con người trong mối quan hệ, tác động qua lại giữa con người và tự nhiên.Nếu như đạo đức sinh thái được xây dựng trên cơ sở những quan niệm, tư tưởng, tình cảm, tức là ý thức của con người đối với thiên nhiên và được gọi là ý thức đạo đức sinh thái, được biểu hiện bằng hành vi đạo đức thực tiễn trong quan hệ với thiên nhiên, thì trách nhiệm xã hội của con người đối với tự nhiên được hình thành trên cơ sở của cả ý thức đạo đức sinh thái và ý thức pháp quyền sinh thái, được biểu hiện bằng năng lực của con người ý thức được những hậu quả do hành động của mình gây ra cho tự nhiên. Do vậy, người nào càng trưởng thành, càng hoàn hảo về phương diện đạo đức, người đó càng có trách nhiệm hơn. Đạo đức và trách nhiệm xã hội đều phản ánh tồn tại xã hội, bị chi phối bởi những điều kiện kinh tế - xã hội và văn hoá của một xã hội nhất định, ở một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử, nghĩa là chúng có tính lịch sử - cụ thể. Ngoài ra, đạo đức và trách nhiệm xã hội còn phụ thuộc vào trình độ nhận thức, vào sự giáo dục, nghĩa là chúng cũng có tính độc lập tương đối. Con người ngày càng nhận thức được sâu sắc hơn, đầy đủ hơn quy luật khách quan của tự nhiên, của xã hội. Trên cơ sở đó, năng lực chi phối tự nhiên và xã hội của con người sẽ tăng lên và do vậy, đạo đức và trách nhiệm của con người đối với hành vi của mình cũng tăng lên theo. Xét về phương diện pháp lý, trách nhiệm còn phải xuất phát từ sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ, quyền càng rộng thì trách nhiệm càng cao. - Đặc trưng cơ bản nhất của đạo đức và trách nhiệm là sự tự ý thức, đặc biệt là trong đạo đức sinh thái, vì ở đây chỉ có sự tác động một cách có ý thức theo một chiều - chiều từ con người đến tự nhiên. Con người sống có đạo đức là con người luôn có ý thức, có năng lực điều chỉnh một cách tự nguyện, tự giác hành vi của mình theo những chuẩn mực đạo đức, nghĩa là con người tự giác nhận lấy trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong quan hệ với người khác, với xã hội và với tự nhiên. Cần nhấn mạnh một điều rằng, đạo đức sinh thái và trách nhiệm xã hội của con người đối với tự nhiên đều có một nền tảng chung là sự tự ý thức. Tuy nhiên, sự tự ý thức trong trách nhiệm xã hội của con người đối với tự nhiên phải cao hơn sự tự ý thức trong đạo đức sinh thái. Bởi vì, ở đây, trong trách nhiệm xã hội, con người không chỉ tự
  17. giác điều chỉnh những hành vi của mình trong cách ứng xử với tự nhiên sao cho phù hợp với những chuẩn mực đạo đức sinh thái, mà con người còn phải có năng lực để ý thức được những hậu quả do hành động của mình gây ra cho tự nhiên trong quá trình quan hệ, tác động lên nó. Hơn nữa, sự tự ý thức trong trách nhiệm xã hội của con người đối với tự nhiên không chỉ là sự tự ý thức đạo đức, mà còn có cả sự tự ý thức pháp quyền, nghĩa là con người phải có ý thức về nghĩa vụ, bổn phận của mình đối với môi trường sống của mình. Sự gặp nhau của sự tự ý thức trong đạo đức sinh thái và trách nhiệm xã hội của con người đối với tự nhiên là một đòi hỏi tất yếu trong xã hội hiện nay; khi mà, môi trường tự nhiên đã và đang bị con người tàn phá nặng nề, nền kinh tế thị trường đang ngày càng kéo con người xa khỏi những giá trị nội tại vốn có của các khách thể tự nhiên (giá trị sống và phục vụ sự sống), con người chỉ còn biết đến giá trị sử dụng của chúng, chỉ biết chạy theo lợi nhuận tối đa càng nhanh càng tốt trong khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường. - Lợi ích là nền tảng của cả đạo đức và trách nhiệm xã hội. Tuy nhiên, trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, trải qua một thời gian quá dài, con người hầu như chỉ biết mang lại lợi ích cho mình trong quá trình tác động lên tự nhiên. Vì vậy, con người không chỉ vi phạm nghiêm trọng đạo đức sinh thái, mà còn vô trách nhiệm đối với tự nhiên và suy đến cùng, là vô trách nhiệm với sự sống của chính mình và con cháu mình. Trong tình hình hiện nay, cần phải đề cao trách nhiệm xã hội của con người đối với tự nhiên, cụ thể là con người cần phải có năng lực xác định được lợi ích hoặc tác hại trong các hoạt động của mình trong quá trình tác động lên các khách thể tự nhiên. Để làm được điều này, cần phải xây dựng một đạo đức sinh thái mới - thứ đạo đức biết tính đến sự hài hoà giữa lợi ích của chủ thể (con người) và khách thể (tự nhiên), nghĩa là con người không nên chỉ biết đến giá trị sử dụng và thực dụng của các khách thể tự nhiên, mà còn phải biết tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ những giá trị nội tại của các yếu tố trong môi trường tự nhiên. 