Tóm tắt luận án Tiến sĩ Báo chí học: Phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố
lượt xem 4
download
Trên cơ sở hệ thống hóa và phát triển lý thuyết về tản văn báo chí và phong cách tản văn báo chí, luận án đi sâu phân tích để có thể nhận diện được phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố thể hiện qua nội dung, hình thức kết cấu và ngôn ngữ; đánh giá được ý nghĩa của vấn đề này trong lịch sử báo chí Việt Nam; rút ra một số bài học đối với hoạt động nghề báo. Mời các bạn cùng tham khảo luận án để nắm chi tiết nội dung.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt luận án Tiến sĩ Báo chí học: Phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN NGUYỄN BÙI KHIÊM PHONG CÁCH TẢN VĂN BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ Ngành: Báo chí học Mã số: 9.32.01.01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC
- HÀ NỘI 2019
- Công trình được hoàn thành tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Tạ Ngọc Tấn Công trình được hoàn thành tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền Công trình được hoàn thành tại: Học viện Báo chí và Tuyên truyền Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Tạ Ngọc Tấn Chủ tịch Hội đồng: Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền vào hồi …. giờ …. ngày …. tháng ….. năm 2019 Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia, Hà Nội Trung tâm Thông tin Thư viện, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngô Tất Tố là một trong những nhà văn, nhà báo xuất sắc từ trước Cách mạng tháng Tám. Thân thế và sự nghiệp sáng tác của ông đã thu hút sự chú ý của nhiều đồng nghiệp, nhà nghiên cứu, phê bình và các thế hệ học viên, sinh viên. Với khoảng 400 công trình, có thể nói, việc nghiên cứu về Ngô Tất Tố khá đồ sộ. Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu đều về lĩnh vực văn học, riêng các nghiên cứu về sự nghiệp báo chí của ông còn khá khiêm tốn và vẫn còn những khoảng trống nhất định, như: (1) Vấn đề thể loại tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố còn nhiều cách gọi khác nhau như bút chiến, tiểu phẩm, tạp văn, tản văn; (2) Vấn đề phong cách của Ngô Tất Tố trong lao động sáng tạo; (3) Từ trước đến nay, phần lớn các công trình nghiên cứu về sự nghiệp báo chí của Ngô Tất Tố đều trên dựa cơ sở khảo sát hơn 100 tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố được công bố từ năm 1975. Từ năm 2005 đến 2011, các nhà nghiên cứu đã công bố khoảng 13 50 tác phẩm báo chí được xác định là của Ngô Tất Tố. Từ thực tế đó cho thấy, việc tổ chức nghiên cứu dựa trên cơ sở khảo sát tổng thể di sản báo chí của Ngô Tất Tố là cần thiết. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở hệ thống hóa và phát triển lý thuyết về tản văn báo chí và phong cách tản văn báo chí, luận án đi sâu phân tích để có thể nhận diện được phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố thể hiện qua nội dung, hình thức kết cấu và ngôn ngữ; đánh giá được ý nghĩa của vấn đề này trong lịch sử báo chí Việt Nam; rút ra một số bài học đối với hoạt động nghề báo. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án thực hiện các nhiệm vụ: xác lập cơ sở lý thuyết về đối tượng nghiên cứu; nhận diện các đặc trưng về
