intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tìm hiểu ngụ ngôn chính trị của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh _1

Chia sẻ: Nguyen Quynh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

87
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

“Các bạn thân mến, Bao lâu nay chúng ta làm việc với nhau. Mặc dầu chúng ta là những người khác giống, khác nước, khác tôn giáo, chúng ta đã thân yêu nhau như anh em. Chúng ta cùng chịu chung một nỗi đau khổ: sự bạo ngược của chế độ thực dân.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tìm hiểu ngụ ngôn chính trị của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh _1

  1. Tìm hiểu ngụ ngôn chính trị của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
  2. “Các bạn thân mến, Bao lâu nay chúng ta làm việc với nhau. Mặc dầu chúng ta là những người khác giống, khác nước, khác tôn giáo, chúng ta đã thân yêu nhau như anh em. Chúng ta cùng chịu chung một nỗi đau khổ: sự bạo ngược của chế độ thực dân. Chúng ta đấu tranh vì một lý tưởng chung: giải phóng đồng bào chúng ta và giành độc lập cho Tổ quốc chúng ta. Chúng ta phải làm gì? Chúng ta không thể đặt vấn đề ấy một cách máy móc. Điều đó tùy hoàn cảnh của mỗi dân tộc chúng ta. Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập…” (Tập 1, tr.192). Nội dung bức thư này càng khẳng định cho ý nghĩa của truyện Đồng tâm nhất trí là tuy mục đích thì chung nhưng với mỗi trường hợp thì phải có cách riêng chứ không làm theo nhau một cách mù quáng máy móc như anh Hai và anh Ba nọ. Đồng tâm nhất trí viết bằng tiếng Pháp hướng tới độc giả là các đồng chí, đồng bào biết tiếng Pháp, in trên báo Nhân đạo ngày 29-9-1922, vì là một tác phẩm văn học nên ý nghĩa của nó phải kín đáo, bóng gió như vậy. Lá thư này cho thấy một bước ngoặt trong đời hoạt động cách mạng của Người: hướng về Đông Dương, dĩ nhiên, mục đích tối thượng của Nguyễn Ái Quốc là giải phóng dân tộc mình, nhân dân mình nên Người giành nhiều tâm huyết hơn cả để thức tỉnh cả “dân tộc An Nam”, nhất là thanh niên. Trong Bản án chế độ thực dân Pháp có phần Phụ lục Gửi thanh niên An Nam: “Người Airlan, Ai Cập, Triều Tiên, Ấn Độ, tất cả những người chiến bại hôm qua và nô lệ hôm nay đó, đương đấu tranh dũng cảm cho nền độc lập ngày mai của họ. Riêng người An Nam, thì vẫn cứ thế: sẵn sàng làm nô lệ”. Những dòng cuối cùng tác giả đưa ra lời bình luận thức tỉnh:
  3. “Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám Thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh” (Tập 2, tr.129, 133). Trong Thư trả lời ông H. (Thượng Huyền) ngày 9-4-1925 (Tập 2, tr.156-165) Nguyễn Ái Quốc mượn truyện ngụ ngônHội đồng chuột để châm biếm mỉa mai thói xấu của người An Nam. Sau khi tóm tắt truyện này, tác giả đưa ra lời bình luận đắt giá như sau: “Phải, không một con chuột nào của La Phôngten nói trong thơ ngụ ngôn dám buộc chuông lên cổ mèo; tuy vậy chúng đều căm ghét kẻ thù của chúng và đồng tình sẽ treo cổ nó lên. Những con chuột ấy thật là hơn hẳn “những con chuột An Nam” không biết căm thù “những con mèo Pháp”, vì những con chuột này không biết đoàn kết lại để bàn việc tiêu diệt những con mèo kia, chúng sợ rằng trong hàng ngũ chuột của chúng sẽ có con đi báo với mèo Pháp. Những người tự hào là dòng giống Rồng Tiên lại không bằng chuột! Thật là hổ thẹn, có phải không thưa ông!” (Tập 2, tr.164). Lời bình hướng tới hai sự phê phán đích đáng: tinh thần bạc nhược, đớn hèn và sự phản bội xấu xa. Toát lên một chân lý phổ quát: người An Nam phải biết đoàn kết lại thì mới sửa chữa được những thói xấu ấy. Và đến Truyện ngụ ngôn được Người viết tại Quảng Châu năm 1925 (Tập 2, tr.444) thì tinh thần phê phán còn cao hơn và ý nghĩa rõ ràng hơn cho đối tượng là “dân An Nam”. Truyện có lời mở đầu mang tính mời gọi, hấp dẫn: “Hãy nghe câu chuyện ngụ ngôn này. Tất cả các bạn, hãy im lặng và lắng nghe! Loài vật đang tranh nhau công trạng…”. Có thể tóm tắt truyện thế này, con rồng tự hào là thủy tổ của người An Nam có nhiều bậc anh hùng cứu nước. Con tôm “phản biện” lại, nói tôm sướng hơn người An Nam vì thân nó cong là do ý trời còn người An Nam lưng còng là chịu sưu cao thuế nặng. Con cừu đồng tình nói, người An Nam giống loài thỏ, cừu bị cắt lông một năm một lần nhưng người An Nam bị Pháp bóc lột tứ thời. Rắn nói người Pháp “khẩu Phật tâm xà” mà người An Nam lại rước họ vào nước mình. Voi buồn cho người An Nam “rước voi về giày mả tổ”. Lươn chê người An Nam dễ để cho đồng tiền cám dỗ. Chuột mỉa mai người An Nam không nghĩ gì đến đất nước. Gà trống khinh người An Nam vì tiền mà bội bạc. Cá chép sung sướng bởi mình sẽ có ngày hóa rồng mà buồn thay cho dân An Nam suốt đời nô lệ mà
  4. không dám vùng lên… Kết lại câu chuyện là lời bình luận của người kể: “Ôi, những người An Nam, các anh phải luôn nhớ rằng đoàn kết làm nên sức mạnh”. Dễ thấy một sự học tập hình thức truyện Lục súc tranh công trong ngụ ngôn dân gian để châm biếm sự ươn hèn, yếu đuối, bạc nhược cam chịu nô lệ nhục nhã của “dân An Nam”. Câu chuyện không chỉ đáng đọc ở cái thời đất nước ta đắm chìm trong nô lệ mà cũng rất đáng đọc ở cái thời nay, đọc để tự ý thức về tinh thần vươn lên, về cởi bỏ những tâm lý xấu, tính cách xấu… Hôm nay người ta nói nhiều đến phản biện, phản biện xã hội, coi phản biện như là một hình thức tư duy mới mẻ, tiến bộ. Thực ra phản biện, phản biện xã hội luôn là một thuộc tính tư duy của con người, càng có tinh thần khoa học, dân chủ, càng có khát vọng đổi thay xã hội, làm mới, làm tốt cho con người thì càng giàu ý thức phản biện. Không phải ai cũng có ý thức phản biện và năng lực phản biện, phải là người có trách nhiệm sâu sắc với xã hội, có tình yêu con người, có năng lực phát hiện vấn đề… mới có thể phản biện được. Trên tinh thần ấy tôi thấy Bác Hồ là một người luôn có tinh thần phản biện mà hôm nay chúng ta rất nên học tập về mọi phương diện, ý thức, cách thức, đề tài, nội dung. Năm 1929 Bác Hồ từ châu Âu về nước Xiêm phát triển tổ chức Việt Kiều gây dựng cơ sở cách mạng, một hôm trên đường đi công tác Bác kể cho đồng chí của mình câu chuyện ngụ ngôn Pháp Trẻ con không nên nghe trộm. Chuyện rằng: “Có hai em bé vào chơi trong rừng. Mải mê nghe chim kêu, xem bướm lượn cùng những thú rừng kỳ lạ khác, trời sập tối lúc nào không hay. Hai em đang lo lắng thì gặp một ông cụ tiều phu. Cụ đưa hai em về nhà cho ăn và ngủ. Đến đêm, cụ ông bàn với cụ bà làm thịt gà để ngày mai thết hai em bé. Cụ ông nói: “Thịt con lớn hay con bé?”. Cụ bà bảo: “Nói khẽ chứ! Nói to, chúng nghe, chúng chạy mất…”. Lúc này hai em vẫn còn thức, nghe thấy thế, đinh ninh là các cụ bàn cách thịt mình, nên lo sốt vó…”(2). Tưởng đó chỉ là câu chuyện vui nhưng đấy lại là một bài học chính trị về nhận định con người để gây dựng cơ sở cách mạng, mà như lời bình luận của Bác, có những người “có thái độ bề ngoài tuy thô lỗ như cục sắt nhưng bên trong lại là một tấm lòng vàng”. Theo chúng tôi, những câu chuyện ngụ ngôn mà Bác kể như truyện trên sinh động và thuyết phục hơn nhiều những bài học lý thuyết chay về mối quan hệ giữa hiện tượng và bản chất, giữa hình thức và nội dung… trong việc nhận xét cá nhân, xây dựng tổ chức cách mạng.
