intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt luận án Tiến sĩ Báo chí học: Phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố

Chia sẻ: Vinh Le | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:29

53
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở hệ thống hóa và phát triển lý thuyết về tản văn báo chí và phong cách tản văn báo chí, luận án đi sâu phân tích để có thể nhận diện được phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố thể hiện qua nội dung, hình thức kết cấu và ngôn ngữ; đánh giá được ý nghĩa của vấn đề này trong lịch sử báo chí Việt Nam; rút ra một số bài học đối với hoạt động nghề báo. Mời các bạn cùng tham khảo luận án để nắm chi tiết nội dung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt luận án Tiến sĩ Báo chí học: Phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN NGUYỄN BÙI KHIÊM  PHONG CÁCH  TẢN VĂN BÁO CHÍ  CỦA NGÔ TẤT TỐ Ngành:  Báo chí học Mã số:  9.32.01.01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC
  2. HÀ NỘI ­ 2019
  3. Công trình được hoàn thành tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền Người hướng dẫn khoa học:  GS.TS Tạ Ngọc Tấn Công trình được hoàn thành tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền Công trình được hoàn thành tại: Học viện Báo chí và Tuyên truyền Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Tạ Ngọc Tấn Chủ tịch Hội đồng:                                      Phản biện 1:                        Phản biện 2:                        Phản biện 3:                         Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện  họp tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền vào hồi …. giờ …. ngày …. tháng ….. năm 2019 Có thể tìm hiểu luận án tại: 
  4. ­ Thư viện Quốc gia, Hà Nội ­ Trung tâm Thông tin ­ Thư viện, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
  5. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngô Tất Tố  là một trong những nhà văn, nhà báo xuất sắc từ  trước  Cách mạng tháng Tám. Thân thế và sự  nghiệp sáng tác của ông đã thu hút sự  chú ý của nhiều đồng nghiệp, nhà nghiên cứu, phê bình và các thế  hệ  học   viên, sinh viên. Với khoảng 400 công trình, có thể  nói, việc nghiên cứu về  Ngô Tất Tố khá đồ  sộ. Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu đều về  lĩnh vực văn học, riêng các nghiên cứu về sự nghiệp báo chí của ông còn khá  khiêm tốn và vẫn còn những khoảng trống nhất định, như: (1) Vấn đề  thể  loại tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố còn nhiều cách gọi khác nhau như bút   chiến, tiểu phẩm, tạp văn, tản văn; (2) Vấn đề  phong cách của Ngô Tất Tố  trong lao động sáng tạo; (3) Từ trước đến nay, phần lớn các công trình nghiên  cứu về  sự  nghiệp báo chí của Ngô Tất Tố  đều trên dựa cơ  sở  khảo sát hơn   100 tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố  được công bố  từ  năm 1975. Từ  năm  2005 đến 2011, các nhà nghiên cứu đã công bố khoảng 13 50 tác phẩm báo chí  được xác định là của Ngô Tất Tố. Từ  thực tế  đó cho thấy, việc tổ  chức   nghiên cứu dựa trên cơ sở khảo sát tổng thể di sản báo chí của Ngô Tất Tố là  cần thiết. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu  Trên cơ  sở  hệ  thống hóa và phát triển lý thuyết về  tản văn báo chí và   phong cách tản văn báo chí, luận án đi sâu phân tích để có thể nhận diện được  phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố thể hiện qua nội dung, hình thức  kết cấu và ngôn ngữ; đánh giá được ý nghĩa của vấn đề này trong lịch sử báo  chí Việt Nam; rút ra một số bài học đối với hoạt động nghề báo. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu   Để  đạt được mục đích nghiên cứu, luận án thực hiện các nhiệm vụ:  xác lập cơ sở lý thuyết về đối tượng nghiên cứu; nhận diện các đặc trưng về 