- 2 phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố thể hiện qua các bình diện như nội dung, hình thức và ngôn ngữ; đánh giá ý nghĩa lịch sử của tản văn báo chí của Ngô Tất Tố và bài học đối với người làm báo hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố được thể hiện thông qua các tư liệu, tài liệu liên quan đến sự nghiệp của Ngô Tất Tố nói chung và các tác phẩm tản văn báo chí của ông nói riêng. Phạm vi nghiên cứu của luận án là khảo sát những tác phẩm tản văn báo chí của Ngô Tất Tố đã được in trong: “Tổng tập tản văn Ngô Tất Tố”; “Ngô Tất Tố tiểu phẩm báo chí”; “Ngô Tất Tố tác phẩm”… và một số tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố đăng báo trước năm 1945 có thể tiếp cận được từ các nguồn khác. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được xây dựng trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí; vận dụng lý luận báo chí, lý luận văn học; một số kết quả nghiên cứu về lịch sử báo chí; thể loại tác phẩm báo chí; hoạt động sáng tạo báo chí. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận của luận án được dựa trên nền tảng của hệ thống lý luận về báo chí học. Đồng thời luận án cũng sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp nghiên cứu lịch sử; phân tích và tổng hợp, thống kê, phân loại văn bản học và khái quát hóa để phân tích, đánh giá về phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố. 5. Giả thuyết nghiên cứu
- 3 5.1. Những tìm tòi thể nghiệm về tản văn báo chí là những đóng góp của Ngô Tất Tố trong tiến trình vận động và phát triển của báo chí Việt Nam. 5.2. Là một nhà cựu học, làm báo trong bối cảnh giao thời Đông Tây với những biến động chính trị xã hội trước Cách mạng tháng Tám… đó là những nhân tố hình thành phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố. 5.3. Phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố có ý nghĩa trong lịch sử báo chí Việt Nam và những bài học đối với lao động nghề báo hiện nay. 6. Đóng góp mới của luận án Luận án nhấn mạnh một số phương pháp mới về lý luận như: Giới thuyết về tản văn báo chí, một số đặc trưng về thể loại; các yếu tố chi phối, ảnh hưởng đến phong cách tác giả và tác phẩm tản văn báo chí. Nhận diện về phong cách của Ngô Tất Tố qua các bình diện nội dung, hình thức và ngôn ngữ. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cần thiết cho việc giảng dạy, nghiên cứu và lao động nghề báo. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Tổng quan nghiên cứu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án được kết cấu gồm có 5 chương: Chương 1. Lý luận chung về phong cách tản văn báo chí; Chương 2. Phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố qua bình diện nội dung tác phẩm; Chương 3. Phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố qua bình diện hình thức và kết cấu tác phẩm; Chương 4. Phong cách ngôn ngữ tản văn báo chí của Ngô Tất Tố; Chương 5. Phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố ý nghĩa lịch sử báo chí và bài học nghề báo.
- 4 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Theo tổng hợp chưa đầy đủ, đến nay đã có khoảng 400 công trình nghiên cứu về Ngô Tất Tố nhưng hầu hết là nghiên cứu về sự nghiệp văn học của ông. Năm 1939, trong một số bài báo giới thiệu tác phẩm “Tắt đèn” đã có những nhận xét đầu tiên về phong cách làm báo của Ngô Tất Tố. Trên báo Thời vụ, ngày 31/01/1939, Vũ Trọng Phụng giới thiệu: “Ngô Tất Tố là một nhà báo về phái nho học và là một tay ngôn luận xuất sắc trong đám nhà Nho”; trên báo Mới, số ra ngày 15/6/1939, Trần Minh Tước cũng cho rằng, ở Ngô Tất Tố là một nhà Nho, nhưng ông đã “vượt khỏi cả thế hệ của mình. Người môn đồ của Khổng Mạnh này đã thở hít cái không khí xã hội của K. Marx như tất cả những thiếu niên văn sĩ ở hàng tranh đấu”; Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã nhận xét, Ngô Tất Tố là tay kỳ cựu trong làng văn, làng báo: “… vào số những nhà Hán học đã chịu ảnh hưởng văn học Âu Tây và được người ta kể vào hạng nhà Nho có óc phê bình, có trí xét đoán, có tư tưởng mới”, đọc văn của ông “người ta có cái cảm tưởng như đọc những câu văn dịch ở tiếng Pháp”. Năm 1954, sau khi Ngô Tất Tố mất, đã có nhiều bài báo giới thiệu về Ngô Tất Tố với niềm tiếc thương và kính trọng tài năng, đức độ của ông; tuy nhiên, trong những bài báo đó đó chỉ gần như không đề cập đến sự nghiệp báo chí