intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Âm nhạc học: Bổ sung một số đặc điểm hoà âm thế kỷ XX vào chương trình giảng dạy tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam

Chia sẻ: Phong Tỉ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:31

65
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận án hướng tới việc bổ sung một số kiến thức hoà âm thế kỷ XX vào chương trình giảng dạy, sau khi đã kết thúc phần hoà âm cổ điển cho sinh viên các chuyên ngành âm nhạc, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của xã hội trong giai đoạn hiện nay. Qua đó có thể giúp sinh viên cập nhật được những kiến thức mới khi biểu diễn hoặc phân tích các tác phẩm đương đại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án tiến sĩ Âm nhạc học: Bổ sung một số đặc điểm hoà âm thế kỷ XX vào chương trình giảng dạy tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO               BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH HỌC VIỆN ÂM NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM                                        NGUYÊN THI LOAN ̃ ̣ BỔ SUNG MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM HÒA ÂM THẾ KỶ XX VÀO CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY TẠI HỌC VIỆN ÂM  NHẠC QUỐC GIA VIỆT NAM  LUẬN ÁN TIẾN SĨ ÂM NHẠC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS.Phạm Tú Hương
  2. Hà Nội ­ 03/2019
  3. Công trình được hoàn thành tại Học viện âm nhạc Quốc gia Việt  Nam                          Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.Phạm Tú Hương Phản biện 1: ………………………………………………… ………………………………………………... Phản biện 2: ………………………………………………… ………………………………………………... Phản biện 3: ………………………………………………… ………………………………………………... Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp Học viện  họp tại  Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, 77 Hào Nam, Đống Đa, Hà Nội. Vào hồi…….. giờ ……… ngày ……. tháng ……. năm ………….
  4. Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia              Thư viện Học viện âm nhạc Quốc gia Việt Nam
  5. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài HVANQGVN là trung tâm đào tạo hàng đầu về âm nhạc chuyên nghiệp   trong toàn quốc có trách nhiệm bổ sung, cập nhật những kiến thức khoa học  mới vào công việc đào tạo giảng dạy cũng như  nghiên cứu. Trong một vài   năm trở  lại đây, sinh viên cũng đã được tiếp cận với nhiều tác phẩm âm   nhạc   thế   kỷ   XX   trong   những   bài   học   chuyên   ngành   như   Piano,   Guitar,   Accordeon, các nhạc cụ bộ  gỗ v.v… và nhiều tác phẩm viết cho dàn nhạc  cũng như các tác phẩm hòa tấu thính phòng. Một số nhạc sĩ và các trào lưu   âm nhạc sáng tác thuộc thế kỷ XX cũng đã được bổ sung vào chương trình   giảng dạy môn lịch sử âm nhạc thế  giới, mà vẫn chưa được cập nhật vào  môn Hoà âm.  Luận án chúng tôi sẽ đề  cập đến một số  nội dung hoà âm thế  kỷ  XX  và tìm hiểu xem các cơ sở đào tạo âm nhạc trên thế giới đã đưa hoà âm thế  kỷ XX áp dụng vào giảng dạy ở các trường âm nhạc như thế nào? Và tiếp  đến việc làm sao cập nhật bổ sung chương trình hoà âm thế kỷ XX đưa vào  giảng dạy tại HVANQGVN trong thời gian sớm nhất. Hiện nay bộ  môn Lý luận đã được đổi tên thành Âm nhạc học, trong   luận án này chúng tôi dùng theo cách gọi Âm nhạc học. Môn Hoa âm đa va đang đ ̀ ̃ ̀ ược day  ̣ ở  HVANQGVN, được goi la phân ̣ ̀ ̀  ̉ “Hoa âm cô điên”. ̀ ̉  Qua tìm  hiểu chương trình hòa âm cho  sinh viên các  chuyên ngành tại HVANQGVN cho thấy, mặc dù từ  năm 2013 đã có chủ  trương đưa phần hòa âm thế  kỷ  XX vào giảng dạy cho một số  chuyên   ngành. Tuy nhiên do nhiều lý do, phần kiến thức này cho đến nay vẫn chưa  được triển khai khiến cho sinh viên gặp rất nhiều khó khăn khi chơi những   tác phẩm hiện đại và càng bỡ ngỡ hơn khi tham gia vào chương trình biểu   diễn hòa tấu giao lưu với nhiều trường bạn trên thế  giới. Sinh viên khoa  Sáng tác ­ Chỉ huy ­ Âm nhạc học cũng không dễ dàng khi thực hiện các bài   viết chuyên ngành liên quan đến ngôn ngữ âm nhạc thế kỷ XX.  Hoà âm thế  kỷ  XX là một phần không thể  thiếu trong môn hoà âm   giảng dạy tại HVANQGVN. Nhận thức được yêu cầu cấp bách của việc đưa  một số kiến thức hòa âm ở thế kỷ XX vào chương trình giảng dạy môn hòa âm   ở  HVANQGVN, và với trách nhiệm của những người thầy thuộc thế  hệ  sau, chúng tôi thấy có nghĩa vụ  phải cập nhật kiến thức mới cho chương   trình giảng dạy âm nhạc nói chung và hoà âm nói riêng. Đây cũng chính là lý  do khiến chúng tôi lựa chọn lĩnh vực nghiên cứu này. Đề tài luận án có tiêu  đề  “Bổ  sung một số  đặc điểm hoà âm thế  kỷ  XX vào chương trình giảng   dạy tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam”. ̀ ̣ ̀ ̀ Đây la môt đê tai mang tinh câp thiêt nh ́ ́ ́ ưng đông th ̀ ời cung la môt đê tai ̃ ̀ ̣ ̀ ̀  ̣ kho. Hy vong se đ ́ ̃ ược sự ung hô va giup đ ̉ ̣ ̀ ́ ỡ cua nh ̉ ưng bâc thây đi tr ̃ ̣ ̀ ước và 
