intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Xây dựng chiến lược kinh doanh cho ngành ngân hàng thương mại đến 2015

Chia sẻ: Nguyen Loan | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:37

417
lượt xem
166
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bước vào thế kỷ 21, trong xu thế hội nhập khu vực và thế giới, ngành ngân hàng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức hơn, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế thế giới đang từng bước vượt qua khủng hoảng. Mặc dù kinh tế trong nước đã lạc quan hơn nhưng các ngân hàng thương mại vẫn không cảm thấy “dễ thở” trước sức ép để tồn tại và phát triển. Tìm kiếm một chiến lược kinh doanh phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, gia...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Xây dựng chiến lược kinh doanh cho ngành ngân hàng thương mại đến 2015

  1. TIỂU LUẬN: Xây dựng chiến lược kinh doanh cho ngành ngân hàng thương mại đến 2015
  2. LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Bước vào thế kỷ 21, trong xu thế hội nhập khu vực và thế giới, ngành ngân hàng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức hơn, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế thế giới đang từng bước vượt qua khủng hoảng. Mặc dù kinh tế trong nước đã lạc quan hơn nhưng các ngân hàng thương mại vẫn không cảm thấy “dễ thở” trước sức ép để tồn tại và phát triển. Tìm kiếm một chiến lược kinh doanh phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, gia tăng tính cạnh tranh, nâng cao vị thế quy mô của ngân hàng trong giai đoạn hiện nay trở thành nhu cầu cấp thiết của mỗi ngân hàng. Xuất phát từ thực tiễn đó, học viên đã chọn đề tài “Xây dựng chiến lược kinh doanh cho ngành ngân hàng thương mại đến 2015”. 2. Mục tiêu nghiên cứu: - Làm rõ lỹ luận tổng quan về chiến lược kinh doanh và hoạch định chiến lược kinh doanh - Đánh giá năng lực hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng thông qua việc phân tích các yếu tố môi trường ảnh hưởng - Đề xuất hệ thống giải pháp chiến lược kinh doanh cho ngành ngân hàng thương mại đến 2015.
  3. Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHIẾN LƯỢC KINH DOANH 1.1. Khái niệm chiến lược kinh doanh: Thuật ngữ “chiến lược” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “Strategos” dùng trong quân sự và được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau do sự tiếp cận trong nghiên cứu. Theo từ điển Larous: “Chiến lược là nghệ thuật chỉ huy các phương tiện để dành chiến thắng”. Học giả Đào Duy Anh, trong từ điển tiếng Việt đã viết: “Chiến lược là các kế hoạch đặt ra để dành thắng lợi trên một hay nhiều mặt trận”. Từ thập kỷ 60 của thế kỷ XX, chiến lược được ứng dụng vào lĩnh vực kinh doanh và thuật ngữ “Chiến lược kinh doanh” ra đời. Quan niệm chiến lược kinh doanh phát triển dần theo thời gian và người ta tiếp cận nó theo nhiều cách khác nhau. Năm 1962, Chandler định nghĩa chiến lược kinh doanh là “việc xác định các mục tiêu, mục đích cơ bản dài hạn của doanh nghiệp và việc áp dụng một chuỗi các hành động cũng như việc phân bổ các nguồn lực cần thiết để thực hiện mục tiêu này”. Đến những năm 1980, Quinn đã đưa ra định nghĩa có tính khái quát hơn “Chiến lược là mô thức hay kế hoạch tích hợp các mục tiêu chính yếu, các chính sách, và chuỗi hành động vào một tổng thể được cố kết một cách chặt chẽ” Sau đó, Johnson và Scholes định nghĩa lại chiến lược trong điều kiện môi trường có rất nhiều những thay đổi nhanh chóng: “chiến lược là định hướng và phạm vi của một tổ chức về dài hạn nhằm giành lợi thế cạnh tranh cho tổ chức thông qua việc định dạng các nguồn lực của nó trong môi trường thay đổi, để đáp ứng nhu cầu thị trường và thoả mãn mong đợi của các bên hữu quan”. Xuất phát từ cách tiếp cận cạnh tranh, giáo sư nổi tiếng về chiến lược kinh doanh của trường Đại học Harvard Michael L. Porter cho rằng: “Chiến lược kinh doanh là nghệ thuật xây dựng lợi thế cạnh tranh vững chắc và phòng thủ”.