của Ngô Tất Tố. Năm 1959, trong cuốn “Những nhà văn tiền chiến 1930 1945”, tác giả Thế Phong đã cho rằng, Ngô Tất Tố “là nhà văn, nhà báo của bình cũ rượu mới, có lối văn sáng sủa, hấp dẫn, quan sát tận tường, với những rung cảm phong phú”. Năm 1962, Nguyễn Đức Đàn và Phan Cự Đệ đã báo cáo kết quả nghiên cứu chung về Ngô Tất Tố. Trong công trình này, các tác giả đi sâu nghiên cứu về loại văn “nói mà chơi” và nội dung tư tưởng, nghệ thuật viết báo của Ngô Tất Tố. Theo đó, loại văn trong chuyên mục “Nói mà chơi” do Ngô Tất Tố chủ trì được gọi là tiểu phẩm, là “những bài bình luận ngắn, gọn về xã hội,
- 5 chính trị, thời sự, văn nghệ, giáo dục…” và nhận xét “ngòi bút của Ngô Tất Tố luôn luôn biểu hiện một tinh thần chiến đấu sắc bén và mạnh mẽ”. Cũng trong năm 1962, trong bài “Ngô Tất Tố như tôi đã biết” trên tạp chí Văn nghệ, Nguyễn Đức Bính có nhận định, Ngô Tất Tố “ là nhà báo viết tạp văn, cái mà Âu Tây gọi là tiểu phẩm, thời bình, một loại văn trên có nhiều nhà văn có tài như Lỗ Tấn chẳng hạn đã xây dựng cả một sự nghiệp”; Ngô Tất Tố “có một lối viết mới, độc đáo nữa là khác, không chút gì nhắc lại lối văn biền ngẫu của các cụ đồ, giọng văn khi thì đậm đà, khi thì duyên dáng, nhưng đặc biệt là dí dỏm; câu văn sắc cạnh, trong sáng, ngắn gọn, chữ dùng thường mạnh dạn và ý nhị”. Năm 1973, trong cuốn “Lịch sử văn học Việt Nam”, Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận định, Ngô Tất Tố, là người đã phát huy được những yếu tố tích cực của Nho giáo và của các học thuyết cổ đại Trung Hoa nói chung; là người có tài năng nhiều mặt, có sức sáng tạo phong phú, bền bỉ. Ông có đầy đủ điều kiện cốt yếu về đức và tài để có thể trở thành một nhà báo, một nhà văn xuất sắc. Năm 1975, Nhà xuất bản Văn học phát hành bộ “Ngô Tất Tố tác phẩm” do của Phan Cự Đệ chủ biên. Sau những kết quả đã công bố năm 1962, đây là công trình tiếp tục giới thiệu toàn diện về sự nghiệp của Ngô Tất Tố. Về lĩnh vực báo chí, lần đầu tiên Phan Cự Đệ công bố 110 bài báo của Ngô Tất Tố được viết trong khoảng thời gian 1929 1943. Năm 1983, trong bài “Đặc sắc trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố” trên tạp chí Văn học, Lê Thị Đức Hạnh cho rằng, những tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố “rất giàu tính nghệ thuật, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý trí và hình tượng, thông qua những sự kiện, những tài liệu cụ thể, tạo nên một sức thuyết phục mạnh”. Lối viết báo của Ngô Tất Tố giản dị, tự nhiên; sử dụng nhiều hình ảnh sinh động, cụ thể, châm biếm, song vẫn giữ vững tính nghiêm túc và tính chiến đấu mạnh mẽ.
- 6 Năm 1993, Hội Nhà báo Việt Nam và Viện Văn học đã tổ chức Hội thảo khoa học nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Ngô Tất Tố với sự tham gia của nhiều nhà văn, nhà báo. Các tham luận tại Hội thảo đã khẳng định tầm vóc của Ngô Tất Tố, một nhà văn, nhà báo lớn của thế kỷ XX. Phan Quang, lúc đó là Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam đã nhận định: “nói đến sự nghiệp báo chí Ngô Tất Tố, không ít người nghĩ ngay đến tiểu phẩm của ông… Đó là những áng văn xuất sắc còn lại mãi với thời gian ”. Theo Phan Quang, phong cách viết báo của Ngô Tất Tố luôn mới mẻ về văn phong, về cách vào đề, dẫn dắt sự việc cho đến cách kết thúc vấn đề. Trong bài “Tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố”, tác giả Trương Chính cho rằng, Ngô Tất Tố đã luôn cố gắng để thay đổi từ văn phong của các nhà Nho thường chuộng văn biền ngẫu, sang lối văn mới “ ngắn, sắc, xoay chuyển nhanh, câu thường đặt theo lối phá cách. Đó là văn phong của báo chí phương Tây…”. Ngô Tất Tố không lạm dụng từ Hán Việt mà sử dụng rất nhuần nhuyễn; sử dụng nhiều điển cố nhưng đúng chỗ, đúng lúc; ông viết như nói, không trau chuốt; đả kích, châm biếm không phải cho sướng