  6. 2 ̣ cac đông nghiêp đê b ́ ̀ ̉ ổ  sung vao ch ̀ ương trình giang day môn Ly thuyêt hoa ̉ ̣ ́ ́ ̀  âm của HVANQGVN nhằm giup sinh viên co thê tiêp cân v ́ ́ ̉ ́ ̣ ới  ngôn ngữ âm   ̣ nhac m ơi trong các tác ph ́ ẩm đương đại cung nh̃ ư phân tích và thưởng thưć   nhưng tac phâm m ̃ ́ ̉ ơi.  ́ 2. Lịch sử đề tài Vấn đề  nghiên cứu để  làm sao có thể  đưa những đặc điểm, những   thành tựu của âm nhạc thế kỷ XX vào giảng dạy tại HVANQGVN đã được  thể  hiện ở  nhiều công trình nghiên cứu cũng như  trong các luận án tiến sĩ,   luận văn thạc sĩ. Luận án tiến sĩ của Vũ Đình Thạch bảo vệ năm 2009 có tiêu đề:  Âm nhạc   thế kỷ XX và vai trò của nó trong việc đào tạo kèn Clarinette tại Nhạc viện Hà   Nội.  Luận án tiến sĩ của Phạm Phương Hoa  Những thủ pháp sáng tác trong   một số trường phái âm nhạc thế kỷ XX bản bảo vệ năm 2010.  Luận án tiến sĩ của Ngô Phương Đông Đào tạo âm nhạc thế kỷ XX cho   kèn Hautbois tại HVANQGVN được bảo vệ năm 2011.  Luận án tiến sĩ của Cao Sĩ Anh Tùng Nghệ thuật Guitar đương đại nửa   sau thế kỷ XX trong đào tạo Guitar chuyên nghiệp tại Việt Nam  bảo vệ năm  2015. Các thủ  pháp hoà âm thế  kỷ  XX đã được trình bày rất phong phú và đa   dạng trong các tài liệu của nước ngoài. Chúng tôi sẽ trình bày một số công trình   tiêu biểu trong mục Tổng quan tình hình nghiên cứu ở chương 1 của luận án.  Ở  Việt Nam, những công trình nghiên cứu về  hoà âm thế  kỷ  XX của  Phương Tây, cũng như  hoà âm trong các tác phẩm âm nhạc mới Việt Nam   không có nhiều và cũng chỉ  giới hạn trong một vài giáo trình, luận án hay   luận văn trong lĩnh vực Âm nhạc học.  Cuốn  Giáo   trình   hoà   thanh  (Bậc   đại   học)   của   Phạm   Minh   Khang   (2005), có giới thiệu chương IV “Sơ  khảo sự hình thành và phát triển một   số  thủ  pháp hoà âm trong âm nhạc TKXX”, do Trung tâm thông tin ­ Thư  viện âm nhạc xuất bản. Ngoài cuốn giáo trình này, trong một số luận án, luận văn thuộc chuyên   ngành Âm nhạc học đã bảo vệ tại HVANQGVN có đề cập đến lĩnh vực hoà  âm trong các tác phẩm âm nhạc phương Tây cũng như  tác phẩm của các  nhạc sĩ Việt Nam có liên quan đến hoà âm thế  kỷ XX mà chúng tôi đã giới   thiệu ở phần lịch sử đề tài. Vấn đề này sẽ được chúng tôi phân tích sâu trong phần  Tổng quan tình   hình nghiên cứu ở chương một luận án. Tại Việt Nam cho đến thời điểm này, chúng tôi chưa thấy một công  trình nghiên cứu khoa học nào đề cập tới vấn đề Bổ sung một số đặc điểm   hoà âm thế kỷ XX vào chương trình giảng dạy tại Học viện Âm nhạc Quốc  
  7. 3 gia Việt Nam  hay một cơ  sở  đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp nào  ở  Việt  Nam. Vì thế, đề tài luận án không trùng lặp với các công trình đã công bố. 3. Muc đich nghiên c ̣ ́ ưu ́ Mục đích nghiên cứu của luận án hướng tới việc bổ sung một số  kiến  thức hoà âm thế kỷ XX vào chương trình giảng dạy, sau khi đã kết thúc phần  hoà âm cổ  điển  cho sinh viên các chuyên ngành âm nhạc, nhằm nâng cao   chất lượng đào tạo, đáp  ứng nhu cầu đòi hỏi của xã hội trong giai đoạn  hiện nay. Qua đó có thể giúp sinh viên cập nhật được những kiến thức mới khi  biểu diễn hoặc phân tích các tác phẩm đương đại. 4. Đôi t ́ ượng va pham vi nghiên c ̀ ̣ ưú 4.1 Đối tượng nghiên cứu 4.1   Đối   tượng   nghiên   cứu:  Thứ   nhất   là   sinh   viên   hệ   đại   học   của  HVANQGVN chuyên ngành biểu diễn và Sáng tác ­ Chỉ huy ­ Âm nhạc học  là đối tượng nghiên cứu của luận án. Thứ  hai là nghiên cứu chương trình,   giáo trình, phương pháp giảng dạy môn Hoà âm tại HVANQGVN, để  cập   nhật một số  kiến thức hoà âm thế  kỷ  XX vào giảng dạy cho sinh viên tại  Học viện. Thứ ba là chọn một số tác phẩm âm nhạc Phương Tây và Việt Nam ưa  sử dụng ngôn ngữ hoà âm thế kỷ XX để đưa vào phần nghiên cứu và bài tập phân  tích môn Hoà âm. Thứ tư là chọn một số nội dung tiêu biểu về hoà âm thế kỷ  XX để đưa vào chương trình giảng dạy tại HVANQGVN trong thời kỳ này. 4.2 Phạm vi nghiên cứu:  Giảng dạy hoà âm thế  kỷ  XX cho sinh viên  đại học tại HVANQGVN.; Tác phẩm âm nhạc thế  giới và Việt Nam tiêu   biểu sử dụng ngôn ngữ hoà âm thế kỷ XX. 5. Phương phap nghiên c ́ ưu ́ 5.1 Phương pháp  nghiên cứ u   lý   thuy ết :  Phương pháp phân tích, so  sánh, qui nạp, đối chiếu, tổng hợp v.v... các kiến thức hoà âm ở thế kỷ XX   nhằm tìm ra những vấn đề cốt lõi để bổ  sung vào chương trình giảng dạy  môn Hoà âm bậc đại học tại HVANQGVN. Xem xét chương trinh, giao trinh đã có, cũng nh ̀ ́ ̀ ư  đuc kêt lai nh ́ ́ ̣ ưng kinh ̃   ̣ nghiêm, ph ương phap giang day hoa âm cua cac thê hê giang viên, cac giao s ́ ̉ ̣ ̀ ̉ ́ ́ ̣ ̉ ́ ́ ư,   ́ ̃ ̀ ̀ ́ ưa, tiêp thu cac thanh t tiên si đâu nganh; kê th ̀ ́ ́ ̀ ựu khoa hoc co liên quan đên đê tai ̣ ́ ́ ̀ ̀  nghiên cưu đê xây d ́ ̉ ựng phân  ̀ ưng dung n ́ ̣ ội dung mới thực hanh. ̀ 5.2   Ph ươ ng   pháp   nghiên   cứ u   th ực   nghi ệm :   Tổ   ch ức   d ạy   th ực  nghiệm m ột s ố  n ội dung hoà âm thế  k ỷ  XX cho sinh viên các chuyên  ngành khác nhau đ ể  kiể m ch ứng tính kh ả  thi c ủa nh ững ki ến th ức đư a  vào ch ươ ng trình giảng dạy, ph ươ ng pháp dạy h ọc và khả  năng tiế p  thu c ủa sinh viên. Ngoài ra, chúng tôi còn sử  dụng phương pháp lấy ý kiến chuyên gia,   phỏng vấn những người có liên quan để xem kiến thức hoà âm thế  kỷ  XX   được tiếp cận như thế nào trong các cơ sở đào tạo âm nhạc trên thế giới.
