intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Dạy học tác phẩm tự sự ở trường trung học phổ thông với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:28

68
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án nhằm đề xuất những định hướng và biện pháp dạy học trung học phổ thông (TPTS) có sự hỗ trợ của Công nghệ thông tin (CNTT) một cách phù hợp, tích cực nhằm góp phần giải quyết những khó khăn trong thực tiễn dạy học hiện nay, từ đó nâng cao hiệu quả dạy học, đáp ứng tốt mục tiêu môn học đã đề ra.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Dạy học tác phẩm tự sự ở trường trung học phổ thông với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin

  1. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Tự  sự  học đã tác động mạnh mẽ  đến nghiên cứu, phê bình văn học   cũng như  việc dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường nói chung và dạy học   tác phẩm tự  sự  (TPTS) nói riêng; đòi hỏi những thay đổi về  mục tiêu, nội   dung và phương pháp dạy học.  1.2. Tác phẩm tự sự có một vị trí quan trọng trong chương trình, sách giáo   khoa (SGK) ở trường trung học phổ thông (THPT).  1.3. Sự  đổi mới mạnh mẽ  của mục tiêu giáo dục nói chung và mục tiêu   dạy học đọc văn nói riêng. Đi cùng với sự đổi mới về mục tiêu, Bộ Giáo dục  và Đào tạo cũng đề  ra những định hướng đổi mới. Chỉ  thị  29/2001/CT­ BGD   và ĐT đã nhấn mạnh: “Đẩy mạnh  ứng dụng công nghệ  thông tin trong giáo  dục và đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng   công nghệ thông tin như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho việc đổi mới   PPDH ở tất cả các môn học”.  1.4. Thực tế dạy học TPTS ở trường THPT  hiện nay  chưa đáp ứng được mục  tiêu cần đạt cả về kiến thức và kĩ năng. GV và HS gặp nhiều khó khăn trong  quá trình dạy và học TPTS. Thực trạng dạy học TPTS với sự hỗ trợ  ở THPT   của CNTT hiện nay tồn tại nhiều vấn đề cần trao đổi, nghiên cứu. 1.5. Việc dạy học TPTS với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin (CNTT) có   những đặc trưng riêng và tỏ ra đắc dụng trên nhiều phương diện.  Xuất phát từ những lí do trên mà tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài:  Dạy học   tác phẩm tự sự ở trường trung học phổ thông với sự hỗ trợ của công nghệ thông   tin.  2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích:  nhằm đề  xuất những định hướng và biện pháp dạy học  TPTS có sự hỗ trợ của CNTT một cách phù hợp, tích cực nhằm góp phần giải   quyết những khó khăn trong thực tiễn dạy học hiện nay, từ đó nâng cao hiệu   quả dạy học, đáp ứng tốt mục tiêu môn học đã đề ra. 2.2. Nhiệm vụ  nghiên cứu:  khảo sát, phân tích, tổng hợp, đánh giá tổng  quan tình hình nghiên cứu của đề tài và các vấn đề liên quan; điều tra, khảo sát   thực trạng; xác lập cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề  nghiên cứu; đề  xuất  các định hướng và biện pháp dạy học; thực nghiệm sư phạm. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu trung tâm của luận án  là vấn đề  biện pháp dạy học tác phẩm tự sự ở THPT với sự h ỗ trợ của công   nghệ  thông tin;   không phải là biện pháp dạy học chung chung như  trong lí  luận dạy học hay trong các công trình nghiên cứu khác mà điểm khác của luận   án là “có sự hỗ trợ của CNTT”. 1
  2. “Hỗ  trợ” nghĩa là “giúp đỡ  lẫn nhau, giúp đỡ  thêm vào”. Với cách hiểu   này, CNTT  ở  đây đóng vai trò chủ  yếu là phương tiện, nó không chủ  đạo,  không thay thế  nhưng có thể  làm cho việc dạy học TPTS trở  nên hấp dẫn,   sinh động hơn, nhẹ nhàng hơn và góp phần mang lại hiệu quả cao hơn. Dù  là hỗ  trợ  và là phương tiện nhưng CNTT  ở  đây không được sử  dụng như  một sự  lắp ghép, kết hợp cơ  học mà người nghiên cứu nhấn mạnh đến sự  tích hợp giữa dạy TPTS với sự hỗ  trợ của CNTT nghĩa là nhấn mạnh đến   sự  gặp gỡ   ở  những “miền trung gian”,  m ột sự hòa kết thành chỉnh thể  giờ  học thống nhất từ  trong nội l ực, trong b ản ch ất c ủa bi ện pháp dạy học và   CNTT theo nghĩa gốc của thuật ngữ “tích hợp”...  3.2. Phạm vi nghiên cứu: Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 ­ 11 ­ 12, bộ cơ  bản; khảo sát thực trạng và thực nghiệm sư  phạm  ở một số trường THPT  ở  tỉnh Thừa Thiên Huế, Quảng Bình, Gia Lai, Thanh Hóa, Quảng Nam… 4. Phương pháp nghiên cứu:  Phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương   pháp điều tra thực tiễn;  Phương pháp thực nghiệm sư  phạm, Phương pháp   thống kê... 5.  Giả  thuyết  khoa học:   Vấn  đề   dạy học   TPTS  với   sự   hỗ  trợ  của   CNTT hiện còn nhiều bất cập, chưa phát huy được những thế  mạnh của   CNTT cũng như  chưa có sự  kết hợp, hỗ  trợ  linh hoạt, hiệu quả  gi ữa các   biện pháp dạy học và các tính năng của CNTT vào việc thể  hiện đặc trưng   bài học và đi đến mục tiêu dạy học một cách tối  ưu. Nếu nghiên cứu đề  xuất đượ c những định hướng và biện pháp dạy học TPTS với sự hỗ trợ của  CNTT một cách phù hợp thì không những góp phần giải quyết các vấn đề  bất cập của thực tiễn dạy học mà còn đáp  ứng được những yêu cầu mới,   nâng cao hiệu quả dạy học TPTS ở trường THPT hi ện nay. NỘI DUNG Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu về  tự  sự, tác phẩm tự  sự  và dạy học tác   phẩm tự sự 1.1.1. Tình hình nghiên cứu về tự sự và tác phẩm tự sự Đặt nền móng cho những cơ sở ban đầu của lí thuyết tự sự học là trường phái  hình thức Nga. Tuy nhiên, phải đến chủ nghĩa cấu trúc thì bộ môn tự sự học mới  được ra đời với sự góp mặt của R. Barthes, Tz. Todorov, A. J.Greimas, G. Genette…   R. Barthes trong Nhập môn phân tích cấu trúc truyện kể (1966) đã đề cập cụ  thể những phương diện trọng yếu của nghệ thuật trần thuật trong mối quan hệ  với tác phẩm văn chương. T. Todorov với  Thi pháp văn xuôi đã quan tâm đến  vấn đề tự sự học, từ góc nhìn lí thuyết ứng dụng. Đặc biệt, Gérard Genette đã  đề xuất nhiều thuật ngữ quan trọng của lĩnh vực tự sự học qua các công trình   Những hình thái (Figures) và tác phẩm Diễn ngôn mới của truyện kể (Những  vấn đề như ngôi, giọng điệu, tác giả, người kể chuyện, người nghe chuyện…). Ở Việt Nam, một trong những người đầu tiên quan tâm và có những công  trình nghiên cứu lớn về tự sự học là GS. Trần Đình Sử. Tác giả đã  không chỉ  2
  3. hệ thống, khái lược những vấn đề về lí thuyết tự sự mà còn  cắt nghĩa những  khái niệm thuộc về trần thuật học như vấn đề  người kể  chuyện và chủ  thể   trần thuật; điểm nhìn trong văn bản; mô hình tự sự… (công trình Dẫn luận   thi pháp học). Đặc biệt, Tự  sự  học (Trần Đình Sử  ­ chủ  biên), tập 1 ­ 2 là  công trình tập hợp được nhiều bài viết của nhiều nhà nghiên cứu cả trên lĩnh   vực lí thuyết cũng như  ứng dụng. Công trình này đã lược dịch, lí giải, làm rõ   quan điểm của những nhà lí luận trên thế giới về tự sự học và TPTS như vấn   đề  điểm nhìn, người kể  chuyện, cấu trúc tự  sự…  Ở  công trình này còn có  một số bài viết đã sử dụng lí thuyết tự sự để soi chiếu vào văn bản tác phẩm  cụ thể.  