miệng, mà là để tố cáo, vạch trần một cách nghiêm chỉnh. Trong chuyên đề “Ngô Tất Tố một chân dung lớn, một sự nghiệp lớn”, Phong Lê đã nhận định, Ngô Tất Tố là một chân dung lớn và tiêu biểu, là người thúc đẩy cho cả hai nhu cầu cách mạng và canh tân, người đáp ứng cả hai phương diện nội dung và hình thức của văn chương theo hướng cách mạng và hiện đại. Phong Lê khái quát, những tri thức sâu sắc về văn hóa dân tộc và văn hóa phương Đông cổ truyền là những nhân tố cơ bản tạo nên cốt cách riêng của Ngô Tất Tố. Năm 1998, trong chuyên đề “Tiểu phẩm văn học và báo chí của Ngô Tất Tố”, Hà Minh Đức gọi những tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố là “tiểu phẩm văn học và báo chí”. Đó là những tác phẩm khai thác những chuyện có thật, những con người có địa chỉ rõ ràng… nhưng không phải để ca ngợi mà là
- 7 đấu tranh, “cho công bằng xã hội, cho quyền sống của con người. Phẩm chất ấy thể trong các bài viết tạo nên linh hồn và dũng khí của ngòi bút”. Năm 2000, trong cuốn “Tiểu phẩm báo chí Hồ Chí Minh”, tác giả Tạ Ngọc Tấn đã đưa ra một số nhận định: Những năm 30 của thế kỷ trước, khi mà báo chí công khai phát triển rầm rộ thì tiểu phẩm đã khẳng định vai trò vị trí của mình là một thể loại báo chí có uy lực, “tác giả tiểu phẩm để lại dấu ấn đặc biệt sâu đậm trên mặt báo trong nước là Ngô Tất Tố”. Theo Tạ Ngọc Tấn, dấu ấn đặc biệt ở những tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố chính là sự kết hợp giữa những phương pháp thể hiện của báo chí và thủ pháp nghệ thuật của văn học, giữa ngôn ngữ thông tin chính luận với ngôn ngữ hình tượng nghệ thuật; có sự kết hợp rất linh hoạt giữa các yếu tố của chính luận, tự sự, thông tin và nghệ thuật truyền thống. Năm 2004, Hội đồng Khoa học và Công nghệ thành phố Hà Nội đã nghiệm thu Đề tài khoa học “Di sản báo chí Ngô Tất Tố ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp phát triển báo chí Thủ đô” do Phan Cự Đệ chủ nhiệm. Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên có quy mô lớn, thực hiện trên cơ sở khảo sát 1.350 tác phẩm đăng báo, phần lớn mới xác định được là của Ngô Tất Tố.
- 8 Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TẢN VĂN VÀ PHONG CÁCH TẢN VĂN BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ 1.1. Giới thuyết về tản văn 1.1.1. Lý luận về tản văn Theo “Từ điển tiếng Việt”, tản văn có hai ý nghĩa, thứ nhất đó là cách phân biệt giữa văn xuôi và văn vần theo cách phân loại của văn học cổ; thứ hai là cách xác định một thể loại tác phẩm văn học ngoài thể truyện, thơ và kịch. Người Pháp gọi tản văn là “feuilleton”, từ này có nguồn gốc từ tiếng Latinh có nghĩa là bài văn nhỏ. Theo nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, tản văn có nhiều dạng thức phong phú với những tên gọi cụ thể khác nhau, như: tạp văn, tạp cảm, tiểu phẩm, đặc tả, đoản văn, thời đàm, phiếm luận, nhàn đàm… Về cơ bản, đó là những bài văn ngắn có đề tài, lập ý, kết cấu, bố cục, cách thể hiện… tự do, qua đó thể hiện được mục đích, ý nghĩa, tình cảm của người viết. 1.1.2. Lý luận về tản văn báo chí Theo “Thuật ngữ báo chí truyền thông”, tản văn là văn xuôi nghệ thuật nói chung, bao gồm nhiều thể: tạp văn, tùy bút, tiểu phẩm, tiểu luận; hay gồm thể được định danh khá ngẫu hứng, như: nhàn đàm, phiếm đàm, thời đàm, tạp trở, đoản văn.. Theo Phạm Thành Hưng, tác giả cuốn “Thuật ngữ báo chí truyền thông”, thuật ngữ tản văn sẽ trở nên đặc dụng và đơn giản hơn khi người làm báo “không ý thức được”, hoặc “không quan tâm” tới tác phẩm của mình được viết theo thể loại nào, bởi đó là thể loại báo chí tự do, ngẫu hứng theo những đặc trưng riêng về loại hình. Các nhà nghiên cứu không đưa ra đánh giá về sự khác nhau giữa tản văn văn học và tản văn báo chí. Tản văn báo chí là thể văn trữ tình nhưng phát triển mạnh nhờ báo chí.