  8. 4 6. Đóng góp của luận án 6.1 Về  mặt lý luận: Tổng kết ngôn ngữ  hoà âm thế  kỷ  XX thông qua   một số dạng điệu thức, cấu trúc hợp âm ­ chồng âm, các thủ  pháp hòa âm  v.v... Đề xuất đưa nội dung hoà âm thế kỷ XX vào chương trình giảng dạy  cho sinh viên đại học tại HVANQGVN đáp  ứng nhu cầu đào tạo sinh viên  âm nhạc chuyên nghiệp trong giai đoạn hiện nay. 6.2 Về mặt thực tiễn:  Đưa phần kiến thức hoà âm tiêu biểu của thế kỷ  XX vào giảng dạy hệ đại học tại HVANQGVN.  Xây dựng chương trình và  nội dung phần hoà âm thế  kỷ  XX cho bậc đại học, góp phần hoàn thiện   chương trình môn học hoà âm nói chung. Đề xuất một số phương pháp dạy  phần hòa âm thế kỷ XX. Ngoài ra, thông qua luận án này có thể  gợi mở  phần nào về  tư  duy, ý   tưởng kết hợp những nhân tố  âm nhạc truyền thống dân tộc với các thủ  pháp hiện đại cho sinh viên sáng tác, nhằm tạo ra các tác phẩm vừa có tính  dân tộc vừa phù hợp với hơi thở  cuộc sống, thẩm mỹ  thời đại. Với sinh   viên thuộc các chuyên ngành khác, kiến thức hoà âm thế kỷ XX giúp các em   có thể   tiếp cận thuận lợi  hơn,  sâu sắc hơn với  các  tác phẩm âm nhạc   đương đại khi phân tích, tìm hiểu phong cách tác giả hoặc thể hiện các tác   phẩm âm nhạc này.  7. Bố cục của luận án Luận án dài 148 trang gồm Mở  đầu, Nội dung và Kết luận. Nội dung  luận án gồm 3 chương:  CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ­ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN  CỨU VÀ THỰC TRẠNG DẠY HOÀ ÂM Ở HỌC VIỆN ÂM NHẠC  QUỐC GIA VIỆT NAM 1.1 Cơ sở lý luận Hòa âm là một môn học quan trọng trong chương trình đào tạo âm nhạc   chuyên nghiệp tại các Học viện âm nhac, Nhạc viện. Từ trình độ trung cấp   đến đại học, từ các chuyên ngành biểu diễn đến các chuyên ngành Sáng tác  ­ Chỉ huy ­ Âm nhạc học, ở mỗi cấp học, mỗi chuyên ngành, học sinh ­ sinh  viên được tiếp cận với các kiến thức, các kỹ  năng thực hành hòa âm khác   nhau.  Môn hòa âm giúp cho học sinh ­ sinh viên có thể hiểu về cấu trúc hình   thức của tác phẩm, sự  sắp xếp các dạng hợp âm trong các điệu thức khác  nhau và những nguyên lý kết hợp các hợp âm theo chiều dọc và chiều ngang  cũng như  vị  trí các hợp âm trong tác phẩm âm nhạc v.v… Qua đó có thể  hiểu thêm về quan điểm thẩm mỹ, phong cách sáng tác của tác giả. 
  9. 5 Trong lịch sử  phát triển của hòa âm, kể  từ  khi nhạc sĩ J.P. Rameau   (1683­1764) đúc kết thành những nguyên lý mang tính khoa học cho đến  nay, ngôn ngữ  hòa âm đã có rất nhiều thay đổi. Do  ở  mỗi giai đoạn, mỗi   trường phái âm nhạc, luôn đòi hỏi cần có sự  đổi mới về  các phương tiện   thể  hiện nghệ thuật âm nhạc cho phù hợp với nội dung, với yêu cầu của   xã hội đương thời. Đặc biệt, từ  cuối thế  kỷ  XIX đến thế  kỷ  XX đã có nhiều trào lưu,   nhiều trường phái, nhiều khuynh hướng sáng tác cũng như quan điểm nghệ  thuật, quan điểm thẩm mỹ  xuất hiện. Các nhà soạn nhạc  ở  giai đoạn này   đều lao vào để tìm kiếm mọi khả năng biểu hiện ở mức độ tối đa của ngôn   ngữ hòa âm. [24/tr.121] Hòa âm ở thế kỷ XX có nhiều khuynh hướng mới, nhiều thủ pháp mới  hoàn toàn xa rời những nguyên tắc hòa âm của những thế kỷ trước. Vì lý do   đó, chúng tôi cho rằng việc đưa những kiến thức hòa âm ở  thế  kỷ  XX vào  chương trình giảng dạy môn Hòa âm trong HVANQGVN là rất cần thiết.   Việc làm này sẽ  giúp cho sinh viên có những kiến thức cơ bản về hòa âm   trong giai đoạn hiện nay. Giúp các em có thể hiểu và sử lý các tác phẩm âm   nhạc thế kỷ XX có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, như trên chúng tôi đã trình bày, ngôn ngữ  hòa âm  ở  thế  kỷ  XX rất phức tạp và phong phú vì có nhiều trường phái, nhiều khuynh   hướng sáng tác khác nhau, dẫn đến có rất nhiều thủ  pháp phát triển mới,  kết hợp cùng lúc các dạng điệu thức với nhau và ra đời nhiều dạng cấu tạo   hợp âm không sắp xếp theo qui luật quãng ba như  cấu tạo hợp âm chồng  quãng bốn, cấu tạo hợp âm chồng quãng hai và nhiều dạng hợp âm thêm   nốt v.v…Với thời lượng dành cho môn hòa âm rất khiêm tốn, mặt bằng  chung về kiến thức hòa âm của sinh viên còn thấp, vì vậy chúng tôi khi viết   luận án này đã phải lựa chọn trong những phần kiến thức hòa âm thế  kỷ  XX những nội dung nổi bật vừa đơn giản, dễ  hiểu, nhưng thể  hiện được  những điểm đặc trưng của hòa âm ở giai đoạn này để đưa vào chương trình  giảng dạy. Chúng tôi hy vọng những nghiên cứu và thử  nghiệm của mình   sẽ  góp phần vào việc đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo môn Hòa âm  trong HVANQG VN.  1.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu về hoà âm Thế kỷ XX 1.2.1 Sách và các công trình nghiên cứu ở nước ngoài Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã tìm được chín cuốn sách đã   được xuất bản dưới dạng sách giáo khoa hòa âm thế  kỷ  XX bằng tiếng  Anh và tiếng Đức, trong đó phải kể đến: Cuốn  “Twentieth­Century  Harmony”  do Vincent  Persichetti  biên  soạn  (Nhà xuất bản W.W.Norton &Company, 1961) dày 279 trang. Đây là một   trong những cuốn hòa âm được dùng nhiều ở các trường nhạc trên thế giới.  
