1<br />
MỞ ĐẦU<br />
Chất lỏng từ (Ferrofluid - FF) có rất nhiều ứng dụng quan trọng trong<br />
các lĩnh vực công nghiệp và y sinh. Chất lỏng từ được biết đến như là chất<br />
ngăn cách động cho ổ đĩa máy tính, chất tản nhiệt, chất lọc nhiễu trong loa,<br />
chất tăng độ tương phản ảnh cộng hưởng từ,...Đặc biệt chất lỏng từ đang<br />
được xem là giải pháp có tính đột phá trong y học để điều trị các bệnh<br />
hiểm nghèo khi nó được sử dụng làm chất dẫn thuốc, chất tăng thân nhiệt<br />
cục bộ, phân tách tế bào,…<br />
Chất lỏng từ là hệ phân tán keo của các hạt hạt siêu thuận từ có năng<br />
lượng bề mặt cao (kích thước khoảng 5 nm – 20 nm) trong môi trường chất<br />
lỏng phù hợp. Do vậy các hạt từ sẽ có xu hướng tập hợp lại với nhau để<br />
giảm năng lượng bề mặt. Kết quả là hệ phân tán keo bị phá vỡ, tính chất từ<br />
không đồng nhất và giảm hiệu quả sử dụng.Để ngăn cản các hạt từ tập hợp<br />
với nhau, rất nhiều nghiên cứu đã được triển khai. Kết quả thu được cho<br />
đến nay đã chỉ ra rằng khả năng bền keo được đảm bảo bằng cách dùng các<br />
chất hoạt động bề mặt dạng phi từ để hình thành lớp vỏ bọc quanh hạt từ<br />
tính. Lớp vỏ này sẽ tạo ra các hiệu ứng không gian chống lại sự tập hợp hạt<br />
do lực tương tác Van der Waals và tương tác điện từ gây ra. Tuy nhiên lớp<br />
vỏ này có những ảnh hưởng tiêu cực đến tính chất từ của vật liệu. Để có<br />
thể tạo ra hệ chất lỏng từ ổn định phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, rất cần<br />
các giải pháp mới cùng với quá nghiên cứu toàn diện. Đó cũng là nhiệm<br />
vụ của luận án “Nghiên cứu tổng hợp và ổn định phân tán chất lỏng từ<br />
Fe3O4”<br />
Mục tiêu nghiên cứu<br />
Nghiên cứu điều chế và ổn định phân tán hệ chất lỏng oxit sắt từ trong<br />
nước. Kiểm soát các thông số của quá trình điều chế để hệ chất lỏng từ đạt<br />
được các yêu cầu sau:<br />
- Kích thước hạt trung bình nằm trong khoảng 5 nm – 20 nm. Hàm phân<br />
bố kích thước hẹp, gần với dạng đơn phân tán<br />
- Chất lỏng từ có độ bền phân tán cao và đạt các tính chất từ phù hợp<br />
trong các ứng dụng y sinh học.<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
- Điều chế oxit sắt từ bằng phương pháp đồng kết tủa hóa học. Kiểm soát<br />
các yếu tố ảnh hưởng đến phản ứng kết tủa để có thể điều khiển được cấu<br />
trúc và kích thước hạt tùy theo mục đích sử dụng.<br />
- Chế tạo các hạt polyme từ có trúc lõi hạt – vỏ polyme. Lớp vỏ polyme<br />
bao quanh hạt từ được tạo ra nhờ phương pháp trùng hợp nhũ tương không<br />
sử dụng chất nhũ hóa. Lớp vỏ polyme có tính ưa nước bao xung quanh hạt<br />
từ sẽ nâng cao khả năng phân tán của chúng trong môi trường nước. Các<br />
<br />
2<br />
thông số của quá trình trùng hợp cũng được khảo sát để tạo ra các hạt<br />
polyme từ có khả năng phân tán tốt trong nước nhưng vẫn đảm bảo tính<br />
chất từ<br />
+ Các lớp vỏ polyme khác nhau được nghiên cứu nhằm tăng tính ưa<br />
nước của bề mặt hạt từ.<br />
+ Các yếu tố ảnh hưởng đến chiều dày lớp vỏ polyme tạo thành và hiệu<br />
suất quá trình kết vỏ cũng được khảo sát.<br />
- Tạo hệ phân tán hạt polyme từ trong nước và khảo sát độ bền phân tán<br />
của các hệ chất lỏng từ với hàm lượng rắn khác nhau. Đánh giá khả năng<br />
nâng cao tính ổn định phân tán của lớp vỏ polyme<br />
Ý nghĩa khoa học, thực tiễn và những đóng góp mới của luận án<br />