- 9 Trên thực tế, hai khái niệm này không có sự khác nhau. Có chăng là các cách gọi tên khác nhau của các nhà nghiên cứu mà thôi. Từ quan điểm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, tác giả luận án cho rằng: Tản văn báo chí là một thể loại tác phẩm báo chí đặc thù. Tản văn báo chí cơ bản thể hiện những đặc trưng chủ yếu của tản văn. Tản văn báo chí thuộc nhóm chính luận nghệ thuật với kết cấu ngắn gọn và linh hoạt, có nội dung phê phán, đả kích sâu cay bằng tư duy lý tính về những mặt trái trong cuộc sống đương đại mang hơi thở thời sự dưới một thủ pháp uyển chuyển và hình tượng rất gần với văn học. Đặc điểm phổ quát của tản văn báo chí là sự hiện diện trực tiếp của cái tôi tác giả, là sự ưu tiên quan điểm, cách cảm, cách nhìn của thông tin lý lẽ trước thông tin sự kiện, là sự linh hoạt, phóng túng trong cách hành văn, trong tổ chức hình ảnh, liên hội các chi tiết. 1.2. Lý luận về phong cách và phong cách báo chí 1.2.1. Quan điểm về phong cách của phương Tây và Trung Quốc Người HiLa đã dùng chữ stylos (Hi Lạp), stylus (La Mã) để chỉ dụng cụ viết, về sau người Pháp thay đổi dùng chữ style để chỉ nét chữ, rồi chỉ đặc điểm về mặt hình thức như ngôn ngữ và văn thể của tác phẩm văn học. Viện sỹ M.B. Khrapchenkô (Liên Xô) trong cuốn “Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học” đã cho rằng: “Phong cách được hiểu như những thủ pháp biểu hiện, cách khai thác hình tượng đối với cuộc sống , như thủ pháp thuyết phục và thu hút độc giả”. Theo tác giả Lưu Hiệp (Trung Quốc) trong cuốn “Văn tâm điêu long” cái quan trọng của phong cách của mỗi tác giả là cá tính sáng tạo, cá tính sáng tạo khác nhau thì dẫn đến phong cách khác nhau; Lỗ Tấn, nhà tạp văn nổi tiếng Trung Quốc thì cho rằng, phong cách một mặt là nơi hội tụ, biểu hiện cá tính sáng tạo của nhà văn.
- 10 1.2.2. Quan điểm về phong cách ở Việt Nam Ở Việt Nam, thuật ngữ phong cách trong báo chí, văn học đã xuất hiện từ đầu thế kỷ XX với ý nghĩa là “lối văn”, “giọng văn”, “bút pháp”… Trong công trình nghiên cứu “Dẫn luận phong cách học”, Nguyễn Thái Hòa đã định nghĩa: “Phong cách là những đặc trưng trong hoạt động lời nói được lặp đi lặp lại ở một người nào đó, ở một môi trường ngôn ngữ hay một cộng đồng, có khả năng khu biệt với những kiểu biểu đạt ngôn ngữ khác”. Theo đó, nhà báo nổi tiếng và thành công nhờ tạo cho mình một phong cách viết riêng. Mặc dù bản chất của báo chí là sự thật, thông tin sự thật nhưng việc tạo nên một cách viết, một giọng văn ấn tượng cũng là một điều hết sức cần thiết. Từ quan điểm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, tác giả luận án cho rằng: Phong cách là nét độc đáo gắn liền với con người nhà báo, có thể nhận diện từ toàn bộ sáng tác của họ thông qua các yếu tố nội dung, hình thức, ngôn ngữ của tác phẩm và không phải nhà báo nào cũng có phong cách. Chỉ những nhà báo có tài năng nghệ thuật, có bản lĩnh, biết sử dụng các phương tiện hình thức trong một thể thống nhất theo một kiểu riêng để thể hiện đạt hiệu quả điều mình muốn nói mới tạo ra phong cách riêng. 1.3. Một số nhân tố chi phối, ảnh hưởng tới phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố 1.3.1. Những nhân tố chủ quan Ngô Tất Tố sinh năm 1894 trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay là xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội. Dưới thời Pháp thuộc làng quê của Ngô Tất Tố tồn tại nhiều hủ tục nặng nề. Sau này, tuy Ngô Tất Tố rời quê ra Hà Nội viết báo, viết văn nhưng ông thường xuyên trở về quê. Chính việc gần gũi với làng quê như vậy đã giúp cho Ngô Tất Tố có dịp tìm hiểu rất nhiều phong tục, tập