  10. 6 Và tác giả  Vincent Persichtti còn được nhiều người biết đến là cuốn lý   thuyết hòa âm thế kỷ XX của ông với tiêu đề “Twentieth­Century Harmony  Creative Aspects and Practice”. Tác giả nghiên cứu sẽ trình bày nội dung chi  tiết hơn trong chương 2 cuả luận án. Ngoài ra có thể  tham khảo thêm chín đầu sách khác mà chúng tôi trình   bày trong luận án chương I mục 1.2.1.  1.2.2 Tình hình nghiên cứu ở trong nước Môn hoa âm đa va đang đ ̀ ̃ ̀ ược day  ̣ ở  HVANQGVN, được goi la phân ̣ ̀ ̀  ̉ ̉ “Hoa âm cô điên”, chu yêu d ̀ ̉ ́ ựa theo sach giao khoa Hoa âm c ́ ́ ̀ ủa bôn tac gia ́ ́ ̉  Nga I.Đubôpxki, X.Epxeep, I.Xpaxobin, V.Xôcolop.  Chúng tôi nhận thấy về  sách giáo khoa hoà âm  ở  Việt Nam chủ  yếu  vẫn đề  cập các kiến thức hoà âm cổ  điển, thiếu hẳn phần hoà âm thế  kỷ  XX. Ở   Viẹt̂   Nam   nói   chung   và   HVANQGVN   nói   riêng,   chua̛   áp   dụng  chương trình giảng dạy hoà âm thế  kỷ XX cho sinh viên đại học. Do vạy, ̂   viẹc nghiên c ̂ ưu  ́ “Bổ sung một số đặc điểm hoà âm thế kỷ XX vào chương   trình giảng dạy tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam”  đươc đ ̣ ạt ra là ̆   mọt vân đê câp thiêt và có hu ̂ ́ ̀ ́ ́ ̛ơng  ́ ưng dung thiêt th ́ ̣ ́ ực. 1.3 Thực trạng dạy hoà âm ở HVANQGVN 1.3.1 Môn Hoà âm trong quá trình phát triển từ  Trường Âm nhạc   Việt Nam đến HVANQGVN ngày nay Cách đây hơn 60 năm, Trường Âm nhạc Việt Nam đã ra đời (1956)  đánh dấu một sự kiện lớn trong đời sống âm nhạc Việt Nam lúc bấy giờ. Những ngày đầu mới thành lập, với đội ngũ giảng viên còn quá ít  ỏi,  trình độ  chuyên môn của họ  phần lớn là tự  học, không được đào tạo một   cách chính quy, bài bản. Với số giảng viên không đầy đủ các chuyên ngành,   cơ sở  vật chất từ  trường, lớp đến các nhạc cụ  và sách giáo khoa âm nhạc  còn rất nghèo nàn, thiếu thốn nhưng với lòng yêu nghề  và ý chí quyết tâm   cao, các giảng viên của trường đã bắt đầu khai giảng khoá trung cấp đầu  tiên.  Chương trình dạy hoà âm lúc bấy giờ chủ yếu là những kiến thức hoà   âm cổ điển Phương Tây và đưa vào giảng dạy ở trình độ trung cấp. 1 Phải kể đến nhạc sĩ Ca Lê Thuần ­ Là người được đào tạo chuyên sâu về  chuyên ngành Hoà âm ­ Phức điêụ, ông đã có công rất lớn trong việc xây dựng   chương trình của hai môn học này ở Trường Âm nhạc Việt Nam lúc bấy giờ. Chương trình môn hoà âm do nhạc sĩ Ca Lê Thuần biên soạn chủ yếu   dựa vào chương trình của các nhạc viện ở Liên Xô (cũ) thời bấy giờ.  Nội dung chương trình chủ yếu trình bày các kiến thức của hoà âm thời   1 Cuộc trao đổi với nhạc sĩ Hồng Đăng ngày 28 tháng 1 năm 2018 tại nhà riêng của nhạc sĩ.
  11. 7 kỳ  cổ  điển. Phần hoà âm thế  kỷ  XX chưa  được đưa vào chương trình.  Thầy Ca Lê Thuần chỉ  đưa vào dạy một số  nét khái quát về  hoà âm giai  đoạn nửa sau thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX như một dạng Semine. 2 Do   vậy,   cho   đến   nay   các   kiến   thức   hoà   âm   được   dạy   trong   HVANQGVN vẫn chủ yếu là hoà âm Phương Tây ở giai đoạn cổ điển. Đến phần cao học, các khoá đào tạo trước đây được học môn Lịch sử  hoà âm thế  kỷ  XX do nhạc sĩ Phạm Minh Khang giảng dạy có giới thiệu   đôi nét về  phong cách hoà âm của một số  nhạc sĩ thuộc trường phái âm   nhạc nửa đầu thế kỷ XX.  Sau này trường có mời một số  chuyên gia nước ngoài sang giảng dạy   cho các lớp cao học giới thiệu về ngôn ngữ hoà âm thế kỷ XX.  Hiện tại tổ Hòa âm ­ Lý thuyết ­ Phức điệu có năm giảng viên cơ hữu  và hai cộng tác viên với việc giảng dạy ba môn: Lý thuyết âm nhạc, Hoà âm   và Phức điệu, ở cả hệ trung cấp và đại học. Hiện nay việc giảng dạy môn Hoà âm tại HVANQGVN được phân  chia theo chương trình và giáo trình giảng dạy dưới đây. 1.3.2 Chương trình và giáo trình 1.3.2.1 Chương trình Đối với trình độ trung cấp  Chia làm hai nhóm ngành đào tạo phù hợp với các đối tượng học: Lớp  hoà âm trung cấp biểu diễn và lớp hoà âm trung cấp Sáng tác ­ Chỉ huy ­ Âm  nhạc học. Chương trình hoà âm trung cấp đều được bắt đầu học từ  năm   trung cấp hai (gọi theo cách phân hệ  đào tạo trước đây) và được học lý  thuyết hoà âm trong một năm, bao gồm hai học kỳ, tương đương hai tiết/1   tuần/90 phút, với tổng số là 28 tuần học và thi, tương đương 56 tiết. Riêng  lớp hoà âm trung cấp Sáng tác ­ Chỉ huy ­ Âm nhạc học, được chia thành hai  môn học: Hoà âm lý thuyết kéo dài bốn học kỳ, học năm thứ hai và thứ ba,  tương đương 112 tiết/1 năm và hoà âm trên đàn hai học kỳ, học năm thứ ba,  tương đương 84 tiết/1 năm.[PL2.1 và 2.2] Đối với trình độ đại học  Đối với chương trình hoà âm đại học cũng được phân theo hai dạng  đối tượng đào tạo giống ở bậc trung cấp, đó là chuyên ngành biểu diễn và   chuyên ngành Sáng tác ­ Chỉ  huy ­ Âm nhạc học, nhưng số  tiết học được   kéo dài hơn một tuần / cho mỗi kỳ. Vậy tổng số là 60 tiết trong một năm.  * Chương trình hoà âm đại học chuyên ngành biểu diễn được học hai  học kỳ trong năm thứ nhất, nội dung được học hết phần chuyển điệu cấp I.  [Xem PL2.2] 2 Trao đổi với giảng viên PGS.TS.Phạm Tú Hương