  4. Dù tiếp cận theo cách nào thì bản chất của chiến lược kinh doanh vẫn là phác thảo hình ảnh tương lai của doanh nghiệp trong lĩnh vực hoạt động và khả năng khai thác. Theo cách phát biểu này, thuật ngữ chiến lược kinh doanh được dùng theo 3 ý nghĩa phổ biến nhất: - Xác lập mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp - Đưa ra các chương trình hành động tổng quát - Lựa chọn các phương án hành động, triển khai phân bổ nguồn lực để thực hiện mục tiêu đó. Ngày nay, thuật ngữ chiến lược đã được sử dụng khá phổ biến ở Việt Nam trong nhiều lĩnh vực ở cả phạm vi vĩ mô cũng như vi mô. Ở phạm vi doanh nghiệp ta thường gặp thuật ngữ chiến lược kinh doanh hoặc chiến lược công ty, quản trị chiến lược… Sự xuất hiện các thuật ngữ này không đơn thuần là sự vay mượn. Các khái niệm chiến lược đều bắt nguồn từ sự cần thiết khách quan trong thực tiễn quản trị của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hiện nay. Có thể nói việc xây dựng và thực hiện chiến lược thực sự đã trở thành một nhiệm vụ hàng đầu và là một nội dung, chức năng quan trọng của quản trị doanh nghiệp, nó đang được áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp. Quan điểm phổ biến hiện nay cho rằng: “Chiến lược kinh doanh là nghệ thuật phối hợp các hoạt động và điều khiển chúng nhằm đạt tới mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp”. Một chiến lược kinh doanh tốt là chiến lược trong đó công ty có thể chiếm được lợi thế chắc chắn so với đối thủ với chi phí có thể chấp nhận được. 1.2. Qui trình xây dựng chiến lược kinh doanh: 1.2.1. Xác định mục tiêu Mục tiêu chiến lược là những đích mong muốn đạt tới của doanh nghiệp. Nó là sự cụ thể hóa mục đích của doanh nghiệp về hướng, quy mô, cơ cấu và tiến trình triển khai theo thời gian. Trong cơ chế thị trường nhìn chung các doanh nghiệp theo đuổi ba mục đích chủ yếu là sự tồn tại, phát triển và đa dạng hóa. Hệ thống mục tiêu chiến lược còn thể hiện các mong muốn phải đạt tới các kết quả cụ
  5. thể nhất định trong thời kỳ chiến lược. Thường có hai loại mục tiêu: ngắn hạn và dài hạn. + Mục tiêu dài hạn: là toàn bộ kết quả mong muốn cuối cùng mà doanh nghiệp muốn đạt được trong khoảng thời gian dài hơn một năm, với các nội dung cụ thể: mức lợi nhận, năng suất, vị thế cạnh tranh, phát triển việc làm, quan hệ cộng đồng, vị trí công nghệ, trách nhiệm xã hội. + Mục tiêu ngắn hạn: là các kết quả cụ thể doanh nghiệp kỳ vọng đạt được trong một chu kỳ, được lượng hóa thành con số. Nguyên tắc khi xác định mục tiêu + Phải rõ ràng trong từng thời gian tương ứng và phải có mục tiêu chung cũng như mục tiêu riêng cho từng lĩnh vực hoạt động + Các mục tiêu phải đảm bảo tính liên kết, tương hỗ lẫn nhau, mục tiêu này không cản trở mục tiêu khác + Phải xác định được mục tiêu ưu tiên. Điều đó thể hiện tính thứ bậc của mục tiêu, nhiệm vụ đề ra đối với doanh nghiệp trong từng giai đoạn. 1.2.2. Đánh giá các yếu tố tác động đến chiến lược kinh doanh: Hình 1.1: Những cơ sở để xây dựng chiến lược kinh doanh Môi trường vĩ mô 1. Các yếu tố kinh tế Môi trường vi mô 1. Các đối thủ cạnh tranh 3. Nhà cung 2. Khách 2. 3. Các Môi trường nội bộ c ấp hàng Các yế u t ố 1. Nhân sự yế u chính 2. Tài chính tố tự trị 5. 3. Vận hành sản xuất nhiên pháp Hàng 4. Marketing , xã lý hoá 4. Các 5. Hệ thống thông tin hội thay đối thủ 6. R&D thế tiềm ẩn
  6. ● Yếu tố kinh tế: Thực trạng nền kinh tế và xu hướng trong tương lai có ảnh hưởng đến thành công hay thất bại của một doanh nghiệp. Các nhân tố chủ yếu mà nhiều doanh nghiệp thường phân tích là tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, lãi suất, tỷ giá hối đoái và tỷ lệ lạm phát. Mỗi yếu tố trên đều có thể là cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp, cũng có thể là mối đe doạ đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Việc phân tích yếu tố môi trường kinh tế giúp cho các nhà quản lý tiến hành các dự báo và đưa ra kết luận về những xu thế chính của sự biến đổi môi trường tương lai, là cơ sở cho dự báo ngành và dự báo thương mại. ● Yếu tố tự nhiên: Các yếu tố tự nhiên như khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, nguồn năng lượng, môi trường tự nhiên được coi là những yếu tố quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của nhiều ngành công nghiệp, nhiều doanh nghiệp. Đe dọa của những thay đổi không dự báo được về khí hậu, sự khai thác tài nguyên bừa bãi, ô nhiễm môi trường đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết ở cấp quốc gia và quốc tế, nên không thể coi là ngoài cuộc đối với doanh nghiệp. ● Yếu tố xã hội: Các yếu tố như dân số, cơ cấu dân cư, tỷ lệ tăng dân số, tôn giáo, chuẩn mực đạo đức, phong tục tập quán, trình độ dân trí, thị hiếu… là những nhân tố chính trong việc hình thành thị trường sản phẩm và thị trường các yếu tố sản xuất. Các yếu tố này thường biến đổi chậm nên các doanh nghiệp thường dễ lãng quên khi xem xét những vấn đề chiến lược.