  5. Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, với nhãn quan chiến lược Bác Hồ ủng hộ Đồng Minh, ngày 24-11-1940 trên Cứu vong nhật báo (Trung Quốc) Người viết bài Chú ếch và con bò (Tập 3, tr.177) dưới bút danh Bình Sơn. Bằng giọng hài hước tác giả tóm tắt lại câu chuyện ngụ ngôn nước Pháp, ở phần bình luận tên độc tài người Ý Mútxôlini được ví như chàng ếch tội nghiệp kia, vì không biết lượng sức mình mà đem quân đánh Hy Lạp, nào ngờ bị “mảnh giáp không còn”, chú ếch Mútxôlini đã “ô hô toi mạng”. Câu chuyện phỏng ngụ ngôn, hài hước, vui nhưng quan điểm chính trị thì rất rõ ràng: đứng về phe Đồng Minh, mỉa mai phê phán phe Trục. Chiến tranh thế giới càng leo thang ác liệt thời cơ giải phóng đất nước càng tới gần, Bác Hồ chuyển về nước để trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng. Thời điểm này cách mạng đòi hỏi phải có lực lượng, mà muốn có lực lượng thì phải đoàn kết, Người đã mượn ngay hình thức ngụ ngôn dân gian để tuyên truyền kêu gọi. Một loạt truyện ngụ ngôn được Người viết trong những thời điểm rất gần nhau: Ca sợi chỉ (1-4-1942), Hòn đá (21-4-1942), Con cáo và tổ ong (1-7-1942),Nhóm lửa (1-8-1942), Chơi giăng (21-8- 1942). Như vậy ngụ ngôn chính trị của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh có hai hình thức cơ bản, một là mượn ngụ ngôn đã có, quen thuộc; hai là sáng tạo ra ngụ ngôn mới. Chúng tôi quan tâm hơn cả đến hình thức sáng tạo ngụ ngôn. Nghệ thuật dựng truyện của ngụ ngôn rất quan tâm tới việc tìm ra các sự vật tiêu biểu hoặc gần gũi cho từng tính cách nhưng vẫn giữ được đặc trưng của nó. Điều này trong ngụ ngôn mới của Bác Hồ đã đáp ứng một cách xuất sắc, ví dụ trongTruyện ngụ ngôn thì chỉ con rồng mới có thể “phát ngôn” như thế này: “- Ta là thủy tổ của giống nòi An Nam từng chứng kiến sinh ra biết bao vị anh hùng lừng lẫy”, vì trong tâm thức người Việt con rồng là vật tổ; “Rắn nói:… Tôi hay là những người Pháp khẩu phật tâm xà mà người An Nam đưa vào nước họ? Voi nói: Người An Nam sẽ muôn đời phải gánh chịu hậu quả những lỗi lầm mà họ vô tình phạm phải. Họ đã rước voi về giày mả tổ lại còn bỏ mặc cho người Pháp cái quyền lãnh đạo cả Tổ quốc của họ nữa”, thì rắn và voi trong thành ngữ dân gian đều mang nét nghĩa tiêu cực: “khẩu phật tâm xà”, “rước voi về giày mà tổ”. Đặt những thành ngữ ấy vào lời của rắn và voi làm cho người đọc dễ nhớ vừa hàm ý một so sánh: giặc Pháp còn nguy hiểm hơn cảrắn và voi…
  6. Ngụ ngôn nói chung giàu tính kịch, thường mỗi truyện là một vở kịch nhỏ, ngụ ngôn chính trị Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cũng mang đặc điểm này mà Con cáo và tổ ong là rất tiêu biểu. Câu chuyện dựng lên một mâu thuẫn: con cáo quyết lấy trộm mật, đàn ong quyết giữ con; kịch tính phát triển cao trào: đàn ong “kéo nhau xúm lại vây tròn cáo ta. Châm đầu châm mắt cáo già”; kết quả: “Cáo già đau quá phải sa xuống rồi”. Có khi đó là một hài kịch như truyện Đồng tâm nhất trí. Đặc điểm của nhân vật hài kịch là có hành động, tính cách buồn cười gây cười, đi ngược lại với lôgich thông thường như nhân vật anh Hai và anh Ba: nhúng đồ giấy xuống nước sông, phơi trầu non giữa nắng trưa. Câu chuyện bật ra ý nghĩa: đoàn kết không phải là cứ máy móc làm theo nhau. Có những ngụ ngôn mang tính trào phúng rất rõ ở lời văn gây cười, như Động vật học, Bộ sưu tập động vật… Ngụ ngôn là một nghệ thuật vì xét về thực chất ngụ ngôn là một lối ví von được mở rộng, nâng cao mà bản thân lối ví von đã có tính nghệ thuật vì nó đòi hỏi sự liên tưởng thẩm mỹ phong phú. Ngụ ngôn Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cũng rất nghệ thuật, nghệ thuật ở mục đích là vì hạnh phúc con người mà phê phán cái ác, cái xấu, kêu gọi, cảnh tỉnh con người hướng về cái đẹp phổ quát của độc lập, tự do…; nghệ thuật ở chính bản thân thể loại ngụ ngôn; nghệ thuật ở cách biểu đạt, khi thì thâm thúy sâu sắc khi cần lại hết sức giản dị dễ hiểu. Tôi muốn nhấn mạnh đến chất thơ trong ngụ ngôn chính trị của Người, đặc biệt là các ngụ ngôn viết năm 1942: Ca sợi chỉ, Hòn đá, Con cáo và tổ ong, Nhóm lửa, Chơi giăng. Có thể gọi đây là ngụ ngôn mang hình thức của thơ như trong ca dao - ngụ ngôn, như: Con cò mà đi ăn đêm, Con mèo mà trèo cây cau, Ếch cắn đầu rắn… Chúng là truyện vì cũng có nhân vật , có cốt truyện, có tình huống… nhưng được thể hiện bằng lời thơ. Như vậy chất thơ đã có ngay trong bản thân nó. Nếu hiệu quả của chất thơ phải xem xét ở sự giàu cảm xúc, ở khả năng lôi cuốn, truyền cảm làm rung động tình cảm người đọc… thì ngụ ngôn chính trị của Bác Hồ cũng dồi dào phẩm chất này. Các tác phẩm lấy đề tài là những gì hết sức giản dị, bình thường gần gũi với đại đa số người dân lao động: sợi chỉ, hòn đá, tổ ong, trăng…, những công việc quen thuộc: dệt vải, khuân đá, nhóm lửa…, những quy luật thông thường, phổ biến ai cũng hiểu được: một sợi chỉ thì mỏng manh yếu ớt, nhưng những sợi chỉ dệt thành tấm vải thì khó có thể “ bứt xé”; một người không thể nhấc được hòn đá nặng nhưng nhiều người hợp sức lại thì nhấc lên dễ dàng… Dĩ nhiên những điều hết sức giản dị thông thường ấy chưa phải là nghệ thuật, nhưng chúng được dùng để hướng vào mục đích
  7. tuyên truyền đoàn kết góp phần tạo nên sức mạnh đánh giặc cứu nước thì nghệ thuật của nó lại nằm ở tính mục đích, một thứ nghệ thuật vì con người. Đặt vào hoàn cảnh nước ta những năm còn nô lệ thì cái mục đích cao nhất của cách mạng là giải phóng dân tộc để con người trở về với trạng thái người, do vậy mà những lời kêu gọi của Bác trở nên hết sức cần thiết, cấp bách, đầy tính người, nặng tình người. Chúng đã tạo ra thứ cảm xúc lớn lao nhất, truyền cảm nhất, lay động nhất để dễ dàng đi sâu vào tâm hồn mỗi người dân, cho dù khi đó họ còn không biết chữ, không hiểu cách mạng nhưng họ rất hiểu cái khao khát trong họ và đồng bào họ là thoát khỏi kiếp nô lệ… Tôi gọi những bài thơ - ngụ ngôn trên của Bác là nghệ thuật đích thực - một nghệ thuật tuyên truyền hết sức hiệu quả, sâu sắc, nhân văn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2