  12. 8 * Chương trình hoà âm đại học chuyên ngành Sáng tác ­ Chỉ huy ­ Âm  nhạc học, cũng được chia thành hai môn học là Hoà âm lý thuyết (Học ba  học kỳ, bao gồm hai học kỳ năm thứ  nhất và học kỳ  I năm thứ  hai, tương   đương 90 tiết / 1 năm) và môn Hoà âm trên đàn học hai học kỳ vào năm thứ  hai, tương đương 60 tiết/1 năm). [Xem PL2.3] Hiện nay Học viện vẫn đang sử  dụng   “Sách giáo khoa hoà âm”  của  bốn tác giả Nga và “Sách hợp tuyển để phân tích hoà âm” để làm giáo trình  giảng dạy cho học sinh và sinh viên trong nhiều năm qua.  Ngoài  ra, còn  có một số  sách dưới  đây dùng  tham khảo thêm  trong   chương trình giảng dạy: ­   “Sách giáo khoa hoà âm”  của Phạm Tú Hương và Vũ Nhật Thăng  (1993), nhà xuất bản âm nhạc.  ­  “Sách Đáp án và bài tập hoà âm phần Diatonic” của Hoàng Hoa. ­  “Sách Tuyển chọn bài tập phân tích hoà thanh”  của Hoàng Hoa &  Trương Ngọc Bích v.v… Tất cả các sách hòa âm nói trên đều được chọn là tài liệu giảng dạy và  tham khảo ở môi trường âm nhạc chuyên nghiệp của Việt Nam, chủ yếu  vẫn là kiến thức hòa âm cổ điển, chưa có sách giáo khoa hòa âm nào bổ  sung những kiến thức hòa âm thế kỷ XX vào chương trình đào tạo đại học  tại HVANQGVN. 1.3.3 Phương pháp giảng dạy và phương pháp kiểm tra ­ đánh giá 1.3.3.1 Phương pháp giảng dạy Tại HVANQGVN cũng như  một số  cơ  sở  đào tạo âm nhạc chuyên  nghiệp khác, khi giảng dạy môn Hòa âm các giảng viên thường dùng ba  phương pháp chính, đó là: phương pháp thuyết trình, phương pháp trực quan   và phương pháp thực hành. Thực hành phối hoà âm trên giấy:   Ở  HVANQGVN phần thực hành  phối hoà âm trên giấy có ba dạng chính:  ­ Phối hòa âm cho một giai điệu (bè Soprano) - Phối hòa âm cho một bè trầm (bè Basse) - Phối hòa âm theo các công năng cho trước. Riêng đối với các sinh viên các chuyên ngành Sáng tác ­ Chỉ huy ­ Âm   nhạc học  đôi khi sử   dụng dạng bài tập: tự  sáng  tác  một đoạn nhạc  có   chuyển điệu theo yêu cầu của giảng viên. Dạng bài tập này thường áp dụng   cho phần thi kết thúc môn học hòa âm. Thực hành phân tích hòa âm Phần thực hành phân tích này quan trong đối với tất cả các chuyên ngành,  đặc biệt cần thiết đối với các sinh viên chuyên ngành biểu diễn, giúp họ có thể  nhận biết được hòa âm trong các tác phẩm chuyên ngành của mình. Các vòng 
  13. 9 hòa âm kết sẽ  giúp họ xử  lý phân câu, phân đoạn trong các tác phẩm hợp lý   hơn. Thực hành hòa âm trên đàn piano Ở  HVANQGVN phần hòa âm trên đàn mới chỉ  áp dụng đối với các   sinh viên chuyên ngành Sáng tác ­ Chỉ huy ­ Âm nhạc học. Giáo viên có thể  đưa ra ví dụ một vòng nối tiếp hoà âm và hướng dẫn sinh viên cách nối tiếp  vòng hoà âm đó trên đàn, sau đó yêu cầu sinh viên có thể thực hành nhưng ở  điệu tính khác v.v.... Đây là phần thực hành sinh viên gặp nhiều khó khăn   nhất vì hạn chế bởi tay đàn. 1.3.3.2 Phương pháp kiểm tra ­ đánh giá Môn   Hòa   âm   cũng   như   các   môn   kiến   thức   âm   nhạc   khác   trong  HVANQGVN, mỗi học kỳ có hai lần kiểm tra. Kiểm tra giữa học kỳ và kiểm  tra cuối học kỳ. Học kỳ cuối của chương trình sẽ là phần thi tốt nghiệp môn   học. Hiện nay phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập của môn Hòa  âm trong HVAN chủ  yếu là hình thức kiểm tra viết. Nội dung của các bài  kiểm tra thường là phối hòa âm cho một giai điệu hay phối hòa âm cho các  công năng cho trước. Độ khó, dễ của đề thi phụ thuộc vào nội dung chương  trình của học kỳ đó. Ngoài bài viết phối hòa âm trên giấy, sinh viên còn làm một  bài phân tích hòa âm. Ngoài ra, còn phần thi hoà âm trên đàn đối với lớp chuyên ngành Sáng  tác ­ Chỉ huy ­ Âm nhạc học. 1.3.4 Đánh giá kết quả giảng dạy Đánh giá kết quả  và tình hình giảng dạy môn Hoà âm chúng tôi nhận   thấy có một số ưu và nhược điểm sau: Về  ưu điểm: Các giảng viên đã giảng dạy theo đúng nội dung chương   trình đã được qui định. Hàng năm thường chú ý rà soát chương trình học, bổ  sung những kiến thức mới nhằm làm cho môn học phong phú, hấp dẫn hơn.  Cố gắng tìm các dạng bài tập cho phù hợp với từng đối tượng sinh viên là  chuyên ngành biểu diễn hay chuyên ngành Sáng tác ­ Chỉ huy ­ Âm nhạc học   v.v...  nhằm đưa môn Hoà âm góp phần hỗ  trợ  cho các em khi học chuyên   ngành hay học các môn học khác như: Phân tích tác phẩm, Hình thức âm  nhạc, Phối khí hay Hoà tấu dàn nhạc v.v...  Đa dạng các hình thức kiểm tra   đánh giá sau mỗi buổi học, mỗi học trình nhằm một mặt đánh giá đúng trình  độ, sự  hiểu biết của sinh viên,  một mặt tạo sự  hứng thú, say mê khi học   môn Hoà âm. Về nhược điểm: Chưa tích cực bổ sung những kiến thức hoà âm mới ở  thế kỷ XX vào chương trình giảng dạy. Do vậy, chưa cập nhật được những  kiến thức mới làm cho sinh viên còn bỡ ngỡ nhiều khi tiếp xúc với các tác  phẩm âm nhạc đương đại.  Giảng viên khi lên lớp chủ  yếu dạy theo các 
  14. 10 phương pháp truyền thống như: phương pháp thuyết trình, phương pháp  trực quan hay phương pháp thực hành mà còn ít sử  dụng các phương pháp   giảng dạy mới được phát triển trong giai đoạn hiện nay.  Do điều kiện thời  gian có hạn, phần thực hành nghe hoà âm trên đàn hay phân tích hoà âm   trong các tác phẩm còn chưa được coi trọng đúng mức.  Sinh viên nhiều em  còn lười học, lười làm bài tập, nghỉ học nhiều do vậy dẫn đến kết quả học   không tốt, phải thi lại và học lại nhiều. Tiểu kết chương 1 Thông qua nội dung chương 1, giới thiệu tổng quan tình hình nghiên   cứu và thực trạng dạy hoà âm ở HVANQGVN từ những ngày mới thành lập   trường cho đến ngày nay. Trải qua nhiều thế  thệ  các thầy cô giáo cùng   chung tay xây dựng bộ môn ngày càng phát triển. Môn Hoà âm nói chung và các môn kiến thức âm nhạc nói riêng cũng đã  hình thành rõ nét trong đào tạo âm nhạc các cấp học ở HVANQGVN. Trong phần lịch sử đề tài, giới thiệu một cách tóm lược các công trình  nghiên cứu có liên quan đến ngôn ngữ âm nhạc thế kỷ XX. Trong phần tổng quan tình hình nghiên cứu về hoà âm thế kỷ XX, giới  thiệu chín đầu sách có liên quan đến kiến thức hoà âm thế kỷ XX, bao gồm  cả sách giáo khoa hoà âm thế kỷ XX, sách bài tập bằng tiếng Anh và tiếng   Đức. Đây là những tư  liệu vô cùng quí giá giúp chúng tôi trong quá trình   nghiên cứu viết luận án và thực hành giảng dạy phần hoà âm thế kỷ XX. Trình   bày   thực   trạng   về   môn   Hoà   âm   đã   và   đang   được   dạy   tại   HVANQGVN, chủ yếu vẫn là giảng dạy phần hoà âm cổ điển.   