  7. ● Yếu tố chính trị và pháp lý: Các nhân tố chính phủ, luật pháp và chính trị tác động đến doanh nghiệp theo các hướng khác nhau. Chúng có thể tạo ra cơ hội, trở ngại, thậm chí là rủi ro thật sự cho doanh nghiệp. Chúng thường bao gồm: các chính sách nhà nước về phát triển kinh tế, quy chế, luật lệ, chế độ tiền lương, thủ tục hành chính… do chính phủ đề ra cũng như sự ổn định về chính trị, chi tiêu của chính phủ. ● Yếu tố công nghệ: Đây là loại nhân tố có ảnh hưởng lớn, trực tiếp cho chiến lược kinh doanh của các lĩnh vực, ngành cũng như nhiều doanh nghiệp. Thực tế trên thế giới đã chứng kiến sự biến đổi công nghệ làm chao đảo, thậm chí mất đi nhiều lĩnh vực, nhưng đồng thời cũng lại xuất hiện nhiều lĩnh vực kinh doanh mới, hoặc hoàn thiện hơn. Do đó, việc phân tích và phán đoán biến đổi công nghệ là rất quan trọng và cấp bách hơn lúc nào hết. Sự thay đổi công nghệ ảnh hưởng đến chu kỳ sống của một sản phẩm hay một dịch vụ, đến các phương pháp sản xuất, nguyên vật liệu cũng như thái độ ứng xử của người lao động. Chương 2: THỰC TRẠNG KINH DOANH VÀ CÁC NHÂN TỐ CHIẾN LƯỢC CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 2.1. Tổng quan về ngành tài chính ngân hàng hiện nay: Lịch sử ngành ngân hàng thế giới đã hình thành và phát triển từ rất sớm. Vào khoảng 3.000 năm trước Công nguyên, hình thức ngân hàng sơ khai được nhiều nhà sử học cho rằng đã hình thành trước khi phát minh ra tiền. Hoạt động của ngân hàng phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên ở vùng Địa Trung Hải. Theo thời gian, hệ thống Ngân hàng vẫn tiếp tục phát triển cùng với sự tiến bộ của xã hội loài người với vai trò và ảnh hưởng ngày một quan trọng và sâu sắc hơn. Sau chiến tranh thế giới, do nhu cầu tái thiết Châu Âu và xây dựng kinh tế tại các nước tư bản, hàng loạt những Ngân hàng lớn ra đời. Tại Việt Nam, lịch sử hình thành các Ngân hàng đã gắn liền với lịch sử đấu tranh chống kẻ thù xâm lược
  8. và xây dựng đất nước của dân tộc Việt Nam trong chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Lịch sử thế giới đương đại đang chứng kiến những biến cố lớn về kinh tế, chính trị và xã hội với căn nguyên sâu xa bắt đầu từ những trục trặc của hệ thống Ngân hàng quốc tế. Vậy Ngân hàng là gì? Trước tiên Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính - tức là một tổ chức hỗ trợ các kênh luân chuyển vốn giữa người đi vay và người cho vay theo phương thức gián tiếp. Xem xét trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp thì: Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục và dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Các dịch vụ chính của Ngân hàng là: huy động tiền gửi và cho vay, thanh toán xuất nhập khẩu, mua bán ngoại tệ, bảo lãnh tài trợ thương mại, dịch vụ thanh toán thẻ, chuyển tiền… cho các cá nhân và tổ chức kinh tế. Hình 2-1: Những chức năng cơ bản của Ngân hàng đa năng ngày nay Trong 10 năm qua hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng. Sự phát triển của ngành Ngân hàng nằm trong bối cảnh chung của nền kinh tế trong và ngoài nước và sự chuyển biến phức tạp của kinh tế thế giới. Mặc dù trải qua nhiều thăng trầm, nhưng ngành Ngân hàng đã tận dụng tốt những thời cơ, vượt qua không ít cam go trong quá trình hội nhập
  9. kinh tế quốc tế để gặt hái được những thành công to lớn, đóng góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của đất nước trong những năm qua. Tính đến thời điểm hiện nay, trong hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam có 5 Ngân hàng thương mại nhà nước (trong đó có Ngân hàng ngoại thương và Ngân hàng Công thương Việt Nam chuyển sang mô hình cổ phần), 39 Ngân hàng thương mại cổ phần, 40 Ngân hàng chi nhánh nước ngoài, 5 Ngân hàng liên doanh, 5 Ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 17 Công ty tài chính, 13 Công ty cho thuê tài chính, 53 Văn phòng đại diện Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và 965 quỹ tín dụng nhân dân. Lợi nhuận của các ngân hàng năm 2010 duy trì ở mức tốt bởi tăng trưởng tín dụng cao và dự phòng thua lỗ các khoản vay thấp. Tỉ suất thu hồi trên bình quân tài sản (ROA) của 6 ngân hàng lớn nhất theo tính toán của Fitch trong 3 tháng đầu năm lên mức 1,9% (tính theo trung bình năm). Tỉ suất này năm 2010 là 1,5%. Tuy nhiên, trong năm 2010, tăng trưởng tài sản các ngân hàng tụt lại so với tăng trưởng các khoản vay bởi các ngân hàng Việt Nam chú trọng nhiều hơn đến tăng trưởng tín dụng. Thay đổi này mang yếu tố hỗ trợ đối với một số tỷ suất quan trọng như ROA và tỷ lệ vốn hữu