  6. 2 phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố  thể  hiện qua các bình diện như  nội dung, hình thức và ngôn ngữ; đánh giá ý nghĩa lịch sử của tản văn báo chí   của Ngô Tất Tố và bài học đối với người làm báo hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ­ Đối tượng nghiên cứu của luận án là phong cách tản văn báo chí của  Ngô Tất Tố  được thể  hiện thông qua các tư  liệu, tài liệu liên quan đến sự  nghiệp của Ngô Tất Tố  nói chung và các tác phẩm tản văn báo chí của ông  nói riêng. ­ Phạm vi nghiên cứu của luận án là khảo sát những tác phẩm tản văn báo  chí của Ngô Tất Tố đã được in trong:  “Tổng tập tản văn Ngô Tất Tố”; “Ngô   Tất Tố tiểu phẩm báo chí”; “Ngô Tất Tố tác phẩm”… và một số tác phẩm báo  chí của Ngô Tất Tố đăng báo trước năm 1945 có thể tiếp cận được từ các nguồn  khác. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu  4.1. Cơ sở lý luận  ­ Luận án được xây dựng trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa  Mác ­ Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí; vận dụng lý luận báo chí, lý   luận văn học; một số  kết quả  nghiên cứu về  lịch sử  báo chí; thể  loại tác   phẩm báo chí; hoạt động sáng tạo báo chí. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận của luận án được dựa trên nền tảng của hệ thống lý  luận về  báo chí học. Đồng thời luận án cũng sử  dụng các phương pháp cụ  thể  như: phương pháp nghiên cứu lịch sử; phân tích và tổng hợp, thống kê,  phân loại văn bản học và khái quát hóa để  phân tích, đánh giá về  phong cách  tản văn báo chí của Ngô Tất Tố. 5. Giả thuyết nghiên cứu
  7. 3 5.1.  Những tìm tòi thể  nghiệm về  tản văn báo chí là những đóng góp   của Ngô Tất Tố trong tiến trình vận động và phát triển của báo chí Việt Nam. 5.2. Là một nhà cựu học, làm báo trong bối cảnh giao thời Đông ­ Tây  với những biến động chính trị  xã hội trước Cách mạng tháng Tám…  đó  là  những nhân tố hình thành phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố. 5.3. Phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố có ý nghĩa trong lịch sử  báo chí Việt Nam và những bài học đối với lao động nghề báo hiện nay. 6. Đóng góp mới của luận án Luận án nhấn mạnh một số phương pháp mới về lý luận như: ­ Giới thuyết về tản văn báo chí, một số đặc trưng về thể loại; các yếu  tố chi phối, ảnh hưởng đến phong cách tác giả và tác phẩm tản văn báo chí. ­ Nhận diện về phong cách của Ngô Tất Tố qua các bình diện nội dung,  hình thức và ngôn ngữ.  ­ Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cần   thiết cho việc giảng dạy, nghiên cứu và lao động nghề báo. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở  đầu, Tổng quan nghiên cứu, Kết luận, Tài liệu tham  khảo và Phụ lục, luận án được kết cấu gồm có 5 chương: Chương 1. Lý luận   chung về  phong cách tản văn báo chí; Chương 2. Phong cách tản văn báo chí  của Ngô Tất Tố qua bình diện nội dung tác phẩm; Chương 3. Phong cách tản  văn báo chí của Ngô Tất Tố  qua bình diện hình thức và kết cấu tác phẩm;  Chương 4. Phong cách ngôn ngữ tản văn báo chí của Ngô Tất Tố; Chương 5.  Phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố  ­ ý nghĩa lịch sử  báo chí và bài  học nghề báo.
  8. 4 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Theo tổng hợp chưa đầy đủ, đến nay đã có khoảng 400 công trình nghiên  cứu về Ngô Tất Tố nhưng hầu hết là nghiên cứu về sự nghiệp văn học của ông.  Năm 1939, trong một số  bài báo giới thiệu tác phẩm “Tắt đèn” đã có  những nhận xét đầu tiên về  phong cách làm báo của Ngô Tất Tố. Trên báo  Thời vụ, ngày 31/01/1939, Vũ Trọng Phụng giới thiệu: “Ngô Tất Tố  là một   nhà báo về  phái nho học và là một tay ngôn luận xuất sắc trong đám nhà   Nho”; trên báo Mới, số ra ngày 15/6/1939, Trần Minh Tước cũng cho rằng, ở  Ngô Tất Tố  là một nhà Nho, nhưng ông đã “vượt khỏi cả  thế  hệ  của mình.   Người môn đồ  của Khổng Mạnh này đã thở  hít cái không khí xã hội của K.   Marx như  tất cả  những thiếu niên văn sĩ  ở  hàng tranh đấu”; Vũ Ngọc Phan  trong Nhà văn hiện đại đã nhận xét, Ngô Tất Tố là tay kỳ cựu trong làng văn,  làng báo: “… vào số  những nhà Hán học đã chịu ảnh hưởng văn học Âu Tây   và được người ta kể vào hạng nhà Nho có óc phê bình, có trí xét đoán, có tư   tưởng mới”, đọc văn của ông “người ta có cái cảm tưởng như đọc những câu   văn dịch ở tiếng Pháp”. Năm 1954, sau khi Ngô Tất Tố  mất, đã có nhiều bài báo giới thiệu về  Ngô Tất Tố với niềm tiếc thương và kính trọng tài năng, đức độ của ông; tuy  nhiên, trong những bài báo đó đó chỉ  gần như  không đề  cập đến sự  nghiệp   báo chí của Ngô Tất Tố.  Năm 1959, trong cuốn “Những nhà văn tiền chiến  1930 ­ 1945”, tác giả  Thế  Phong đã cho rằng, Ngô Tất Tố  “là nhà văn, nhà  báo của bình cũ rượu mới, có lối văn sáng sủa, hấp dẫn, quan sát tận tường,   với những rung cảm phong phú”.   Năm 1962, Nguyễn Đức Đàn và Phan Cự Đệ đã báo cáo kết quả nghiên   cứu chung về Ngô Tất Tố. Trong công trình này, các tác giả đi sâu nghiên cứu  về loại văn “nói mà chơi” và nội dung tư tưởng, nghệ thuật viết báo của Ngô  Tất Tố. Theo đó, loại văn trong chuyên mục “Nói mà chơi” do Ngô Tất Tố  chủ trì được gọi là tiểu phẩm, là “những bài bình luận ngắn, gọn về xã hội,  
  9. 5 chính trị, thời sự, văn nghệ, giáo dục…” và nhận xét “ngòi bút của Ngô Tất   Tố luôn luôn biểu hiện một tinh thần chiến đấu sắc bén và mạnh mẽ”. Cũng trong năm 1962, trong bài “Ngô Tất Tố  như  tôi đã biết” trên tạp  chí Văn nghệ, Nguyễn Đức Bính có nhận định, Ngô Tất Tố “ là nhà báo viết   tạp văn, cái mà Âu Tây gọi là tiểu phẩm, thời bình, một loại văn trên có nhiều   nhà văn có tài như Lỗ Tấn chẳng hạn đã xây dựng cả  một sự  nghiệp”;  Ngô  Tất Tố “có một lối viết mới, độc đáo nữa là khác, không chút gì nhắc lại lối văn   biền ngẫu của các cụ đồ, giọng văn khi thì đậm đà, khi thì duyên dáng, nhưng   đặc biệt là dí dỏm; câu văn sắc cạnh, trong sáng, ngắn gọn, chữ dùng thường   mạnh dạn và ý nhị”. Năm   1973,   trong   cuốn   “Lịch   sử   văn   học   Việt   Nam”,   Nguyễn   Đăng  Mạnh đã nhận định, Ngô Tất Tố, là người đã phát huy được những yếu tố  tích cực của Nho giáo và của các học thuyết cổ đại Trung Hoa nói chung; là  người có tài năng nhiều mặt, có sức sáng tạo phong phú, bền bỉ. Ông có đầy  đủ điều kiện cốt yếu về đức và tài để có thể trở thành một nhà báo, một nhà   văn xuất sắc. Năm 1975, Nhà xuất bản Văn học phát hành bộ  “Ngô Tất Tố  ­ tác  phẩm” do của Phan Cự  Đệ  chủ  biên. Sau những kết quả  đã công bố  năm   1962, đây là công trình tiếp tục giới thiệu toàn diện về  sự  nghiệp của Ngô  Tất Tố. Về  lĩnh vực báo chí, lần đầu tiên Phan Cự  Đệ  công bố  110 bài báo  của Ngô Tất Tố được viết trong khoảng thời gian 1929 ­ 1943.  Năm 1983, trong bài “Đặc sắc trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố” trên  tạp chí Văn học, Lê Thị  Đức Hạnh cho rằng, những tiểu phẩm báo chí của  Ngô Tất Tố “rất giàu tính nghệ thuật, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý trí   và hình tượng, thông qua những sự  kiện, những tài liệu cụ  thể, tạo nên một   sức thuyết phục mạnh”. Lối viết báo của Ngô Tất Tố  giản dị, tự  nhiên; sử  dụng nhiều hình  ảnh sinh động, cụ  thể, châm biếm, song vẫn giữ  vững tính   nghiêm túc và tính chiến đấu mạnh mẽ. 
  10. 6 Năm 1993, Hội Nhà báo Việt Nam và Viện Văn học đã tổ chức Hội thảo   khoa học nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Ngô Tất Tố với sự tham gia của   nhiều nhà văn, nhà báo. Các tham luận tại Hội thảo đã khẳng định tầm vóc của   Ngô Tất Tố, một nhà văn, nhà báo lớn của thế kỷ XX. Phan Quang, lúc đó là Chủ  tịch Hội Nhà báo Việt Nam đã nhận định:   “nói đến sự  nghiệp báo chí Ngô Tất Tố, không ít người nghĩ ngay đến tiểu   phẩm của ông… Đó là những áng văn xuất sắc còn lại mãi với thời gian ”.  Theo Phan Quang, phong cách viết báo của Ngô Tất Tố luôn mới mẻ về văn  phong, về cách vào đề, dẫn dắt sự việc cho đến cách kết thúc vấn đề. Trong bài “Tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố”, tác giả Trương Chính   cho rằng, Ngô Tất Tố đã luôn cố gắng để thay đổi từ văn phong của các nhà  Nho thường chuộng văn biền ngẫu, sang lối văn mới “ ngắn, sắc, xoay chuyển   nhanh,   câu   thường   đặt   theo   lối   phá   cách.   Đó   là   văn   phong   của   báo   chí   phương Tây…”. Ngô Tất Tố không lạm dụng từ  Hán ­ Việt mà sử  dụng rất   nhuần nhuyễn; sử  dụng nhiều điển cố  nhưng đúng chỗ, đúng lúc; ông viết  như nói, không trau chuốt; đả kích, châm biếm không phải cho sướng miệng,   mà là để tố cáo, vạch trần một cách nghiêm chỉnh.  Trong chuyên đề “Ngô Tất Tố một chân dung lớn, một sự nghiệp lớn”,  Phong Lê đã nhận định, Ngô Tất Tố  là một chân dung lớn và tiêu biểu, là   người thúc đẩy cho cả hai nhu cầu cách mạng và canh tân, người đáp ứng cả  hai phương diện nội dung và hình thức của văn chương theo hướng cách   mạng và hiện đại.  Phong Lê khái quát, những tri thức sâu sắc về văn hóa dân  tộc và văn hóa phương Đông cổ  truyền là những nhân tố  cơ  bản tạo nên cốt   cách riêng của Ngô Tất Tố. Năm 1998, trong chuyên đề  “Tiểu phẩm văn học và báo chí của Ngô   Tất Tố”, Hà Minh Đức gọi những tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố là “tiểu   phẩm văn học và báo chí”. Đó là những tác phẩm khai thác những chuyện có   thật, những con người có địa chỉ rõ ràng… nhưng không phải để ca ngợi mà là 
  11. 7 đấu tranh, “cho công bằng xã hội, cho quyền sống của con người. Phẩm chất   ấy thể trong các bài viết tạo nên linh hồn và dũng khí của ngòi bút”.  Năm 2000, trong cuốn “Tiểu phẩm báo chí Hồ  Chí Minh”, tác giả  Tạ  Ngọc Tấn đã đưa ra một số nhận định: Những năm 30 của thế kỷ trước, khi   mà báo chí công khai phát triển rầm rộ thì tiểu phẩm đã khẳng định vai trò vị  trí của mình là một thể loại báo chí có uy lực, “tác giả tiểu phẩm để lại dấu   ấn đặc biệt sâu đậm trên mặt báo trong nước là Ngô Tất Tố”. Theo Tạ Ngọc  Tấn, dấu ấn đặc biệt ở những tác phẩm báo chí của Ngô Tất Tố chính là sự  kết hợp giữa những phương pháp thể  hiện của báo chí và thủ  pháp nghệ  thuật của văn học, giữa ngôn ngữ  thông tin chính luận với ngôn ngữ  hình  tượng nghệ thuật; có sự kết hợp rất linh hoạt giữa các yếu tố của chính luận,   tự sự, thông tin và nghệ thuật truyền thống. Năm 2004, Hội đồng Khoa học và Công nghệ  thành phố  Hà Nội đã  nghiệm thu Đề tài khoa học “Di sản báo chí Ngô Tất Tố ­ ý nghĩa lý luận và   thực tiễn đối với sự  nghiệp phát triển báo chí Thủ  đô” do Phan Cự  Đệ  chủ  nhiệm. Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên có quy mô lớn, thực hiện trên cơ  sở khảo sát 1.350 tác phẩm đăng báo, phần lớn mới xác định được là của Ngô  Tất Tố.
  12. 8 Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TẢN VĂN VÀ PHONG CÁCH TẢN  VĂN BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ 1.1. Giới thuyết về tản văn   1.1.1. Lý luận về tản văn  Theo “Từ điển tiếng Việt”, tản văn có hai ý nghĩa, thứ nhất đó là cách   phân biệt giữa văn xuôi và văn vần theo cách phân loại của văn học cổ; thứ  hai là cách xác định một thể  loại tác phẩm văn học ngoài thể  truyện, thơ  và   kịch.  Người Pháp gọi tản văn là “feuilleton”, từ  này có nguồn gốc từ  tiếng  Latinh có nghĩa là bài văn nhỏ. Theo nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, tản văn có nhiều dạng  thức phong phú với những tên gọi cụ  thể  khác nhau, như: tạp văn, tạp cảm,   tiểu phẩm, đặc tả, đoản văn, thời đàm, phiếm luận, nhàn đàm… Về  cơ  bản,  đó là những bài văn ngắn có đề tài, lập ý, kết cấu, bố cục, cách thể hiện… tự  do, qua đó thể hiện được mục đích, ý nghĩa, tình cảm của người viết. 1.1.2. Lý luận về tản văn báo chí  Theo “Thuật ngữ báo chí truyền thông”, tản văn là văn xuôi nghệ thuật  nói chung, bao gồm nhiều thể: tạp văn, tùy bút, tiểu phẩm, tiểu luận; hay   gồm thể  được định danh khá ngẫu hứng, như: nhàn đàm, phiếm đàm, thời  đàm, tạp trở, đoản văn.. Theo Phạm Thành Hưng, tác giả  cuốn  “Thuật ngữ  báo chí truyền thông”,  thuật ngữ  tản văn sẽ  trở  nên đặc dụng và đơn giản  hơn khi người làm báo “không ý thức được”, hoặc “không quan tâm” tới tác  phẩm của mình được viết theo thể loại nào, bởi đó là thể loại báo chí tự  do,   ngẫu hứng theo những  đặc trưng riêng về  loại hình. Các nhà nghiên cứu  không đưa ra đánh giá về  sự  khác nhau giữa tản văn văn học và tản văn báo  chí. Tản văn báo chí là thể  văn trữ  tình nhưng phát triển mạnh nhờ  báo chí. 
  13. 9 Trên thực tế, hai khái niệm này không có sự  khác nhau. Có chăng là các cách   gọi tên khác nhau của các nhà nghiên cứu mà thôi.  Từ quan điểm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, tác giả luận  án cho rằng: Tản văn báo chí là một thể  loại tác phẩm báo chí đặc thù. Tản  văn báo chí cơ  bản thể hiện những đặc trưng chủ  yếu của tản văn. Tản văn  báo chí thuộc nhóm chính luận nghệ thuật với kết  cấu ngắn gọn và linh hoạt,  có nội dung phê phán, đả  kích sâu cay bằng tư duy lý tính về những mặt trái   trong cuộc sống đương đại mang hơi thở  thời sự  dưới một thủ  pháp uyển   chuyển và hình tượng rất gần với văn học. Đặc điểm phổ  quát của tản văn  báo chí là sự hiện diện trực tiếp của cái tôi tác giả, là sự  ưu tiên quan điểm,  cách cảm, cách nhìn của thông tin lý lẽ  trước thông tin sự  kiện, là sự  linh  hoạt, phóng túng trong cách hành văn, trong tổ chức hình ảnh, liên hội các chi  tiết.  1.2. Lý luận về phong cách và phong cách báo chí   1.2.1. Quan điểm về phong cách của phương Tây và Trung Quốc  Người Hi­La đã dùng chữ  stylos (Hi Lạp), stylus (La Mã) để  chỉ  dụng  cụ viết, về sau người Pháp thay đổi dùng chữ style để chỉ nét chữ, rồi chỉ đặc  điểm về mặt hình thức như ngôn ngữ và văn thể của tác phẩm văn học.  Viện sỹ M.B. Khrapchenkô (Liên Xô) trong cuốn “Cá tính sáng tạo của  nhà văn và sự  phát triển văn học” đã cho rằng: “Phong cách được hiểu như   những thủ pháp biểu hiện, cách khai thác hình tượng đối với cuộc sống , như  thủ pháp thuyết phục và thu hút độc giả”.  Theo tác giả  Lưu Hiệp (Trung Quốc) trong cuốn “Văn tâm điêu long”  cái quan trọng của phong cách của mỗi tác giả là cá tính sáng tạo, cá tính sáng   tạo khác nhau thì dẫn đến phong cách khác nhau; Lỗ  Tấn, nhà tạp văn nổi  tiếng Trung Quốc thì cho rằng, phong cách một mặt là nơi hội tụ, biểu hiện   cá tính sáng tạo của nhà văn.
  14. 10 1.2.2. Quan điểm về phong cách ở Việt Nam  Ở Việt Nam, thuật ngữ phong cách trong báo chí, văn học đã xuất hiện   từ đầu thế kỷ XX với ý nghĩa là “lối văn”, “giọng văn”, “bút pháp”…  Trong công trình nghiên cứu “Dẫn luận phong cách học”, Nguyễn Thái  Hòa đã định nghĩa: “Phong cách là những đặc trưng trong hoạt động lời nói   được lặp đi lặp lại ở một người nào đó, ở một môi trường ngôn ngữ hay một   cộng đồng, có khả  năng khu biệt với những kiểu biểu đạt ngôn ngữ  khác”.  Theo đó, nhà báo nổi tiếng và thành công nhờ  tạo cho mình một phong cách   viết riêng. Mặc dù bản chất của báo chí là sự  thật, thông tin sự  thật nhưng   việc tạo nên một cách viết, một giọng văn ấn tượng cũng là một điều hết sức  cần thiết.  Từ quan điểm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, tác giả luận  án cho rằng: Phong cách là nét độc đáo gắn liền với con người nhà báo, có thể  nhận diện từ  toàn bộ  sáng tác của họ  thông qua các yếu tố  nội dung, hình  thức, ngôn ngữ của tác phẩm và không phải nhà báo nào cũng có phong cách.   Chỉ  những nhà báo có tài năng nghệ  thuật, có bản lĩnh, biết sử  dụng các  phương tiện hình thức trong một thể thống nhất theo một kiểu riêng để  thể  hiện đạt hiệu quả điều mình muốn nói mới tạo ra phong cách riêng.  1.3. Một số  nhân tố  chi phối,  ảnh hưởng tới phong cách tản văn  báo chí của Ngô Tất Tố 1.3.1. Những nhân tố chủ quan Ngô Tất Tố  sinh năm 1894 trong một gia đình nhà Nho nghèo  ở  làng  Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay là xã Mai Lâm, huyện  Đông Anh, Hà Nội. Dưới thời Pháp thuộc làng quê của Ngô Tất Tố  tồn tại   nhiều hủ  tục nặng nề. Sau này, tuy Ngô Tất Tố  rời quê ra Hà Nội viết báo,  viết văn nhưng ông thường xuyên trở về quê. Chính việc gần gũi với làng quê  như  vậy đã giúp cho Ngô Tất Tố  có dịp tìm hiểu rất nhiều phong tục, tập  
  15. 11 quán, văn hóa làng quê, đồng thời thấy rõ sự  bóc lột đè nén của thực dân,  phong kiến, địa chủ, cường hào đối với người nông dân cũng như  những hủ  tục sau những lũy tre làng.  Ngô Tất Tố  là người có lòng yêu nước thiết tha .  Trong thời kỳ  Mặt  trận dân chủ, Ngô Tất Tố  đã tiếp thu  ảnh hưởng của cách mạng, đứng trên   lập trường dân chủ, tố  cáo áp bức bóc lột của bọn thực dân, phong kiến và  tha thiết đòi cải thiện đời sống cho nhân dân lao động. Tố  chất của một nhà văn, nhà Nho viết báo đã tạo cho Ngô Tất Tố  phong cách tiếp cận hiện thực  ở những góc nhìn khác nhau, từ  đó có cách lý   giải, đánh giá vấn đề theo quan điểm tiến bộ. Điều này tạo nên một Ngô Tất   Tố nhà văn ­ nhà Nho ­ nhà báo không thể trộn lẫn với các nhà văn, nhà báo là  trí thức Tây học cùng thời. Ngô Tất Tố đã cộng tác và viết bài cho 27 tờ báo, tạp chí, sáng tạo hơn   1.350 tác phẩm báo chí với nhiều bút danh khác nhau đã được xác định là của  Ngô Tất Tố. Số  lượng tác phẩm báo chí đồ  sộ   ấy được chưng cất từ  quá   trình trải nghiệm hoạt động báo chí đầy nhiệt huyết, nên người đọc dễ dàng  cảm  nhận  được phong cách  sáng tạo rất riêng biệt của Ngô  Tất Tố  qua   những tản văn của ông. 1.3.2. Những nhân tố khách quan Ngô Tất Tố  bước chân vào làng báo trong bối cảnh Chiến tranh thế  giới lần thứ  nhất kết thúc. Hậu quả  để  lại đối với tất cả  các nước tham  chiến, trong đó có nước Pháp bị thiệt hại nặng nề về người và của với hàng   chục triệu người chết, hàng trăm tỷ  đôla bị  ngốn vào chi phí chiến tranh  [119]. Bối cảnh đó cùng với thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười  Nga… đã mở ra một cục diện thế giới mới với sự ra đời và phát triển mạnh  mẽ  của phong trào cộng sản, phong trào công nhân và phong trào giải phóng  dân tộc. 
  16. 12 Sự  ra đời của các đảng cộng sản Pháp, Trung Quốc và các nước trên  thế giới vừa là nguồn cổ  vũ động viên các chiến sĩ cộng sản Việt Nam, vừa  tạo ra những thuận lợi cho sự  du nhập chủ  nghĩa Mác ­ Lênin và những tư  tưởng tiến bộ  vào Việt Nam. Từng bước, phong trào cách mạng Việt Nam   hội nhập và trở  thành một bộ  phận không thể  tách rời của phong trào cộng  sản thế  giới dưới sự  lãnh đạo của Quốc tế  Cộng sản. Đây cũng là thời kỳ  phong trào đấu tranh yêu nước và cách mạng của nhân dân ta diễn ra sôi nổi,  dưới nhiều hình thức khác nhau và in đậm dấu ấn của những giai cấp, những  tầng lớp xã hội tiến hành những cuộc đấu tranh đó. Cũng trong giai đoạn này, phải kể  đến những hoạt động xuất sắc và  công lao to lớn của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp, tại Liên Xô cũng như  tại các  nước láng giềng: Trung Quốc, Lào, Miên, Xiêm... Người tiếp cận chủ  nghĩa   Mác ­ Lênin, lý luận cách mạng tiên tiến truyền bá về Việt Nam và chuẩn bị  về  tư  tưởng, tổ  chức cho việc thành lập một đảng cộng sản chân chính  ở  Việt Nam cũng như  đưa phong trào cách mạng Việt Nam hội nhập và trở  thành một bộ phận không thể tách rời của phong trào cộng sản thế giới, dưới  sự lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản. Trong thời kỳ  này, báo chí có sự  thay đổi rõ rệt về  nội dung và hình  thức. Sự  phát triển của chữ  quốc ngữ  là một tiền đề  rất quan trọng cho sự  phát triển của văn hóa, xã hội. Việc giao lưu, học hỏi với phương Tây cùng   với sự  phát triển của đô thị  đã đem lại một luồng không khí mới cho văn  chương, học thuật, sự thay đổi rõ rệt về báo chí, sinh hoạt văn học cũng như  công chúng. Đây cũng là một giai đoạn sôi động trong lịch sử  báo chí và văn   học Việt Nam với những cách tân về  thể  loại, ngôn ngữ, hình thức và quan  niệm về  sáng tác. Từ  những tác phẩm báo chí, văn học còn in đậm dấu  ấn  của phong cách cổ, tính quy phạm và  ước lệ  trong phương thức biểu hiện,   những tác phẩm báo chí và văn chương đã chuyển nhanh vào thời kỳ hiện đại 