- 11 quán, văn hóa làng quê, đồng thời thấy rõ sự bóc lột đè nén của thực dân, phong kiến, địa chủ, cường hào đối với người nông dân cũng như những hủ tục sau những lũy tre làng. Ngô Tất Tố là người có lòng yêu nước thiết tha . Trong thời kỳ Mặt trận dân chủ, Ngô Tất Tố đã tiếp thu ảnh hưởng của cách mạng, đứng trên lập trường dân chủ, tố cáo áp bức bóc lột của bọn thực dân, phong kiến và tha thiết đòi cải thiện đời sống cho nhân dân lao động. Tố chất của một nhà văn, nhà Nho viết báo đã tạo cho Ngô Tất Tố phong cách tiếp cận hiện thực ở những góc nhìn khác nhau, từ đó có cách lý giải, đánh giá vấn đề theo quan điểm tiến bộ. Điều này tạo nên một Ngô Tất Tố nhà văn nhà Nho nhà báo không thể trộn lẫn với các nhà văn, nhà báo là trí thức Tây học cùng thời. Ngô Tất Tố đã cộng tác và viết bài cho 27 tờ báo, tạp chí, sáng tạo hơn 1.350 tác phẩm báo chí với nhiều bút danh khác nhau đã được xác định là của Ngô Tất Tố. Số lượng tác phẩm báo chí đồ sộ ấy được chưng cất từ quá trình trải nghiệm hoạt động báo chí đầy nhiệt huyết, nên người đọc dễ dàng cảm nhận được phong cách sáng tạo rất riêng biệt của Ngô Tất Tố qua những tản văn của ông. 1.3.2. Những nhân tố khách quan Ngô Tất Tố bước chân vào làng báo trong bối cảnh Chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc. Hậu quả để lại đối với tất cả các nước tham chiến, trong đó có nước Pháp bị thiệt hại nặng nề về người và của với hàng chục triệu người chết, hàng trăm tỷ đôla bị ngốn vào chi phí chiến tranh [119]. Bối cảnh đó cùng với thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga… đã mở ra một cục diện thế giới mới với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản, phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc.
- 12 Sự ra đời của các đảng cộng sản Pháp, Trung Quốc và các nước trên thế giới vừa là nguồn cổ vũ động viên các chiến sĩ cộng sản Việt Nam, vừa tạo ra những thuận lợi cho sự du nhập chủ nghĩa Mác Lênin và những tư tưởng tiến bộ vào Việt Nam. Từng bước, phong trào cách mạng Việt Nam hội nhập và trở thành một bộ phận không thể tách rời của phong trào cộng sản thế giới dưới sự lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản. Đây cũng là thời kỳ phong trào đấu tranh yêu nước và cách mạng của nhân dân ta diễn ra sôi nổi, dưới nhiều hình thức khác nhau và in đậm dấu ấn của những giai cấp, những tầng lớp xã hội tiến hành những cuộc đấu tranh đó. Cũng trong giai đoạn này, phải kể đến những hoạt động xuất sắc và công lao to lớn của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp, tại Liên Xô cũng như tại các nước láng giềng: Trung Quốc, Lào, Miên, Xiêm... Người tiếp cận chủ nghĩa Mác Lênin, lý luận cách mạng tiên tiến truyền bá về Việt Nam và chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức cho việc thành lập một đảng cộng sản chân chính ở Việt Nam cũng như đưa phong trào cách mạng Việt Nam hội nhập và trở thành một bộ phận không thể tách rời của phong trào cộng sản thế giới, dưới sự lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản. Trong thời kỳ này, báo chí có sự thay đổi rõ rệt về nội dung và hình thức. Sự phát triển của chữ quốc ngữ là một tiền đề rất quan trọng cho sự phát triển của văn hóa, xã hội. Việc giao lưu, học hỏi với phương Tây cùng với sự phát triển của đô thị đã đem lại một luồng không khí mới cho văn chương, học thuật, sự thay đổi rõ rệt về báo chí, sinh hoạt văn học cũng như công chúng. Đây cũng là một giai đoạn sôi động trong lịch sử báo chí và văn học Việt Nam với những cách tân về thể loại, ngôn ngữ, hình thức và quan niệm về sáng tác. Từ những tác phẩm báo chí, văn học còn in đậm dấu ấn của phong cách cổ, tính quy phạm và ước lệ trong phương thức biểu hiện, những tác phẩm báo chí và văn chương đã chuyển nhanh vào thời kỳ hiện đại