hình/tổng tài sản, thế nhưng cũng khiến rủi ro tín dụng tăng cao. Chênh lệch giữa cho vay/vốn huy động trung bình đối với đồng nội tệ dành cho doanh nghiệp giảm 220 điểm cơ bản trong năm 2010 bởi lãi suất cơ bản thay đổi liên tục được giảm xuống, Chính phủ áp dụng lãi suất trần đối với các khoản vay và cạnh tranh cấp vốn. Năm 2010, tín dụng tại các ngân hàng Việt Nam tăng trưởng nóng, mức tăng trưởng tín dụng lên tới 37,73% trong khi đó con số này năm 2009 chỉ là 25%, dù vậy tăng trưởng tín dụng năm 2010 vẫn trong xu thế đi lên so với tăng trưởng tín dụng các năm 2002 – 2004. Tăng trưởng tín dụng chững lại trong tháng 1/2011, mức tăng trưởng chỉ đạt 1% trong khi đó tăng trưởng huy động tiền gửi là 0,3%. Tín dụng tại các ngân hàng tư nhân tăng trưởng mạnh trong chương trình kích cầu kinh tế của Chính phủ. Khả năng huy động vốn của các ngân hàng vẫn vững
  10. nhưng tăng trưởng tiền gửi 28,7% của năm 2010 không theo kịp tăng trưởng tín dụng. Tổng phương tiện thanh toán tăng 28,67%, vốn chủ sở hữu của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng tăng 31,9%, tổng tài sản tăng 26,49%, chênh lệch thu chi tăng 53,09%, nợ xấu chiếm 2,2% tổng dư nợ. Hình 2-2: Biểu đồ tăng trưởng tín dụng và tài sản của 6 ngân hàng lớn Nguồn: Theo Báo cáo “Outlook on Vietnamese Banks - Another year of high growth adds to concern.” của Fitch Dẫu năm 2010 đầy khó khăn đối với ngành tài chính ngân hàng, các tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam vẫn hoạt động an toàn, hiệu quả và làm tốt vai trò cầu nối cho các nhà đầu tư nước ngoài đến với thị trường và doanh nghiệp Việt Nam. Đến cuối tháng 10/2010, nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam tăng 17,8%, tổng dư nợ tín dụng tăng 14%, tổng tài sản có tăng 14,9% so với năm 2009, tỷ lệ nợ xấu chiếm dưới 0,6% trong tổng dư nợ (năm 2009 là 0,47%) mặc dù tăng so với năm 2009 nhưng vẫn ở mức thấp so với các nhóm ngân hàng khác. Hầu hết các tổ chức tín dụng nước ngoài hoạt động đều có lãi (chênh lệch thu chi luỹ kế của các ngân hàng nước ngoài đến cuối tháng 10/2010 đạt 2.947,5 tỷ đồng). Đối với các ngân hàng liên doanh, hoạt động của nhóm ngân hàng này tăng trưởng khá ổn định, trong đó nguồn vốn huy động tăng 18,2%, dư nợ tín dụng tăng 34,3% so với cuối năm 2009, tỷ lệ nợ xấu chiếm 1,8% tổng dư nợ, tổng tài sản có tăng 18,3% thu nhập, thu nhập trước thuế đạt 477 tỷ đồng.
  11. Tuy nhiên, nhìn chung ngành tài chính nước ta còn non yếu, năng lực tài chính thấp thể hiện ở quy mô nguồn vốn của các ngân hàng thương mại (ngân hàng thương mại nhà nước cao nhất là Agribank trên 21 ngàn tỷ đồng, ngân hàng nước ngoài là 45 triệu USD, ngân hàng liên doanh là 100 triệu USD), trong đó vốn của các ngân hàng thương mại nhà nước (Agribank, BIDV, Vietcombank, Vietinbank) đã chiếm 60% tổng vốn của toàn hệ thống. Và nhóm ngân hàng này tiếp tục thống trị hệ thống ngân hàng Việt Nam, cung cấp tới 51% tổng số các khoản vay trong toàn hệ thống tính đến hết tháng 9/2010 (con số này năm 2009 là 52% và năm 2008 là 54%). Nhóm ngân hàng này cung cấp tới 2/3 trong số các khoản vay hỗ trợ lãi suất và vì thế bảo vệ được thị phần. Trong thời kỳ hậu WTO, lĩnh vực ngân hàng được xem là điểm nóng cả về phát triển lẫn cạnh tranh, chưa bao giờ hoạt động và sự chuyển biến của các ngân hàng lại diễn ra sôi động đến thế. Trong khi Ngân hàng nhà nước đang sửa đổi luật lệ cho phù hợp với các thông lệ quốc tế, các Ngân hàng thương mại nhà nước và cổ phần đang tranh thủ thời gian để đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu, xử lý dứt điểm nợ xấu, nợ tồn đọng, cổ phần hoá, tăng vốn điều lệ, tìm kiếm và hợp tác với các nhà đầu tư chiến lược, hiện đại hoá hệ thống… Bên cạnh đó, viễn cảnh kinh tế thế giới cũng khá bi quan. Quỹ tiền tệ quốc tế đã đưa ra dự báo ban đầu về mức tăng trưởng kinh tế thế giới trong năm 2011 sẽ là 3,9% và 4,3% trong năm kế tiếp cao hơn mức giảm 1,1% của năm 2010. Tuy nhiên theo cơ quan này, Mỹ và các nước phát triển khó đạt mức tăng trưởng GDP đủ mạnh để giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp. Mặc dù dự báo này vẫn kém xa so với mức tăng trưởng gần 5% của kinh tế thế giới trong thời kỳ 2004 - 2008, nhưng đây đã là một sự cải thiện đáng kể so với mức suy giảm 0,8% năm 2009, năm mà sản lượng kinh tế toàn cầu lần đầu tiên suy giảm kể từ chiến tranh thế giới thứ 2. Đứng trong nền kinh tế thế giới đang trong giai đoạn khủng hoảng và chúng ta lại đang trong lộ trình từng bước hội nhập quốc tế, ngành ngân hàng có nhiều cơ hội hơn nhưng cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức hơn. Chính vì vậy, nhiệm vụ của ngành ngân hàng trong giai đoạn này hết sức nặng nề, bởi lẽ để có thể tồn tại và phát triển thì ngành ngân hàng phải xây dựng để mình trở thành