  17. 13 với sự  đóng góp của đông đảo các cây bút với nhiều khuynh hướng sáng tác  khác nhau.  Tiểu kết Chương 1 Trong Chương 1, luận án đã phân tích, làm rõ một số nội dung sau đây: (1) Tản văn là văn xuôi nghệ  thuật nói chung, bao gồm nhiều thể: tạp  văn, tùy bút, tiểu phẩm... và các tiểu thể loại được định danh khá phong phú,  đa dạng, như: nhàn đàm, phiếm đàm, thời đàm, tạp trở...  Tản văn báo chí là thể loại báo chí thuộc nhóm chính luận nghệ thuật, có   kết cấu ngắn gọn, dung lượng nhỏ, tự do, có thủ pháp đa dạng, linh hoạt. Đặc  trưng loại hình của tản văn báo chí là sự hiện diện trực tiếp của cái tôi tác giả;  là sự ưu tiên quan điểm, cách cảm, cách nhìn trước thông tin sự kiện; là sự linh  hoạt, phóng túng trong cách hành văn, trong tổ chức thông tin, liên kết các chi  tiết.  (2) Phong cách là nét độc đáo gắn liền với con người nhà báo, có thể  nhận diện từ  toàn bộ  sáng tác của họ  thông qua các yếu tố  nội dung, hình  thức, ngôn ngữ của tác phẩm và không phải nhà báo nào cũng có phong cách.  (3) Một số nhân tố  có tính chi phối tới việc hình thành phong cách tản  văn báo chí của Ngô Tất Tố như: truyền thống văn hóa quê hương và gia đình   tinh thần yêu nước, tư tưởng tiến bộ và sự nỗ lực, cố gắng để thích ứng với  thời cuộc; bối cảnh chính trị, xã hội và báo chí trong nửa đầu thế kỷ XX.  Chương 2. PHONG CÁCH TẢN VĂN BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ  QUA BÌNH DIỆN NỘI DUNG TÁC PHẨM 2.1. Đề tài trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố  2.1.1. Đề tài chính trị  Những năm đầu thập niên 1930, Ngô Tất Tố dùng ngòi bút của mình để  viết nhiều các vấn đề liên quan đến nghị trường, như bầu cử nghị viện, bầu  
  18. 14 viện trưởng Viện dân biểu…; đấu tranh với những thủ đoạn của chính quyền  thực dân và bọn tay sai với những vấn đề  “bảo hộ” và “trực trị”; truyền bá  mê tín dị đoan; bảo tồn quốc túy; phong trào Âu hóa, “vui vẻ trẻ trung”…  Những năm 1936 ­ 1939, nhờ ảnh hưởng của phong trào quần chúng thời   Mặt trận dân chủ, Ngô Tất Tố  đề  cập trực tiếp đến những sự  kiện chính trị  quan trọng trong nước và thế giới, như: phong trào Đông Dương đại hội; phong   trào Mặt trận Dân chủ của báo giới đòi tự do ngôn luận, tự do hội họp; những   cuộc đình công khổng lồ của “lao  động Đông Dương”; những cuộc biểu tình  của nông dân Thanh Hóa; những cuộc nổi dậy phá kho thóc địa chủ  của nông  dân Bạc Liêu… 2.1.2. Đề tài văn hóa, xã hội  Hầu hết các tản văn báo chí của Ngô Tất Tố  có đề  tài về  các vấn đề  văn hóa, xã hội. Đó là những vấn đề  liên quan đến bản chất của những kẻ  danh trí thức, thầy lang, bọn bồi bút, tay sai của chế  độ  thực dân; về  những  vấn đề liên quan đến đạo đức xã hội, luân thường đạo lý, gia phong, gia pháp;  về vai trò của người phụ nữ trong gia đình, phẩm hạnh, tiết nghĩa trong quan  hệ  vợ  chồng… về  những hủ  tục lạc hậu, mê tín dị  đoan, vạch mặt bọn lợi  dụng tôn giáo, tín ngưỡng để trục lợi; đả kích những thói hư tật xấu trong đời  sống xã hội. 2.1.3. Đề tài quốc tế Ngay khi bắt đầu bước chân vào làng báo và hoạt động báo chí chuyên   nghiệp, ngòi bút của Ngô Tất Tố luôn bám sát và phản ánh kịp thời tình hình   thời sự  quốc tế, những sự kiện lớn trên thế  giới như: tình hình Trung Quốc  sau chiến tranh “nha phiến”; tình hình cách mạng  ở  Đài Loan; tình hình quân  sự của Nhật Bản vào năm 1927; tình hình Xiêm La và mối quan hệ giữa Xiêm  La   với   Trung   Quốc;   tình hình   Hồi   giáo,   Gia   Tô   giáo   và   Do   Thái   giáo   ở  Palestine, nơi phát nguyên của đạo Hồi và đạo Gia Tô… 