- 13 với sự đóng góp của đông đảo các cây bút với nhiều khuynh hướng sáng tác khác nhau. Tiểu kết Chương 1 Trong Chương 1, luận án đã phân tích, làm rõ một số nội dung sau đây: (1) Tản văn là văn xuôi nghệ thuật nói chung, bao gồm nhiều thể: tạp văn, tùy bút, tiểu phẩm... và các tiểu thể loại được định danh khá phong phú, đa dạng, như: nhàn đàm, phiếm đàm, thời đàm, tạp trở... Tản văn báo chí là thể loại báo chí thuộc nhóm chính luận nghệ thuật, có kết cấu ngắn gọn, dung lượng nhỏ, tự do, có thủ pháp đa dạng, linh hoạt. Đặc trưng loại hình của tản văn báo chí là sự hiện diện trực tiếp của cái tôi tác giả; là sự ưu tiên quan điểm, cách cảm, cách nhìn trước thông tin sự kiện; là sự linh hoạt, phóng túng trong cách hành văn, trong tổ chức thông tin, liên kết các chi tiết. (2) Phong cách là nét độc đáo gắn liền với con người nhà báo, có thể nhận diện từ toàn bộ sáng tác của họ thông qua các yếu tố nội dung, hình thức, ngôn ngữ của tác phẩm và không phải nhà báo nào cũng có phong cách. (3) Một số nhân tố có tính chi phối tới việc hình thành phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố như: truyền thống văn hóa quê hương và gia đình tinh thần yêu nước, tư tưởng tiến bộ và sự nỗ lực, cố gắng để thích ứng với thời cuộc; bối cảnh chính trị, xã hội và báo chí trong nửa đầu thế kỷ XX. Chương 2. PHONG CÁCH TẢN VĂN BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ QUA BÌNH DIỆN NỘI DUNG TÁC PHẨM 2.1. Đề tài trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố 2.1.1. Đề tài chính trị Những năm đầu thập niên 1930, Ngô Tất Tố dùng ngòi bút của mình để viết nhiều các vấn đề liên quan đến nghị trường, như bầu cử nghị viện, bầu
- 14 viện trưởng Viện dân biểu…; đấu tranh với những thủ đoạn của chính quyền thực dân và bọn tay sai với những vấn đề “bảo hộ” và “trực trị”; truyền bá mê tín dị đoan; bảo tồn quốc túy; phong trào Âu hóa, “vui vẻ trẻ trung”… Những năm 1936 1939, nhờ ảnh hưởng của phong trào quần chúng thời Mặt trận dân chủ, Ngô Tất Tố đề cập trực tiếp đến những sự kiện chính trị quan trọng trong nước và thế giới, như: phong trào Đông Dương đại hội; phong trào Mặt trận Dân chủ của báo giới đòi tự do ngôn luận, tự do hội họp; những cuộc đình công khổng lồ của “lao động Đông Dương”; những cuộc biểu tình của nông dân Thanh Hóa; những cuộc nổi dậy phá kho thóc địa chủ của nông dân Bạc Liêu… 2.1.2. Đề tài văn hóa, xã hội Hầu hết các tản văn báo chí của Ngô Tất Tố có đề tài về các vấn đề văn hóa, xã hội. Đó là những vấn đề liên quan đến bản chất của những kẻ danh trí thức, thầy lang, bọn bồi bút, tay sai của chế độ thực dân; về những vấn đề liên quan đến đạo đức xã hội, luân thường đạo lý, gia phong, gia pháp; về vai trò của người phụ nữ trong gia đình, phẩm hạnh, tiết nghĩa trong quan hệ vợ chồng… về những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, vạch mặt bọn lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng để trục lợi; đả kích những thói hư tật xấu trong đời sống xã hội. 2.1.3. Đề tài quốc tế Ngay khi bắt đầu bước chân vào làng báo và hoạt động báo chí chuyên nghiệp, ngòi bút của Ngô Tất Tố luôn bám sát và phản ánh kịp thời tình hình thời sự quốc tế, những sự kiện lớn trên thế giới như: tình hình Trung Quốc sau chiến tranh “nha phiến”; tình hình cách mạng ở Đài Loan; tình hình quân sự của Nhật Bản vào năm 1927; tình hình Xiêm La và mối quan hệ giữa Xiêm La với Trung Quốc; tình hình Hồi giáo, Gia Tô giáo và Do Thái giáo ở Palestine, nơi phát nguyên của đạo Hồi và đạo Gia Tô…
- 15 2.2. Chi tiết trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố Với nguồn tin phong phú, nhưng điểm quan trọng tạo nên phong cách riêng của Ngô Tất Tố thể hiện qua những tản văn báo chí của ông chính là ở chỗ ông khai thác, lựa chọn và sử dụng được rất nhiều chi tiết. Những chi tiết đó có thể tựu chung lại theo ba nhóm chính: Nhóm chi tiết về nhân vật: những nhân vật trong tản văn báo chí của ông thường được phản ánh ở những mặt tiêu cực, chính vì vậy từ ngoại hình, diện mạo đến tính cách được miêu tả với những chi tiết cũng rất tiêu cực với ngôn ngữ châm biếm, đả kích. Nhóm chi tiết về sự kiện: Những sự kiện là linh hồn được thể hiện tản văn báo chí của Ngô Tất Tố, là những yếu tố quan trọng được miêu tả chi tiết nhằm thu hút sự quan tâm của người đọc. Do vậy, sự kiện nào cũng được Ngô Tất Tố phản ánh với những chi tiết sống động nhất, đầy đủ nhất, phù hợp với mục đích, yêu cầu của nội dung tác phẩm. Nhóm chi tiết về sự việc: sự việc hướng người đọc quan tâm tới bản chất của sự kiện, hiện tượng bằng cách miêu tả, phân tích, diễn giả, trong đó có những chi tiết mang tính chất cụ thể và thực chứng. Do vậy, Ngô Tất Tố đã khai thác có hiệu quả những chi tiết rất cụ thể có tính chất minh họa và làm rõ bản chất của sự việc, hiện tượng được phản ánh. 2.3. Những nhân vật trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố Toàn bộ tản văn báo chí của Ngô Tất Tố làm thành một bức tranh rộng lớn và chân thực về xã hội thực dân phong kiến Việt Nam trước cách mạng tháng Tám với những biếm họa sinh động, sâu sắc về rất nhiều nhân vật trong xã hội. Có thể khu biệt các nhân vật đó theo ba nhóm: Những “ông Tây” thực dân: từ các quan thống sứ, toàn quyền, bộ trưởng thuộc địa… đến những ông Tây “nhà đoan”, anh lính lê dương mạt hạng…
- 16 Những nhân vật trong chính quyền tay sai, bộ máy phong kiến: đó là những vị “dân biểu”, “cụ thượng”, “ông phó Quỳnh”, “chú Khán ngốc”… Những nhân vật của bình dân trong xã hội: cô Tây Hoét, cụ lang bần, những anh “nho” phủ huyện, những người lao động bình dị và nghèo khổ ở làng quê hoặc nơi phố phường… 2.4. Dự báo và hướng nhận thức trong tản văn của báo chí Ngô Tất Tố 2.4.1. Dự báo về những vấn đề chính trị Ngô Tất Tố đã dành một số lượng đáng kể những tản văn báo chí của mình để lên án, vạch trần nạn tham ô, hối lộ, nhũng nhiễu của các tầng lớp quan lại trong chính quyền thực dân trước Cách mạng tháng Tám; đồng thời ông cũng đề ra một số giải pháp nhằm cần thực hiện với mong muốn làm cho xã hội tốt đẹp hơn. 2.4.2. Dự báo về những vấn đề xã hội Trong những tản văn báo chí của mình, Ngô Tất Tố đã có những đề xuất, dự báo về các vấn đề văn hóa, giáo dục và y tế; trong đó có việc đi sâu phân tích những giá trị, những nét đẹp về truyền thống văn hóa của dân tộc như các lễ hội, các nghi thức tín ngưỡng, các sinh hoạt văn hóa của nhiều vùng miền… Tiểu kết Chương 2 Trong Chương 2, luận án đã đi sâu phân tích và làm rõ, các nội dung: 1. Đề tài tản văn báo chí của Ngô Tất Tố có thể tập trung theo 3 nhóm: chính trị, xã hội và quốc tế. Ngoài ra, Ngô Tất Tố còn có một số đề tài khác như luận bàn về nghiệp vụ báo chí, văn chương, về đạo đức và phẩm chất của người làm báo… 2. Toàn bộ tản văn báo chí của Ngô Tất Tố làm thành một bức tranh rộng lớn và chân thực về xã hội thực dân phong kiến Việt Nam trước cách mạng tháng Tám với những chi tiết biếm họa sinh động, sâu sắc, đề cập đến
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 312 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 190 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030
27 p | 212 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 280 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 272 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 156 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 224 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 183 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 62 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 151 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 209 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 185 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 137 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 22 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 124 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 9 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 29 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn