Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Chuẩn bị cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non
lượt xem 5
download
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục "Chuẩn bị cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non" nhằm xây dựng một số biện pháp chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi khi chuyển từ môi trường gia đình tới trường mầm non, giúp trẻ nhanh chóng thiết lập được sự cân bằng và hòa nhập với môi trường mới, tạo tâm thế cho trẻ sẵn sàng học tập ở các độ tuổi tiếp theo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Chuẩn bị cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI TRẦN THỊ KIM LIÊN CHUẨN BỊ CHO TRẺ 24 – 36 THÁNG TUỔI THÍCH ỨNG VỚI TRƯỜNG MẦM NON CHUYÊN NGÀNH: GIÁO DỤC MẦM NON MÃ SỐ: 9.14.01.01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC HÀ NỘI - 2022
- Công trình được hoàn thành tại: Khoa Giáo dục mầm non – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Bùi Thị Lâm 2. PGS.TS. Nguyễn Thị Hòa Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Thị Hoàng Yến Học viện Quản lý giáo dục Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Hồng Thuận Viện Khoa học giáo dục Việt Nam Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Hồng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại vào … giờ..., ngày... tháng… năm 2022. Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc Gia, Hà Nội - Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Môi trường tự nhiên và xã hội luôn vận động và biến đổi không ngừng và điều này đòi hỏi con người cần có khả năng thích ứng với những biến động đó. Thích ứng giúp con người có những thay đổi, điều chỉnh phù hợp với những yêu cầu của sự thay đổi môi trường để đạt sự cân bằng với môi trường, hòa nhập với môi trường. Chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non có ý nghĩa quan trọng, góp phần đáp ứng một trong những mục tiêu của giáo dục mầm non là “hình thành và phát triển ở trẻ những chức năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi”. 1.2. Lần đầu đến trường mầm non là một bước ngoặt quan trọng với trẻ em, bởi lẽ thời điểm này đánh dấu sự thay đổi từ môi trường gia đình quen thuộc sang môi trường mầm non mới lạ. Trẻ sẽ được mở rộng các mối quan hệ mới, tham gia vào các hoạt động có định hướng, có kế hoạch của nhà giáo dục. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hai môi trường này khiến trẻ gặp nhiều khó khăn trong việc thích ứng. Có trẻ cảm thấy căng thẳng, bất an, thậm chí cảm giác bị đe dọa, một số trẻ khác bị rối loạn về ăn uống, giấc ngủ, hay có hành vi tiêu cực và giảm mức độ tương tác với những người xung quanh. Do đó, cần có những chuẩn bị phù hợp giúp trẻ dần thích ứng với trường mầm non. 1.3. Những nghiên cứu về khoa học thần kinh đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chăm sóc trẻ em có thể ảnh hưởng đến cấu trúc và sự phát triển của não bộ. Trẻ 24 – 36 tháng tuổi có sự phát triển mạnh mẽ các kết nối thần kinh nhưng điều này lại phụ thuộc vào sự đáp ứng và chăm sóc của người lớn [1]. Mặt khác, đối với trẻ 24 – 36 tháng tuổi, quan hệ gắn bó với mẹ còn chiếm ưu thế. Trẻ thường thể hiện sự lo âu và dễ bị tổn thương khi bị tách khỏi đối tượng quen thuộc. Trẻ bắt đầu có nhu cầu khẳng định bản thân mặc dù vẫn phụ thuộc vào mẹ. Trẻ dần lớn lên, phát triển và bắt đầu ý thức mình là một con người riêng biệt, khác với mọi người xung quanh. Và đặc biệt, trong giai đoạn này xuất hiện khủng hoảng tuổi lên 3, đánh dấu thời kì khó khăn đối với trẻ và người chăm sóc trẻ khi trẻ muốn thể hiện sự độc lập trong khi khả năng còn hạn chế. Bên cạnh đó, thực tiễn cũng cho thấy, nhiều gia đình cho trẻ bắt đầu đến trường mầm non khi trẻ trong độ tuổi 24 – 36 tháng tuổi. Do vậy, cần quan tâm chuẩn bị cho trẻ độ tuổi 24 – 36 tháng tuổi khi lần đầu đi học ở trường mầm non, phù hợp với sự phát triển của trẻ và góp phần giải quyết khó khăn của trẻ và gia đình trẻ. 1.4. Một số nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy, gia đình và trường mầm non cũng gặp nhiều khó khăn khi trẻ lần đầu đi học. Khi trẻ bước sang một môi trường mới, nhiều cha mẹ mong muốn có những thông tin và sự giúp đỡ từ phía nhà trường để giảm bớt những lo lắng, buồn phiền và cảm giác có lỗi khi không biết điều gì sẽ xảy đến với 1