Trong mục này chúng tôi giới thiệu khái quát về  chương trình, giáo  trình giảng dạy, phương pháp kiểm tra đánh giá, đội ngũ giảng viên và   sinh viên, cũng như  đánh giá kết quả  giảng dạy, nêu những  ưu điểm và  nhược   điểm   cần   khắc   phục   trong   việc   giảng   d ạy   môn   Hoà   âm   tại   HVANQGVN. Nhìn  chung qua  nội  dung  trình  bày  ở   chương  1 chúng  ta thấy  vẫn  thiếu vắng phần hoà âm thế  kỷ  XX chưa được đưa vào giảng dạy cho  sinh viên đại học tại HVANQGVN. Thực tế đó dẫn đến những khó khăn  cho việc tiếp cận với âm nhạc  ở  thế  kỷ  XX trong cả  đào tạo, s áng tác,  biểu diễn và nghiên cứu. Vì vậy, việc nghiên cứu và bổ  sung những kiến   thức   cần   thiết   cho   phần   giảng   dạy   về   hoà   âm   thế   kỷ   XX   tại  HVANQGVN là rất cần thiết.  CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ HOÀ ÂM THẾ KỶ XX  VÀ VIỆC GIẢNG DẠY HOÀ ÂM THẾ KỶ XX Ở  MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
  15. 11 2.1 Khái quát về hoà âm thế kỷ XX Âm nhạc thế giới từ những năm đầu thế  kỷ XX đến nay có rất nhiều   biến động theo tình hình chính trị, xã hội và văn hóa ở nhiều quốc gia khác  nhau. Trong âm nhạc phải kể  đến vai trò của hòa âm đã góp phần quan  trọng trong việc phản  ánh sự  thay đổi về  cách nhìn, cách xây dựng nội   dung, chủ đề  hình tượng âm nhạc và thay đổi về  thẩm mỹ  âm thanh cũng  như  phản ánh bút pháp riêng của từng tác giả, từng trường phái âm nhạc  khác nhau. Trong đó âm nhạc Việt Nam cũng không nằm ngoài dòng chảy   đó, nhiều nhạc sĩ đã vận dụng những ngôn ngữ hòa âm mới vào trong sáng  tác của mình. Trong lịch sử phát triển âm nhạc trên thế giới nói chung và các dân tộc  nói riêng đã cho chúng ta thấy thẩm mỹ “Hòa âm” được thay đổi theo chiều   dài thời gian và thay đổi theo quan niệm thẩm mỹ của từng thời đại, từng  trường phái và từng văn hóa của các dân tộc khác nhau. Đã có nhiều nhà  khoa học âm nhạc đưa ra những tổng kết về  phong cách hòa âm của từng   trường phái từ Tiền cổ điển, Cổ điển, Lãng mạn. Sang đến nửa đầu thế kỷ  XX, hình thành nhiều ý tưởng hòa âm được thay đổi, mở  rộng quan niệm   về màu sắc trong âm nhạc, cơ cấu hòa âm sinh động. Các nhà soạn nhạc đã   sáng tạo ra những phương thức và kỹ  thuật sáng tác âm nhạc mới, đưa ra   những thực nghiệm táo bạo cùng với sự phát triển không có biên giới, đồng   hành cùng lúc nhiều phong cách sáng tác âm nhạc khác nhau.  Có thể nói giai đoạn này là bước ngoặt rất quan trọng, một sự chuyển   tiếp vô cùng mạnh mẽ những bút pháp sáng tạo tinh tuý của chủ nghĩa lãng   mạn nửa cuối thế kỷ XIX sang thế kỷ XX. Trong giai đoạn này đã nổi lên tên tuổi của một số  nhạc sĩ như  Claude   Debussy (1862­1918), Alexander Scriabin (1872­1915), Arnold Schönberg (1874­ 1951),  Maurice  Ravel  (1875­1937),   Béla  Bartók  (1881­1945),  Anton  Webern  (1883­1945),   Alban   Berg   (1885­1935),  Sergei   Prokofiev   (1891­1953),   Paul  Hindemith (1895­1963), Dimitri Schostakovich (1906­1975) v.v… Các khuynh hướng sáng tác mới của sự phát triển hoà âm đã trở  nên rõ   ràng trong các tác phẩm của các nhạc sĩ thời kỳ này. Chẳng hạn, xuất hiện   nhiều hợp âm theo lối cấu trúc chồng quãng bốn, chồng quãng hai, hợp âm   thêm  nốt  hay  hợp   âm  nhiều  nốt   chồng  quãng  ba v.v…  Hoặc  xuất  hiện   nhiều thủ pháp đa điệu thức, đa điệu tính, đa hợp âm, thủ pháp hoà âm song  song v.v… Các nhạc sĩ thời này không  ưa dùng điệu thức trưởng thứ, thay   vào đó họ  đi sâu khai thác nhiều điệu thức khác nhau như: điệu thức toàn  cung, điệu thức đối  xứng,  điệu thức chuyển  dịch có giới hạn, sử  dụng   phong phú hệ thống âm nhạc 12 Chromatic v.v…  Âm nhạc thời này đi theo từng mảng màu rất đa dạng, miêu tả  những  nội dung thời đại mới, phù hợp với tình hình thực tế và nhu cầu của xã hội,  
  16. 12 dòng chảy âm nhạc luôn chuyển động không ngừng. Chính vì vậy mà nhiều   nhạc sĩ đã tìm nguồn cảm hứng cho sáng tác của mình từ  thiên nhiên như  nhạc sĩ Pháp Olivier Messiaen đã chìm đắm với những âm thanh của loài  chim “Birdsong”, hay nhạc sĩ Đức Bernhard Wulft chuyên nghiên cứu về  tiếng   chim   “Leger”,   hoặc   đề   tài   biển   “Ba   phác   thảo   giao   hưởng   Biển”   (1903­1905) của Claude Debussy v.v… Thực tiễn âm nhạc thế  kỷ  XX đã cho thấy, cùng với sự  kế  thừa, vận   dụng những chất liệu, phương thức sáng tác truyền thống, các nhạc sĩ còn   tạo nên nhiều bút pháp hòa âm mới. Sự  kế  thừa, vận dụng được thể  hiện   trước hết ở nguồn chất liệu hòa âm…, ở một số kỹ xảo hoà âm… Tuy nhiên,   không chỉ có như vậy, các nhạc sĩ thế kỷ XX còn tạo nên nhiều sự đổi mới cả   về nguồn chất liệu cùng bút pháp sáng tác. [95/tr.44, số 4 năm 2017] 2.1.1 Một số dạng điệu thức thường gặp trong hoà âm thế kỷ XX  2.1.1.1. Điệu thức toàn cung (The Whole­Tone Scale) Theo từ  điển  The Harvard Dictionary of Music (2003) của Don Michael   Randel, tái bản lần thứ tư  [66/Tr.969], điệu thức toàn cung là dạng điệu thức  gồm sáu âm trong một quãng tám và các âm cách nhau một nguyên cung. Chia   làm hai hệ thống điệu thức toàn cung sau: C D E F# G# A# và C# D# F G A B. Điệu thức toàn cung được các nhạc sĩ thế kỷ XX áp dụng khá phổ biến   trong các sáng tác của mình, nhằm tạo ra sự  không rõ ràng về  giọng điệu,  điều này khác hẳn với ngôn ngữ  hoà âm cổ  điển  ưa dùng âm nhạc có sức   hút dẫn và hình thành điệu tính rõ ràng. 2.1.1.2   Điệu   thức   chuyển   dịch   có   giới   hạn   (Modes     of   Limited   Transposition) Nhạc sĩ người Pháp O.Messiaen được coi là người đã sáng tạo ra dạng   điệu thức này. Ông đã thành công trong việc kết hợp các âm thanh tạo nên  sự  chuyển động màu sắc hòa âm hết sức khác lạ. Trên cơ  sở  áp dụng một   mô hình cung bậc của riêng bản thân nhạc sĩ mà ông gọi là các  Mode (Điệu  thức):  Mode là một mô hình tập hợp các cung bậc, đóng vai trò gần như   điệu tính, được sắp xếp trên nền tảng tương quan giữa cung và nửa cung   [11/tr.17]. Các điệu thức này hoạt động với phương thức chuyển dịch theo quãng   chromatic. Khi được chuyển dịch, điệu thức đó sẽ  xuất hiện những âm mới   dẫn đến sự biến đổi màu sắc. Điều thú vị là mỗi điệu thức chỉ xuất hiện âm  mới ở một số lần chuyển dịch nhất định, nếu tiếp tục chuyển dịch ta sẽ trở lại   dạng ban đầu . Chính vì vậy mà Messiaen gọi là sự chuyển dịch có giới hạn. Điệu thức chuyển dịch có giới hạn này được xuất hiện trong âm nhạc   thế kỷ XX, được coi như là sự nối tiếp các mô hình cung bậc trong đó, tạo  sự biến đổi màu sắc hoà âm mới lạ so với các tác phẩm Cổ điển. 2.1.1.3 Điệu thức đối xứng (Symmetrical scales)  