Ngoài ra, các cuốn Tự  sự  học: một số  vấn đề  lí luận và lịch sử (Trần  Đình Sử  chủ  biên) hay bài viết  Tiếp cận Genette qua một vài khái niệm   trần thuật (Lê Phong Tuyết) đã góp phần làm sáng tỏ một số phương diện cụ  thể của lí thuyết tự sự học. Giáo trình Lí luận văn học (Trần Đình Sử), tập 2, phần Tác phẩm và thể   loại: nghiên cứu về  vấn đề  khái niệm, phân loại, đặc trưng… của truyện và  tiểu thuyết. Giáo trình còn đề cập đến các vấn đề cơ bản khác của TPTS như  sự   kiện,   cốt   truyện,   trần   thuật   và   các   yếu   tố   của   trần   thuật:   người   kể  chuyện, ngôi trần thuật, vai  trần thuật,  điểm nhìn trần thuật, lược thuật,   dựng cảnh, miêu tả  chân dung, phân tích, bình luận và giọng điệu. Chương   Nhân vật văn học với các nội dung như  khái niệm, đặc trưng, chức năng và  các yếu tố của nhân vật cũng là một vấn đề lí luận quan trọng về TPTS.  1.1.2. Tình hình nghiên cứu về dạy học tác phẩm tự sự ­ Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể ­ Trần Thanh Đạm (chủ  biên).  ­  Phương   pháp   dạy   học   tác   phẩm   văn   chương   (Theo   loại   thể)  và  Phương   pháp   dạy   học   tác   phẩm   văn   chương   trong   nhà   trường   của  PGS.TS. Nguyễn Viết Chữ.  Ngoài ra, những giáo trình, những nghiên cứu về  phương pháp dạy học   Ngữ  văn  ở  phổ  thông của các tác giả  khác như  Phan Trọng Luận, Nguyễn   Thanh Hùng, Nguyễn Thị Thanh Hương,… dù không trực tiếp bàn về vấn đề  dạy học TPTS hoặc chỉ đề  cập đến như  một đối tượng trong phân môn đọc   hiểu nhưng trong những đề xuất về phương pháp dạy học tác phẩm văn học  nói chung cũng đã có lưu ý về thể loại nên cũng là những gợi ý làm cơ sở quý   giá cho việc nghiên cứu của đề tài.  Dạy học TPTS còn là một vấn đề  quan tâm của nhiều nghiên cứu sinh,   học viên cao học, sinh viên cũng như các thầy cô giáo đang trực tiếp đứng lớp   giảng dạy môn Ngữ văn ở THPT.  Tóm lại, có rất nhiều công trình nghiên cứu về  dạy học TPTS của nhiều   đối tượng khác nhau. Nhìn chung, những công trình này đều tập trung đi vào   đặc trưng cơ  bản của thể  loại để  đề  xuất những định hướng, những cách   thức dạy học  tương  ứng nhằm  nâng  cao  hiệu quả  dạy học.  Đây  cũng là  3
  4. những gợi ý khá sát với đề tài, từ đó người nghiên cứu có thể vận dụng, phát   triển theo hướng phối hợp với sự hỗ trợ của CNTT nhằm đưa ra những định  hướng, biện pháp vừa có tính khái quát cho loại hình tự sự nói chung vừa có   tính cụ  thể  cho vấn đề  sử  dụng công nghệ  một cách hiệu quả, phù hợp với  các văn bản tự  sự  trong SGK  ở THPT, đáp  ứng những yêu cầu và đặc trưng  của dạy học đổi mới. 1.2. Tình  hình  nghiên  cứu  vấn   đề  khai  thác  công nghệ, công nghệ  thông tin hỗ trợ dạy học  1.2.1. Trên thế giới ­ Teaching tips ­ Những “bí quyết” dạy học (McKeachie ­ chủ biên). ­  Teaching with Technology ­ Dạy học với công nghệ  (Simon Hooper ­  College of Education University of Minnesota and Lloyd P. Rieber Department of  Instructional Technology ­ The University of Georgia. ­ Implementing seven principles ­ technology as lever (Arthur. V.Chickering  and Stephen. C. Ehrmann) (Triển khai thực hiện bảy nguyên tắc: Công nghệ  như là đòn bẩy). Đặc biệt, nhiều trang web của nhiều trường đại học trên thế  giới có hẳn những diễn đàn tập hợp rất nhiều bài viết, bài nghiên cứu về vấn   đề sử dụng CNTT vào dạy và học. Tất cả các bài viết đều khẳng định sự cần  thiết của việc  ứng dụng công nghệ  vào dạy học cũng như  khẳng định những   ưu điểm nổi bật của nó, đề  xuất những cách thức  ứng dụng hỗ  trợ  cho hoạt   động dạy và học. Những bài viết này cũng đã đề cập đến những khó khăn hay  những hạn chế thường gặp phải khi  ứng dụng công nghệ  vào dạy học, đó là   mất nhiều thời gian, HS dễ  lạc hướng, công nghệ  dễ  “dẫn GV đến các khu   nghỉ  dưỡng để  sao lưu”; công nghệ  thay đổi nhanh chóng đòi hỏi GV và HS   phải cập nhật liên tục… 1.2.2. Ở Việt Nam Điểm qua các công trình nghiên cứu cho thấy việc sử dụng CNTT vào dạy  học hiện nay đã được các nhà khoa học, các nhà giáo dục quan tâm nghiên cứu  và đưa vào sử  dụng trong thực tế  dạy học  ở  nhiều bộ  môn khác nhau, với  nhiều đối tượng khác nhau; đồng thời cũng khẳng định việc sử  dụng CNTT   vào dạy học là một hướng đi đúng đắn để  góp phần nâng cao hiệu quả  dạy   học, mang lại diện mạo mới, chất lượng mới cho nền giáo dục nước nhà. 1.3. Tình hình nghiên cứu vấn đề khai thác công nghệ thông tin hỗ trợ  dạy học Ngữ văn và dạy học tác phẩm tự sự với sự hỗ trợ của công nghệ  thông tin 1.3.1. Tình hình nghiên cứu vấn đề  khai thác công nghệ  thông tin hỗ   trợ dạy học Ngữ văn 1.3.1.1. Trên thế giới Lược qua các bài viết trên có thể  thấy những vấn đề  được thống nhất như  sau: 4
  5. ­  Các bài  viết   đều khẳng  định  những  ưu  điểm  nổi  trội, các  tính năng   CNTT hỗ  trợ  dạy học văn. Ngoài ra, các bài viết cũng nhấn mạnh đến  ưu   điểm của CNTT trong việc phát huy năng lực và vai trò chủ thể  tích cực của  người học... ­ Các bài viết cũng chỉ  ra một số hình thức hỗ trợ của CNTT đối với dạy   học văn, đặc biệt nhấn mạnh  ưu thế  của hình thức sử  dựng webquest; đề  xuất một số dự án có thể thực hiện trong quá trình dạy học Văn với sự hỗ trợ  của CNTT theo từng thể  loại như  tiểu thuyết, thơ; đề  xuất các chiến lược   khai thác CNTT hỗ trợ đọc hiểu… Tóm lại, những bài viết trên đã đề xuất rất   nhiều các  ưu điểm cũng như  những hình thức hỗ  trợ của CNTT đối với dạy  học văn nói chung và dạy học TPTS nói riêng (tiểu thuyết), từ  những hình   thức hỗ  trợ  việc tổ chức dạy học trực tiếp  ở lớp (cung cấp tài nguyên điện   tử, hỗ  trợ  hình thức trình bày, kích thích động cơ, hứng thú học tập…) đến   những hình thức học tập trực tuyến qua webquest, blog…  Đây là những gợi ý hết sức hiện đại cho tác giả luận án để có thể tiếp thu   trong phạm vi dạy học TPTS  ở  trong nhà trường THPT và trong điều kiện   thực tiễn nhà trường ở Việt Nam.   1.3.1.2. Ở Việt Nam Vấn đề  khai thác,  ứng dụng CNTT hỗ  trợ  dạy học Ngữ  văn được nhiều  nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu. Tiêu biểu như  GS. Phan Trọng Luận với  Ứng dụng công nghệ  thông tin trong dạy học các môn Khoa học xã hội   nhân văn; PGS.TS. Đỗ Ngọc Thống với Ứng dụng công nghệ thông tin vào   dạy học Ngữ Văn… đã khẳng định tính tất yếu và tính hiệu quả khi khai thác   CNTT hỗ  trợ  dạy học Ngữ  văn nói chung. Tuy nhiên, các tác giả  cũng nhấn  mạnh cần thận trọng khi UDCNTT vào dạy học tác phẩm văn chương. Khai   thác công nghệ thông tin hỗ trợ dạy học Ngữ văn cũng là một chủ đề  thu hút   được nhiều sự quan tâm của các thầy cô giáo trên các diễn đàn, các trang web   của các trường Đại học, THPT. Những bài viết này dưới hình thức chủ yếu là   sáng kiến kinh nghiệm của những GV trực tiếp đứng lớp nên đã đúc kết lại   những kinh nghiệm của mình trên các phương diện  ưu điểm ­ hạn chế  của   việc UDCNTT vào dạy học Ngữ văn, một số cách thức ứng dụng cụ thể như  cách thiết kế  giáo án điện tử, cách khai thác một số  thế  mạnh của CNTT   phục vụ cho các bài dạy học cụ thể, chủ yếu là Tiếng Việt và Làm văn. Đọc   văn chủ  yếu được  ứng dụng cho kiểu văn bản lịch sử  văn học, lí luận văn   học… UDCNTT vào dạy học Ngữ  văn cũng là một địa hạt thu hút nhiều  nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên.  Có thể  nói, những công trình nghiên cứu về  UDCNTT vào dạy học Ngữ  văn chủ  yếu tập trung vào phần Tiếng Việt và Làm văn hoặc các đề  tài đề  cập một cách chung chung vào dạy học Ngữ văn, dạy học tác phẩm văn học.   UDCNTT vào dạy học đọc ­ hiểu nhìn chung còn nhiều ý kiến e ngại do tính  chất cảm xúc đậm đặc của bộ  phận kiến thức này. Tác giả  mạnh dạn lựa   chọn dạy học TPTS với sự hỗ trợ của CNTT bởi tính chất khoa học, logic và   nghệ thuật, cảm xúc được thể hiện một cách hài hoà của nó.  5
  6. 1.3.2. Tình hình nghiên cứu vấn đề dạy học tác phẩm tự sự với sự hỗ   trợ của công nghệ thông tin  Kết quả  khảo sát ở  trên cho thấy có nhiều công trình nghiên cứu về  TPTS,  dạy học TPTS, UDCNTT vào dạy học, UDCNTT vào dạy học Ngữ văn, dạy học   tác phẩm văn chương, dạy học Tiếng Việt… Những công trình này ít nhiều đề  cập đến việc khai thác, sử dụng CNTT trong dạy học TPTS nhưng chỉ như một   nội dung, một bộ phận cấu thành nên môn Ngữ văn. Các tác giả  cũng chưa chú   trọng đến việc đề xuất hệ thống biện pháp dạy học có sự hỗ trợ của CNTT mà   chỉ mới dừng lại những biện pháp, những hình thức UDCNTT vào dạy học; nghĩa  là chưa nhấn mạnh đến đặc trưng của nội dung bài học, phương pháp dạy học và   khả năng cũng như cách thức tích hợp CNTT vào các biện pháp dạy học cụ thể. Với đề  tài Dạy học tác phẩm tự sự  ở  trung học phổ thông với sự  hỗ  trợ   của công nghệ  thông tin, tác giả  sẽ  tập trung nghiên cứu, đề  xuất các biện   pháp dạy học TPTS với sự  hỗ  trợ  của CNTT. Cốt lõi vấn đề  là dạy học  TPTS, nhưng không phải là dạy học TPTS chung chung như trong lí luận dạy  học mà là dạy học TPTS có sự  hỗ  trợ  của CNTT, trong đó nhấn mạnh và   đóng góp chính là cách thức tích hợp CNTT vào các biện pháp dạy học TPTS   như thế nào để hỗ trợ việc thực hiện các biện pháp dạy học đó một cách phù  hợp với đặc trưng thể  loại và đạt mục tiêu hình thành năng lực văn cho HS   một cách hiệu quả. Nhìn một cách khái quát thì cho đến nay vẫn chưa có công  trình nào trực tiếp, tập trung nghiên cứu cụ thể vấn đề này. Chương 2: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ  DẠY HỌC TÁC PHẨM TỰ SỰ Ở TRUNG HỌC PHỔ THÔNG VỚI SỰ  HỖ TRỢ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN 2.1. Cơ sở lí luận 2.1.1. Những vấn đề lí thuyết về tự sự và tác phẩm tự sự  2.1.1.1. Khái niệm  Có nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng chung quy lại  tự  sự  có thể  được hiểu là “phương thức tái hiện đời sống” trong “toàn bộ tính khách quan   của nó” để  “phản ánh hiện thực qua bức tranh mở  rộng của đời sống trong  không gian, thời gian, qua các sự  kiện, biến cố  xảy ra trong cuộc  đời con   người…”.  Theo đó, có thể  hình dung một cách khái quát  tác phẩm tự  sự  là  những tác phẩm văn học sử dụng phương thức phản ánh hiện thực cuộc sống   một   cách   khách   quan   thông   qua   hệ   thống   sự   kiện,   biến   cố,   hành   vi   con  người… 2.1.1.2. Phân loại tác phẩm tự sự Phân loại TPTS là một vấn đề  phức tạp và có nhiều điểm chưa thống   nhất. Luận án phối hợp cả hai tiêu chí phạm trù thi pháp (tương ứng với tiêu   chí thời gian) và phương thức phản ánh để xác định ba phạm trù lớn là tự  sự  dân gian, tự  sự trung đại và tự  sự  hiện đại. Mỗi phạm trù như  vậy lại gồm   rất  nhiều thể  loại  nhỏ  khác  như  tự  sự  dân gian  gồm:  thần thoại, truyền   6
  7. thuyết, truyện cổ tích, sử thi, truyện cười, truyện ngụ ngôn… Tự sự trung đại   gồm   các   thể  loại   tiêu  biểu như  truyện thơ,  truyện  truyền kì, tiểu thuyết   chương hồi. Tự  sự  hiện đại: truyện ngắn, tiểu thuyết. Ngoài ra, một số  thể  loại khác như kí, tuỳ bút cũng được xếp vào tự sự. Trong phạm vi đề  tài này  luận án chỉ xét đến những thể loại điển hình của tự sự có văn bản được học   trong SGK THPT.  2.1.1.3. Đặc điểm TPTS góc nhìn tiềm năng khai thác sự hỗ trợ của CNTT trong   dạy học a) Tác phẩm tự  sự  tái hiện đời sống trong toàn bộ  tính khách quan: Chính   đặc điểm này mà việc sử dụng CNTT hỗ trợ dạy học các văn bản tự  sự càng  phù hợp và hiệu quả. Nếu như TPTS là cuốn phim ghi lại những gì đang xảy ra   trong đời sống thì CNTT sẽ  giúp chiếu lại cuốn phim đó đến với người xem   (người đọc) một cách chân thực, khách quan và sống động, hỗ trợ cho quá trình  tiếp nhận TPTS ở lớp học thêm sinh động, hiệu quả. b) Tác phẩm tự sự phản ánh cuộc sống rộng lớn, phong phú, đa dạng: Với   sự hỗ trợ của CNTT, GV có thể giúp HS có thể “nhìn tận mắt” và cảm nhận   bằng mọi giác quan cuộc sống rộng lớn và toàn diện đó để  có thể  rung cảm  và chiêm nghiệm bằng nhiều chiều kích.  c) Cốt truyện, tình huống truyện, nhân vật và trần thuật là những yếu tố  cơ  bản của tác phẩm tự  sự: công nghệ  thông tin có khả  năng giúp HS khắc   sâu  ấn tượng thông qua những hiệu  ứng, màu sắc, hình  ảnh, qua những liên  kết liên hệ, mở  rộng, những sơ đồ  hay mô hình. Từ  đó, các em có thể  nắm,   nhớ  được  hệ  thống chi tiết, cốt truyện, nhân vật  một cách sâu sắc và hệ  thống; công nghệ thông tin cũng có khả năng hiện thực hóa những tình huống   truyện  thông qua những đoạn phim (nếu tác phẩm được chuyển thể  thành   phim) hoặc thông qua những mô hình, sơ đồ  xác lập mối quan hệ của những  yếu tố tạo nên tình huống; Công nghệ  thông tin với các tính năng có thể  tạo   nên những điểm nhấn, tái tạo hình tượng trực quan sẽ  hỗ  trợ  đắc lực trong   việc đưa nhân vật đến với người học, đến với cuộc đời một cách sinh động   và ý nghĩa.    Trần thuật và các yếu tố  của trần thuật:  Nghệ  thuật trần thuật và các  yếu tố  trần thuật chính là điểm mới của tự  sự  học so với truyện kể truyền   thống. Công nghệ thông tin là sự lựa chọn phù hợp để giúp GV và HS tự cập   nhật kiến thức lí luận, tự phát triển tiềm lực và nâng cao trình độ, trang bị tri   thức đọc hiểu cũng như giúp người học tiếp cận văn bản đúng với đặc trưng   của nó.    Như vậy, những đặ c điểm cơ  bản như trên của TPTS cho thấy rằng, từ  trong bản chất và cấu trúc nó đã có nhiều yếu tố  phù hợ p và cầ n thiết có  sự hỗ trợ của CNTT. 2.1.1.4. Một số vấn đề cơ bản về đọc hiểu và  dạy học đọc hiểu văn bản a) Quan niệm về  đọc hiểu, dạy học đọc hiểu văn bản: Khái niệm đọc  hiểu không chỉ được hiểu một cách giản đơn theo nghĩa tổng cộng của hai từ  “đọc” và “hiểu” mà là một khái niệm có ý nghĩa khái quát cao, chỉ toàn bộ quá  7
  8. trình tiếp nhận văn bản và phải huy động nhiều kĩ năng khác nhau để  có thể  hiểu, cảm thụ, lí giải,… ý nghĩa của văn bản đó, là “là quá trình lao động sáng   tạo mang tính thẩm mĩ nhằm phát hiện ra những giá trị  tác phẩm trên cơ  sở  phân tích đặc trưng văn bản”. Theo đó,  dạy học đọc hiểu  văn bản  chính là  dạy cách tiếp nhận văn bản, cách đọc hiểu văn bản; là GV tổ  chức, hướng   dẫn HS sử  dụng các kĩ năng cụ  thể  đọc hiểu văn bản thông qua các kĩ năng,  thao tác cụ thể. b) Mục tiêu dạy học đọc hiểu văn bản: Có thể  thấy, mục tiêu dạy học  đọc hiểu nhằm đào tạo con người phát triển toàn diện cả  về  kiến thức, kĩ   năng và nhân cách để có thể tự học và học tập suốt đời; phát triển và tự  phát  triển, thích ứng với xu thế của thời đại. c) Phương pháp dạy học đọc hiểu văn bản: Phương pháp dạy học đọc hiểu   đặc biệt nhấn mạnh vai trò của bạn đọc – học sinh, tiếp thu quan điểm của lí   thuyết tiếp nhận xem người đọc là bạn đọc sáng tạo, kiến tạo nên ý nghĩa của   văn bản. Để thực hiện vai trò tích cực này, HS phải là chủ thể của các kĩ năng,   các hoạt động đọc hiểu cơ  bản như theo quan niệm của PGS.TS. Nguyễn Thị  Thanh Hương bao gồm:  Huy động tích cực những tri thức, trải nghiệm đọc   hiểu; Giải mã văn bản; Dự đoán; Xác định mục tiêu đọc; Tạo kết nối trong và   sau quá trình đọc văn bản; Hình dung, tưởng tượng; Suy luận, cắt nghĩa; Đặt   câu hỏi;  Tổng hợp đánh giá và vận dụng;  Giám sát việc hiểu của bản thân.  Trong giờ  học đọc hiểu văn bản nói chung và văn bản tự sự  nói riêng, GV và   HS có thể sử dụng các biện pháp dạy học như: đọc diễn cảm, thuyết trình, vấn   đáp, thảo luận, semianar, xây dựng hệ thống bài tập, câu hỏi, trò chơi… để thúc   đẩy việc thực hiện các hoạt động cơ bản này. 2.1.2. Những vấn đề lí thuyết về công nghệ thông tin trong mối quan hệ với   dạy học, dạy học Ngữ văn nói chung và dạy học tác phẩm tự sự nói riêng  2.1.2.1. Khái niệm Nói đến CNTT không đơn thuần và thông thường là nói đến máy tính, máy   chiếu   và   những   phần   mềm   tương   ứng   mà   hơn   hết   là   các   quan   điểm   và   phương pháp khoa học khai thác, xử  lí và sử  dụng nguồn tri thức của nhân   loại. Do đó, UDCNTT là sử  dụng những phương tiện CNTT cùng các quan  điểm, phương pháp khoa học khai thác, xử  lí và sử  dụng các nguồn tri thức   phục vụ  cho hoạt động của mình nhằm hướng đến mục tiêu một cách hiệu   quả; và dạy học với sự  hỗ  trợ  của CNTT chính là kết hợp các tính năng kĩ   thuật cũng như những phương pháp khoa học của nó. 2.1.2.2. Sức mạnh của công nghệ  thông tin, sức mạnh của công nghệ   thông tin trong dạy học, dạy học Ngữ  văn nói chung và dạy học TPTS nói   riêng     Bản thân CNTT đã có những tiềm năng giá trị  hết sức phù hợp với dạy  học nói chung và dạy học Ngữ văn cũng như TPTS nói riêng.  Thứ nhất là khả  năng lưu giữ  ­ cập nhật, thay đổi thông tin nhanh chóng;  thứ hai là khả  năng  chia tách ­ liên kết ­ đồng hiện ­ tương tác giữa các đơn vị tri thức; thứ ba là khả  8
  9. năng truyền tải tri thức dưới các dạng thức khác nhau (âm thanh, hình ảnh, kí   tự, mô hình). Với những thế mạnh nổi bật trên, CNTT khi được ứng dụng vào dạy học nói   chung và dạy học Ngữ văn nói riêng, trong đó có TPTS sẽ tạo nên những ưu điểm   nhất định không thể phủ nhận: tiết kiệm thời gian ghi bảng; trình bày kiến thức  cơ bản của bài học; cung cấp cho học sinh nhiều kiến thức sinh động, phong phú  và sâu sắc, làm nền tảng tri thức đọc hiểu văn bản tác phẩm; hình thành một bầu   không khí phù hợp với nội dung kiến thức bài học; góp phần tạo nên một môi  trường học tập linh hoạt, sống động và đầy tính tích nén; khơi dậy tiềm năng và  khả năng làm việc độc lập của người học, phát huy được tính tích cực, chủ động,   sáng tạo của các em; tạo điều kiện cho HS trở thành chủ  thể tích cực của hoạt   động học; đa dạng hoá các hình thức bài tập, nâng cao hiệu quả luyện tập, củng   cố và kiểm tra, đánh giá học sinh; góp phần thể  hiện đặc trưng phân môn, đặc  trưng thể loại văn học của các văn bản tác phẩm; tạo điều kiện tích hợp các phân  môn, liên môn; đổi mới, đa dạng, tích cực hoá và phối hợp các phương pháp dạy  học trong giờ học.  Bên cạnh những thế mạnh chung trên, TPTS với những đặc trưng của nó,  CNTT sẽ hỗ trợ người dạy và người học ở những điểm nổi bật sau: Học sinh   nắm được cốt truyện và các yếu tố cấu thành nên văn bản tự sự một cách ấn   tượng và bền vững; hình dung được cấu trúc và các mối quan hệ trong nội tại   văn bản tự  sự  cũng như  giữa văn bản với các yếu tố  bên ngoài một cách dễ  dàng hơn, từ  đó góp phần phát triển tư  duy cũng như  khả  năng liên tưởng,   tưởng tượng cho người học; cập nhật được những tri thức đọc hiểu mới phù   hợp với đặc thù văn bản tự  sự, giúp HS tiếp nhận tác phẩm một cách chủ  động và có phương pháp, có kĩ năng hướng tới mục tiêu hình thành năng lực. 2.1.3. Tiền đề triết học, tâm lí học và lí luận dạy học của vấn đề  dạy   học tác phẩm tự sự với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin Triết học Mác ­ Lênin khẳng định: nhận thức của con người bắt đầu từ  trực quan sinh động và quay trở  lại thực tiễn. Đó là con đường khoa học và   biện chứng. Mọi sự  nhận thức không xuất phát từ  trực quan sinh động chỉ  là  sự nhận thức siêu hình, khó chính xác và bền vững.  Tâm lí học hành vi; tâm lí   học liên tưở ng;  tâm lí học nhận thức; tâm lí học hoạt động; tâm lí học xã hội   ­ văn hóa: Mỗi một lí thuyết tâm lí học đều có những đóng góp và những tồn   tại riêng. Sự  kết hợp của những điểm tiến bộ sẽ  cho người nghiên cứu một  hệ  thống quan điểm đầy đủ, đúng đắn về  qui luật tâm lí nhận thức của con   người. Lí luận dạy học hiện đại đã khẳng định CNTT là một phương tiện  dạy học hiện đại và vô cùng ý nghĩa đối với dạy học, mở ra những khả năng   mới mà dạy học truyền thống không thể  hoặc khó có thể  đạt được. Những   ưu điểm của việc khai thác sự  hỗ trợ của CNTT vào dạy học là hết sức nổi   bật tuy nhiên khi  ứng dụng cần lưu ý những hạn chế của nó để  đạt kết quả  tối ưu hơn. 9
  10. Những kết quả nghiên cứu trên cho thấy, HS không thể lĩnh hội tri thức một   cách tối ưu chỉ qua một hoạt động đơn thuần tác động vào một giác quan đơn   lẻ mà cần có sự phối hợp đồng bộ tạo nên sự cộng hưởng tác động đồng thời  vào các giác quan giúp HS lĩnh hội tri thức một cách hiệu quả nhất, đặc biệt chú   ý kênh thông tin lĩnh hội qua thị giác. Điều này cũng đồng nghĩa với việc dạy   học, dạy học Ngữ văn nói chung và dạy học TPTS nói riêng với sự hỗ trợ của   CNTT là hết sức phù hợp với đặc điểm, quy luật tâm lí nhận thức của con  người.  2.1.4. Quan điểm tích hợp trong dạy học Ngữ văn và vấn đề  dạy học   tác phẩm tự sự với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin  Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có   hệ  thống,  ở  những mức độ  khác nhau, các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn  học khác nhau hoặc các hợp phần của bộ  môn thành một nội dung thống   nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến   trong các môn học hoặc các hợp phần của bộ  môn đó.  Cũng có quan niệm  nhấn mạnh: Tích hợp trong dạy học là phải dạy cách tìm tòi sáng tạo và cách   vận dụng kiến thức vào các tình huống khác nhau . Đồng thời chú ý xác lập mối  liên hệ  giữa các kiến thức, kĩ năng khác nhau của các môn học hay các phân   môn khác nhau. Lí luận và thực tế  dạy học theo hướng tích hợp đã chứng  minh những  ưu điểm như: không những tránh được những biểu hiện cô lập,  tách rời trong từng phương diện kiến thức mà còn phát triển được  ở  người   đọc tư duy biện chứng, khả năng thông hiểu và vận dụng kiến thức một cách   thực chất, người học có điều kiện nhìn nhận và khai thác vấn đề  một cách  toàn diện, lập nên mối liên hệ  giữa các khái niệm đã học, dạy HS sử  dụng   kiến thức trong tình huống,... từ đó GV có thể hướng người học đến những tri  thức mang tính hệ thống.  Tích hợp trong dạy học Ngữ văn được xác định với hai hình thức chủ đạo là   tích hợp ngang và tích hợp dọc. Những hình thức tích hợp này giúp cho HS luôn  được hình thành tri thức, kĩ năng theo hướng vừa mở  rộng, vừa nâng cao trong  mối quan hệ đa chiều, phát triển.  Dạy học TPTS với sự hỗ trợ của CNTT theo định hướng tích hợp là phải   biết sử  dụng, khai thác những thế  mạnh của CNTT để  thực hiện các hình  thức tích hợp cơ bản như trên. Sự tích hợp này tạo nên một chỉnh thể giờ học   thống nhất, hiệu quả, tương tác làm khách thể  hóa, hiện thực hóa và chuyển   hóa các phạm trù giá trị  tiềm  ẩn trong bản thân văn bản tự  sự  cũng như  CNTT. Trong phạm vi của luận án, người nghiên cứu không có tham vọng sẽ  thực hiện tích hợp nội dung và kĩ năng sử dụng CNTT vào dạy học TPTS mà   chủ yếu nhấn mạnh đến vai trò phương tiện hỗ trợ đắc lực của nó trong dạy  học tích hợp TPTS. Tuy nhiên, khi thực hiện dạy học TPTS với sự hỗ trợ của   CNTT theo định hướng tích hợp và tích cực hóa người học thì dĩ nhiên phải   chú ý đến việc hướng dẫn HS sử dụng CNTT hỗ trợ hoạt động học và thông   qua   đó người  học  cũng  được củng  cố  các  kiến thức  và kĩ  năng sử  dụng  CNTT. 10
  11. 2.2. Cơ sở thực tiễn 2.2.1. Tác phẩm tự  sự  trong sách giáo khoa trung học phổ  thông và   những yêu cầu chuẩn kiến thức ­ kĩ năng 2.2.1.1. Tác phẩm tự sự trong sách giáo khoa trung học phổ thông a) Về cấu trúc Kết cấu chương trình, SGK dựa vào tiêu chí thể  loại và lịch sử  văn học,   tạo nên một kết cấu chặt chẽ, logic và có tính nội dung, tính định hướng. Nó  cũng đã khẳng định vai trò của tri thức thể  loại trong việc dạy học các văn  bản đọc hiểu trong đó có TPTS. b) Về  đặc điểm nội dung và thể  loại của các TPTS được đưa vào sách  giáo khoa Ngữ văn ở THPT Xét về  mặt số  lượng, văn bản tự  sự  trong chương trình Ngữ  văn THPT  chiếm một tỉ lệ khá lớn. Xét về mặt thể loại, các văn bản tự sự rất phong phú   về thể loại với các phương thức trần thuật khác nhau, từ tự sự dân gian, tự sự  trung đại, tự  sự  hiện đại, đặc biệt là sự  có mặt của các văn bản tự  sự  sau   1975, sau thời kì đổi mới với phương thức trần thuật mới mẻ. Ngoài những   văn bản tự  sự  thuộc văn học trong nước, SGK còn có những văn bản tự  sự  thuộc văn học nước ngoài. Điều này tạo nên diện mạo khá phong phú và toàn   diện của loại hình tự sự.  Đặc điểm cơ bản của tự sự dân gian, tự sự trung đại và tự sự hiện đại trong   SGK Ngữ văn ở THPT cũng chi phối không nhỏ đến việc dạy học các TPTS. 2.2.1.2. Chuẩn kiến thức kĩ năng của dạy học TPTS trong SGK Ngữ văn ở THPT Khảo sát tài liệu Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ   văn lớp 10, lớp 11 và lớp 12 cho thấy, đối với cụm văn bản văn học, cụ thể là   các văn bản tự sự: ­ Tài liệu xác định chuẩn theo các cụm chủ đề là thể loại, tương ứng với   nội dung và cấu trúc của SGK.  ­ Chuẩn kiến thức, kĩ năng  theo các chủ  đề  luôn nhấn mạnh đến việc   nhận biết đượ c một số  đặ c điểm cơ  bả n   của thể  loại và biết cách đọc ­  hiểu tác phẩm theo đặc trưng thể loại.  2.2.2. Một số khuynh hướng dạy học tác phẩm tự sự hiện nay  ở trường   THPT Có thể  thấy có rất nhiều các định hướng dạy học TPTS khác nhau được  vận dụng tự  giác hoặc tự  phát như:  Dạy TPTS theo đặc trưng thể  loại,  dạy   TPTS từ góc nhìn văn hóa, dạy TPTS từ góc nhìn lịch sử, dạy học TPTS theo   hướng tích cực hóa người học, dạy TPTS theo định hướng tích hợp… Những  định hướng này thực chất là sự vận dụng những lí thuyết khoa học liên ngành  như  lí luận văn học, lí luận dạy học,… vào quá trình dạy học TPTS nhằm   hướng dẫn HS khám phá tác phẩm một cách phù hợp và hiệu quả. Xét trong  chỉnh thể  này thì cũng có thể  coi dạy học với sự  hỗ  trợ  của CNTT cũng là  một định hướng dạy học ­ một định hướng về mặt phương pháp, nhằm mục   11
  12. tiêu đổi mới, tích cực hóa phương pháp dạy học, giúp cho việc tổ chức khám   phá tác phẩm dưới nhiều góc nhìn khác nhau được diễn ra một cách dễ  dàng   và hữu dụng. Những định hướng này không phải được vận dụng một cách   tách rời, độc lập mà phối kết hợp những điểm khả  thủ  với những mức độ  khác nhau cho từng văn bản tác phẩm cụ thể.  2.2.3. Thực trạng dạy học tác phẩm tự sự và dạy học tác phẩm tự  sự   với sự hỗ trợ của công nghệ  thông tin hiện nay  ở trường trung học phổ   thông 2.2.3.1.  Kết quả khảo sát ý kiến của GV và HS về dạy học tác phẩm tự sự   và dạy học tác phẩm tự  sự  với sự hỗ  trợ của công nghệ  thông tin  ở  trường   trung học phổ thông hiện nay a) Về dạy học tác phẩm tự sự a1) Vấn đề mức độ hứng thú của học sinh với những giờ học tác phẩm tự  sự HS chưa thực sự hứng thú với những giờ học TPTS, tỉ lệ rất hứng thú và   hứng thú còn thấp (30%), tỉ lệ bình thường và không hứng thú còn cao.  a2) Những khó khăn của việc dạy và học TPTS hiện nay ở trường THPT Qua kết quả khảo sát, có thể quy loại những khó khăn chủ  yếu khi dạy ­  học TPTS thành các nhóm chính như  sau: khai thác các đặc trưng thể loại để  cắt nghĩa, giải mã và tiếp nhận TPTS cũng như  hình thành các kĩ năng tương   ứng; giải quyết mối quan hệ giữa nội bộ TPTS, giữa TPTS với các bộ  phận   kiến thức khác trong môn Ngữ văn, giữa TPTS với văn hóa, lịch sử…;  sự thiếu  tương thích giữa mục tiêu, nội dung bài học TPTS với thời gian. Dạy học TPTS  với sự  hỗ  trợ  của CNTT có thể  được xem là một trong những định hướng   thích hợp và khả thi cho việc khắc phục những bất cập trên. a3) Một số biện pháp dạy học tác phẩm tự sự phổ biến hiện nay ở THPT Biện pháp dạy học TPTS được sử  dụng khá đa dạng như: thuyết trình,  vấn đáp, seminar, đọc diễn cảm… GV đã chú ý đổi mới dạy học, sử dụng các   biện pháp dạy học hiện đại... Tuy nhiên, những biện pháp đó đôi khi còn   được triển khai một cách hình thức, hoặc chỉ được sử dụng khi có dự giờ.  b) Về dạy học TPTS với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin hiện nay ở THPT b1) Vấn đề  sở  thích của HS đối với giờ  học TPTS sự  hỗ  trợ  của công   nghệ thông tin Tỉ lệ HS rất thích/thích giờ học TPTS có sự hỗ trợ của CNTT cao (73,6%).   Điều đó cho thấy ít nhất với giờ  học TPTS có hỗ  trợ  CNTT, HS hứng thú   hơn, vui hơn. Và như vậy, CNTT trước hết đã tạo cho HS hứng thú tham gia  vào giờ học. Tuy nhiên, khi được hỏi lí do, đa số ý kiến cho rằng, giờ học có   CNTT được xem phim, hình ảnh sinh động; một số ý kiến cho rằng giờ học   có CNTT được biết thêm nhiều thông tin ngoài SGK và dễ  theo dõi bài học;   hầu như không có ý kiến nào cho rằng thích giờ  học có CNTT bởi được tạo   12
  13. điều kiện tự học, tự khám phá và được tham gia vào hoạt động học, được tổ  chức các trò chơi mà học, học mà chơi… b2) Vấn đề  nhận thức của GV và HS về  mức độ  cần thiết của việc dạy  học TPTS có sự hỗ trợ của CNTT Về phía GV, người điều tra thu nhận được các ý kiến chưa thực sự thống   nhất. Bên cạnh những ý kiến khẳng định sự cần thiết của việc dạy học TPTS   có sự  hỗ  trợ  của CNTT thì có khá nhiều ý kiến cho rằng không thực sự  cần   thiết.  Về phía HS, do các em hứng thú và thích các giờ học TPTS có CNTT nên ý   kiến các em tương đối thống nhất về sự cần thiết của việc ứng dụng nó. Tuy  nhiên, điều này không có nghĩa là các em nhận thức được sâu sắc vai trò cũng  như  những tác dụng của nó mà chủ  yếu là những sở  thích mang tính hình   thức.  b3) Mức độ thường xuyên của việc dạy học TPTS có sự hỗ trợ của CNTT Mặc dù HS rất thích/thích các giờ  học TPTS  có sự  hỗ  trợ  của  CNTT   nhưng mức độ  “rất thường xuyên” và “thường xuyên”  ứng dụng chưa cao  (38,4%), tập trung  ở  mức “thỉnh thoảng”. Dạy học TPTS có sự  hỗ  trợ  của   CNTT vì thế vẫn cứ lạ mà quen, quen   mà lạ. b4)  Về những điều kiện của việc dạy học TPTS với sự hỗ trợ của CNTT Người nghiên cứu đã tìm hiểu nguyên nhân của việc ủng hộ/phản đối hay   sự dè chừng trong việc dạy học TPTS với sự hỗ trợ của CNTT từ  những điều  kiện của việc dạy học TPTS với sự hỗ trợ của CNTT  trên các phương diện: cơ  sở  vật chất, trình độ  ­ năng lực sử  dụng CNTT, sự động viên, khuyến khích  của các cấp quản lí… Kết quả  khảo sát cho thấy những yếu tố trên chỉ  mới   có thể đạt mức “có điều kiện” để dạy học TPTS có sự hỗ trợ của CNTT. Để  hoạt động này đạt kết quả cao, thực chất và bền vững cần sự thấu đáo, đầy  đủ, thống nhất về  nhận thức cũng như  sự  đầu tư  và đồng bộ  về  cơ  sở  vật   chất. b5) Những biện pháp  khai thác CNTT hỗ trợ dạy học TPTS  Biện pháp khai thác CNTT hỗ trợ dạy học TPTS chủ yếu là khai thác kho   tài nguyên điện tử, thiết kế trang trình chiếu… Điều này cho thấy, cách thức  khai thác sự hỗ trợ của CNTT còn hạn chế và kém tích cực, mới chỉ khai thác   những  ứng dụng bề  nổi chứ  chưa phát huy những thế  mạnh thực sự  nhằm  hướng đến mục tiêu cơ bản, quan trọng của giờ học TPTS.  b6) Những biện pháp dạy học TPTS có kết hợp với sự hỗ trợ của CNTT Ở THPT hiện nay, GV chủ yếu khai thác CNTT hỗ trợ cho biện pháp thuyết   trình, đọc diễn cảm, nghĩa là vẫn hỗ trợ cho các biện pháp dạy, truyền đạt kiến  thức của GV. Những biện pháp dạy học chú ý tích cực hóa hoạt động học của HS  lại chưa được chú trọng khai thác sự hỗ trợ của CNTT. Sự kết hợp giữa CNTT   và các biện pháp dạy học vì thế vẫn còn khá đơn điệu và hiệu quả chưa cao. 13