- Quá trình điều chế oxit sắt từ bằng phương pháp kết tủa hóa học đã<br />
được khảo sát một cách toàn diện. Những dữ liệu thu được cho phép nâng<br />
cao hiểu biết về cơ chế phản ứng để từ đó kiểm soát kích thước và phân bố<br />
kích thước kết tủa tạo thành, đáp ứng các mục đích ứng dụng khác nhau.<br />
Kết quả nghiên cứu cũng xác định được điều kiện thích hợp để tạo ra hệ<br />
đơn phân tán của các hạt nano oxit sắt từ, khắc phục nhược điểm lớn nhất<br />
của phương pháp điều chế bằng kết tủa hóa học thông thường.<br />
- Trong luận án này, các hạt polyme từ có cấu trúc lõi oxit sắt từ và vỏ<br />
polyme đã được chế tạo bằng phương pháp trùng hợp nhũ tương không sử<br />
dụng chất nhũ hóa. Đây là kỹ thuật được phát triển hoàn toàn mới trong<br />
luận án này cho phép tạo ra lớp polyme mỏng, đồng đều, hàm lượng lõi sắt<br />
cao và không để lại dư chất làm ảnh hưởng đến độ từ của vật liệu.<br />
- Quá trình trùng hợp polyme được kiểm soát thông qua các thông số<br />
công nghệ cho phép điều chỉnh chiều dày lớp vỏ polyme tùy ý và điều<br />
chỉnh cấu trúc lõi đa hạt, đơn hạt theo yêu cầu ứng dụng.<br />
- Độ ổn định phân tán của hạt polyme từ trong nước được nâng cao rõ rệt<br />
so với các chất lỏng từ thương mại. Trong khi đó, độ bão hòa từ được duy<br />
trì ở mức khá cao so với vật liệu từ khối.<br />
Chương 1 - TỔNG QUAN VỀ CHẤT LỎNG TỪ Fe3O4<br />
1.1 Khái niệm về chất lỏng từ (Ferrofluid)<br />
Chất lỏng từ là hệ phân tán keo của các hạt từ tính có kích thước từ 5<br />
– 20 nm trong các môi trường chất lỏng phù hợp. Chất lỏng từ thông<br />
thường có 3 thành phần chính: hạt nano từ tính, chất mang và chất ổn định<br />
phân tán.<br />
Chất lỏng từ thường được điều chế theo 2 cách:<br />
- Các hạt từ nano được tổng hợp trước và sau đó được phân tán vào trong<br />
môi trường chất mang<br />
- Hệ chất lỏng từ được chế tạo cùng với quá trình tạo ra hạt nano. Dung<br />
<br />
3<br />
dịch từ tạo thành theo cách 2 có độ phân tán cao hơn. Tuy nhiên, dư chất<br />
hoạt động bề mặt có thể khiến vật liệu có độ từ tính giảm Do đó, cách điều<br />
chế thứ nhất vẫn đang được nghiên cứu và áp dụng rông rãi trên toàn thế<br />
giới.<br />
1.2 Ứng dụng của chất lỏng từ<br />
Chất lỏng từ có nhiều ứng dụng đa dạng trong các lĩnh vực công nghiệp, y<br />
sinh học, xử lý môi trường và phân tích<br />
1.3 Một số phương pháp điều chế chất lỏng từ Fe3O4<br />
Các phương pháp điều chế oxit sắt từ Fe3O4<br />
Oxit sắt từ có thể được điều chế bằng các phương pháp khác nhau như:<br />
nghiền, đồng kết tủa, vi nhũ tương, polyol, phân ly các tiền chất hữu cơ ở<br />
nhiệt độ cao, phỏng sinh học, hóa siêu âm, điện hóa, nhiệt phân. Trong<br />
đó phương pháp đồng kết tủa hóa học được sử dụng phổ biến bởi tương đối<br />
dễ thực hiện<br />
Các phương pháp tạo hệ phân tán Fe3O4<br />
Các hạt Fe3O4 có thể phân tán trong nước nhờ các quá trình thông dụng:<br />
khuấy cơ học, đảo pha hay siêu âm<br />
1.4 Quá trình mất ổn định của hệ phân tán<br />
Chất lỏng từ là hệ phân tán của các hạt siêu thuận từ có xu hướng tập hợp<br />
để giảm năng lượng bề mặt. Sự mất ổn định phân tán của hệ xảy ra do 2<br />
hiện tượng chính:<br />
Sa lắng: phụ thuộc kích thước hạt và tỷ trọng so với chất mang<br />
Keo tụ: các hạt tập hợp do lực hút Van der Waals và lực hút điện từ<br />
1.5 Phương pháp ổn định phân tán<br />
Ổn định phân tán làgiải pháp ngăn hiện tượng sa lắng và keo tụ. Để giảm<br />
tốc độ sa lắng, có 2 cách hoặc là giảm kích thước hạt, hoặc là thay đổi chất<br />
mang để giảm mức chênh lệch giữa tỷ trọng của hạt rắn và môi trường. Để<br />
ngăn hiện tượng keo tụ, phương pháp phổ biến nhất là sử dụng chất hoạt<br />
động bề mặt. Các chất hoạt động bề mặt có thể dạng ion hoặc không ion.<br />
Khi tham gia vào trong hệ, chúng sẽ hấp phụ lên bề mặt các hạt rắn tạo ra<br />
lớp điện tích kép hoặc lớp vỏ có hiệu ứng không gian ngăn cản các hạt tập<br />
hợp thành các hạt có kích thước lớn và sa lắng. Phương án được quan tâm<br />
nghiên cứu nhất hiện nay là sử dụng polyme được tạo thành nhờ phản ứng<br />
trùng hợp xảy ra ngay trong hệ có mặt hạt từ rắn.<br />
1.6 Lý thuyết quá trình trùng hợp tạo lớp vỏ polyme<br />
Phản ứng trùng hợp gốc tự do diễn ra theo 3 giai đoạn: khơi mào, phát triển<br />
mạch và ngắt mạch. Tốc độ phản ứng phụ thuộc vào các yếu tố như nồng độ<br />
monome, chất khơi mào, nhiệt độ,…. Mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố phụ<br />
thuộc vào kiểu phản ứng như trùng hợp nhũ tương, huyền phù, dung dịch, đảo<br />
<br />
4<br />
pha,…<br />
Phương pháp phổ biến nhất hiện nay để tạo lớp vỏ polyme bao quanh hạt<br />
rắn là trùng hợp nhũ tương. Trong phương pháp này, các hạt rắn được bao<br />
quanh bởi các monome và quá trình trùng hợp tạo polyme diễn ra ở đó.<br />
Trong 1 số trường hợp, polyme có thể tạo thành trong pha liên tục, sau đó<br />
gắn lên bề mặt hạt rắn nhờ các nhóm chức.<br />
1.7 Tình hình nghiên cứu về chất lỏng từ trong nước và trên thế giới<br />
Điều chế oxit sắt từ<br />
Phương pháp điều chế Fe3O4 bằng đồng kết tủa hóa học là tương<br />
đối đơn giản nhưng quá trình thực hiện phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố.<br />
Việc kiểm soát kích thước vẫn là thách thức khi cơ chế của phản ứng chưa<br />
đạt được sự đồng thuận cao. Kích thước sắt từ dường như phụ thuộc cả vào<br />
phân bố kích thước ban đầu của pha trung gian (ferrihydrite) và tốc độ phát<br />
triển mầm. Các kết quả khảo sát đã công bố là khá mâu thuẫn. Chẳng hạn<br />
như tăng nhiệt độ có thể dẫn đến tăng kích thước hoặc không tăng tùy<br />
thuộc vào dung dịch kiềm. Một số công trình chỉ ra hiện tượng tăng kích<br />
thước kết tủa khi tăng tốc độ đưa kiềm vào hệ phản ứng trong khi một số<br />
khác tìm thấy kết quả ngược lại.<br />
Bên cạnh độ tinh khiết và kích thước trung bình của các hạt kết<br />
tủa, độ rộng hàm phân bố kích thước là thông số vô cùng quan trọng. Hệ<br />
sắt từ tạo ra bằng phương pháp kết tủa hóa học thường có hàm phân bố<br />
kích thước khá rộng. Độ rộng của hàm phân bố dạng log-normal thường là<br />
0,6 – 0,7 nm. Có thể nói, cho đến nay, vấn đề đồng đều kích thước vẫn là<br />
thách thức lớn nhất mà phương pháp đồng kết tủa phải đối mặt.<br />
Các thông số phản ứng có ảnh hưởng rất lớn đến phân bố kích<br />
thước. Khuấy được báo cáo là công cụ hữu hiệu để tăng sự đồng đều các<br />
hạt kết tủa. Trong chừng mực nào đó thì nhiệt độ cũng có ảnh hưởng tương<br />
tự. Giải pháp được lựa chọn nhiều nhất là sử dụng chất hoạt động bề mặt.<br />
Tuy nhiên ảnh hưởng tiêu cực của chất hoạt động bề mặt đến tính chất từ<br />
của vật liệu là điều cần cân nhắc.<br />
Ổn định phân tán chất lỏng từ<br />
Để ngăn cản các hạt từ tập hợp với nhau, các chất hoạt động bề<br />