  17. 13 Béla Bartok là một trong những đại biểu xuất sắc của nền âm nhạc thế  kỷ XX. Ông là nhà soạn nhạc thiên tài, một nghệ sĩ piano lỗi lạc và là nhà  nghiên cứu ­ sưu tầm dân ca Hungari rất nổi tiếng. Ngôn ngữ  hòa âm của   Bartok là sự tổng hợp những bút pháp của Tây Âu và phương Đông, của các   điệu thức thời Trung cổ, điệu thức nhà thờ, điệu thức năm âm với nhiều  biến dạng. Ông đã sử  dụng rất phong phú và đa dạng các dạng điệu thức   khác nhau trong tác phẩm của mình. Đặc biệt ông đã sử  dụng rất rộng rãi  trong sáng tác đó là điệu thức đối xứng. Theo tác giả  Phạm Minh Khang, lối cấu trúc đối xứng này của Béla   Bartok được đánh giá cao và coi đây là một trong đóng góp quan trọng cho   ngôn ngữ hoà âm mới. [24/tr.229] 2.1.1.4 Âm nhạc Dodecaphone Âm nhạc Dodecaphone cũng thường gặp trong sáng tác của các nhạc sĩ  thế  kỷ  XX, phải kể   đến tên tuổi của  Arnold  Schönberg,  Alban Berg và  Anton Webern v.v… Dodecaphone   là   một   kỹ   thuật   sáng   tác   trên   12   âm   thuộc   hệ   thống   chromatic. Nếu thang âm Chromatic được hình thành trên cơ  sở  một điệu   trưởng hoặc một điệu thứ và nó vẫn giữ nguyên những bậc cơ bản và trung   tâm của điệu thức bảy âm, thì Dodecaphone là một hệ  thống của âm nhạc   không có điệu tính (Atonal). Các nhà nghiên cứu âm nhạc vẫn coi J.Matthias Hauer (1883 ­1959) là  người đã nghĩ ra phương pháp sáng tác âm nhạc theo Dodecaphone thì người   tổng kết về lý thuyết và phát triển kỹ thuật sáng tác này chính là nhà soạn   nhạc A. Schönberg (1874 ­ 1951). [40/tr117] Bước sang thế kỷ XX, xu thế đổi mới diễn ra càng mạnh mẽ hơn. Đặc  biệt khi phong cách âm nhạc 12 âm đã trở  thành một trào lưu sáng tác thì   một hệ từ  vựng mới của ngôn ngữ  âm nhạc vẫn là vấn đề  đáng quan tâm   của nhiều nhà soạn nhạc cũng như  giới lý thuyết âm nhạc học. [95/số  3,  năm 2018] 2.1.1.5 Âm nhạc vô điệu tính (Atonal)   Theo Vincent Persichetti trong cuốn  Twentirth century Harmony đã định  nghĩa về âm nhạc không có điệu tính như sau:  Âm nhạc không có điệu tính   là không xác định rõ điệu tính hoặc hoàn toàn biến mất điệu tính và cũng   không tồn tại sự hút dẫn của điệu thức. [63/tr261] GS.TS Phạm Minh Khang cũng viết: Âm nhạc vô điệu tính là không có   sự quy định điệu tính một cách rõ ràng.[24/tr166]  Nếu như  đặc điểm cơ  bản của âm nhạc có điệu tính là dựa trên mối  quan hệ giữa những âm ổn định và âm không ổn định trong một đoạn nhạc   hay một bản nhạc, thì điều này sẽ  không có  ở  âm nhạc vô điệu tính. Việc  sử  dụng âm nhạc không có điệu tính đã đánh dấu một khuynh hướng phát  
  18. 14 triển mới trong sáng tác âm nhạc. Đồng thời nó cũng mở ra những cách nhìn   mới  ở  nhiều lĩnh vực sáng tác như: cách xây dựng chủ  đề, cấu trúc tác   phẩm, hòa âm, phối khí. Các tác phẩm thuộc loại hình âm nhạc vô điệu tính rất phổ biến trong  âm nhạc thế kỷ XX, chẳng hạn có thể  tìm thấy trong một số  sáng tác của   Alexandre Scriabine, Arnold Schönberg, Anton Webern v.v... 2.1.2 Một số  dạng cấu trúc hợp âm ­ chồng âm thường gặp trong   hoà âm thế kỷ XX 2.1.2.1 Cấu tạo hợp âm chồng quãng ba Hợp âm chồng quãng ba (Chords by Thirds): Là những hợp âm mà trong  đó các âm được sắp xếp theo qui luật quãng ba, ví dụ có các hợp âm ba (ba  nốt), hợp âm bảy (bốn nốt), hợp âm chín (năm nốt), hợp âm mười một (sáu  nốt), hợp âm mười ba (bảy nốt), hợp âm mười lăm (tám nốt), hợp âm mười  bảy (chín nốt) và hợp âm mười hai nốt (11 nốt) v.v... Trong đó các hợp sáu   nốt, bảy nốt, tám nốt cho đến hợp âm 12 nốt được gặp nhiều trong các tác   phẩm sau này. Các hợp âm này làm nhoè mờ công năng và chủ âm tạo hiệu   quả  âm nhạc dày đặc, rất phức tạp, đa màu sắc. Chúng khác hẳn với các  hợp âm trong âm nhạc cổ điển là rõ ràng về công năng hợp âm, hình thành  màu sắc trưởng thứ, tạo sức hút về chủ âm v.v... 2.1.2.2 Cấu tạo hợp âm chồng quãng bốn (Chords by Fourths) ­ Hợp âm ba nốt chồng quãng bốn (Three ­ note chords by fourths) ­ Hợp âm bốn nốt chồng quãng bốn (Four ­ note chords by fourths) ­ Hợp âm nhiều nốt chồng quãng bốn (Multi ­ Note chords by fourths) 2.1.2.3 Cấu tạo hợp âm chồng quãng hai (Chords by seconds) ­ Hợp âm ba nốt chồng quãng hai (Three note Chords by seconds) ­ Hợp âm nhiều nốt chồng quãng hai (Multi Note Chords by seconds) 2.1.2.4 Các dạng hợp âm thêm nốt (Added ­ Note Chords) Trong âm nhạc thế  kỷ  XX xuất hiện nhiều dạng hợp  âm thêm nốt   quãng hai trưởng và quãng hai thứ vào các hợp âm chồng quãng ba và quãng  bốn nhằm làm tăng thêm độ dày hòa âm, mang hiệu quả đối nghịch với màu   sắc của các hợp âm ba trước đây. ­ Các hợp âm chồng quãng ba thêm âm sáu, âm bốn, âm hai ­ Các hợp âm chồng quãng bốn thêm âm chín, âm sáu, âm năm, âm ba   và âm hai 2.1.3 Một số thủ pháp hoà âm thường gặp trong âm nhạc thế kỷ XX 2.1.3.1 Hoà âm đa điệu tính (Polytonality) Theo sách Twentieth­Century Harmony cuả Vincent Persichetti, đa điệu   tính được hiểu là một qui trình trong đó là sự  kết hợp đồng thời của hai   hay nhiều điệu tính với nhau [63/tr.255].
  19. 15 Đa điệu tính là một thủ  pháp phát triển quan trọng của ngôn ngữ  hoà  âm, nó tạo ra nhiều khả  năng biểu hiện vô cùng phong phú trong những   sáng tác của các nhà soạn nhạc thế kỷ XX. 2.1.3.2 Hoà âm đa điệu thức (Polymodality) Hoà âm đa điệu thức được hình thành trong quan hệ chiều dọc của các   giai điệu hoặc nhóm các giai điệu  ở  các hình thức khác nhau tồn tại độc   lập theo chiều ngang. [89/tr.89] Thủ  pháp hoà âm đa điệu thức được hiểu  ở  đây là các tác phẩm sử  dụng hai hay nhiều thang âm cùng lúc, kiểu này cũng rất hay gặp trong âm   nhạc thế kỷ XX với nhiều hình thức phong phú và đa dạng. 2.1.3.3 Đa hợp âm (Polychords) Thủ  pháp đa hợp âm được hiểu cùng lúc chồng hai hay nhiều các hợp   âm khác nhau theo chiều dọc. Hai thủ pháp đa điệu tính và đa hợp âm được   vận dụng khá linh hoạt, nhiều khi thấy xuất hiện cùng lúc trong các tác  phẩm âm nhạc của thế  kỷ  XX. Có lúc là chồng các hợp âm với điệu tính  khác nhau, hoặc đôi khi lại xuất hiện chồng các hợp âm khác nhau trong   cùng một điệu tính, hay các bè kết hợp nhiều thang âm, điệu tính khác nhau  cùng lúc v.v... 2.1.3.4 Thủ pháp hoà âm song song (Parallel Harmony) Trong một số  luận án, luận văn, có được đề  cập đến các quãng song  song, các hợp âm ­ chồng âm song song. Đây là một trong những thủ  pháp   hay gặp trong sáng tác của các nhạc sĩ thế kỷ XX.  Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi thường gặp lối sử  dụng song   song hợp âm, song song chồng âm dưới nhiều kiểu khác nhau. 2.2 Khảo sát việc dạy hoà âm thế  kỷ  XX  ở một số cơ sở  đào tạo  âm nhạc trên thế giới Để hoàn thành luận án này, chúng tôi đã tiến hành khảo sát và tìm hiểu   về  chương trình và phương pháp giảng dạy hoà âm trong một số cơ sở và đào  tạo âm nhạc ở nước ngoài. Bản thân NCS cũng đã có nhiều dịp được học và   làm việc cùng với các trường âm nhạc ở Đức và Thuỵ Điển, ngoài ra còn tìm   hiểu thêm các trường âm nhạc ở Mỹ, Nga và một số trường nhạc thuộc khu  vực châu Á. Chúng tôi nhận thấy,  ở  mỗi nước đều đã bổ  sung chương trình  giảng dạy hoà âm thế kỷ XX theo các cách khác nhau sao cho phù hợp với nội  dung và chương trình đào tạo của trường, riêng các trường âm nhạc   ở Mỹ họ  đã cập nhật phần hoà âm thế kỷ XX rất chi tiết và đa dạng. [PL8] 2.2.1 Một số nhạc viện ở Mỹ Chúng tôi nghiên cứu chương trình dạy và học hoà âm ở hai trường của   Mỹ là: Trường đại học âm nhạc Berklee College of Music và Nhạc viện San  Francisco ­ San Francisco Conservatory of Music. [PL3] 2.2.2 Một số nhạc viện ở Châu Âu và Châu Á
  20. 16 Qua thực tế chúng tôi đã tìm hiểu chương trình học hoà âm  ở   một số  nước  ở  châu Âu như  Thuỵ  Điển, Đức, Hungary, Nga, Canada và một số  nước Châu Á như  Trung Quốc, Malaysia, Thailand, Hong Kong, Singapore   v.v…  Qua việc tìm hiểu về  chương trình dạy hoà âm nói chung và việc bổ  sung kiến thức hoà âm thế  kỷ  XX nói riêng vào chương trình đào tạo âm   nhạc chuyên nghiệp  ở  một số nơi trên thế  giới, chúng tôi nhận thấy rằng,  mỗi nước có một cách tiếp cận khác nhau. Có thể  dùng phương pháp tích   hợp để  đưa kiến thức hoà âm thế  kỷ  XX vào giờ  học môn Phân tích tác   phẩm, sinh viên sẽ  lĩnh hội kiến thức đó thông qua giờ  học này vừa giới   thiệu lịch sử âm nhạc, phân tích cấu trúc hợp âm và thủ pháp hoà âm được   sử  dụng trong đó. Nhìn chung, các nước đều rất chú ý đến việc cập nhật  kiến thức hoà âm thế  kỷ  XX vào chương trình đào tạo cho sinh viên âm  nhạc trong giai đoạn hiện nay. Riêng đối với sinh viên Việt Nam chúng tôi   đặt vấn đề bổ sung vào môn Hoà âm, nghĩa là sau khi kết thúc phần hoà âm  Cổ  điển, tiếp tục học nối tiếp phần hoà âm thế  kỷ  XX cho sinh viên đại   học, sẽ có tác dụng dẫn sang học phần mới một cách trực tiếp và có mục  tiêu rõ ràng. Tiểu kết chương 2 Trong chương hai, chúng tôi đã giới thiệu một cách khái quát về  ngôn  ngữ  hoà âm thế  kỷ  XX, một số dạng điệu thức và cũng như  một số  dạng   hợp âm ­ chồng âm thường gặp trong ngôn ngữ âm nhạc thế  kỷ XX nhằm   bổ sung thêm kiến thức về quan niệm hòa thanh trong thời kỳ này.  Về  điệu thức đã chọn một số điệu thức thường gặp trong hoà âm thế  kỷ  XX như: điệu thức toàn cung, điệu thức chuyển dịch có giới hạn, điệu  thức đối xứng, âm nhạc Dodecaphone và âm nhạc vô điệu tính. Về cấu trúc hợp âm ­ chồng âm đã xuất hiện thêm nhiều cách cấu tạo  hợp âm như trong cấu trúc hợp âm ba sắp xếp theo quãng ba, ngoài các hợp  âm ba, hợp âm bảy, hợp âm chín, còn giới thiệu thêm các hợp âm 11, 13, 15,   17, 19, 21, 23 và các hợp âm sắp xếp theo quãng bốn, các hợp âm chồng   quãng hai, cùng với các thể  đảo kèm theo chúng. Tiếp đến là các hợp âm   thêm nốt: Hợp âm chồng quãng ba thêm âm sáu, âm bốn, âm hai; hợp âm  chồng quãng bốn thêm âm sáu, âm năm, âm hai; hợp âm chồng quãng hai   thêm âm chín, âm sáu, âm năm, âm ba, âm hai và các chùm nốt (Clusters).  Cũng như một số thủ pháp sáng tác hay gặp trong giai đoạn này. Một số thủ pháp hoà âm thường gặp trong âm nhạc thế kỷ XX như hoà   âm đa điệu tính, đa điệu thức, đa hợp âm, thủ pháp hoà âm song song. Và cuối cùng chúng tôi đã tiến hành khảo sát việc dạy hoà âm ở một số  cơ sở đào tạo âm nhạc trên thế giới như châu Mỹ, châu Âu và châu Á, điển  hình là  ở Mỹ. Thông qua đó để  muốn tìm hiểu xem các nước tiếp cận với  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0