  14. 2.2.3.2. Kết quả khảo sát Phiếu dự giờ và dự giờ dạy học tác phẩm tự sự và   dạy học tác phẩm tự sự với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin hiện nay ở trường   THPT Kết hợp giữa dự giờ quan sát trực tiếp và khảo sát  Phiếu dự giờ  của GV,  chúng tôi rút ra được một số nhận xét như sau: Giờ dạy TPTS không có sự hỗ trợ của CNTT ở THPT  ­ Bài dạy chỉ  đảm bảo được những nội dung trọng tâm, cơ  bản của bài   học; thiếu những nội dung mở  rộng, nâng cao nhưng cần thiết để  đọc hiểu   văn bản theo đặc trưng thể loại.  ­ Các hình thức dạy học, biện pháp dạy học còn đơn điệu, chủ yếu thuyết   trình và vấn đáp; những biện pháp tích cựu cơ bản vẫn mang tính hình thức. ­ GV hoạt động là chủ  yếu, HS còn thụ  động hoặc tham gia những hoạt   động học đơn giản. Giờ dạy TPTS có sự hỗ trợ của CNTT ở THPT  Kết quả  xếp loại các giờ  dạy có CNTT qua Phiếu dự  giờ  như  sau: 32%  giờ dạy đạt loại tốt, 51% đạt loại khá và 17% loại trung bình. Trong đó, giờ  đạt loại tốt chỉ  tương  ứng với mức khai thác sự  hỗ  trợ  tương đối phù hợp,   cung cấp kiến thức phong phú, trình bày sinh động nhưng vẫn chưa tích cực  hóa hoạt động của HS cũng như  chưa thực sự  hiệu quả trong việc thể hiện   các đặc trưng thể  loại TPTS. Những giờ  đạt loại khá dừng lại mức “biết”   “bước đầu” khai thác được các tính năng của CNTT hỗ  trợ  dạy học TPTS  sinh động hơn, nhẹ nhàng hơn. Còn những giờ đánh giá đạt trung bình thì hầu   như chưa biết cách khai thác CNTT hỗ trợ cho giờ dạy học TPTS từ khâu lựa  chọn nguồn tài nguyên đến việc tổ  chức dạy học  ở  lớp chưa thực sự  linh   hoạt và hiệu quả.  2.2.3.3. Đánh giá chung về thực trạng dạy học tác phẩm tự sự và dạy học   tác phẩm tự  sự  với sự  hỗ  trợ  của công nghệ  thông tin hiện nay  ở  trường   THPT a) Đánh giá chung về thực trạng dạy học TPTS hiện nay ở THPT Thực trạng nói trên dẫn đến hậu quả là chất lượng dạy học TPTS vẫn chưa   cao, chưa đáp ứng tốt mục tiêu đã đặt ra. HS vẫn chưa được trang bị đầy đủ tri   thức đọc hiểu cũng như  các kĩ năng cần thiết để  tích cực, chủ  động đọc hiểu   TPTS.  b) Đánh giá hiệu quả của việc dạy học TPTS với sự hỗ trợ của CNTT Thực tế  của việc dạy học TPTS với sự hỗ trợ của CNTT vẫn còn nhiều   vấn đề  đáng quan tâm, từ  phương diện khai thác sự  hỗ  trợ  của CNTT cũng   như  phương diện phối hợp giữa các biện pháp dạy học TPTS với sự  hỗ trợ  của CNTT: khai thác các tính năng của CNTT chưa phù hợp về  mức độ  và   chưa tương thích với nội dung, mục tiêu, phương pháp dạy học; sự phối kết   hợp giữa các biện pháp dạy học và CNTT chưa thực sự đa dạng, linh hoạt và  hiệu quả.  14
  15. Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP DẠY HỌC TÁC PHẨM  TỰ SỰ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG VỚI SỰ HỖ TRỢ  CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN 3.1. Định hướng dạy học TPTS ở THPT với sự hỗ trợ của CNTT 3.1.1. Dạy học tác phẩm tự sự với sự hỗ trợ của công nghệ  thông tin   phải quán triệt đặc trưng văn học và đảm bảo mục tiêu dạy học cơ bản:   Đây là định hướng có tính cốt lõi, khẳng định tính phù hợp và hiệu quả  của  việc dạy học TPTS với sự hỗ trợ của CNTT. 3.1.2. Dạy học tác phẩm tự sự với sự hỗ trợ của công nghệ  thông tin   phải đảm bảo đồng thời tính sư phạm, tính thẩm mĩ và tính khoa học  trên  cơ sở đặc trưng của bài học, môn học và môi trường dạy học. 3.1.3. Dạy học tác phẩm tự sự với sự hỗ trợ của công nghệ  thông tin   phải xác định rõ và phát huy vai trò của các nhân tố tham gia vào quá trình   dạy học, trong đó đặc biệt nhấn mạnh mối quan hệ  biện chứng, tương tác  của   ba  nhân  tố  HS  ­  GV   ­  TPTS  trong   môi  trường,  điều  kiện  dạy  ­  học  (CNTT). Khẳng định vai trò chủ thể của người học, vai trò chỉ đạo của người   dạy và vai trò hỗ  trợ  của CNTT thực chất cũng là một vấn đề  có tính chất   tương đối mà cái đích cuối cùng là các nhân tố này kết hợp hài hòa trong một  chỉnh thể  thống nhất,  ở đó mỗi nhân tố  được khẳng định, phát huy hết tiềm  năng của mình nhằm hướng tới mục tiêu dạy học.   3.1.4. Dạy học tác phẩm tự sự với sự hỗ trợ của công nghệ  thông tin   phải xác  định các hình thức hỗ  trợ  và biện pháp khai thác công nghệ   thông tin phù hợp: Đây là định hướng có tính kĩ thuật, cụ thể hóa các kĩ năng,  thao tác GV ­ HS phải thực hiện để khai thác tốt các tính năng CNTT nhằm hỗ  trợ phù hợp, hiệu quả việc dạy học TPTS. 3.2. Biện pháp dạy học tác phẩm tự sự ở trung học phổ thông với sự  hỗ trợ của công nghệ thông tin 3.2.1. Đọc diễn cảm với sự  hỗ  trợ  của video và hình  ảnh trực quan :  Trong dạy học TPTS, thông thường  ở  lớp, HS chỉ  tóm tắt lại tác phẩm, nhấn  mạnh các sự  kiện chính và đọc một số đoạn văn hay. Do phụ  thuộc vào hoạt  động đọc ở nhà nên nhiều khi việc tổ chức đọc ở lớp thiếu linh hoạt nên khó   đạt hiệu quả.  Với CNTT, đọc diễn cảm sẽ được thúc đẩy, phát huy với các hình thức hỗ trợ  như:  ­ Nghe các nghệ  sĩ đọc mẫu, kể  mẫu qua các phương tiện hiện đại, GV   cũng có thể  đọc mẫu, thu âm và sử dụng nhiều lần. Hoạt động đọc mẫu chỉ  cần triển khai   ở  những  đoạn văn hay, giàu chất trữ  tình hay triết lí hoặc  những đoạn văn tập trung giá trị sáng tạo để tạo dấu ấn và tính xúc cảm cho   giờ  học; xem các trích đoạn phim đã được chuyển thể  từ  tác phẩm, xem các  hình  ảnh chân dung nhân vật… sẽ giúp HS khắc sâu ấn tượng về tình huống   truyện độc đáo, về  sự  kiện, chi tiết đắt giá hay chắp cánh cho những liên  15
  16. tưởng, tưởng tượng của HS; sơ đồ hóa cốt truyện, mối quan hệ giữa các nhân  vật, sự  kiện chính cũng là hình thức nâng cao hiệu quả  hoạt động đọc. Đặc  biệt, với CNTT, GV có thể tích hợp vào sơ đồ các hình ảnh hoặc các liên kết   để dễ dàng hơn trong việc nhấn mạnh các sự kiện, chi tiết nổi bật. Những  ứng dụng này sẽ  được kết hợp với hoạt động đọc trực tiếp của   GV, HS; hỗ  trợ  cho hoạt động đọc trực tiếp trên lớp thêm hiệu quả. Để  có  thể đọc diễn cảm với sự hỗ trợ của CNTT, cả GV và HS cần tự  trang bị các   tiền đề tiếp nhận, giúp cho việc đọc hiểu văn bản đạt kết quả cao.  3.2.2. Thuyết trình với sự hỗ trợ của kho tài nguyên điện tử phong phú   và hình thức trình chiếu thuyết trình hấp dẫn Thuyết trình theo cách thông thường cơ bản là hoạt động truyền thụ kiến   thức cho HS, chủ yếu dùng lời nên khá đơn điệu, nhàm chán. Với sự hỗ trợ của CNTT, thuyết trình trong dạy học nói chung và TPTS nói  riêng lại có một thế mạnh riêng, khắc phục được những hạn chế thường gặp   trong biện pháp thuyết trình truyền thống. Thuyết trình  ở  đây không chỉ  là sự  chuyển giao kiến thức một cách đơn giản bằng kênh lời mà CNTT cho phép   phối hợp kênh hình và kênh chữ, ngôn ngữ và hình ảnh, ngôn ngữ viết và ngôn   ngữ nói hết sức sinh động, cho phép cùng lúc có thể huy động, liên hệ, mở rộng   nhiều phạm trù kiến thức khác nhau một cách dễ dàng để  HS