  19. 15 2.2. Chi tiết trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố   Với nguồn tin phong phú, nhưng điểm quan trọng tạo nên phong cách  riêng của Ngô Tất Tố thể hiện qua những tản văn báo chí của ông chính là ở  chỗ  ông khai thác, lựa chọn và sử  dụng được rất nhiều chi tiết. Những chi   tiết đó có thể tựu chung lại theo ba nhóm chính:  Nhóm chi tiết về  nhân vật: những nhân vật trong tản văn báo chí của   ông thường được phản ánh ở những mặt tiêu cực, chính vì vậy từ ngoại hình,   diện mạo đến tính cách được miêu tả với những chi tiết cũng rất tiêu cực với   ngôn ngữ châm biếm, đả kích. Nhóm chi tiết về sự kiện: Những sự kiện là linh hồn được thể hiện tản  văn báo chí của Ngô Tất Tố, là những yếu tố quan trọng được miêu tả chi tiết   nhằm thu hút  sự  quan tâm của người đọc. Do vậy, sự  kiện nào cũng được  Ngô Tất Tố  phản ánh với những chi tiết sống động nhất, đầy đủ  nhất, phù  hợp với mục đích, yêu cầu của nội dung tác phẩm. Nhóm chi tiết về  sự  việc: sự  việc hướng người đọc quan tâm tới bản  chất của sự kiện, hiện tượng bằng cách miêu tả, phân tích, diễn giả, trong đó  có những chi tiết mang tính chất cụ thể và thực chứng. Do vậy, Ngô Tất Tố  đã khai thác có hiệu quả  những chi tiết rất cụ  thể có tính chất minh họa và  làm rõ bản chất của sự việc, hiện tượng được phản ánh. 2.3. Những nhân vật trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố Toàn bộ tản văn báo chí của Ngô Tất Tố làm thành một bức tranh rộng   lớn và chân thực về xã hội thực dân phong kiến Việt Nam trước cách mạng   tháng Tám với những biếm họa sinh động, sâu sắc về  rất nhiều nhân vật  trong xã hội. Có thể khu biệt các nhân vật đó theo ba nhóm: ­ Những “ông Tây” thực dân: từ  các quan thống sứ, toàn quyền, bộ  trưởng thuộc địa… đến những ông Tây “nhà đoan”, anh lính lê dương mạt  hạng… 
  20. 16 ­ Những nhân vật trong chính quyền tay sai, bộ  máy phong kiến: đó là   những vị “dân biểu”, “cụ thượng”, “ông phó Quỳnh”, “chú Khán ngốc”… ­ Những nhân vật của bình dân trong xã hội: cô Tây Hoét, cụ lang bần,   những anh “nho” phủ  huyện, những người lao động bình dị  và nghèo khổ   ở  làng quê hoặc nơi phố phường… 2.4. Dự  báo và hướng nhận thức trong tản văn của báo chí Ngô Tất  Tố   2.4.1. Dự báo về những vấn đề chính trị  Ngô Tất Tố đã dành một số  lượng đáng kể  những tản văn báo chí của   mình để  lên án, vạch trần nạn tham ô, hối lộ, nhũng nhiễu của các tầng lớp  quan lại trong chính quyền thực dân trước Cách mạng tháng Tám; đồng thời  ông cũng đề ra một số giải pháp nhằm cần thực hiện với mong muốn làm cho  xã hội tốt đẹp hơn.    2.4.2. Dự báo về những vấn đề xã hội  Trong những tản văn báo chí của mình,  Ngô Tất Tố  đã có những đề  xuất, dự báo về các vấn đề văn hóa, giáo dục và y tế; trong đó có việc đi sâu  phân tích những giá trị, những nét đẹp về  truyền thống văn hóa của dân tộc   như  các lễ  hội, các nghi thức tín ngưỡng, các sinh hoạt văn hóa của nhiều  vùng miền…  Tiểu kết Chương 2 Trong Chương 2, luận án đã đi sâu phân tích và làm rõ, các nội dung: 1. Đề  tài tản văn báo chí của Ngô Tất Tố  có thể  tập trung theo 3 nhóm:  chính trị, xã hội và quốc tế. Ngoài ra, Ngô Tất Tố  còn có một số  đề  tài khác  như  luận bàn về  nghiệp vụ  báo chí, văn chương, về  đạo đức và phẩm chất  của người làm báo… 2. Toàn bộ  tản văn báo chí của Ngô Tất Tố  làm thành một bức tranh  rộng lớn và chân thực về  xã hội thực dân phong kiến Việt Nam trước cách  mạng tháng Tám với những chi tiết biếm họa sinh động, sâu sắc, đề cập đến 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2