  12. một hệ thống ngân hàng có uy tín, có khả năng cạnh tranh, hoạt động hiệu quả và an toàn. 2.2. Phân tích các nhân tố chiến lược tác động đến hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng 2.2.1. Môi trường kinh tế: Năm 2010 kinh tế nước ta phát triển trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn hơn các năm trước. Ở trong nước, thiên tai xảy ra trên diện rộng với mức độ rất nặng nề. Cả năm có 11 cơn bão tràn qua lãnh thổ, trong đó có những cơn gây lũ lụt, ngập úng sâu và dài ngày tại các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, gây thiệt hại hết sức nghiêm trọng. Dịch bệnh, nhất là cúm A/H1N1, sốt xuất huyết, sâu bệnh bùng phát ở nhiều vùng và địa phương. Ở ngoài nước, thị trường giá cả thế giới biến động phức tạp. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động trực tiếp đến nhiều ngành kinh tế nước ta như công nghiệp, xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư, du lịch. Thuân lợi tuy có nhưng không nhiều. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ đã kịp thời đề ra các quyết sách thích hợp và cụ thể bằng các chủ trương, chính sách kinh tế, tài chính nhằm vượt qua khó khăn, phát huy thuận lợi, tập trung mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội. Tháng 12/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30 về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng, đảm bảo an sinh xã hội. Gói kích cầu hỗ trợ các doanh nghiệp và hộ gia đình được thực hiện với nhiều giải pháp thích ứng như giảm lãi suất cơ bản, hỗ trợ lãi suất vay vốn lưu động 4%/năm, bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giãn thời gian nộp thuế…. Nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự nỗ lực cố gắng của các bộ, ngành, địa phương, các cơ sở sản xuất và doanh nghiệp vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng hợp lý. Năm 2010 được nhìn nhận là năm tăng trưởng khá và nhanh chóng vượt qua khủng hoảng, là năm vượt kỷ lục về vốn ODA (hơn 8 tỷ USD) cũng như xuất khẩu gạo (xuất khẩu được hơn 6 triệu tấn), là năm thị trường chứng khoán phục hồi mạnh và thị trường bất động sản sôi động nhưng đây lại là năm có tỷ giá và giá vàng tăng chóng mặt.
  13. Bước sang năm 2011, Việt Nam đã tròn 4 năm gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Sau năm 2007 gia nhập WTO đến năm 2008 xuất khẩu đã tăng đáng kể, tuy nhiên đến năm 2009 lại bị âm 9% do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới. Về thu hút vốn đầu tư nước ngoài, năm 2007 có số vốn cam kết là 81 tỷ USD, năm 2008 vảo khoảng 60-71 tỷ USD, năm 2009 giảm xuống còn 20 tỷ USD do khủng hoảng kinh tế. Đặc biệt, để hội nhập vào nền kinh tế thế giới đã tạo ra sức ép buộc các cơ quan Trung ương và địa phương phải giảm khoảng 30% các thủ tục hành chính. Năm 2011 được dự báo là năm nền kinh tế thế giới phục hồi dù còn chật vật khó khăn; kinh tế Việt Nam cũng trong quá trình vượt qua suy giảm. Năm 2011 là ngưỡng cửa bước vào giai đoạn nước rút đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, để Việt Nam bước từ nước thu nhập thấp thành nước có thu nhập trung bình (thu nhập trên 1.000 USD/người). Cũng trong năm mới này, Chính phủ đã đưa ra thông điệp kiểm soát tăng trưởng tín dụng không vượt quá 25%, thấp hơn nhiều so với con số 38 – 39% của năm 2010. Áp lực huy động vốn tiếp tục gia tăng, dẫn đến cho vay ra cũng phải thận trọng và chọn lọc khách hàng tốt nhất để cho vay, người vay phải trả lãi suất cao. Đồng thời các biện pháp thắt chặt tiền tệ sẽ làm cho lượng tiền cung ứng ra thị trường ít hơn, việc huy động vốn sẽ khó khăn hơn so với năm 2010. Mặt khác, việc hạn chế mở rộng mạng lưới hoạt động nếu tiếp tục kéo dài trong năm 2011 sẽ gây khó khăn cho các ngân hàng trong việc tăng trưởng thị phần. Tuy nhiên, với mức dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới khoảng 3,9% năm 2011 thì nó sẽ tác động tích cực đến kinh tế Việt Nam. Những nền kinh tế lớn như Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản bắt đầu tăng trưởng trở lại thì không ít thì nhiều nền kinh tế Việt Nam cũng sẽ được hưởng lợi, dòng vốn FII và đặc biệt vốn FDI sẽ tốt hơn. Mãi lực đầu tư vào thị trường tiêu thụ bắt đầu tăng trưởng trở lại sẽ tác động đến xuất khẩu. Điều đó sẽ giúp các ngân hàng trong nước tận dụng cơ hội để tăng trưởng và phát triển.