không những có  thêm kiến thức phong phú, đa dạng mà còn rèn luyện được các thao tác tư  duy  như  liên hệ, so sánh, phân tích, chứng minh… Học sinh sẽ  hứng thú, tích cực  hơn với hình thức thuyết trình này, không chỉ  bởi cách trình bày ấn tượng hơn  mà chính bởi biện pháp này đã thực sự  tác động vào tư  duy, đáp  ứng nhu cầu   tìm tòi, hiểu biết của HS lứa tuổi THPT. Biện pháp thuyết trình với sự  hỗ trợ  của CNTT trong tổ  chức dạy học TPTS có thể  được sử  dụng với những hình   thức như sau:  ­ Thuyết trình ­ phô diễn: là hình thức thuyết trình đơn giản nhất, phối hợp  nhịp nhàng giữa kênh hình, kênh chữ  và kênh tiếng; giữa trình chiếu tư  liệu và  thuyết giảng thông báo. Mục đích chủ  yếu là cung cấp, liên hệ, mở  rộng, giải   thích thông tin, khái niệm… làm cơ sở cho hoạt động tiếp nhận được sâu sắc và  phong phú hoặc chứng minh, làm sáng rõ cho những nhận định khái quát về tác   giả, tác phẩm. Hình thức này cũng không có nghĩa là HS thụ động “hứng” thông   tin mà người thuyết trình phải đa dạng hóa nội dung cũng như cách thức thuyết  trình dưới những hình thức tích cực như  thuyết trình tích hợp, thuyết trình nêu   vấn đề,... để HS tiếp nhận kiến thức một cách chủ động và có tư duy phê phán.  + Thuyết trình tích hợp: là hình thức thuyết trình có sự tích hợp về cả kiến  thức lẫn kĩ năng. Với sự hỗ trợ của CNTT, GV có thể linh hoạt phối kết hợp  nhiều phạm trù kiến thức khi dạy học TPTS như  các thông tin về  cuộc đời,   sự  nghiệp nhà văn, kiến thức lí luận văn học, văn học sử,… qua kênh chữ  (GV tóm tắt nội dung cần tích hợp và trình chiếu), kênh hình (những đoạn  phim tư  liệu về  nhà văn, về  hoàn cảnh ra đời của tác phẩm…),… giúp cho   việc tiếp nhận tác phẩm vừa mang tính khoa học vừa đậm tính cảm xúc; làm   cơ  sở  cho việc hình thành kĩ năng đọc văn. Bên cạnh đó, người thuyết cũng   16
  17. dễ  dàng “phô diễn” kĩ năng thuyết trình của mình (bao gồm việc chọn lọc   kiến thức, tổ chức kiến thức, và trình bày kiến thức…) để HS có thể  học tập   và rèn luyện.  + Thuyết trình nêu vấn đề: là hình thức thuyết trình ngoài đích thông báo  nó còn kèm cả minh họa, mô tả kiến thức làm nảy sinh vấn đề  thắc mắc rồi   yêu cầu học sinh tham gia ý kiến, lí giải...; giáo viên không thông báo tri thức   khoa học dưới dạng có sẵn, mà phục hồi ­  ở mức độ  nhất định ­ con đường   các nhà khoa học đã trải qua để phát hiện các tri thức đó. Sau khi đề xuất vấn   đề, giảng viên lần lượt trình bày các cách giải quyết vấn đề, phân tích. mâu  thuẫn trong những cách giải quyết đó để  đi đến những cách giải quyết khác  hợp lí hơn. Qua đó, HS vừa lĩnh hội thông tin vừa phải tư duy để học cách xử  lí và sử dụng thông tin để giải quyết các nhiệm vụ học tập. CNTT không chỉ  cung cấp ngữ liệu mà còn có thể trực quan quá trình nêu vấn đề và giải quyết  vấn đề trong hình thức thuyết trình này. Thuyết trình phô diễn có thể sử dụng trong các tình huống dạy học TPTS  như sau: tìm hiểu, mở rộng kiến thức về tác giả, tác phẩm như hoàn cảnh gia  đình, quê hướng, những dấu ấn đặc biệt trong cuộc đời,... có ảnh hưởng đến   sáng tác, về  hoàn cảnh sáng tác hay hiện thực khách quan làm đề  tài cho tác   phẩm…; bổ  sung, cắt nghĩa những kiến thức  văn học sử, lí luận văn học có  liên quan đến tác phẩm đang học, kiến thức về   văn hóa, địa lí, lịch sử,... làm  tri thức đọc hiểu văn bản, nhất là các tri thức về tự sự  học vẫn còn khá mới  mẻ  đối với cả  GV và HS; bình giảng, lí giải những  chi tiết, tình huống độc   đáo,… kết hợp với các hình ảnh minh họa.  Bên cạnh tích cực hóa bản thân biện pháp thuyết trình theo các hình thức  trên, biện pháp này có thể sử dụng một cách linh hoạt và hiệu quả bằng cách   kết hợp với biện pháp dạy học khác, tiêu biểu là hình thức thuyết trình ­ phát   vấn. ­ Thuyết trình ­ phát vấn: Với hình thức này, việc thuyết trình không còn là  một biện pháp thụ động như lâu nay vẫn nghĩ. Phát vấn là một hoạt động tích   cực, thường xuyên trong dạy học nói chung và dạy học văn nói riêng. Thuyết  trình ­ phát vấn tức là sự kết hợp hai hoạt động thuyết trình và phát vấn, trong   đó lấy nội dung thuyết trình trình chiếu làm cơ  sở. Thuyết trình kết hợp trình  chiếu để cung cấp kiến thức cho HS, làm cơ sở cho hoạt động phát vấn. Phát  vấn để  tập trung chú ý, để  nhấn mạnh vấn đề  và đặc biệt để  kích thích tư  duy trên nền tảng dữ  liệu đã cung cấp; từ  đó HS chiếm lĩnh kiến thức một   cách có chủ  đích, có biện pháp, hình thành năng lực tư duy khoa học và năng   lực cảm thụ nghệ thuật. HS không chỉ nghe mà còn phải quan sát, tư duy, khái   quát, phân tích và tổng hợp để tìm ra câu trả lời phù hợp. Học sinh không chỉ  xử  lí kiến thức trong sách giáo khoa, kiến thức của bài học cụ  thể  đang học   mà phải vận dụng, xử lí nhiều kiến thức khác nhau trong mối quan hệ được  trình chiếu mở rộng để giải quyết nhiệm vụ học tập đang đặt ra. Có thể thực   hiện thuyết trình kết hợp phát vấn như sau: thuyết trình cung cấp tri thức đọc  hiểu ­ phát vấn định hướng tiếp nhận; thuyết trình cung cấp ngữ  liệu ­ phát  vấn định hướng so sánh, liên hệ liên văn bản nhằm mục đích nhấn mạnh đặc  17
  18. trưng của nội dung bài học như so sánh các hình tượng nhân vật, so sánh nghệ  thuật trần thuật...; thuyết trình phân tích, bình giảng tác phẩm ­ phát vấn dẫn   dắt liên hệ thực tế. Điều đáng lưu ý là, sau các câu hỏi phát vấn như  là một sự  định hướng,   gợi mở, dẫn dắt vấn đề, GV có thể chuyển tiếp để thuyết trình tiếp hoặc cho  HS nêu ý kiến ngắn gọn rồi thuyết trình kết luận. Những nội dung làm dữ  liệu phát vấn này có thể  được trình bày qua kênh chữ, hình, âm thanh, video   hoặc các sơ  đồ  tư  duy được thiết kế  bởi các phần mềm chuyên dụng như  Mindmap. Hoạt động phát vấn trong biện pháp này có thể  nhằm đúng mục   đích hỏi ­ đáp (nhanh ­ ngắn) hỗ trợ cho hoạt động thuyết trình hoặc cũng có  thể GV nêu câu hỏi như một sự dẫn dắt, định hướng, gợi mở  cho hoạt động  thuyết trình. Sử dụng biện pháp thuyết trình cần chú ý chọn lọc thông tin sao  cho vừa ngắn gọn, vừa trọng tâm, sát hợp với nội dung bài học, phù hợp tâm   lí lứa tuổi và đặc biệt là phải đắc dụng. Trong quá trình thuyết trình, người  thuyết trình cũng cần chú ý đa dạng hóa các hình thức lập luận để  hình thành  các kĩ năng tư duy cho HS.  3.2.3.  Vấn đáp tích cực với sự  hỗ  trợ  của kho tài nguyên điện tử  và   những yếu tố trực quan Vấn đáp trong thực tế  vẫn được sử  dụng còn mang tính hình thức, kém  hiệu quả  bởi chất lượng hệ  thống câu hỏi chưa cao, hình thức tổ  chức vấn  đáp còn đơn điệu. Vậy CNTT sẽ  hỗ  trợ  biện pháp này như  thế  nào? Trước  hết, CNTT tác động làm nảy sinh câu hỏi thông minh của HS  khi người học   được tư duy với nguồn kiến thức phong phú, có tính định hướng cao từ kho tài   nguyên điện tử cũng như những hình thức trình bày dưới dang mô hình, sơ đồ  xác lập quan hệ… Hệ thống câu hỏi nhờ đó cũng logic và phát triển theo hình   xoáy trôn ốc, không chỉ câu hỏi tái hiện, phát hiện mà đặc biệt là các câu hỏi   nêu vấn đề, câu hỏi sáng tạo, câu hỏi vận dụng... Xét về hình thức, GV trực  quan hóa câu hỏi trên màn hình trình chiếu, nhấn mạnh các từ khóa bằng màu  sắc, hiệu  ứng sẽ giúp HS hiểu nội dung câu hỏi, vấn đề  được hỏi một cách   dễ  dàng hơn và nó cũng kích thích tư  duy nhiều hơn. Cũng với tính năng này   của CNTT, các điểm sáng nghệ  thuật, chi tiết thẩm mĩ được trực quan hóa  trên trang trình chiếu sẽ  giúp HS dễ  phát hiện, làm nền tảng quan trọng để  bước vào thế  giới nghệ  thuật của tác phẩm. Mặt khác, với CNTT, GV dễ  dàng đưa ra các dữ  kiện ngắn gọn, phong phú, sáng rõ để  HS phân tích giải   quyết các vấn đề được đặt ra trong câu hỏi.  3.2.4. Tự làm việc với kho tài nguyên điện tử và biện pháp đọc tài liệu   khoa học, hiệu quả từ sự hỗ trợ của CNTT Trước đây, biện pháp dạy học này thường ít được chú ý bởi việc tìm kiếm   tài liệu đối với HS không dễ, mất nhiều thời gian tìm kiếm cũng như  thời   gian đọc, GV khó định hướng và điều chỉnh kịp thời quá trình tự  học của   HS…; hoặc có thì chỉ  dừng lại ở mức đơn giản là HS làm việc với SGK, tóm   tắt tiểu dẫn hoặc trả lời các câu hỏi hướng dẫn học bài (thông qua hoạt động   soạn bài ở nhà của HS); sản phẩm đạt được chủ yếu thể hiện dưới dạng văn   18