3. Đạo đức sinh thái và trách nhiệm xã hội của con người đối với môi trường sống trong điều kiện kinh tế thị trường Việt Nam bước vào nền kinh tế thị trường đã hơn 20 năm. So với lịch sử hàng nghìn năm tồn tại và phát triển của kinh tế thị trường thì khoảng thời gian đó là quá ít, nhưng cũng đủ để chúng ta có thể nhận ra cả những tác động tích cực, lẫn tiêu cực
  18. của nó. Kinh tế thị trường với quy luật giá trị, nguyên tắc lợi nhuận tối đa, quan hệ cung cầu và sự cạnh tranh đã luôn kích thích mạnh mẽ việc tìm kiếm lợi ích, đặc biệt là lợi ích kinh tế. Vì lợi ích kinh tế trước mắt, người ta dễ dàng bỏ qua vấn đề đạo đức và trách nhiệm, nhất là trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Trong đạo đức xã hội và trong các mối quan hệ lợi ích giữa người với người, nếu tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc mọi người đều bình đẳng về lợi ích, thì chính kinh tế thị trường sẽ góp phần tích cực điều tiết hành vi đạo đức của con người, làm cho đạo đức xã hội dần được hoàn thiện hơn, tốt hơn. Tuy nhiên, trong đạo đức sinh thái, không thể vận dụng nguyên tắc bình đẳng về lợi ích giữa con người và tự nhiên, khi mà con người luôn là chủ thể lợi ích. Sự tác động chỉ theo một chiều từ con người đến tự nhiên đã đưa đến nhiều hệ luỵ tiêu cực cho tự nhiên. Vì vậy, nếu chỉ trong một thời gian ngắn, với quy mô nhỏ hẹp, thì con người khó nhận biết được sự “phản ứng” của tự nhiên để kịp thời điều chỉnh hành vi ứng xử của mình. Từ đó, sai lầm ngày càng được “tích luỹ”, đến một mức độ nào đó, vào một thời điểm nào đó, khi con người nhận thức ra được sai lầm của mình thì đã quá muộn màng - tự nhiên đã bị tàn phá. Chúng ta không thể phủ nhận rằng, trước khi có nền kinh tế thị trường, môi trường thiên nhiên nước ta đã bị tàn phá. Song, từ khi phát triển nền kinh tế thị trường, môi trường tự nhiên bị tàn phá nhanh hơn, với quy mô lớn hơn. Bởi lẽ, trong kinh tế thị trường, con người được kích thích bởi lợi ích kinh tế trước mắt đã lao vào dòng xoáy của các hoạt động kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường cùng các hoạt động kinh doanh dịch vụ nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao nhất, nhanh nhất. Nhiều hậu hoạ sinh thái đã xảy ra, như nhiều dòng sông, hồ ao đã bị ô nhiễm nặng nề bởi nước thải độc hại của các nhà máy, xí nghiệp, khu liên hợp chế xuất, bởi nước thải bẩn của các cơ sở chăn nuôi, bệnh viện,điển hình và tai tiếng nhất là vụ nước thải của nhà máy bột ngọt Vêđan đã làm chết dòng sông Thị Vải và huỷ hoại môi trường sống quanh vùng, vụ việc nhà máy đóng tàu Vinashin, v.v.. Việc khai thác và sử dụng bừa bãi các nguồn tài nguyên thiên nhiên, như rừng, khoáng sản, kim loại quý hiếm,... đã dẫn đến sự cạn kiệt của chúng, đặc biệt là rừng. Tệ nạn không bảo đảm vệ sinh an toàn lương thực, thực phẩm ngày càng phổ biến và nguy hiểm hơn. Các tệ nạn xã hội đang gây ra sự ô nhiễm môi trường xã hội, như
  19. nạn ma tuý, mại dâm, đại dịch bệnh HIV- AIDS,... không chỉ phổ biến ở các thành phố, mà còn len lỏi đến hang cùng ngõ hẻm trên khắp đất nước, gây ra biết bao tai hoạ cho cuộc sống con người, không chỉ hôm nay mà cho cả các thế hệ mai sau. Nước ta còn là một trong những nước đang phải gánh chịu hậu quả nặng nề nhất của sự biến đổi khí hậu toàn cầu. Mưa lũ, ngập lụt, lốc xoáy, hạn hán xảy ra thường xuyên trên khắp mọi miền đất nước, năm sau lại nặng nề hơn, tổn thất lớn hơn năm trước. Tất cả những điều đó đang đòi hỏi phải xây dựng một đạo đức sinh thái mới phù hợp với điều kiện phát triển mới của đất nước và thế giới. Yêu cầu xây dựng đạo đức sinh thái ngày nay trở nên bức xúc hơn bao giờ hết, nó đòi hỏi phải xuất phát từ lương tâm, trách nhiệm của con người đối với tự nhiên, nhưng suy đến cùng, là đối với sự sống còn của chính mình và các thế hệ con cháu mai sau trước thực trạng xuống cấp nghiêm trọng của môi trường sống. Trong sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường, của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, những giá trị của đạo đức nói chung, của đạo đức sinh thái nói riêng cần phải có những thay đổi về căn bản. Phải thừa nhận rằng, trong truyền thống văn hoá dân tộc, con người Việt Nam đã có một đạo đức sinh thái rất đáng quý và đáng trân trọng. Với triết lý sống hài hoà với thiên nhiên và với lý tưởng đạo đức sinh thái “Thiên - Nhân hoà đồng” hay “Thiên - Nhân hợp nhất”, con người Việt Nam đã luôn sống gắn bó với thiên nhiên qua biết bao thế hệ, trải qua hàng nghìn năm lịch sử. Song, đó đồng thời cũng là hàng nghìn năm con người Việt Nam chỉ biết sống nương nhờ và dựa vào thiên nhiên, thuận theo thiên nhiên, phụ thuộc một cách mù quáng vào các thế lực của tự nhiên. Do vậy, nước ta vẫn mãi luẩn quẩn trong cái vòng phát triển chậm chạp của nền văn minh nông nghiệp cổ điển với “con trâu đi trước, cái cày đi sau”, người nông dân vẫn lam lũ, vất vả quanh năm “đầu tắt mặt tối”, “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, mặc dù chúng ta đã tiến hành quá trình công nghiệp hoá đất nước từ những năm 60 của thế kỷ XX. Hơn 20 năm qua, cùng với việc chấp nhận nền kinh tế thị trường, với việc đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, những giá trị đạo đức nói chung, đạo đức sinh thái nói riêng đã đột ngột bị thay đổi theo chiều hướng bất lợi cho môi trường. Sự kích thích mạnh mẽ của lợi ích tối đa trước mắt, kết hợp với những phương tiện kỹ thuật hiện đại đã làm cho con người lao vào khai
  20. thác và tận dụng tự nhiên bất chấp mọi hậu quả có thể xảy ra và trên thực tế đã xảy ra. Điều đó có nghĩa là, những giá trị của đạo đức sinh thái truyền thống đang phải đối mặt với những thách thức to lớn và vô cùng mới mẻ trong những điều kiện phát triển mới của đất nước và thời đại. Như vậy, cho đến nay, sự chuyển đổi các giá trị của đạo đức sinh thái mới chỉ theo hướng có lợi cho con người, vì lợi ích trước mắt của con người và xã hội. Tuy nhiên, vì mục tiêu phát triển bền vững, sự chuyển đổi này là không thể chấp nhận được và chắc chắn sẽ bị phủ định. Con người Việt Nam cần xây dựng một đạo đức sinh thái mới trên cơ sở phát huy những nét đẹp trong đạo đức sinh thái truyền thống dân tộc, đồng thời kết hợp với việc tiếp thu những giá trị sinh thái mới, sao cho phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững. Muốn làm được như vậy, chúng ta cần phải biết gắn kết đạo đức sinh thái với trách nhiệm xã hội của con người đối với môi trường sống của mình. 4. Vấn đề xây dựng đạo đức sinh thái phù hợp với trách nhiệm xã hội Việc xây dựng đạo đức sinh thái cần phải được tiến hành ở tất cả mọi thành tố của nó: từ ý thức, quan niệm, tình cảm đạo đức, quan hệ đạo đức (quan hệ lợi ích) đến hành vi đạo đức hiện thực, nghĩa là từ lý luận đến thực tiễn đạo đức. Xây dựng đạo đức sinh thái không thể tách rời trách nhiệm xã hội của con người đối với tự nhiên. - Đạo đức sinh thái là sự phản ánh về phương diện đạo đức hiện thực mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Ý thức, quan niệm, tình cảm đạo đức sinh thái phải được xây dựng trên nền tảng triết lý hài hoà giữa con người và thiên nhiên, trên cơ sở lý tưởng đạo đức “Thiên - Nhân hoà đồng” hay sự đồng tiến hoá của tự nhiên và xã hội, vì sự phát triển bền vững. Đó chính là sự tiếp thu những tinh hoa trong quan niệm, tình cảm đạo đức sinh thái truyền thống kết hợp với những tri thức sinh thái mới để tạo thành mộtý thức sinh thái mới. Có thể hiểu ý thức sinh thái mới là sự nhận thức một cách sâu sắc, toàn diện, khoa học về tự nhiên (các giá trị nội tại và sử dụng của các yếu tố tự nhiên, cùng những quy luật tồn tại và vận động của chúng); về vị trí và vai trò của con người trong mối quan hệ với tự nhiên; về trách nhiệm, nghĩa vụ của con người trong việc điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ đó hướng đến mục tiêu phát triển bền vững của xã hội và sự đồng tiến hoá giữa xã hội và tự nhiên. Điều này chỉ có thể đạt được bằng con đường tuyên truyền, giáo dục, dưới tất cả mọi hình thức, đối với tất cả mọi đối tượng trong xã hội, nhằm cung cấp cho con người những
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2