mặt mà tiêu biểu là các anhydrit của các axit béo với các gốc axit từ C11<br />
đến C25 được sử dụng chủ yếu.Với các chất hoạt động bề mặt kiểu này<br />
chất lỏng từ được ổn định phân tán nhờ các lực tĩnh điện và chúng dễ dàng<br />
bị khử bền phân tán khi thay đổi các điều kiện môi trường.Để giải quyết<br />
những vấn đề này, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng khả năng bền keo được<br />
đảm bảo bằng cách dùng các chất dạng phi từ bao xung quanh hạt từ tính.<br />
Lớp vỏ này sẽ tạo ra các hiệu ứng không gian chống lại sự tập hợp của các<br />
<br />
5<br />
hạt từ tính do các lực tương tác Van der Waals và các tương tác điện từ gây<br />
ra. Rất nhiều phương án đã được đề xuất, nghiên cứu:<br />
Chất ổn định dạng monome: chứa các nhóm chức cacboxyl,<br />
photphat hay sunphat. Độ ổn định phụ thuộc vào pH. Trong một số trường<br />
hợp (axit citric) có thể làm thay đổi hình thái cấu trúc của bề mặt hạt từ<br />
Chất ổn định vô cơ: Các hạt nano oxit sắt có thể được phủ silica,<br />
vàng, hoặc gadolinium (III). Các lớp phủ này cung cấp sự ổn định cho các<br />
hạt nano trong dung dịch. Tuy nhiên kích thước hạt là khá lớn so với hệ<br />
Ferrofluids lý tưởng<br />
Ổn định phân tán bằng các polyme:các chất phủ phổ biến là<br />
dextran, dextran biến tính, tinh bột, styrene-divinylbenzen, polyethylene<br />
glycol (PEG) hay polyvinyl (PVA). Các polyme cho phép nâng cao đáng<br />
kể độ bền phân tán của hạt từ. Mặc dù vậy, việc điều chỉnh chiều dày lớp<br />
phủ là tương đối khó khăn, phụ thuộc vào khối lượng phân tử polyme.<br />
Ngoài ra sự gắn kết của polyme lên bề mặt hạt rắn là không bền, đặc biệt<br />
khi thay đổi nhiệt độ<br />
Chất ổn định dạng polyme kết vỏ: lớp polyme hình thành trên<br />
bề mặt hạt rắn nhờ quá trình trùng hợp các monome. Các quá trình trùng<br />
hợp dị thể khác nhau đã được khảo sát như trùng hợp nhũ tương, trùng hợp<br />
huyền phù, trùng hợp mini nhũ tương, trùng hợp nhũ tương đảo pha. Các<br />
kết quả đã công bố cho thấy hiệu suất của quá trình kết vỏ là khá thấp. Các<br />
hạt polyme từ tạo thành có hàm lượng sắt không cao.Vấn đề lớn nhất của<br />
việc sử dụng lớp polyme để ổn định phân tán là lớp này khiến cho các hạt<br />
từ bị giảm từ tính một cách đáng kể.<br />
1.8 Những vấn đề còn tồn tại và hướng nghiên cứu của luận án<br />
Tình hình nghiên cứu cho thấy nhiều yếu tố của phản ứng điều chế<br />
Fe3O4 vẫn chưa được kiểm soát, cơ chế hình thành và phát triển mầm vẫn<br />
chưa có được sự hiểu biết sâu sắc và đồng thuận. Do vậy, việc chế tạo các<br />
hạt nano từ có kích thước đồng đều và độ từ tính cao vẫn là một thách thức<br />
không nhỏ của khoa học. Do vậy, trong luận án này, phản ứng kết tủa tạo<br />
Fe3O4 tiếp tục được nghiên cứu phát triển. Những yếu tố đóng vai trò quyết<br />
định đến cấu trúc, kích thước và độ từ tính của kết tủa tạo thành sẽ được<br />
khảo sát toàn diện nhằm hướng tới sự hiểu biết sâu sắc hơn về cơ chế phản<br />
ứng và cách thức điều khiển kích thước theo yêu cầu. Quá trình khảo sát<br />
cũng hướng tới việc tạo ra hệ siêu thuận từ có kích thước trung bình từ 5 –<br />
20 nm, hàm phân bố hẹp gần với dạng đơn phân tán.<br />
Để ổn định phân tán Fe3O4 trong môi trường nước, giải pháp hiệu<br />
quả là tạo lớp vỏ polyme bao quanh hạt rắn. Tập hợp các công trình đã<br />
công bố (mục 1.7) cho thấy rất nhiều polyme cùng các kỹ thuật khác nhau<br />
<br />