  14. Mặt khác, theo cam kết WTO sau giai đoạn 2010 – 2012, các ngân hàng nước ngoài không bị ràng buộc khi tham gia kinh doanh trên trị trường Việt Nam, nhiều người dự báo trong năm 2010 – 2011 sẽ có nhiều ngân hàng con nước ngoài tham gia hoạt động. Nhưng thực tế cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra và với diễn biến thị trường hiện nay thì sự tham gia của ngân hàng con 100% vốn nước ngoài vào Việt Nam sẽ chậm lại, đây là cơ hội để các ngân hàng trong nước tăng tốc. ● Tăng trưởng GDP: Năm 2010 nền kinh tế Việt Nam tiếp tục chịu tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nhưng cũng nhanh chóng vượt qua khó khăn để có những bước đột phá trong những tháng cuối năm và là một trong số ít quốc gia Châu Á có tăng trưởng dương. Tuy nhiên, những biến động nằm ngoài tầm kiểm soát của tín dụng, của thị trường vàng, USD cũng như nhập siêu gia tăng nhanh chóng… đã trở thành điểm tối trong bức tranh kinh tế Việt Nam năm vừa qua. Kinh tế thế giới và Việt Nam cùng chịu tác động nặng nề từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt đầu từ cuối năm 2008. Với Việt Nam, đáy của khó khăn rơi vào quí I năm 2009 khi tăng trưởng GDP giai đoạn này chỉ đạt mức 3,1%, mức thấp nhất trong hàng chục năm qua. Các hoạt động sản xuất, thương mại, dịch vụ, xuất khẩu… đồng loạt gặp khó khăn, rơi vào đình trệ. Tuy nhiên, sau giai đoạn này, nhờ hàng loạt các giải pháp kích thích kinh tế của Chính phủ như: cho vay hỗ trợ lãi suất; miễn, giảm, hoãn thuế với rất nhiều hàng hoá, dịch vụ; nới lỏng chính sách tiền tệ…, kinh tế Việt Nam đã có bước chuyển nhanh chóng, dần ổn định trong quý II (đạt 4,46%), và phục hồi nhanh chóng trong 2 quý còn lại (quý III đạt 6,04%, quý IV đạt 6,9%) nên mức tăng trưởng GDP cả năm đạt tới 5,32%. Bao gồm: khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 1,83%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,52%; khu vực dịch vụ 6,63%. Tuy đây là mức tăng trưởng kinh tế thấp nhất trong vòng 10 năm gần đây (năm 2008 tăng 6,18%, năm 2007 tăng 8,46%, năm 2006 tăng 8,23%...) nhưng
  15. Việt Nam vẫn được thế giới đánh giá là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực Châu Á (sau Trung Quốc tăng gần 7,8%). Mức tăng trưởng như trên cho thấy, xu hướng phục hồi của nền kinh tế nước ta năm 2009 là rõ nét. Kết quả đó đánh dấu sự thành công bước đầu của Chính phủ trong chỉ đạo, điều hành vĩ mô nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quí I/2011 ước tính tăng 5,83% so với cùng kì năm 2010, bao gồm khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,45%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,65%, khu vực dịch vụ tăng 6,64%). Hình 2-5: Biểu đồ tăng trưởng GDP của VN từ 2001 đến 2010 Biểu đồ tăng trưởng GDP GDP (%) 10 9 8 7 6 5 4 3 2 1 0 năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Nguồn: Theo số liệu của Tổng cục thống kê ● Yếu tố lạm phát: Lạm phát là yếu tố nhạy cảm của nền kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lạm phát tăng dẫn đến bất lợi cho doanh nghiệp. Yếu tố chính làm cho lạm phát tăng lên là do giá cả thị trường tăng lên. Sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997, Việt Nam hai năm liền rơi vào tình trạng giảm phát là năm 2000 và năm 2001. Lạm phát dần quay trở lại từ năm 2004 do các chính sách kích cầu mạnh mẽ cùng với sự leo thang của giá nhiều mặt hàng trên thế giới. Năm 2007, lạm phát tăng lên 2 con số đã gây nên hoang mang cho người dân. Lạm phát thực sự bùng nổ và gây nên những bất ổn vĩ mô vào năm 2008. Lạm phát đỉnh điểm vào tháng 7/2008 khi lên tới trên 30%. Kết thúc năm 2008 thì lạm phát lùi về còn 19,89%, đây là mức cao nhất trong vòng 17
  16. năm qua. Lạm phát tăng cao làm cho việc huy động và cho vay vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Nó làm yếu và thậm chí còn phá vỡ thị trường vốn, ảnh hưởng lớn đến các hoạt động của ngân hàng thương mại. Sự không ổn định của giá cả, bao gồm cả giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân chúng, gây khó khăn cho sự lựa chọn các quyết định của khách hàng cũng như các thể chế tài chính tín dụng. Sang năm 2011, do ngay từ đầu năm Chính phủ và các cấp, các ngành đã triển khai quyết liệt và đồng bộ các giải pháp nhằm chủ động phòng ngừa tái lạm phát cao trở lại, khôi phục và đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, nhất là tập trung phát triển thị trường trong nước, chỉ đạo, điều hành tài chính, tiền tệ linh hoạt nên mức lạm phát năm 2011 không cao. Giá tiêu dùng năm 2010 tương đối ổn định, ngoài tháng 2 và tháng 12 chỉ số giá tiêu dùng tăng trên 1% thì các tháng còn lại giảm hoặc tăng thấp nên chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2010 là 6,88% - là mức thấp nhất trong 6 năm trở lại đây. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quí I/2011 tăng 4,12% so với cùng kỳ các năm gần đây. Chủ yếu do nhu cầu tăng cao trong dịp tết, giá cả nhập khẩu tăng, nhà nước điều chỉnh một số mặt hàng làm tăng giá thành sản phẩm. Hình 2-6: Biểu đồ lạm phát của Việt Nam Tốc độ lạm phát của Việt Nam % 25 20 15 10 5 0 năm 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Nguồn: Theo số liệu của Tổng cục thống kê Trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chưa vững chắc, rủi ro hệ thống tài chính vẫn có nguy cơ xảy ra. Mặc dù kinh tế trong nước phục hồi nhưng còn có nhiều thách thức và khó khăn, áp lực đối với tín dụng ngân hàng còn lớn. Tâm lý người dân lo ngại lạm phát nên vẫn chỉ gửi các kì hạn ngắn tại ngân hàng, bởi vậy
  17. các ngân hàng vẫn phải thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để cạnh tranh giữ khách hàng và thu hút khách hàng, đây cũng là nhân tố đẩy lãi suất huy động lên cao. ● Lãi suất, tỷ giá và giá vàng: Lãi suất là một công cụ của chính sách tiền tệ có tác động khá lớn đến lạm phát và tăng trưởng. Nhìn vào cách thức một Ngân hàng trung ương thay đổi lãi suất, người ta có thể đoán được chính sách tiền tệ đang thắt chặt hay đang nới lỏng. Lãi suất tăng sẽ làm tăng giá người tiêu dùng và doanh nghiệp phải trả khi đi vay tiền và vì vậy nhu cầu vay sẽ bị giảm, có nghĩa là lạm phát sẽ được kiềm chế. Nhưng ở Việt Nam hiện nay, dù nguy cơ lạm phát năm 2010 bị cảnh báo sẽ tăng cao, nhưng lãi suất cho vay bằng Việt Nam đồng vừa thả nổi trong khi mặt bằng lãi suất lại đang được khuyến khích giảm khiến nhiều người băn khoăn chính sách tiền tệ đang ngả theo hướng nào? Chúng ta hãy cùng nhìn lại thị truờng tiền tệ những năm qua. Năm 2008 có thể nói là một năm “sóng gió” của ngành tài chính ngân hàng. Tháng 12/2007 lãi suất cơ bản là 8,25% nhưng đến 19/5/2008 lãi suất cơ bản đã được nâng lên thành 12%. Đến ngày 11/6/2008 lãi suất cơ bản lại một lần nữa được điều chỉnh lên thành 14%. Thị trường ngân hàng nóng lên từng ngày khi các ngân hàng đua nhau tăng lãi suất huy động vốn, mức lãi suất cho vay tối đa lên tới 21%/năm. Doanh nghiệp “kêu trời” trong khi người dân kéo nhau đi gửi tiền. Tuy nhiên, với việc hàng loạt các nước trên thế giới hạ lãi suất cơ bản để đối phó với sự suy thoái, Ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh kịp thời các mức lãi suất để kết thúc năm 2008, lãi suất trở về gần mức lãi suất đầu năm (8,5%), nới lỏng và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận với tín dụng dễ dàng hơn với lãi suất thấp hơn. Ngân hàng nhà nước đã từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ vào những tháng đầu năm 2009 để thức đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và chủ động hạn chế tác động của khủng hoảng tài chính, ngăn chặn nguy cơ suy giảm kinh tế. Tuy nhiên, với đà tăng trưởng trở lại của kinh tế trong nước cũng như thế giới, càng về
  18. những tháng cuối năm diễn biến thị trường tài chính tiền tệ càng trở nên phức tạp, áp lực lạm phát trở lại đối với nền kinh tế ngày càng rõ nét. Với mục tiêu duy trì sự ổn định của kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế bền vững trong năm 2010, chủ động đối phó với diễn biến phức tạp của thị trường tài chính và kinh tế thế giới, Ngân hàng nhà nước đã quyết định điều chỉnh lãi suất cơ bản là 8%. Bên cạnh sự thay đổi một cách chóng mặt của lãi suất thì tỷ giá cũng thay đổi không kém. Sau cơn sốt USD diễn ra vào giữa tháng 6/2008, giá USD “chợ đen” có lúc leo lên tới 19.200 đ/USD buộc Ngân hàng nhà nước ra quyết định nới rộng biên độ tỷ giá. Đến 25/12/2008 tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được áp dụng là 16.989 đ/USD. Suốt trong năm 2010 thị trường ngoại tệ căng thẳng và tăng giá chưa từng có, giá USD trên thị trường tự do đã giao động trong khoảng 19.000 – 20.000 đ/USD, trong khi giao dịch tại hệ thống ngân hàng cũng đã lên tới 18.500 đ/USD sau Quyết định điều chỉnh của Ngân hàng nhà nước ngày 26/11/2009. USD tăng giá đã gây khó khăn lớn cho các doanh nghiệp nhập khẩu, doanh nghiệp sản xuất, thương mại, ảnh hưởng tới hàng loạt mặt hàng tiêu dùng. Không kém phần tỷ giá, năm 2009 là năm chứng kiến sự hỗn loạn giá trên thị trường vàng, đây là năm tăng giá thứ 9 liên tiếp của vàng. Từ mức giá 18 – 19 triệu đồng/lượng hồi đầu năm 2009, tới cuối năm 2009 có thời điểm giá leo lên tới 29 triệu đồng/lượng trước khi giao động 36 – 37 tr. đ/lượng như hiện nay. Bỏ qua sự tác động của giá thế giới thì giá vàng Việt Nam vẫn cao hơn nhiều so với giá vàng thế giới. Đặc biệt, cùng với tâm lý đám đông, những tin đồn đã đẩy vàng vào cơn sốt giá chóng mặt. Sự lộn xộn cũng xảy ra trên thị trường vàng “ảo”, các sàn vàng đua nhau mọc lên. Những cuộc tranh cãi về trục trặc hệ thống dẫn tới thiệt hại hàng tỷ đồng cho nhà đầu tư vẫn kéo dài. Trước thực trạng này, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định chấm dứt toàn bộ hoạt động của các sàn vàng trên cả nước. 2.2.2. Phân tích ảnh hưởng của chính sách luật pháp:
  19. Pháp lệnh quản lý ngoại hối có hiệu lực thi hành từ ngày 01/6/2006 và nghị định số 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành pháp lệnh ngoại hối đã khẳng định nguyên tắc tự do hoá đối với các giao dịch vãng lai, từng bước nới lỏng, quản lý có chọn lọc đối với các giao dịch vốn, tạo cơ sở pháp lý hết sức quan trọng cho công tác quản lý ngoại hối của ngân hàng trong điều kiện hội nhập quốc tế đã tác động tích cực đến xuất nhập khẩu, dự trữ ngoại hối và đầu tư của người nước ngoài vào Việt Nam. Ngay từ cuối năm 2008 và đầu năm 2009, Chính phủ đã có Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 với nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách là tập trung mọi nỗ lực để chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, đảm bảo an sinh xã hội. Trong quý I/2011, Ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh giảm dự trữ bắt buộc tiền gửi bằng ngoại tệ, điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn để hỗ trợ thanh khoản cho các tổ chức tín dụng và nền kinh tế, giữ ổn định mức lãi suất cơ bản, tái cấp vốn, tái chiết khấu, áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận đối với các khoản vay trung và dài hạn bằng VND, điều chỉnh tỷ giá tăng cho phù hợp với cung cầu thị trường và điều tiết kinh tế vĩ mô. Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 về việc ban hành Quy chế bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thương mại. Chính sách hỗ trợ lãi suất được áp dụng theo cơ chế đã được quy định tại Quyết định số 443/QĐ- TTg ngày 4/4/2009 (đến 31/12/2009 thì dừng thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất này đối với vốn lưu động ngắn hạn). Quyết định số 131/QĐ-TTCP về việc thu hẹp phạm vi áp dụng hỗ trợ lãi suất đối với khoản vay trung và dài hạn đã phát huy tác dụng tích cực giúp Việt Nam không những kiềm chế được khủng hoảng, suy thoái mà còn giữ ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng… khiến nhiều nước trên thế giới phải khâm phục. Thông tư số 07/2010/TT-NHNN của Ngân hàng nhà nước vào ngày 26/2/2010 và thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 cho phép các ngân hàng thương mại thực hiện lãi suất thoả thuận đối với các khoản vay trung và dài hạn cũng như ngắn hạn và có thể thoả thuận với khách hàng để cho vay với lãi suất
  20. cao hơn lãi suất trần. Sự thông thoáng về lãi suất này đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng cùng vốn cho các doanh nghiệp với mục đích đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh. Nghị định 141/2006/NĐ-CP của Chính phủ về ban hành danh mục vốn pháp định của các tổ chức tín dụng thì mức vốn điều lệ tối thiểu của các ngân hàng thương mại cổ phần vào ngày 31/12/2008 ít nhất phải đạt 1.000 tỷ đồng, từ năm 2010 vốn điều lệ tối thiểu mỗi ngân hàng được nâng lên 3.000 tỷ đồng để đảm bảo cho các ngân hàng thương mại có đủ năng lực cạnh tranh trong bối cảnh mới. Tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán của cả nước giảm liên tục từ mức 23,7% năm 2001 xuống còn 14,6% năm 2008 và năm 2009 vẫn duy trì được xu hướng tích cực này. Như vậy là về đích sớm hơn so với đề án không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến 2020 tại Việt Nam đã được Thủ tướng phê duyệt. 2.2.3. Ảnh hưởng của thay đổi công nghệ: Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, tạo lập được một nền tảng kỹ thuật, công nghệ thông tin vững chắc luôn là một trong những chuẩn mực của một ngân hàng hiện đại. Công nghệ kỹ thuật là một trong những yếu tố cốt lõi tạo nên toàn bộ hoạt động cuả một ngân hàng, quyết định chất lượng dịch vụ của ngân hàng đó. Để nâng cao khả năng cạnh tranh trong giai đoạn hội nhập, bất kỳ một ngân hàng nào cũng phải đặt ra mục tiêu hiện đại hoá công nghệ, hệ thống thanh toán của mình lên hàng đầu. Trong những năm vừa qua, hệ thống các ngân hàng nói chung không ngừng tiếp tục có những nỗ lực mới nhằm hiện đại hoá công nghệ. Dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán đã cam kết với WB đang được khẩn trương thực hiện theo đúng lộ trình và cơ bản đáp ứng đúng tiến độ. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng giai đoạn II được đưa vào vận hành từ tháng 11/2008 với khả năng xử lý 2 triệu giao dịch mỗi ngày đã góp phần rất quan trọng cho việc tăng cường khả năng cung cấp các dịch vụ thanh toán điện tử hiện đại, tiện ích cao cho xã hội.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2