  19. bản viết như vở soạn bài hoặc các bài viết ngắn nên chỉ hình thành được những  kĩ năng và kiến thức cơ bản. Việc kiểm tra kết quả tự làm việc của HS cũng   hạn chế, kết hợp trong mấy phút kiểm tra bài cũ hoặc truy bài đầu giờ; thậm   chí GV giao nhiệm vụ nhưng không kiểm tra, đánh giá kết quả.  Với sự hỗ trợ của CNTT, việc giao nhiệm vụ học tập trở nên ấn tượng và   dễ  dàng với các  dạng sơ  đồ  tư  duy hay bảng biểu khuyết.   Nó đồng thời là  những định hướng làm việc, định hướng giải quyết các yêu cầu mà GV gợi   mở  cho HS; tài liệu học tập trong điều kiện có sự  hỗ  trợ  của CNTT cũng  được mở rộng từ rất nhiều nguồn khác nhau và có thể tìm kiếm dễ dàng hơn,  phong phú hơn, tiết kiệm thời gian hơn; học sinh thao tác với tài liệu để chọn   lọc những kiến thức cần tìm hiểu cũng dễ  dàng hơn với các chức năng tìm   kiếm nâng cao của công nghệ; kết quả của quá trình làm việc với tài liệu đa  phương tiện được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như file trình bày,   đĩa CD hoặc đơn giản là những file văn bản word cũng dễ  dàng xử  lí và sử  dụng… Những sản phẩm này dễ  dàng được tập thể  hóa qua trình bày  ở  lớp  hoặc gửi qua email, đăng diễn đàn... Sự trao đổi, phản hồi giữa GV ­ HS, HS ­   HS trong quá trình thực hiện biện pháp này là hết sức cần thiết để  có thể  hướng dẫn, định hướng, chia sẻ tài nguyên, tạo nên những tài liệu học tập bổ  ích; việc đánh giá và tự đánh kết quả tự nghiên cứu tài liệu với sự hỗ trợ của   công nghệ  cũng diễn ra nhanh chóng, cụ  thể  và hiệu quả  hơn.  Ở  đây, không  chỉ GV là người có quyền đánh giá mà HS có thể đánh giá lẫn nhau và tự đánh  giá kết quả làm việc của bản thân. Do đó, điểm mạnh của biện pháp này còn  là tạo niềm vui, hứng thú học tập cho HS, người học được tạo điều kiện để  tự khẳng định mình. Dạy học TPTS, GV có thể  hướng dẫn HS làm việc với  tài liệu về  những vấn đề  sau: Tìm đọc và tóm tắt những nét chính về  cuộc  đời, sự nghiệp của tác giả; tìm tài liệu để tự đọc ­ hiểu các bài đọc thêm; tìm   đọc các tài liệu về lí luận, lịch sử, văn hóa… để tự trang bị tri thức đọc ­ hiểu  TPTS; tìm đọc thêm các truyện ngắn, tiểu thuyết để  hiểu hơn nghệ  thuật tự  sự  hoặc một vấn đề  nội dung được phản ánh trong TPTS chính khoá, những  tác phẩm khác cùng tác giả hoặc cùng đề tài, chủ đề; viết những bài tiểu luận  ngắn theo những chủ đề tự chọn hoặc do GV thống nhất cả lớp liên quan đến   nghệ thuật tự sự. Để biện pháp này được thực hiện hiệu quả, GV đặc biệt chú ý một số vấn  đề sau: Giao nhiệm vụ cụ thể, vừa sức và sát hợp với nội dung bài học ở lớp   và yêu cầu của chương trình; theo dõi sát quá trình làm việc của HS để  có   những định hướng, điều chỉnh, giúp đỡ kịp thời. Sự trao đổi, định hướng, giúp  đỡ này đều có thể  thực hiện thông qua các diễn đàn, tài khoản,… trên mạng  internet;   phải   có   sự   kiểm   tra,   đánh   giá   kết   quả   đạt   được   để   động   viên,   khuyến khích, định hướng và thống nhất kết quả; giúp HS đa dạng hóa và xã   hội hóa kết quả đạt được… 3.2.5. Tổ  chức seminar với kho tài nguyên điện tử  và hình thức triển   khai hoạt động thuyết trình trình chiếu thảo luận sinh động  Biện pháp này có phần giao thoa với biện pháp Tự  làm việc với tài liệu   học tập là HS phải tự làm việc với tài liệu nhưng điểm quan trọng của nó là   19
  20. HS phải trình bày, trao đổi, thảo luận và đi đến nội dung học tập ngay tại lớp,   do đó có sự hỗ trợ của GV nhiều hơn và đòi hỏi năng lực sử dụng công nghệ  phức tạp hơn. Đây là một biện pháp dạy học hiện đại, có tác dụng hình thành   kiến thức vừa phong phú vừa sâu sắc; nhưng đặc biệt hơn đây là một biện   pháp hướng tới mục tiêu tích cực hóa hoạt động học cũng như  hình thành   nhiều kĩ năng quan trọng cho HS. Nó tạo điều kiện cho người học được làm  việc, khẳng định bản thân và hướng đến tích hợp cả  kiến thức và kĩ năng ở  mức cao. GV giao vấn đề, HS chuẩn bị bài ở nhà theo nhóm hoặc cá nhân để  đến lớp trình bày, lớp tham gia thảo luận và đi đến những kết luận cần thiết   dưới sự giúp đỡ, định hướng của GV. Đối với TPTS, dung lượng thường lớn,   quá tải so với thời gian hữu hạn của tiết học cũng như chứa đựng nhiều tiềm  năng giá trị nên Seminar là một trong những lựa chọn hữu ích. GV có thể cho   HS tìm hiểu trước, thực hiện các đề tài nhỏ như  những vấn đề  chung về  tác   giả, tác phẩm cũng như   ảnh hưởng của chúng đối với sáng tác của nhà văn,   hoặc người học có thể  trình bày cách cảm nhận riêng của mình về  một chi   tiết, nhân vật trong tác phẩm, về tình huống truyện. Tuy nhiên, cũng như biện   pháp Tự làm việc với tài liệu học tập, tổ chức seminar  cũng ít được vận dụng  trong dạy học văn nói chung và TPTS nói riêng bởi tính khó và tính phức tạp  của nó. CNTT lúc này trở  thành phương tiện hỗ  trợ  đắc lực cho hoạt động  học của HS. Để giải quyết được nhiệm vụ học tập, HS phải huy động, phải   tự  tìm kiếm nhiều kiến thức  ở những lĩnh vực khác nhau cũng như  nhiều kĩ   năng khác nhau. Sử  dụng CNTT để  tìm kiếm các tài liệu, chuẩn bị  bài trình  bày  ở  lớp là những hoạt động mà GV cần khuyến khích và hướng dẫn HS   thực hiện. Ở biện pháp này, CNTT vừa trực tiếp hỗ trợ cho HS tự học  ở nhà   và phục vụ cho hoạt động thảo luận  ở lớp thêm sôi nổi và hiệu quả. Người   học do đó có cơ hội lĩnh hội nhiều kiến thức phong phú, sâu sắc và hình thành  được nhiều kĩ năng, họ trở  nên năng động hơn và đặc biệt có những kĩ năng  sống quan trọng.  3.2.6. Tăng cường luyện tập, củng cố thông qua những hình thức vấn   đáp sinh động và bài tập trắc nghiệm phong phú được thiết kế bằng các   phần mềm chuyên dụng  Trong thực tế  dạy học hoạt động luyện tập củng cố  chưa thực sự  được   chú ý. Nguyên nhân một phần từ  nhận thức chủ  quan của người dạy chưa   thấm nhuần mục tiêu, nhiệm vụ dạy học mới; một phần từ thực tế thời gian   tiết học giới hạn mà yêu cầu kiến thức lớn, đặc biệt khó khăn hơn trong giờ  dạy học TPTS.  Với sự  hỗ  trợ  của CNTT sẽ  tiết kiệm được thời gian trên lớp và GV có  thể dành khoảng thời gian thích ứng cho hoạt động luyện tập, củng cố. Ngoài   ra, GV có thể dễ dàng thiết kế các biểu bảng, sơ đồ tư duy hoặc đơn giản là  những điểm nhấn màu sắc nhằm tiểu kết, tổng kết, xác lập các mối quan hệ  cơ  bản, trọng tâm trong tác phẩm để  khắc sâu, nhấn mạnh. Đặc biệt, GV   thiết kế các dạng bài tập trắc nghiệm hay các bài tập, câu hỏi luyện tập củng   cố dưới dạng học mà chơi như đuổi hình bắt chữ, giải ô chữ; hoặc mô phỏng  các trò chơi trí tuệ trên truyền hình như đường lên đỉnh Olympia… bằng phần   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2