intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Báo chí học: Xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu tại Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:28

10
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận án "Xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu tại Việt Nam" dựa vào khảo sát, đánh giá quá trình vận động của báo chí dữ liệu trong 2 năm (2017-2018) trên cơ sở phân t́ch các mẫu đã chọn, nhằm phát hiện ra các xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu tại Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Báo chí học: Xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu tại Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN NGUYỄN THỊ THU HƯỜNG XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA BÁO CHÍ DỮ LIỆU TẠI VIỆT NAM (Khảo sát báo Vietnamnet, Vietnamplus, VnExpress năm 2017, 2018) Chuyên ngành : Báo chí học Mã ngành : 9 32 01 01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC HÀ NỘI, 2022
  2. Luận án được hoàn thành tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền Người hướng dẫn: GS, TS Tạ Ngọc Tấn Phản biện 1: PGS, TS. Đinh Văn Hường, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Phản biện 2: PGS, TS. Đinh Thị Thu Hằng Học viện Báo chí và Tuyên truyền Phản biện 3: TS. Nguyễn Tri Thức Tạp chí Cộng sản Luận án được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án, Học viện Báo chí và Tuyên truyền
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Trong tiến trình phát triển của công nghệ báo chí, báo chí dữ liệu là hướng đi tất yếu, không chỉ bởi đây là xu hướng phát triển mới của báo chí mà còn vì những ưu điểm của nó đối với việc phản ánh thông tin dữ liệu lớn, dữ liệu hình ảnh, dữ liệu phân tích và dự báo. Qua nghiên cứu và theo dõi, có thể nhận thấy, khi xuất hiện những vấn đề mang tính toàn cầu như thiên tai, dịch bệnh, tai nạn thảm hoạ… báo chí dữ liệu là loại được tận dụng nhiều nhất để chuyển tải thông điệp. Nhờ có khả năng thể hiện, tương tác và đáp ứng nhu cầu tìm hiểu thông tin minh bạch, chính xác của công chúng, báo chí dữ liệu mở ra triển vọng phát triển kinh tế báo chí như bán các gói dữ liệu chuyên biệt, gia tăng không gian và tần suất cho quảng cáo... Xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu trên thế giới song hành với xu hướng phát triển của công nghệ báo chí truyền thông. Xu hướng chung của báo chí dữ liệu, đi từ việc chỉ chú trọng vào con số và biểu bảng, đến nay, loại báo chí này có thể phản ánh hầu hết các lĩnh vực đời sống bằng các câu chuyện đa phương tiện giàu dữ liệu, thể hiện đa kênh, đa hình thức và có thể tương tác đa chiều với công chúng. Thậm chí, báo chí dữ liệu đang tiến tới xu hướng được dùng cho các dự báo tương lai dựa trên phân tích quá trình và các quy luật tự nhiên, xã hội. Trong quá trình nghiên cứu sự phát triển của loại báo chí này trên thế giới và Việt Nam, có thể nhận thấy rõ các xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu dựa vào các điều kiện về kinh tế, công nghệ của toà soạn, trình độ của người làm báo, các hỗ trợ về chính sách, quản lý, nguồn dữ liệu và nhu cầu, khả năng tiếp nhận thông tin của công chúng báo chí. Báo chí dữ liệu có thể được xuất bản trên các loại hình báo in, báo hình và báo mạng điện tử, tuy nhiên, với đặc trưng về công nghệ tương tác (interactive technology) và thể hiện hình ảnh (visualization), loại hình báo mạng điện tử phát huy được nhiều nhất ưu thế của báo chí dữ liệu. Như vậy, khi nghiên cứu về xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu, các tác giả thường lấy dẫn chứng từ các tác phẩm trên báo mạng điện tử. Hiện nay ở nước ta, việc đánh giá vai trò của báo chí dữ liệu và xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu trong sự phát triển chung của báo chí có những thuận lợi và khó khăn, hạn chế nhất định. Để nghiên cứu bản xuất của xu hướng báo chí dữ liệu, cần thiết có những khái niệm, bộ tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá, từ đó, quy chiếu vào thực trạng báo chí để có căn cứ giải quyết các vấn đề đã nêu ở trên. Đồng thời, do báo chí dữ liệu ở Việt Nam có lịch sử tương đối ngắn, nên phương pháp nghiên cứu lịch đại (thường áp dụng cho các đề tài nghiên cứu về xu hướng phát triển), khó áp dụng. Thay vào đó, tác giả có những nghiên cứu so sánh (Việt Nam - thế giới, quá khứ - hiện tại, lát cắt - tiến trình…), để từ đó tìm ra xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu ở Việt Nam. Khảo sát thực trạng xu hướng báo chí dữ liệu tại Việt Nam Cho đến thời điểm hiện nay, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về báo chí dữ liệu và xu hướng báo chí dữ liệu ở Việt Nam. Vì vậy, thiếu căn cứ, cơ sở khoa học, thực tiễn để báo chí dữ liệu có thể được nhìn nhận, đánh giá, tổng quát và đưa ra giải pháp phát triển ở nước ta trong bối cảnh hiện nay và tương lai. Hiện nay ở nước ta đánh giá vai trò của báo chí dữ liệu trong việc phát triển thực tiễn báo chí có những thuận lợi và khó khăn, hạn chế nhất định. Để làm được việc đó, cần thiết có những khái niệm, bộ tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá từ đó, quy chiếu vào thực trạng báo chí để có căn cứ giải quyết các vấn đề đã nêu ở trên. Từ những phân tích nêu trên, đặt ra yêu cầu cần thiết có một công trình nghiên cứu về thể loại báo chí này tại Việt Nam một cách toàn diện và sâu sắc. Bằng cách thực hiện đề tài luận án: “Xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu ở Việt Nam” (Khảo sát báo Vietnamnet, Vietnamplus, VnExpress năm 2017, 2018), nghiên cứu sinh hy vọng có thể phần nào giải quyết các vấn đề trên, mang lại giá trị lý luận và thực tiễn cho báo chí học Việt Nam.
  4. 2 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở khung lý thuyết, luận án nghiên cứu, khảo sát hiện trạng báo chí dữ liệu tại Việt Nam hiện nay thông qua phân tích nội dung, hình thức, phương thức sản xuất, chuyển tải thông tin, công chúng, quy trình, mô hình hoạt động, xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu tại Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, luận án phát hiện những mâu thuẫn trong quá trình phát triển của báo chí dữ liệu, đề xuất giải pháp, mô hình để nâng cao chất lượng báo chí dữ liệu trong tương lai tại Việt Nam. 2.2. Nhiệm vụ - Hệ thống cơ sở lý thuyết và thực tiễn về báo chí dữ liệu, làm cơ sở cho việc nghiên cứu xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu. - Thông qua việc khảo sát, đánh giá thực trạng báo chí dữ liệu tại các tòa soạn, tác phẩm báo chí, nguồn nhân lực, trang thiết bị hỗ trợ tác nghiệp…, làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả và khả năng phát triển của loại báo chí này hiện nay. - Phân tích, dự báo các xu thế phát triển của báo chí dữ liệu tại Việt Nam. - Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, đưa ra các nguyên nhân, khuyến nghị, một số giải pháp nhằm phát huy các xu hướng tích cực của báo chí dữ liệu trong giai đoạn mới. 3. Đối tượng nghiên cứu, khảo sát và phạm vi nghiên cứu của đề tài 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án có đối tượng nghiên cứu là báo chí dữ liệu và xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu ở Việt Nam. Xu hướng báo chí dữ liệu không chỉ đóng khung trong hoạt động sản xuất báo chí mà còn là sự nhìn nhận toàn diện về vai trò và xu hướng sử dụng dữ liệu trong đời sống báo chí... 3.2. Phạm vi nghiên cứu Xu hướng của báo chí dữ liệu trên báo điện tử tại Việt Nam là đề tài mới mẻ tại Việt Nam, tính đến tháng 12/2020, cả nước có 779 cơ quan báo chí. Trong khuôn khổ luận án, tác giả tập trung nghiên cứu xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu trên báo mạng điện tử - loại hình báo chí thể hiện đầy đủ đặc điểm xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu nhất. Phạm khi khảo sát diễn ra trên 03 tờ báo là VnExpress.net, Vietnamplus.vn và Vietnamnet.vn trong giai đoạn 02 năm (2017-2018). Tổng số bài báo chí dữ liệu được khảo sát là 1072 bài, trong đó trên VnExpress.net là 436 bài; Vietnamplus.vn là 436 bài; và Vietnamnet.vn là 200 bài. Ba tờ báo trong diện khảo sát đều là những cơ quan báo chí cấp Trung ương, trong đó, báo Vietnamnet.vn thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, báo VnExpress.net trực thuộc Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường, Vietnamplus có cơ quan chủ quản là Thông tấn xã Việt Nam. Thời gian khảo sát từ tháng 01/2017 đến hết tháng 12/2018. Tuy nhiên, để làm rõ những vấn đề đặt ra, trong quá trình nghiên cứu, Luận án có mở rộng phạm vi nghiên cứu các giai đoạn trước và sau đó để so sánh và đưa ra kết luận về xu hướng nếu cần thiết. Việc lựa chọn phạm vi khảo sát như trên đáp ứng các tiêu chí: i- các tờ báo có tác phẩm báo chí dữ liệu. ii- các cơ quan báo chí có đội ngũ nhân sự và công nghệ sản xuất báo chí dữ liệu. iii-thời gian 2 năm từ 2017 - 2018 phù hợp với quá trình làm luận án và cũng là thời gian diễn ra nhiều sự phát triển, thay đổi của báo chí Việt Nam, trong đó có sự hình thành xu hướng báo chí dữ liệu ở Việt Nam. Về công chúng báo chí, luận án khảo sát online công chúng báo chí tại 3 thành phố: Hà Nội (150 phiếu), Huế (100 phiếu), thành phố Hồ Chí Minh (150 phiếu). Tổng số phiếu phát đi: 400, tổng số phiếu thu về: 313. Lý do lựa chọn 3 địa phương này để khảo sát là đây là 3 trung tâm của 3 vùng (Bắc - Trung - Nam), có dấu ấn riêng biệt của vùng miền. Đây cũng là những địa điểm tập trung đông dân cư, có lượng công chúng báo chí đông đảo, có điều kiện
  5. 3 tiếp cận với công nghệ và dữ liệu, trong đó có báo chí dữ liệu. Khảo sát công chúng báo chí ở 3 địa phương trên cho cáo nhìn khá toàn diện về công báo chí dữ liệu tại Việt Nam. 4. Giả thuyết nghiên cứu Các câu hỏi đặt ra trong quá trình thực hiện luận án là: - Cơ sở lý luận và thực tiễn về báo chí dữ liệu và xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu là gì? - Báo chí dữ liệu thể hiện trên báo chí như thế nào và xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu được nhận diện ra sao? - Những mâu thuẫn trong quá trình vận động, phát triển của báo chí dữ liệu và các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của báo chí dữ liệu là gì? - Từ thực tiễn báo chí dữ liệu, giải pháp phát triển các xu hướng tích cực của báo chí dữ liệu ở Việt Nam là gì? Từ những câu hỏi nghiên cứu trên, luận án đưa ra một số giả thuyết nghiên cứu sau: Giả thuyết 1: Báo chí dữ liệu tại Việt Nam phát triển do xu hướng phát triển báo chí dữ liệu chung trên thế giới, tuy nhiên báo chí dữ liệu ở Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển về số lượng, chất lượng, khả năng sáng tạo đột phá… Giả thuyết 2: Báo chí dữ liệu có xu hướng tạo thế mạnh mới trong cạnh tranh, giúp báo chí có lại công chúng nhờ những đặc trưng của mình như: tính trực quan, sinh động, sự hấp dẫn, đa phương tiện và khách quan, dễ tra cứu, ghi nhớ. Giả thuyết 3: Báo chí đang đứng trước đòi hỏi cần thay đổi về mô hình theo hướng công nghệ hóa, đặc biệt cần thay đổi tư duy và cách tiếp cận công nghệ, báo chí dữ liệu là một cơ hội khiến báo chí thay đổi theo hướng này với sự trợ giúp của công nghệ hình ảnh và công nghệ phần mềm. Giả thuyết 4: Việc nghiên cứu xu hướng báo chí dữ liệu sẽ mang lại nguồn tài liệu hữu ích cho các cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan báo chí về hoạt động quản lý, hoạch định chiến lược, kế hoạch phát triển báo chí nói chung, báo chí dữ liệu và báo chí ứng dụng công nghệ nói riêng. Giả thuyết 5: Những nhóm giải pháp nâng cao chất lượng của báo chí dữ liệu để loại báo chí này phát huy được tối đa thế mạnh và có xu hướng phát triển tương xứng với vị thế và quy luật như trên thế giới như giải pháp về chính sách, về đào tạo nguồn nhân lực, giải pháp công nghệ, giải pháp nguồn dữ liệu… 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận án dựa trên cơ sở nhận thức luận lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm chỉ đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước Việt Nam về báo chí - truyền thông... Cơ sở lý luận của luận án tiếp cận các lý thuyết: truyền thông đại chúng, báo chí học, các khoa học liên quan như: khoa học dữ liệu, khoa học hình ảnh, công nghệ thông tin… kết hợp phân tích lý luận và thực tiễn nhằm làm rõ nội dung, nhiệm vụ của luận án. Luận án áp dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng để xem xét thực trạng ảnh hưởng của xu hướng báo chí dữ liệu đối với công chúng Việt Nam được đặt trong bối cảnh thực tiễn, môi trường báo chí, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học công nghệ. 5.2.Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Luận án sử dụng phương pháp này để khảo sát, phân tích nội dung các tư liệu, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, văn bản pháp luật, các công trình khoa học, sách, bài báo... nhằm hệ thống hóa một số vấn đề lý luận báo chí điện tử và báo chí dữ liệu tại Việt Nam, từ đó xây dựng khung lý thuyết cho đề tài cũng như
  6. 4 kế thừa những kết quả nghiên cứu trước, phục vụ cho việc so sánh, đối chiếu và làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu. - Phương pháp thống kê - so sánh: Đối với luận án, thống kê là phương pháp nghiên cứu quan trọng, nhằm tìm ra được những đặc điểm của báo chí dữ liệu, các yếu tố cấu thành và quá trình phát triển của báo chí dữ liệu ở Việt Nam. Trong quá trình thực hiện đề tài, nghiên cứu sinh sẽ tập trung thu thập, phân tích, so sánh các dữ liệu trong 12 tháng của năm 2017 và 12 tháng của năm 2018 trên 3 tờ báo Vietnamnet, Vietnam Plus, VnExpress, về: + Số lượng và tần suất xuất hiện của các sản phẩm báo chí dữ liệu nhằm làm rõ sự phổ biến của các sản phẩm báo chí dữ liệu trong thời gian khảo sát. + Hình thức thể hiện, nội dung thông tin của sản phẩm báo chí dữ liệu so với các tác phẩm báo chí khác, chỉ ra sự đa dạng và đặc trưng về nội dung, hình thức của báo chí dữ liệu. + Nội dung phản ánh của báo chí dữ liệu nhằm tìm ra những lĩnh vực, chủ đề được quan tâm của báo chí dữ liệu. - Phương pháp quan sát: Trong luận án này, NCS quan sát thực tế xu hướng báo chí dữ liệu ở một số nền báo chí (Mỹ, Châu Âu…) và Việt Nam, trực tiếp làm việc với những nhà quản lý báo chí, chuyên gia báo chí dữ liệu… tham dự một số cuộc hội thảo, tọa đàm, trao đổi với các nhà khoa học, chuyên gia, lãnh đạo, công chúng báo chí dữ liệu quốc tế và Việt Nam, từ đó, đúc rút các kinh nghiệm, hệ thống các luận điểm quan trọng phục vụ cho nghiên cứu đề tài. Luận án sử dụng phương pháp quan sát nhằm theo dõi đối tượng quan sát là báo chí dữ liệu và bộ máy sản xuất báo chí dữ liệu. Đứng trên nhiều góc độ quan sát khác nhau, báo chí dữ liệu và bộ máy sản xuất báo chí dữ liệu được bộc lộ một cách khách quan, tự nhiên, sinh động về cả hình thức, nội dung và phương thức sản xuất. Từ đó, tác giả rút ra được các kết luận tương đối đầy đủ về sự vận động, phát triển của báo chí dữ liệu trong đời sống báo chí hiện nay. - Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (Anket) và phỏng vấn sâu: Luận án dụng phương pháp nghiên cứu nghiên cứu định tính (phân tích tài liệu, phỏng vấn sâu) và phương pháp nghiên cứu định lượng (phỏng vấn Anket). Các phiếu, bảng hỏi được thiết kế để thu thập ý kiến về hình thức, nội dung và sự hấp dẫn của báo chí dữ liệu so với các thể loại báo chí khác; những tác động của các tác phẩm báo chí dữ liệu đối với thói quen thu nhận thông tin của công chúng, đối với thói quen tiếp cận, khai thác và sản xuất báo chí truyền thống của các cơ quan báo chí, cụ thể là báo điện tử. Cụ thể, trong khuôn khổ luận án này, chúng tôi thiết kế bảng hỏi (anket) phát cho người trên 16 tuổi, là công chúng của báo điện tử, hoạt động ở nhiều lĩnh vực khác nhau (sinh viên, nhân viên văn phòng, nhân viên kinh doanh, giảng viên, người về hưu…). Với phương pháp này, chúng tôi sử dụng phần mềm xử lý số liệu định lượng SPSS để xử lý. Khảo sát 30 nhà báo về cách tác nghiệp báo chí dữ liệu tiến hành tại các tờ báo điện tử có sản xuất và xuất bản báo chí dữ liệu. Kết quả thu về sử dụng hợp lệ 30/30 phiếu. Phỏng vấn sâu 05 nhà quản lý báo chí lập thành các biên bản phỏng vấn theo dạng phỏng vấn cấu trúc. Dữ liệu được thu thập bằng phương pháp lấy mẫu thuận tiện. Dữ liệu nghiên cứu sau khi lấy mẫu được làm sạch và phân tích bằng phần mềm SPSS/AMOS. Mẫu nghiên cứu về hiện trạng và xu hướng báo chí dữ liệu được tiến hành lấy mẫu và các nghiên cứu được tiến hành qua đọc trực tiếp các tin, bài, xem, nghe của 3 tờ báo VnExpress, Vietnamnet và Vietnamplus. Đồng thời cũng bằng phương tiện này, các hình ảnh giao diện cũng được ghi lại, chụp lại phục vụ cho mục đích nghiên cứu của luận án. Số tin, bài, mục, chuyên mục, hình ảnh được khảo sát qua nội dung cụ thể phục vụ mục đích nghiên cứu được dẫn trực tiếp trong luận án. Những tin, bài, mục, chuyên mục, hình ảnh được lấy trên các báo điện tử trong thời gian từ tháng 1/2017 đến hết tháng 12/2018 và một số
  7. 5 bài báo trong năm 2019. Cụ thể, tin bài được khảo sát liên tục trên 3 tờ báo từ tháng 1/2017 đến tháng 12 năm 2018, mỗi tháng chọn 7 ngày, đủ từ thứ 2 đến chủ nhật một cách ngẫu nhiên (PL4). Số lượng tin, bài thống kê trong một lần truy cập được tính tại trang chủ, không tính các tin bài trong trang thứ cấp và các tin bài sắp xếp theo chủ đề và đường link được lưu trong các mục và tiểu mục của các ngày khác. Số lượng tin, bài được thống kê, phân loại theo nội dung phản ánh, thống kê các yếu tố hình thức như hình ảnh, âm thanh, hình ảnh động có trong tin, bài để phục vụ nghiên cứu. Tất cả quá trình khảo sát này được tiến hành bằng phương pháp đếm tên tin, bài từ các mục, tiểu mục, chuyên mục, chương trình của các báo điện tử. Phương pháp chọn mẫu: Chúng tôi sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản, những người được chọn vào mẫu, hoàn toàn khách quan. Các phỏng vấn sâu được thực hiện đối với 35 người bao gồm 2 nhóm: các lãnh đạo cơ quan báo chí (5 nhà báo là lãnh đạo các báo, tạp chí Vietnamnet, Vietnam Plus, Zing, Saostar, Tiền Phong), các nhà báo, phóng viên, kỹ thuật viên (30 người). Trong khuôn khổ luận án, nghiên cứu sinh sẽ lên cơ bản các phương hướng phát triển của báo chí dữ liệu, xây dựng hệ thống các câu hỏi đề nghị các chuyên gia cho ý kiến trả lời. Từ các câu trả lời, nghiên cứu sinh sẽ tiến hành xử lý các dữ liệu, phục vụ cho nhiệm vụ làm rõ giả thuyết của luận án. Trong đó, các phiếu khảo sát sẽ được phát cho một số nhóm công chúng của báo điện tử bằng hai hình thức: khảo sát trực tuyến (qua internet). Phương pháp phỏng vấn sâu thực hiện bằng phỏng vấn trực tiếp và qua thư điện tử (email). 6. Đóng góp khoa học của đề tài: Bước đầu, luận án đưa ra những khái niệm học thuật về báo chí dữ liệu tại Việt Nam; hệ thống hóa khung lý thuyết về báo chí dữ liệu, phục vụ cho các nghiên cứu chuyên sâu về báo chí dữ liệu sau này… Khung lý thuyết này sẽ cùng các cơ sở thực tiễn làm nền tảng, chỗ dựa cho việc nghiên cứu, đánh giá các vấn đề liên quan đến công tác sản xuất và phát triển báo chí dữ liệu. Luận án đưa ra các mô hình hoạt động, phục vụ cho thực tế sản xuất báo chí dữ liệu trong các tòa soạn báo. Các công cụ, phương pháp sản xuất báo chí dữ liệu trong luận án có thể giúp ích trong việc ứng dụng trong các tòa soạn báo điện tử. Các số liệu thống kê, phân tích qua các khảo sát thực tế tại Việt Nam là những bằng chứng thuyết phục, góp phần hỗ trợ các cơ quan chức năng, nhà quản lý báo chí có những quyết sách đúng đắn trong quản lý và vận hành báo chí. Từ các kết quả khảo sát, luận án bước đầu đưa ra những nhận định về xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu tại Việt Nam, các yếu tố tác động đến xu hướng đó và những tác động trở lại của xu hướng báo chí dữ liệu đối với toà soạn, công chúng và các cơ quan quản lý báo chí. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Đề tài “Xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu tại Việt Nam” (Khảo sát báo Vietnamnet, Vietnamplus, VnExpress năm 2017, 2018)à một đề tài có những ý nghĩa cụ thể sau: - Ý nghĩa lý luận Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên hệ thống một cách tổng quát, chuyên sâu, cập nhật về yêu cầu phát hiện, đánh giá xu hướng báo chí dữ liệu trên báo điện tử ở Việt Nam hiện nay. Luận án góp phần hệ thống hoá và làm rõ một số vấn đề lý thuyết báo chí dữ liệu, các lý thuyết này khi ứng dụng vào nghiên cứu thực tiễn thấy được tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Luận án sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và học tập của các cơ sở đào tạo, các trung tâm bồi dưỡng báo chí; cho các cơ quan quản lý báo chí, các nhà báo, nhà nghiên cứu, giảng viên, học viên, sinh viên báo chí.
  8. 6 Luận án là tài liệu tham khảo cho các bộ môn báo chí học như: báo chí đa phương tiện; báo chí trực quan; báo chí di động; kinh tế báo chí… và những bộ môn khoa học khác có liên quan. - Ý nghĩa thực tiễn Luận án góp phần xây dựng các tiêu chuẩn, tiêu chí, chỉ báo đo lường và đánh giá báo chí dữ liệu. Việc phân tích để làm sáng tỏ thực trạng, chỉ ra những đặc điểm, ưu điểm, hạn chế của báo chí dữ liệu, phát hiện xu hướng của báo chí dữ liệu tại Việt Nam có ý nghĩa quan trọng đối với cơ quan quản lý báo chí và lãnh đạo báo chí trong việc quản lý, ra chính sách và hoạch định kế hoạch, chiến lược phát triển báo chí Việt Nam nói chung và các toà soạn, ấn phẩm báo chí nói riêng. Luận án cũng cung cấp thông tin khoa học để nắm bắt được thực trạng báo chí dữ liệu, những yếu tố ảnh hưởng đến báo chí dữ liệu hiện nay. Luận án đề xuất và kiến nghị và những giải pháp dựa trên các bằng chứng khoa học và cơ sở thực tiễn nhằm định hướng việc sản xuất và xuất bản báo chí dữ liệu theo nhu cầu của công chúng và xã hội nói chung. 8. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án gồm có Tổng quan và 4 chương: - Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của xu hướng báo chí dữ liệu. - Chương 2: Thực trạng và xu hướng phát triển của của báo chí dữ liệu. - Chương 3: Những vấn đề đặt ra và một số khuyến nghị để nâng cao hiệu quả của báo chí dữ liệu. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. Nghiên cứu về báo chí dữ liệu trên thế giới Trên thế giới, báo chí dữ liệu manh nha từ sớm, nhất là ở các nước có nền công nghệ máy tính phát triển. Hình thức đầu tiên của báo chí dữ liệu là các tác phẩm báo chí có sự hỗ trợ của máy tính (CAR: computer assistant report). Tuy nhiên tài liệu nghiên cứu trực tiếp về báo chí dữ liệu mới xuất hiện từ khoảng năm 2006. Trong 16 năm qua, các nghiên cứu về báo chí dữ liệu tương đối đầy đủ, kể cả nghiên cứu về lý luận và nghiên cứu thực tế, đặc biệt tình hình vận động, phát triển và sự ảnh hưởng của hình thức báo chí này ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Ngoài các nghiên cứu về lịch sử báo chí dữ liệu, khoa học báo chí thế giới còn có các nghiên cứu về hệ thống khái niệm và các lý thuyết cơ bản, nghiên cứu về xu hướng sáng tạo của báo chí dữ liệu và nghiên cứu của các môn khoa học liên quan đến báo chí dữ liệu. 2. Nghiên cứu về báo chí dữ liệu tại Việt Nam Các công trình khoa học tại Việt Nam có bề dày nghiên cứu về báo chí truyền thông và xu hướng báo chí, về khoa học dữ liệu và báo chí dữ liệu. Trong đó đã nêu rõ lịch sử quá trình nghiên cứu về báo chí dữ liệu, tác động của loại báo chí này đối với công chúng, những phương thức hoạt động của báo chí dữ liệu qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Xu hướng báo chí dữ liệu trên thế giới chịu ảnh hưởng của các xu hướng phát triển của công nghệ kỹ thuật, xu hướng báo chí nói chung và trên hết là xu hướng toàn cầu hoá. Các nghiên cứu đã chỉ ra một số xu hướng đáng chú ý như: - Thời gian dành cho tin tức trên các phương tiện truyền thống đang giảm đi (đối với phát thanh, truyền hình, báo in). - Xu hướng thiếu niềm tin của công chúng đối với báo chí gia tăng, có thể khiến các cơ quan báo chí phải trả giá rất đắt với khán giả và nhà quảng cáo, do đó ảnh hưởng đến doanh
  9. 7 thu. Sâu xa hơn, sự mất niềm tin khiến báo chí phải đánh đổi cả vai trò trung tâm và then chốt trong cộng đồng và xã hội. - Sự tương tác của báo chí với người dùng khi đặt công chúng là trung tâm ngày càng phát triển. - Xu hướng sáng tạo nội dung đi từ một hướng thành đa hướng. Mỗi tác phẩm báo chí có xu hướng được cấu trúc thành nhiều phần, mỗi phần có một đời sống riêng và có thể phát triển tiếp thành một câu chuyện độc lập. - Quá trình toàn cầu hoá đã tác động đến truyền thông đại chúng nói chung, báo chí nói riêng, khiến chúng không ngừng phát triển, đổi mới phương tiện và kỹ năng, tăng cường sức mạnh mở rộng phạm vi ảnh hưởng. Tóm lại, các nghiên cứu đã phân tích, đánh giá và nhấn mạnh đến xu hướng của báo chí dữ liệu trong mối quan hệ với công nghệ mới. Sự phát triển của báo chí dữ liệu theo hướng tích hợp với công nghệ, kỹ thuật và hướng đến người dùng là một thực tiễn khách quan. Việt Nam, trong bối cảnh chung của thế giới, cũng nhanh chóng tiếp nhận những xu hướng đó. Với tư cách là những chuyên gia đi đầu trong lĩnh vực này, các tác giả của các nghiên cứu đã nhanh chóng nắm bắt xu thế, quan sát, tổng hợp, đúc kết từ thực tiễn sinh động thành các nghiên cứu khoa học có giá trị. Các nghiên cứu này tạo tiền đề để mở ra một số hướng nghiên cứu sau, có liên quan trực tiếp đến đề tài luận án: Thứ nhất, các nghiên cứu đã thực hiện chưa có nhiều nghiên cứu trực tiếp về báo chí dữ liệu, mà mới chỉ dừng lại ở các bài báo khoa học, bài báo thường thức hoặc ở một số tài liệu chuyên ngành, song hàm lượng nội dung còn hạn chế. Với đặc điểm mà một loại báo chí liên ngành (báo chí - thiết kế - phát triển ứng dụng), cần có thêm những nghiên cứu theo hướng ứng dụng của khoa học liên ngành này. Thứ hai, theo kết quả nghiên cứu tổng quan, báo chí dữ liệu là loại báo chí gắn với công nghệ máy tính và xu hướng phát triển của loại báo chí này thể hiện rõ nét, đặc trưng nhất ở loại hình báo mạng điện tử và không phát huy được ở báo phát thanh (phiên bản phát thanh). Thứ ba, một khía cạnh khác nữa còn đang bỏ ngỏ trong các nghiên cứu trước là các mô hình báo chí công nghệ nói chung, báo chí dữ liệu nói riêng. Trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0, Toàn cầu hoá lần thứ 3, các mô hình, tổ chức thuộc mọi lĩnh vực đều thay đổi, dẫn đến sự chuyển dịch tất yếu trong mô hình họat động của các cơ quan báo chí. Khi nghiên cứu về xu hướng của báo chí dữ liệu giai đoạn hiện nay của Việt Nam, tác giả nhận thấy cần nghiên cứu về mô hình sản xuất của loại báo chí này, qua đó, nhận thấy những sự đổi thay nhất định của mô hình toà soạn theo hướng công nghệ hoá. Thứ tư, báo chí trong thời đại công nghệ đòi hỏi những thay đổi về cơ chế quản lý, điều hành và giám sát. Những nghiên cứu về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến công nghệ báo chí, cơ chế giám sát của cơ quan quản lý nhà nước về mặt công nghệ (công nghệ quét và lưu trữ thông tin, công nghệ phát hiện lỗi, vi phạm bản quyền…) cũng là những hướng nghiên cứu mới đặt ra đối với các nhà báo chí học trong tương lai. Cuối cùng, các nghiên cứu đã có mở ra một hướng nghiên cứu về lao động của nhà báo công nghệ mới, trong đó có nhà báo dữ liệu, nhà báo thiết kế, nhà báo phát triển ứng dụng... Hướng nghiên cứu này sẽ có những đóng góp nhất định vào tiến trình đào tạo, đạo tạo lại, đào tạo nâng cao đối với đội ngũ nhà báo trong tình hình mới, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nhân lực báo chí hiện tại và tương lai. Có thể nhận thấy, xu hướng báo chí - truyền thông thế giới có ảnh hưởng sâu sắc tới báo chí Việt Nam. Xu hướng các phương tiện truyền thông truyền thống đang suy giảm cả về phát hành, quảng cáo và công chúng, trong khi đó, đang bộc lộ những hạn chế trong thị trường phương tiện, thiết bị thông tin đổi thay từng ngày. Trong bối cảnh đó, sự lên ngôi của các phương tiện truyền thông mới và các hình thức sản phẩm truyền thông mới có tính tương tác
  10. 8 cao, ứng dụng được khoa học công nghệ, tuy có sự khác nhau ở từng quốc gia, vùng lãnh thổ, khiến báo chí không chỉ bị cạnh tranh khốc liệt, mà còn có nguy cơ mất đi thị phần và vai trò, chức năng của mình. Các nghiên cứu về báo chí truyền thông, xu hướng báo chí, báo chí đồ họa, báo chí dữ liệu và các khoa học liên quan đến báo chí trước đây cho thấy, mặc dù có những tri thức vô cùng quý giá đã được đóng góp cho kho tàng báo chí học, song vẫn còn bỏ ngỏ nhiều hướng nghiên cứu gắn báo chí với công nghệ - khoa học. Trong phạm vi báo chí công nghệ, báo chí dữ liệu là loại tổng hợp được tất cả các thế mạnh của cả báo chí, công nghệ và nghệ thuật hình ảnh (visual art). Vì vậy, nghiên cứu báo chí dữ liệu đòi hỏi phải nghiên cứu thành phần các môn khoa học có liên quan: báo chí học, khoa học dữ liệu, hình ảnh hoá dữ liệu và khoa học tâm lý tiếp nhận dữ liệu và hình ảnh dữ liệu của công chúng. Nghiên cứu xu hướng báo chí dữ liệu vì vậy cũng chính là nghiên cứu sự kết hợp, sự tận dụng và sự tối ưu của các thành phần liên quan đến báo chí dữ liệu trong một quá trình. Trên thế giới, nghiên cứu báo chí dữ liệu đã có chiều dài lịch sử khá lâu (khoảng 50 năm), trong khi tại Việt Nam, vì những hạn chế về công nghệ, thói quen sử dụng và tiếp nhận thông tin, dữ liệu và khả năng ứng dụng, thì cả việc nghiên cứu lẫn ứng dụng báo chí dữ liệu đều có nhiều hạn chế về cả thời gian và không gian. Từ những điểm trên, tác giả mạnh dạn tiếp cận nghiên cứu về xu hướng của báo chí dữ liệu tại Việt Nam. Tuy nhiên, sự mới mẻ trong đề tài nghiên cứu và thực tiễn về báo chí dữ liệu ở Việt Nam hiện đặt ra nhiệm vụ khó khăn đối với các nhà nghiên cứu báo chí, trong đó có tác giả. Từ những điểm trên, tác giả mạnh dạn tiếp cận nghiên cứu về xu hướng của báo chí dữ liệu tại Việt Nam, thể hiện chủ yếu trên báo mạng điện tử. Trước hết, tác giả làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài trong Chương 1 của luận án. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA XU HƯỚNG BÁO CHÍ DỮ LIỆU Ở VIỆT NAM 1.1. Lịch sử báo chí dữ liệu Tiền thân của báo chí dữ liệu được biết đến với tên gọi là “Làm báo/báo cáo có sự hỗ trợ của máy tính” (CAR - Computer-Assisted Reporting). Dấu mốc khởi đầu chính thức của báo chí dữ liệu theo nhiều nhà khoa học là năm 1952, khi mạng lưới CBS của Mỹ thử nghiệm sử dụng một máy tính lớn (mainframe) để dự đoán kết quả của cuộc bầu cử Tổng thống. Từ những năm 90 của thế kỷ 20 đến những năm đầu của thế kỷ 21 là thời kỳ bùng nổ những cuộc hội thảo, thảo luận về báo chí dữ liệu trên thế giới. Hội thảo đầu tiên là ở Missouri do Hiệp hội Biên tập và Báo chí điều tra (Investigative Reporters and Editors) và NICAR phối hợp tổ chức. Năm 2009, 2010 và 2011 chứng kiến sự bùng nổ dữ liệu trong quá trình sản xuất tin tức. Năm 2009, báo chí dữ liệu được tổ chức thành một chuyên mục chính thức trên tờ The Guardian (Anh) với tên gọi Datablog. Dấu mốc khiến cả thế giới nhắc đến thuật ngữ báo chí dữ liệu là vụ rò rỉ tài liệu mật gây nên một cuộc chấn động - Wilileaks vào tháng 7/2010 về Nhật ký chiến trường Afghanistan (Afghan War Diaries) và Nhật ký chiến trường Iraq (Iraq War Diaries). Báo chí dữ liệu phát triển lâu dài và mạnh mẽ tại các nền báo chí Âu - Mỹ, song mới mẻ và còn đơn giản ở Việt Nam. Từ những phân tích trên, nghiên cứu sẽ tìm hiểu xu hướng phát triển trong thời gian tới của hình thức báo chí này. 1.2. Xu hướng và xu hướng phát triển của báo chí
  11. 9 Có thể hiểu xu hướng là sự thay đổi hoặc một hướng đi của các chủ thể có mục đích chung trong một thời gian lâu dài. Hướng đi này có ý nghĩa đối với tất cả các chủ thể trong quá trình vận động và phát triển. Xu hướng phát triển của báo chí Việt Nam là sự vận động, phát triển trên cơ sở kế thừa những tiến bộ, tinh hoa của báo chí thế giới và Việt Nam, trên tinh thần giữ vững tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ đạo của Đảng, đường lối, pháp luật của Nhà nước, vì nhân dân và sự phát triển chung của dân tộc. Ngày nay, xu hướng phát triển của báo chí không thể thiếu yếu tố công nghệ cũng như những ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá. Có thể rút ra nhận định: Xu hướng phát triển của báo chí là sự vận động của báo chí trong một thời gian lâu dài, có mục tiêu, ý nghĩa và ảnh hưởng, tác động tích cực đến hệ thống báo chí. Như vậy, xu hướng của báo chí hiện tại là báo chí công nghệ, gắn với dữ liệu, công nghệ hình ảnh và các mạng xã hội, đúng như đặc điểm của thời đại công nghệ 4.0. Những thay đổi của công nghệ và các chính sách của cơ quan quản lý nhà nước về báo chí có tác đông rất lớn đến xu hướng báo chí của Việt Nam. 1.3. Báo chí dữ liệu 1.3.1. Khái niệm Điểm tương đồng trong các khái niệm được đưa ra từ nhiều nguồn khác nhau là đều cho rằng: Dữ liệu là thông tin và được lưu trữ và xử lý bằng máy tính nhằm một mục đích nào đó. Còn cơ sở dữ liệu là tập hợp tài liệu, thông tin liên quan tới phạm vi đề tài nào đó, bao gồm không chỉ các tài liệu văn bản mà còn các loại tranh ảnh, bảng biểu... Hiện tại, khái niệm cơ sở dữ liệu được hiểu như là tập hợp các tóm tắt, lược thuật được đặt trong bộ nhớ của máy tính, hoặc một hệ thống máy tính, rất tiện lợi khi tìm tài liệu, kể cả tài liệu đầy đủ lẫn các từ khóa. Kể chuyện dữ liệu là một cách tiếp cận có cấu trúc để truyền đạt những tri thức về dữ liệu, cấu trúc này là sự kết hợp của ba yếu tố chính: dữ liệu, hình ảnh trực quan và chữ viết (tường thuật). Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về “Báo chí dữ liệu” được các nhà báo, các nhà nghiên cứu đưa ra. Có thể rút ra một khái niệm chung về báo chí dữ liệu như sau: Báo chí dữ liệu là sự phối hợp của các bước nhằm tìm kiếm và thu thập dữ liệu quy mô lớn qua nhiều nguồn khác nhau, sử dụng công cụ là các phần mềm phân tích dữ liệu, phát triển ứng dụng, thiết kế hình ảnh… để tạo ra một tác phẩm báo chí làm nổi bật vấn đề ẩn giấu trong những con số. Báo chí dữ liệu tạo ấn tượng chủ yếu thông qua việc trình bày dữ liệu, chẳng hạn như trực quan hóa nhằm truyền đạt nhanh chóng và mạnh mẽ ý nghĩa của các số liệu hoặc cơ sở dữ liệu đến công chúng. Cụm từ báo chí dữ liệu thường gắn liền với nhiều loại trực quan hóa dữ liệu như: infographic, bảng tổng hợp báo cáo số (dashboard), hình hoạ, đồ thị,.. 1.3.2. Quy trình, đặc điểm của báo chí dữ liệu Để sản xuất một tác phẩm báo chí dữ liệu, thông thường cần ba vị trí là: biên tập viên (nhà báo), thiết kế (đồ họa) và nhà phát triển ứng dụng (coder/ developer). Nhóm sản xuất này sẽ tạo nên bài báo dữ liệu qua các bước như sau: - Bước 1: Tìm nguồn và lọc dữ liệu; - Bước 2: Tạo ý tưởng câu chuyện từ dữ liệu đã được “làm sạch”; - Bước 3: Dùng các công cụ, ứng dụng đồ họa để trực quan hóa dữ liệu; - Bước 4: Dùng công cụ có sẵn, hoặc dùng ngôn ngữ lập trình để thể hiện thiết kế lên trang theo đúng yêu cầu của bài báo; - Bước 5: Xuất bản bài báo dữ liệu.
  12. 10 Các đặc điểm của báo chí dữ liệu thể hiện như sau:  Đặc điểm nội dung - Tính khách quan nhờ tường thuật kết hợp với dữ liệu: có tác dụng giải thích một cách sâu sắc và cụ thể cho độc giả câu hỏi cái gì và tại sao dữ liệu lại như vậy. Để đánh giá đầy đủ và phong phú hơn, tác phẩm có thể thêm bối cảnh và bình luận. - Nội dung trực quan nhờ hình ảnh kết hợp với dữ liệu: giúp độc giả sáng tỏ những điều mà họ sẽ không nhận thấy nếu không có biểu đồ hoặc đồ thị. Nhiều mẫu và ngoại lệ thú vị trong chuỗi dữ liệu có thể bị ẩn trong các hàng và cột của bảng dữ liệu và chỉ được làm rõ với sự trợ giúp của trực quan hóa dữ liệu. - Nội dung hấp dẫn nhờ tường thuật kết hợp với trực quan hình ảnh: có thể thu hút, thậm chí có tác dụng giải trí cho độc giả. Một câu chuyện dữ liệu có màn trình diễn thị giác ấn tượng cũng ảnh hưởng và thúc đẩy sự thay đổi không khác một tác phẩm nghệ thuật nghe nhìn. - Nội dung phong phú và đa dạng nhờ được tạo nên từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, kết hợp chúng lại để nói nên một vấn đề nào đó. Dữ liệu được thu thập từ nhiều nguồn còn gia tăng sự chính xác cho tác phẩm. Việc kết hợp giữa dạng thông tin dữ liệu từ Internet với thông tin từ các nguồn nhà báo có trong quá trình khai thác (chính quyền, cảnh sát, nhân chứng, …) có thể đưa lại những năng lực tin tức ngoài sức tưởng tượng cho một tác phẩm báo chí.  Đặc điểm hình thức Ở báo chí dữ liệu, quan trọng nhất là dữ liệu được thể hiện bằng hình ảnh (bao gồm các hiệu ứng hình ảnh số hoá) thể hiện qua hai đặc trưng: + Cô đọng thông tin bằng hình ảnh hoá dữ liệu. Báo chí dữ liệu cho phép tối ưu khả năng sáng tạo. Một tác phẩm báo chí dữ liệu có khả năng biến một thông tin từ hình thức hàng trăm, hàng nghìn từ (kèm với một vài bức ảnh minh họa, một đoạn âm thanh hay một video ngắn), thành một khối hình ảnh và con số được trình bày logic, dễ hiểu và hấp dẫn, thậm chí tương tác được (ví dụ tương tác với box dữ liệu, video clip, bản đồ…). + Tính đa phương tiện và tương tác cao nhờ dữ liệu được hình ảnh hoá. Trong mỗi tác phẩm báo chí dữ liệu có thể có sự xuất hiện của một hay nhiều loại hình thức trình bày kết hợp như: đồ họa hình ảnh tĩnh, đồ hoạ hình ảnh động, đồ hoạ video, đồ hoạ tương tác (interactive infographics)… Tùy thuộc vào nội dung tác phẩm cũng như khối lượng và tính chất của dữ liệu thu thập được mà bài báo có thể tích hợp đa dạng các phương tiện truyền tải đến với công chúng. Báo chí dữ liệu được thể hiện dưới các hình thức như: đồ hoạ tĩnh, video, đồ hoạ tương tác, siêu tác phẩm báo chí. Các sản phẩm báo chí dữ liệu có nhiều hình thức trình bày đa dạng là nhờ sự phát triển của khoa học công nghệ mà cụ thể là nhờ sự phong phú của các phần mềm thống kê, phần mềm phân tích tài liệu hay các phần mềm thiết kế giúp trực quan hóa dữ liệu thành các biểu đồ, đồ thị, bản đồ. 1.4. Xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu 1.4.1. Khái niệm Xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu là sự vận động của báo chí dữ liệu trong một thời gian, chịu tác động của bối cảnh xã hội, nhu cầu của công chúng, sự phát triển của công nghệ và năng lực của bộ máy nhân sự. Xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu có thể không cần được nghiên cứu trong thời gian dài (lịch đại), do lịch sử phát triển của loại báo chí này ở Việt Nam chưa lâu, thay vào đó, có thể nghiên cứu đồng đại, xem xét trong bối cảnh báo chí hiện đại, dưới tác động của các yếu tố môi trường và xã hội trong nước và có đối chiếu với xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu thế giới. Xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu cũng cần được xem xét ở góc độ có ảnh hưởng tích cực đến hệ thống báo chí.
  13. 11 1.4.2. Đặc điểm của xu hướng báo chí dữ liệu  Đặc điểm xu hướng về nội dung phân tích, dự báo Phân tích xu hướng về nội dung của báo chí dữ liệu, có thể tìm ra sự thay đổi về các đặc điểm nội dung của báo chí dữ liệu thay đổi qua các giai đoạn, hoặc thay đổi theo từng khu vực báo chí khác nhau. Nhìn chung, báo chí dữ liệu với dữ liệu là nội dung thông tin chủ đạo, thường trải qua xu hướng từ đơn giản đến phức tạp, từ mô tả chân thực đến phân tích và phân tích dự báo.  Đặc điểm xu hướng hình thức hướng tới cá nhân hoá Một trong những đặc điểm nhận diện của xu hướng báo chí dữ liệu là sự sáng tạo và tương tác trong hình thức thể hiện, gợi mở nhiều cảm xúc của công chúng. Đặc biệt, xuất hiện hình thức kể chuyện tương tác (story scrolling), một kiểu hình thức thay đổi do các cú lướt chuột (hoặc tay đối với điện thoại thông minh) của người đọc. Có thể thấy, khi báo chí “công nghệ cao”(dựa trên dữ liệu từ các thiết bị cảm ứng, phần mềm tự động cập nhật, camera và máy bay không người lái) đang phát triển ngày càng mạnh, thì cùng lúc báo chí, mạng xã hội lại chọn xu hướng kể chuyện và hướng đến cảm xúc cá nhân của con người hơn  Đặc điểm xu hướng về mô hình toà soạn Sự thay đổi của cấu trúc toà soạn xuất hiện khi nảy sinh nhu cầu và những điều kiện cho phép. Khi mới xuất hiện những tác phẩm báo chí dữ liệu đầu tiên, phóng viên là người phân tích, dẫn dắt câu chuyện dữ liệu và hoạ sĩ dàn trang vẫn là người đóng vai trò thiết kế hình ảnh. Sau này, khái niệm lập trình viên, chuyên gia phân tích dữ liệu và thiết kế đồ hoạ trong toà soạn chỉ ra đời khi những cơ quan báo chí có tiềm lực về kinh tế, tiến bộ về công nghệ và đặc biệt là người đứng đầu toà soạn có tư duy đổi mới về công nghệ và hình thức thể hiện báo chí.  Đặc điểm xu hướng về công nghệ Có thể nói, xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu chịu sự tác động mạnh mẽ nhất từ công nghệ, trong đó có công nghệ viễn thông, công nghệ phần mềm, công nghệ thiết kế đồ hoạ, công nghệ phân tích dữ liệu… Xu hướng phát triển về hình thức của báo chí dữ liệu cũng có thể nhận thấy qua sự tiến bộ về công nghệ hình ảnh. Các hình thức như e-magazine, mega story được nhiều báo khai thác cho các chủ đề lớn (câu chuyện lịch sử, chân dung, phóng sự…). Đặc biệt, xuất hiện hình thức kể chuyện tương tác (story scrolling), một kiểu hình thức thay đổi do các cú lướt chuột (hoặc tay đối với điện thoại thông minh) của người đọc.  Đặc điểm xu hướng về công chúng Xu hướng tiếp nhận thông tin báo chí của công chúng cũng thay đổi bởi những xu hướng vừa được đề cập trên đây của báo chí dữ liệu. Đặc điểm của xu hướng công chúng báo chí dữ liệu thể hiện ở lượng truy cập tác phẩm báo chí dữ liệu so với các tác phẩm báo chí khác, thời gian ở lại trang, nhu cầu theo dõi, tìm hiểu các tác phẩm báo chí dữ liệu khi được phỏng vấn. Trong Chương 1, tác giả đã khái quát một cách cơ bản các vấn đề lý thuyết và thực tiễn nghiên cứu sau: Về lý thuyết, Chương 1 đã đưa ra được hệ thống các khái niệm về báo chí dữ liệu (dữ liệu, câu chuyện dữ liệu, báo chí dữ liệu), các đặc điểm của báo chí dữ liệu, xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu. Theo đó, đưa ra khái niệm báo chí dữ liệu như một loại báo chí công nghệ, là sự kết hợp sâu sắc và linh hoạt của các khái niệm thành viên: báo chí, dữ liệu, câu chuyện dữ liệu, báo chí công nghệ,… Chương 1 cũng đưa ra được khái niệm xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu là sự vận động của báo chí dữ liệu trong một thời gian, chịu tác động của bối cảnh xã hội, nhu cầu của công chúng, sự phát triển của công nghệ và năng lực của bộ máy nhân sự. Các xu thế của báo chí dữ liệu cũng được làm rõ thông qua việc phân tích lịch sử của báo chí dữ liệu, gắn liền
  14. 12 với sự phát triển của công nghệ thông tin, khoa học phân tích dữ liệu và nghệ thuật, kỹ thuật thiết kế, đồ hoạ. Những cơ sở lý thuyết và thực tiễn này là căn cứ để tác giả khảo sát và trình bày các kết quả nghiên cứu thực tế xu hướng báo chí dữ liệu ở Việt Nam trong Chương 2. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA BÁO CHÍ DỮ LIỆU 2.1. Giới thiệu ba tờ báo trong diện khảo sát 2.1.1. Báo điện tử VnExpress (VnExpress.net) VnExpress được thành lập vào ngày 26/2/2001. Hơn một năm sau, 25/11/2002, đây chính thức trở thành tờ báo điện tử độc lập đầu tiên của Việt Nam. Hiện cơ quan chủ quản của báo này là Bộ Khoa học và Công nghệ. VnEpress là một trong những tờ báo Việt Nam đi đầu trong ứng công nghệ vào sản xuất các tác phẩm báo chí. Mỗi ngày, VnExpress xuất bản trung bình 500 tin, bài. 95% trong số đó được viết bởi những nhà báo đa năng sử dụng công cụ biên tập đa nền tảng của tòa soạn. Tờ báo sử dụng rất nhiều các thông tin đồ hoạ để tóm tắt các dữ liệu phức tạp. 2.1.2. Báo điện tử Vietnamplus (www.Vietnamplus.vn) Báo có nhiệm vụ chuyển tải các thông tin đối ngoại bằng các thứ tiếng: Việt, Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Trung Quốc. Ngày 11/9/2008, báo mạng điện tử Vietnamplus được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp phép. Ngày 13/11/2008, tờ báo chính thức kết nối mạng Internet và đi vào hoạt động. Trong khuôn khổ của luận án, nghiên cứu sinh tiến hành nghiên cứu các chuyên mục, mục dành riêng cho báo chí đa phương tiện như: infographics, long-form, mega story. Đây là tờ báo có số lượng và tần suất bài báo dữ liệu ổn định nhất trong 3 tờ được khảo sát. 2.1.3. Báo điện tử Vietnamnet (Vietnamnet.vn) Báo điện tử Vietnamnet.vn là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, có giấy phép báo điện tử số 09/GP-BTTTT cấp ngày 07/01/2019. Tờ báo thực hiện chức năng thông tin, tuyên truyền thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, góp phần giáo dục, nâng cao dân trí, phục vụ đời sống tin thần của người Việt Nam. Đồng thời, đây là một kênh thông tin cung cấp nội dung hoạt động quản lý nhà nước của Bộ Thông tin và Truyền thông. 2.2. Mô tả mẫu khảo sát Đối với khảo sát các đặc điểm và xu hướng báo chí dữ liệu trên các báo trong diện khảo sát, kết quả khảo sát chọn mẫu trên 03 tờ báo là VnExpress.net, Vietnamplus.vn và Vietnamnet.vn trong giai đoạn 02 năm (2017-2018) thu được số bài báo chí dữ liệu như sau: VnExpress.net (436 bài); Vietnamplus.vn (436 bài); và Vietnamnet.vn (200 bài). Như vậy, tổng số bài báo chí dữ liệu tìm được trên 03 tờ báo được chọn là 1072 bài. Ngoài ra, luận án cũng khảo sát ngẫu nhiên thêm 10 tác phẩm báo chí dữ liệu trong năm 2019 và 10 tác phẩm khác trong năm 2020 trên ba tờ báo trong diện khảo sát để làm rõ tính xu hướng cập nhật của báo chí dữ liệu. Bên cạnh đó, để làm tăng sự nhận diện đối với xu hướng báo chí dữ liệu trong nước, luận án có khảo sát chọn lọc một số tác phẩm báo chí dữ liệu trên thế giới từ lúc mới xuất hiện cho đến hiện nay. Đối với khảo sát công chúng báo chí dữ liệu, khảo sát được tiến hành bằng phương pháp gửi bảng hỏi online, sử dụng phần mềm Google Docs với công chúng ở 3 thành phố lớn đại diện ở khu vực miền Bắc, miền Trung và miền Nam, đó là Hà Nội, Đà Nẵng và tp. Hồ Chí Minh. Số lượng bảng hỏi gửi đi là 400, số lượng bảng hỏi thu về được 313 bảng hỏi hợp lệ, trong đó số người trả lời ở Hà Nội là 109 người, Đà Nẵng có 105 người và tp. Hồ Chí Minh có 99 người.
  15. 13 Về độ tuổi: người trả lời có độ tuổi nhỏ nhất là 16 tuổi, cao nhất là 65 tuổi. Độ tuổi trung bình của người trả lời là 26,33 tuổi. Nhìn chung độ tuổi của đa số người trả lời là trẻ trong đó hơn một nửa đang ở độ tuổi đi học phổ thông hoặc cao đẳng, đại học. Về nghề nghiệp: Nghề nghiệp của người trả lời trong mẫu khảo sát chủ yếu rơi vào hai nhóm nghề chính là học sinh, sinh viên (chiếm 52,1%) và cán bộ, công nhân viên chức, nhân viên văn phòng (chiếm 32,3%). Còn lại 9,9% là nhân viên, người làm kinh doanh, dịch vụ và 5,8% số người còn lại là làm lao động tự do và nghề khác. Về giới tính: có 61,7% người trả lời là nữ, 38,0% là nam giới và duy nhất 1 người (0,3%) là giới tính khác. 2.3. Sự thể hiện của báo chí dữ liệu trên các báo Kết quả khảo sát chọn mẫu trên 03 tờ báo là VnExpress.net, Vietnamplus.vn và Vietnamnet.vn trong giai đoạn 02 năm (2017-2018). Điểm nổi bật của các bài báo dữ liệu là hình thức trình bày đẹp. VnExpress có tới hơn 60% các bài báo trình bày dưới hình thúc phi tuyến tính với tích hợp các yếu tố video, đồ hoạ, các siêu liên kết và công cụ điều hướng. Các hình thức này chiếm tỷ trọng lớn, trong khi văn bản chỉ được 13hem dưới dạng chú thích (caption). Thiết kế đồ hoạ, ảnh, video trong bài báo dữ liệu đều đẹp mắt, hiện đại, chuẩn full HD. Ở Vietnamplus, toàn bộ các tác phẩm được xây dựng theo dạng Dòng thời gian (Timeline). Tuy nhiên ở đây, các tác phẩm ở dạng phi tuyết tính, bởi dù các yếu tố sắp xếp theo trình tự trước - sau nhưng thực chất là tổng hợp nhiều bài đăng cùng một chủ đề, dự kiện và được sắp xếp theo mốc thời gian đăng bài. Người đọc hoàn toàn có quyền quyết định đọc phần nội dung nào trước mà không ảnh hưởng đến quá trình và khả năng tiếp cận thông tin.  Lĩnh vực mà bài viết đề cập Trong số các bài báo chí dữ liệu, chỉ có 1 bài là đề cập đến 3 lĩnh vực, còn lại mỗi bài viết chỉ đề cập đến 1 lĩnh vực duy nhất. Các lĩnh vực được đề cập trong các bài viết tập trung vào một số lĩnh vực sau: khoa học - công nghệ (chiếm tỷ lệ 20,9% trong số các bài viết); Kinh tế (19,0%); Chính trị và An ninh - Quốc phòng (17,5%); Đời sống, xã hội (13,3%); Văn hóa, thể thao, du lịch (12,4%, trong đó các bài viết về thể thao chiếm 10,2%); Còn lại là các bài viết đề cập đến các lĩnh vực khác gồm: Y tế-Sức khỏe; Giáo dục; Pháp luật-Tội phạm; Giao thông vận tải; Giải trí; và Môi trường-Biến đổi khí hậu (chiếm 16,8%).  Nguồn gốc dữ liệu và tác phẩm Có 88,1% bài viết thể hiện rõ nguồn gốc của dữ liệu, còn lại 11,9% là không rõ/không xác định được nguồn gốc của dữ liệu. Trong số những bài viết thể hiện được nguồn dữ liệu rõ 13hem thì hầu hết các tác giả sử dụng 02 nguồn dữ liệu phục vụ cho bài viết của mình. Tỷ lệ bài sử dụng 02 nguồn dữ liệu chiếm 90,6%. Còn lại 9,4% bài viết là chỉ sử dụng 01 nguồn dữ liệu. Trong số các nguồn dữ liệu khai thác phục vụ cho bài viết thì nguồn dữ liệu từ việc tác giả thu thập, khai thác từ tài liệu, báo cáo thống kê có sẵn chiếm tỷ lệ cao nhất (chiếm 47,8%), tiếp đến là từ báo chí chính thống (báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng) (chiếm 36,7%). Tỷ lệ bài viết sử dụng nguồn dữ liệu từ truyền thông xã hội/Mạng xã hội chiếm 15,9%. Việc khai thác dữ liệu thông qua phỏng vấn chiếm tỷ lệ rất thấp (1,4%), còn lại là từ nguồn dữ liệu khác (8,8%). Trong số 1.072 bài báo chí dữ liệu thì có 36,9% bài do chính tờ báo viết, có 30,1% bài viết là sự kết hợp giữa chính tờ báo đó và trích từ tờ báo điện tử khác. Có 10,4% bài trích từ tờ báo điện tử khác và 22,7% trích từ nguồn khác. Các bài báo chí dữ liệu đa phần (90,2%) là có số lượng chữ trong phần text là dưới 500 chữ, chỉ có 9,8% có trên 500 chữ. Như vậy, có thể thấy là các bài viết thuộc báo chí dữ liệu đa phần là các bài với dung lượng text là ngắn gọn. Sở dĩ như vậy là do thể loại báo chí này sử dụng các bảng, biểu đồ, đồ họa… để trình bày dữ
  16. 14 liệu là chủ yếu. Tất cả các bài báo chí dữ liệu trong mẫu khảo sát đều có kèm minh họa trong bài viết là hình ảnh hoặc/và biểu đồ hoặc/và bảng và đều có dữ liệu kèm theo.  Hình thức trình bày của tác phẩm dữ liệu Đa số bài viết lựa chọn hình thức trình bày dữ liệu theo 1 kiểu (chiếm 84,2% bài viết), còn lại 13,8% lựa chọn 02 hình thức trình bày dữ liệu và chỉ có 2,0% trong số bài viết kết hợp 03 hình thức trình bày dữ liệu. Trong số các hình thức trình bày dữ liệu thì liệt kê danh sách là hình thức có tỷ lệ bài viết lựa chọn cao nhất (chiếm 30,2%). Tiếp đến là biểu đồ (chiếm 21,0% trong số các bài viết). Có 13,2% bài viết có dữ liệu trình bày theo trình tư thời gian. Có thể thấy là phần lớn các bài báo chí dữ liệu có các bảng, biểu đồ, bản đồ, đồ họa tĩnh chiếm diện tích lớn hơn phần text (chiếm 63,6% số bài). Có 3,4% bài có phần minh họa chiếm diện tích bằng phần text và 10,7% là chiếm chiếm diện nhỏ hơn phần text. Trong khi có 22,2% bài viết không có bất cứ bảng, biểu đồ, bản đồ, đồ họa tĩnh nào.  Màu sắc trình bày dữ liệu Có 23,4% bài viết chỉ sử dụng 01 màu cho các hình minh họa dữ liệu. Tỷ lệ sử dụng 2 màu sắc là 20,5%; 3 màu sắc là 21,9%; 4 màu là 15,6%; có 12,0% bài viết sử dụng từ 5-6 màu; còn lại tỷ lệ bài sử dụng từ 7 màu trở lên là 6,0%.  Phạm vi địa lý mà dữ liệu đề cập Về phạm vi địa lý mà dữ liệu được đề cập, có 36,6% bài viết đưa dữ liệu ở phạm vi quốc tế, toàn cầu và 18,9% đề cập đến quốc gia khác. Trong khi đó, có 36,0% dữ liệu đề cập đến ở phạm vi Việt Nam nói chung, 5,0% bài viết đưa dữ liệu cấp tỉnh, thành phố. Chỉ có 0,2% bài viết đưa dữ liệu ở cấp quận, huyện trong khi không có bài nào đưa dữ liệu ở cấp xã, phường. Còn lại 4,3% bài đưa dữ liệu ở phạm vi địa lý khác.  Cách thức thể hiện dữ liệu Khi đưa dữ liệu, các tác giả có xu hướng lựa chọn dạng thống kê là tần suất/ số lượng để đưa, có 43,5% bài viết lựa chọn dạng thống kê này. Trong khi đó, có 13,7% bài viết sử dụng dạng thống kê là tỷ lệ phần 14hem để mô tả dữ liệu. Chỉ có 2,8% bài viết sử dụng dạng thống kê là phân số (1/2, 2/3, ¾…) Có một tỷ lệ cao (48,2%) các bài báo chí dữ liệu không sử dụng đại lượng thống kê mà sử dụng cách truyền tải dữ liệu bằng biểu tượng, hình ảnh… 2.4. Phương thức sản xuất báo chí dữ liệu Tại ba tờ báo khảo sát, các phương pháp cơ bản để thu thập và xử lý dữ liệu là: - Đọc và nghiên cứu tài liệu từ các bài báo nước ngoài, báo cáo của các cơ quan, tổ chức, tư liệu, tài liệu lịch sử, mạng xã hội… - Phỏng vấn qua hệ thống câu hỏi, bảng hỏi để khai thác và kiểm chứng thông tin; phỏng vấn sâu người trong cuộc hoặc các chuyên gia, cơ quan quản lý và các nhân vật liên quan. - Trực tiếp quan sát, ghi lại thông tin, hình ảnh và phân tích, xử lý. Việc sản xuất các sản phẩm đa phương tiện nói chung, báo chí dữ liệu nói riêng trên các tờ báo thường kết hợp của nhiều phương pháp. Thứ nhất, tờ báo chọn mua giải pháp trực tuyến của nhà cung cấp nước ngoài để áp dụng sản xuất các sản phẩm báo chí theo mẫu (template) sẵn có (Vietnamnet, Vietnam Plus), hoặc 14hem các phần mềm miễn phí. Phương pháp thứ 14hem14à sử dụng đội ngũ công nghệ phần mềm và công nghệ thiết kế có sẵn trong toà soạn để giải quyết các bài toán nội dung. Tại cơ quan Vietnamnet, các nhân sự này thuộc hai bộ phận: Marketing (thiết kế) và Công nghệ thông tin (phát triển ứng dụng). Phương pháp thứ ba là thuê hoặc hợp tác với đối tác bên ngoài để sản xuất các sản phẩm dữ liệu có tính phức tạp và mức độ ảnh hưởng lớn.
  17. 15 2.5. Khảo sát công chúng báo chí dữ liệu tại Việt Nam 2.5.1. Nguồn thông tin của người được khảo sát Kết quả cho thấy trung bình người trả lời theo dõi tin tức từ 2,43 nguồn trong số 6 nguồn được liệt kê. Trong đó, tỷ lệ người trả lời theo dõi tin tức trên mạng xã hội là cao nhất với 87,9%, tiếp đến là báo điện tử với 67,7% trong số người trả lời, và đứng thứ ba là truyền hình với 59,1%. Trong khi đó, báo giấy và phát thanh có tỷ lệ người trả lời theo dõi tin tức trên hai phương tiện này là thấp nhất với tỷ lệ theo dõi tin tức trên phát thanh là 12,8% và báo giấy là 11,2%. Ngoài ra, tỷ lệ rất ít người (4,2%) cho biết họ theo dõi tin tức qua nguồn khác như từ bạn bè, người 15hem và cách thức giao tiếp truyền miệng khác. 2.5.2. Sự ưa thích, hiểu và tiếp cận của công chúng với báo chí dữ liệu Kết quả khảo sát cho thấy đa phần công chúng ưa thích loại hình báo chí có chữ, kèm ảnh, video và audio clip, tỷ lệ này chiếm 56,2% trong số những người trả lời. Bên cạnh đó, loại bài báo có chữ, đồ họa dữ liệu và video dữ liệu cũng được 40,9% người lựa chọn. Trong khi đó, chỉ có 2,9% người trả lời trong mẫu khảo sát thích loại bài báo chỉ có chữ. Nhìn chung, người được khảo sát hiểu được khái niệm dữ liệu bài báo dữ liệu, phân biệt được bài báo dữ liệu và các bài báo khác như bài báo đa phương tiện hay bài báo có hình ảnh minh hoạ. 2.5.3. Nhu cầu của công chúng về loại hình báo chí dữ liệu Để đánh giá về thực trạng, nhu cầu tiếp cận báo chí dữ liệu, tác giả luận án chỉ hỏi những câu hỏi về thực trạng, đánh giá, nhu cầu của công chúng về loại hình báo chí dữ liệu với những người khẳng định đã từng đọc bài báo chí dữ liệu (175/300 người). Theo khái niệm về báo chí dữ liệu đã đưa ra ở Chương 1, tác phẩm báo chí dữ liệu là: “một tác phẩm báo chí làm nổi bật vấn đề ẩn giấu trong những con số… Báo chí dữ liệu tạo ấn tượng chủ yếu thông qua việc trình bày dữ liệu, chẳng hạn như trực quan hóa nhằm truyền đạt nhanh chóng và mạnh mẽ ý nghĩa của các số liệu hoặc cơ sở dữ liệu đến công chúng. Cụm từ báo chí dữ liệu thường gắn liền với nhiều loại trực quan hóa dữ liệu như: infographic, bảng tổng hợp báo cáo số (dashboard), hình hoạ, đồ thị,...”, để khảo sát chính xác nhu cầu của công chúng báo chí đối với báo chí dữ liệu, bảng hỏi của Luận án chia làm 2 phần. Theo đó, phần cơ bản phân loại người được hỏi nhận diện được thế nào là báo chí dữ liệu. Kết quả khảo sát cho thấy trong 175 người trả lời đã từng đọc bài báo chí dữ liệu thì những bài báo đề cập đến lĩnh vực giải trí là chiếm tỷ lệ cao nhất với 56,6%. Tiếp đến là lĩnh vực kinh tế (54,9%) và chính trị (40,0%). Hai lĩnh vực thể thao và pháp luật cùng có tỷ lệ người đọc là 26,3%. Lĩnh vực khác chỉ có một vài người đọc. Để đo mức độ yêu thích này, tác giả luận án đưa ra thang điểm từ 1-5, trong đó, mức độ yêu thích tương ứng với số điểm cho, thấp nhất là 1 và cao nhất là 5. Kết quả khảo sát thu được từ 175 người đã từng đọc tác phẩm báo chí dữ liệu cho thấy trong số các dạng thức thể hiện dữ liệu thì công chúng có vẻ yêu thích loại Video nhất với điểm trung bình đánh giá là 3,81 điểm, tiếp đến là Infographic So sánh với điểm trung bình là 3,69. Điểm đánh giá trung bình thấp nhất là Infographic Trình tự thời gian. Đa phần trong số 175 người trả lời đã từng đọc tác phẩm báo chí dữ liệu đưa lí do cho việc đọc bài báo dạng này là vì nó mang lại nhiều thông tin nhưng dễ hiểu và trực quan (128/175 người, chiếm 73,1%). Lí do nhận được số lựa chọn đứng thứ 15hem15à bởi bài báo chí dữ liệu có hình thức đẹp (29/175 người, chiếm 16,6%). Các lí do khác gồm đọc cho vui, tò mò hay không có mục đích cụ thể chiếm tỷ lệ thấp, từ 1,1%-4,6%. Trong khi có 68/172 (chiếm 39,5%) người lựa chọn cách đọc tiêu đề, sapo, xem hình ảnh thì có 67/172 người (39,0%) lại chọn cách đọc và tìm hiểu 15hem về các dữ liệu trong tác phẩm. Số còn lại, 37/172 người (21,5%) lựa chọn cách xem kĩ toàn bộ nội dung trong bài.
  18. 16 Về cách đọc thông tin, trong khi có 68/172 (chiếm 39,5%) người lựa chọn cách đọc tiêu đề, sapo, xem hình ảnh thì có 67/172 người (39,0%) lại chọn cách đọc và tìm hiểu 16hem về các dữ liệu trong tác phẩm. Số còn lại, 37/172 người (21,5%) lựa chọn cách xem kĩ toàn bộ nội dung trong bài. Có 104/175 người (chiếm 59,4%) muốn dữ liệu dạng mô tả-minh họa, trong khi đó, có 38/175 người (chiếm 21,7%) muốn dữ liệu dạng phân tích và xấp xỉ một nửa số người trả lời, 87/175 người muốn dữ liệu dạng phân tích, dự đoán. 2.6. Nhận diện các xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu 2.6.1. Mô hình hướng nhân sự báo chí biết công nghệ là trọng tâm Mô hình tổ chức ở toà soạn có sản xuất báo chí dữ liệu tại Việt Nam thường như sau: Hình 16 : Mô hình toà soạn có bộ máy sản xuất báo chí dữ liệu tại Thông tấn xã Việt 1 Nam Nhìn chung, mô hình toà soạn có sản xuất các sản phẩm báo chí công nghệ, trong đó có báo chí dữ liệu thường có các yếu tố sau: TBT - Trưởng ban/ Biên tập  Tổng hợp (đạo diễn/phụ trách dự án)  Phóng viên, lập trình viên, thiết kế Nhìn chung ở các toà soạn, xu hướng nhân sự báo chí dữ liệu vẫn dừng ở mức chuyên môn cơ bản, chưa có nhân sự chuyên sâu về khoa học dữ liệu, truyền thông thị giác cũng như quản lý dự án báo chí dữ liệu. Quy trình, bộ máy tổ chức sản xuất báo chí ở 3 tờ báo được khảo sát đã và đang có những sự chuyển dịch mạnh theo hướng công nghệ - dữ liệu. 2.6.2. Phương thức sản xuất theo hướng tích hợp đa công cụ Ngày nay, sản xuất báo chí dữ liệu thường kết hợp nhiều phương pháp khác nhau để tối ưu hiệu quả mà vẫn tiết kiệm được chi phí và thời gian. Phương thức sản xuất báo chí dữ liệu thường diễn ra theo các xu hướng sau: Thứ nhất, tờ báo chọn mua giải pháp công nghệ (công cụ) trực tuyến của nhà cung cấp nước ngoài để áp dụng sản xuất các sản phẩm báo chí theo mẫu (template) sẵn có (Vietnamnet, Vietnam Plus), hoặc dùng các phần mềm miễn phí. Công cụ này cho phép sản phẩm báo chí được tạo ra nhanh chóng và hiệu quả. Tuy nhiên, cách thức này có hạn chế về mặt hình thức, do mẫu đã cố định sẵn. Phương pháp này thường được dùng cho các tác phẩm thuộc thể loại tin, cần đưa nội dung nhanh, hình thức trực quan, dễ hiểu. Phương thức thứ hai là sử dụng đội ngũ công nghệ phần mềm và công nghệ thiết kế có sẵn trong toà soạn để giải quyết các bài toán nội dung. Tại cơ quan Vietnamnet, các nhân sự này thuộc hai bộ phận: Marketing (thiết kế) và Công nghệ thông tin (phát triển ứng dụng). 1 Nguyễn Đức Vũ, 2018, Hội tụ truyền thông tại Thông tấn xã Việt Nam, Nội san Thông tấn số 03/2018
  19. 17 Nhược điểm của phương pháp này là việc sản xuất bài báo dữ liệu sẽ tốn nhiều thời gian, nhân lực trong cả khâu sản xuất và biên tập; đồng thời tác phẩm thường có dung lượng nặng hơn các tác phẩm theo mẫu sẵn. Tuy nhiên, ưu điểm của phương pháp này là tác phẩm rất sáng tạo, độc đáo, thể hiện rõ đặc điểm và quan điểm của đội ngũ sản xuất. Đây là phương pháp thường được các tờ báo lớn trên thế giới ưa dùng, đặc biệt cho các tác phẩm cần thể hiện quan điểm của toà soạn. Phương thức thứ ba là thuê hoặc hợp tác với đối tác bên ngoài để sản xuất các sản phẩm dữ liệu có tính phức tạp và mức độ ảnh hưởng lớn. Tại các toà soạn hiện nay, thường kết hợp hai hoặc ba phương pháp để đảm bảo tối ưu sản xuất, tuỳ từng yêu cầu đối với tác phẩm cụ thể. Hiện nay, một số tòa soạn báo có công nghệ vượt trội có xu hướng tổ chức một nhóm riêng gồm nhân sự phát triển ứng dụng và thiết kế. Nhân sự thiết kế sẽ xây dựng hình thức của câu chuyện dữ liệu. Kỹ thuật viên phát triển ứng dụng sẽ tiếp nhận bài toán từ thiết kế và mô tả từ biên tập nội dung rồi ghép code ra một trang báo chí dữ liệu đặc sắc của riêng tờ báo đó. Điều này đòi hỏi nhân sự thiết kế phải hiểu biết rõ nội dung, đồng thời, các thành viên trong nhóm phải rất rõ điều kiện kỹ thuật của tờ báo để công việc sản xuất được khả thi (ví dụ tác phẩm xem được trên tất cả các màn hình sẽ được sản xuất khác với tác phẩm chỉ xem trên một màn hình). 2.6.3. Xu hướng gia tăng hình ảnh đồ hoạ phức tạp, có hàm lượng thông tin cao Hình thức của các tác phẩm báo chí dữ liệu trong 5 năm qua có xu hướng thể hiện hình ảnh và có tính tương tác ngày càng cao, sự logic trong hình thức thể hiện cũng ngày càng chặt chẽ. Từ chỗ thiên về mô tả, trình diễn, các tác phẩm báo chí dữ liệu hiện nay có xu hướng phân tích chuyên sâu hơn. Theo kết quả khảo sát, báo chí hiện nay có xu hướng sử dụng nhiều hình thức đồ họa dữ liệu tích hợp trong cùng một bài báo. Xu hướng báo chí dữ liệu ở Việt Nam hiện mới chỉ dừng ở minh họa là chủ yếu, hình thức trình bày tương đối đơn giản bằng biểu đồ, đồ thị. Xu hướng tới đây với sự chuyên sâu về thông tin chuyên ngành, cùng với dân trí ngày càng tăng cao, nhu cầu thông tin phân tích sâu sẽ chiếm ưu thế. Trên thế giới, nhiều bài dữ liệu dạng tích hợp, có cả hình ảnh, cả tệp dữ liệu để người đọc tải về để khai thác tiếp dữ liệu đó. 2.6.4. Xu hướng nội dung tăng về số lượng và phân tích dữ liệu Xu hướng báo chí dữ liệu ở Việt Nam hiện mới chỉ dừng ở minh họa là chủ yếu, hình thức trình bày tương đối đơn giản bằng biểu đồ, đồ thị. Xu hướng tới đây với sự chuyên sâu về thông tin chuyên ngành, cùng với dân trí ngày càng tăng cao, nhu cầu thông tin phân tích sâu sẽ chiếm ưu thế. Trên thế giới, nhiều bài dữ liệu dạng tích hợp, có cả hình ảnh, cả tệp dữ liệu để người đọc tải về để khai thác tiếp dữ liệu đó. Khảo sát cho thấy, sau khi xác định đề tài và hình thành ý tưởng, nhà báo bắt đầu tiến hành thu thập, khai thác và xử lý thông tin cho tác phẩm. Dữ liệu là hạt nhân của tác phẩm, cũng chiếm nhiều diện tích và sự đầu tư trong thiết kế để thể hiện nhất. Ở nhiều cơ quan báo chí nước ngoài, đây là khâu có thể dùng sự trợ giúp của chuyên gia phân tích dữ liệu. Nếu không có lao động của con người, các nhà báo dữ liệu sẽ dùng các phần mềm để sắp xếp, làm sạch dữ liệu. Công cụ phổ biến và dễ dùng nhất là Excel, ngoài ra còn có một số công cụ trực tuyến khác như Google Table Fusion… 2.6.5. Xu hướng tăng nhu cầu đối với các nguồn dữ liệu mở Báo chí dữ liệu phát triển luôn gắn liền với các kho dữ liệu mở và dễ tiếp cận. Hiện, đa số tòa soạn báo tận dụng nguồn nội dung từ các nguồn dữ liệu như Ngân hàng thế giới, các cơ quan của Liên hợp quốc (UNDP, UN) hay các tổ chức phi chính phủ... Ngoài ra, một số cơ quan báo chí lớn đã tự xây dựng các ngân hàng dữ liệu cho mình.
  20. 18 Tại Zing.vn, Tổng Biên tập [PVS-Mã 06] cho biết, khoảng gần 4 năm gần đây Zing tập trung vào các hình thức truyền tải hấp dẫn hơn ví dụ như bài infographics, bài dữ liệu… nhưng bài dữ liệu không nhiều vì ở Việt Nam số liệu không nhiều, không cụ thể. Số liệu lấy từ Tổng cục thống kê hay các cơ quan không phù hợp làm bài data sâu. 2.6.6. Xu hướng tương tác của công chúng gia tăng với tác phẩm báo chí dữ liệu Hiện nay, có một thực tế là mặc dù hiệu ứng từ bài báo dữ liệu cao hơn vì nội dung đề tài chọn lọc, thể hiện ấn tượng, nhưng xét về lượt xem thì vẫn chưa bằng bài dạng chữ truyền thống. Một phần do bài báo dữ liệu thường là bài tĩnh, đề tài chậm thời sự do cần tập hợp và xử lý dữ liệu. Trong khi đó, các đề tài nóng thường hút người xem hơn. Vì vậy, có thể nói, đến thời điểm này, công chúng chưa mặn mà với báo chí dữ liệu. Song, nhiều tổng biên tập cho rằng, đây là loại báo chí tương lai chắc chắn phát triển do ưu thế thông tin minh bạch, hình thức thân thiện và hấp dẫn. Nhiều tờ báo điện tử ở Việt Nam hiện nay đã xác định báo chí dữ liệu là xu hướng tất yếu với giá trị lõi là thông tin dữ liệu trực quan, mục tiêu là thu hút công chúng có tri thức, công chúng hiện đại trong bối cảnh cạnh tranh trực tiếp với thông tin trên mạng xã hội. Như vậy, để tiệm cận với thế giới và đáp ứng tốt hơn nhu cầu người đọc, xu hướng báo chí dữ liệu tại Việt Nam sẽ thay đổi trước tiên về tính thời sự và “độ dày” của dữ liệu. Trong vòng 5 năm qua, dù báo chí dữ liệu đã gia tăng về số lượng và có cải thiện về chất lượng thông tin, hình ảnh, tốc độ đăng tải, song vẫn chưa thật sự đáp ứng được những nhu cầu trên của độc giả. Trong chương 2 tác giả đề cập đến xu hướng báo chí dữ liệu Việt Nam đang tiệm cận với xu hướng báo chí dữ liệu thế giới từ nội dung, hình thức, nhân sự, bộ máy toà soạn, ứng dụng công nghệ, công chúng… Từ thực trạng báo chí dữ liệu và xu hướng phát triển của báo chí dữ liệu qua khảo sát trên ba tờ báo VnExpress, Vietnamplus và Vietnamnet, có thể nhận thấy báo chí dữ liệu ở Việt Nam đang phát triển khá nhanh tại Việt Nam. Các bài báo dữ liệu được sản xuất với số lượng ngày càng tăng, hình thức thể hiện đa dạng, đẹp mắt với các ứng dụng công nghệ như đồ họa hình ảnh 2D, 3D, tương tác (interactive)… Các lĩnh vực nội dung phản ánh trên các bài báo dữ liệu ngày càng mở rộng, không chỉ ở các lĩnh vực truyền thống như kinh tế, xã hội, pháp luật mà còn trên hầu khắp chuyên mục khác nhau như văn hóa, giải trí, giáo dục… Tuy nhiên, từ đó cũng có những khó khăn và thách thức đối với sự phát triển của báo chí dữ liệu trong thời gian tới. Những vấn đề đặt ra và giải pháp nâng cao hiệu quả của báo chí dữ liệu sẽ được phân tích cụ thể ở Chương 3. Chương 3 NHỮNG VẤN ĐÊ ĐẶT RA VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XU HƯỚNG BÁO CHÍ DỮ LIỆU TẠI VIỆT NAM 3.1. Những mâu thuẫn trong thực tế vận động, phát triển của báo chí dữ liệu 3.1.1. Sự mâu thuẫn giữa nhu cầu của công chúng và khả năng đáp ứng của báo chí dữ liệu - Quan điểm báo chí dữ liệu là loại tác phẩm trình diễn, không mang lại lợi nhuận nên không đầu tư sản xuất nhiều. Tại nhiều toà soạn, lãnh đạo toà soạn dưới áp lực doanh thu nên thường không đặt yêu cầu về số lượng đối với các tác phẩm báo chí dữ liệu. Vì thiếu sự thường xuyên nên công chúng vẫn chưa đón nhận báo chí dữ liệu như một “món ăn tinh thần” quen thuộc. - Công chúng có nhu cầu mong muốn xem nhiều bài báo ít chữ nhưng nhiều dữ liệu và hình ảnh trực quan, nhưng báo chí dữ liệu trong nước chủ yếu thể hiện dạng ngắn, đơn giản, ít
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2