- trẻ khi ở một môi trường xa lạ. Giáo viên mầm non cũng gặp nhiều thách thức và cần có những hỗ trợ từ phía trường mầm non cũng như sự hợp tác chặt chẽ của gia đình trẻ để giúp trẻ nhanh chóng thích ứng với trường, lớp mới. Một số nghiên cứu cũng đã quan tâm đến việc đưa ra các biện pháp chuẩn bị của gia đình và trường mầm non nhằm hỗ trợ cho trẻ thích ứng với trường mầm non. Tuy nhiên, ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về thích ứng tập trung vào đối tượng trẻ chuẩn bị vào lớp một là chủ yếu. Những nghiên cứu về chuẩn bị cho trẻ thích ứng với trường mầm non còn thiếu vắng. Một số nghiên cứu ít ỏi được tìm thấy mới chỉ đề xuất được một số biện pháp từ phía trường mầm non và khảo sát trên đối tượng là giáo viên mầm non. Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non tại Việt Nam là cần thiết. Từ những lý do trên, luận án lựa chọn nghiên cứu đề tài “Chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non”. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu lý luận và thực tiễn chuẩn bị cho trẻ 24 -36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non. Trên cơ sở đó xây dựng một số biện pháp chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi khi chuyển từ môi trường gia đình tới trường mầm non, giúp trẻ nhanh chóng thiết lập được sự cân bằng và hòa nhập với môi trường mới, tạo tâm thế cho trẻ sẵn sàng học tập ở các độ tuổi tiếp theo. 3. Đối tượng, khách thể nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Biện pháp chuẩn bị cho trẻ 24 -36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non. 3.2. Khách thể nghiên cứu Quá trình chuẩn bị cho trẻ 24 -36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non. 4. Giả thuyết khoa học Quá trình chuẩn bị cho trẻ 24 -36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non đã được gia đình và trường mầm non quan tâm, tuy nhiên vẫn còn một số bất cập, hạn chế làm cho nhiều trẻ khi đến trường thường có những biểu hiện sợ hãi, thiếu tự tin, lo lắng và không hợp tác với giáo viên và bạn bè. Nếu đề xuất và thực hiện được một số biện pháp chuẩn bị cho trẻ 24 -36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non theo hướng phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và trường mầm non trước và sau khi trẻ đến trường sẽ giúp trẻ thích ứng tốt hơn với môi trường mới. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Xây dựng cơ sở lý luận về chuẩn bị cho trẻ 24 -36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non. 5.2. Khảo sát thực trạng chuẩn bị cho trẻ 24 -36 tháng tuổi thích ứng với trường 2
- mầm non. 5.3. Đề xuất và thực nghiệm một số biện pháp chuẩn bị cho trẻ 24 -36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non. 6. Phạm vi nghiên cứu - Về đối tượng nghiên cứu: Chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non cần có sự tham gia của các lực lượng khác nhau, tuy nhiên trong luận án này nghiên cứu tập trung vào hai lực lượng trung tâm là gia đình và trường mầm non. - Về khách thể khảo sát: 70 trẻ 24 - 36 tháng lần đầu đi học ở trường mầm non; 70 cha/mẹ của những trẻ này và 70 giáo viên trực tiếp dạy trẻ 24- 36 tháng tuổi ở trường mầm non. - Về khách thể thực nghiệm: 03 trẻ trong độ tuổi 24 – 36 tháng tuổi lần đầu đi học ở trường mầm non. - Địa bàn nghiên cứu: Thành phố Nam Định. 7. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu 7.1. Quan điểm tiếp cận: Tiếp cận phát triển; Tiếp cận hệ thống; Tiếp cận hoạt động; Tiếp cận tích hợp; Tiếp cận văn hóa 7.2. Các phương pháp nghiên cứu - Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận - Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn gồm: Phương pháp quan sát, phương pháp trò chuyện, phỏng vấn, phương pháp nghiên cứu trường hợp, phương pháp thực nghiệm sư phạm - Phương pháp xử lý số liệu 8. Luận điểm bảo vệ 8.1. Trẻ 24 – 36 tháng tuổi gặp một số khó khăn trong giai đoạn chuyển tiếp từ gia đình đến trường mầm non. Chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non là quá trình tác động nhằm giúp trẻ thiết lập sự cân bằng và hòa nhập với môi trường mới, giảm thiểu khó khăn trẻ thường gặp phải ở giai đoạn này. 8.2. Sự thích ứng với trường mầm non của trẻ 24 – 36 tháng tuổi được biểu hiện ở các dấu hiệu bao gồm: trẻ thể hiện cảm xúc ổn định; trẻ tham gia tích cực trong hoạt động với đồ vật; trẻ thiết lập mối quan hệ với người lớn và bạn bè; trẻ sẵn sàng tiếp nhận những thay đổi của các tình huống quen thuộc và trẻ tham gia tích cực trong các hoạt động sinh hoạt hằng ngày (ăn, ngủ, vệ sinh). 8.3. Quá trình chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng có liên quan, đặc biệt hai lực lượng trung tâm là trường mầm non và gia đình trẻ. 3
- 8.4. Việc chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non sẽ có hiệu quả nếu thực hiện các biện pháp chuẩn bị từ khi trẻ chưa đến trường đến khi trẻ bắt đầu thích ứng với trường mầm non, với sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và trường mầm non. Trong đó, trường mầm non đóng vai trò chủ đạo của quá trình chuẩn bị này. 9. Đóng góp mới của luận án 9.1. Làm phong phú thêm cơ sở lý luận về chuẩn bị cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non. Cụ thể: xây dựng được khái niệm về chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non, xác định các biểu hiện thích ứng với trường mầm non của trẻ và quá trình chuẩn bị cho trẻ 24 -36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non. 9.2. Mô tả bức tranh về thực trạng chuẩn bị cho trẻ 24 -36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non tại địa bàn thành phố Nam Định, là cơ sở cho việc xây dựng, phát triển các hoạt động hỗ trợ trẻ và gia đình trẻ trong giai đoạn chuyển tiếp từ nhà đến trường mầm non. Luận án đã kế thừa và thiết kế được bộ công cụ đo lường mức độ thích ứng với trường mầm non của trẻ 24 – 36 tháng tuổi với độ tin cậy Cronbach’alpha bước đầu đáp ứng tiêu chuẩn. 9.3. Xây dựng tài liệu hướng dẫn cho cha mẹ và giáo viên mầm non trong chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non. 10. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan và cơ sở lý luận về chuẩn bị cho trẻ 24 -36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non Chương 2: Thực trạng chuẩn bị cho trẻ 24 -36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non Chương 3: Biện pháp chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non Chương 4: Thực nghiệm biện pháp chuẩn bị cho trẻ 24 -36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non. 4
- CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUẨN BỊ CHO TRẺ 24 – 36 THÁNG TUỔI THÍCH ỨNG VỚI TRƯỜNG MẦM NON 1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề 1.1.1. Những nghiên cứu về sự thích ứng với trường mầm non của trẻ 24 – 36 tháng tuổi Hướng thứ nhất: Những nghiên cứu về các biểu hiện ở trẻ khi lần đầu đến trường mầm non. Các nghiên cứu của Ainslie & Anderson (1984), Ahnert và cộng sự, (2004), Griebel & Niesel (2009) và Watamura và cộng sự (2003), Blatchford (1983), Field (1984, 1991); Hausken và cộng sự (2002)… đã khẳng định trong lần đầu đi học ở trường mầm non, trẻ có phản ứng (1) căng thẳng, lo âu, (2) giảm các tương tác xã hội, phản đối và tìm kiếm sự gắn bó và (3) dần thích ứng sau một thời gian làm quen Hướng thứ hai: Những nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng với trường mầm non của trẻ 24 - 36 tháng tuổi. Các tác giả tiêu biểu của hướng nghiên cứu này gồm Klim-Klimaszewska (2006); Ereky-Stevens (2018); Hausken (2002) đã phân tích yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến sự thích ứng của trẻ. Về các yếu tố khách quan, các nghiên cứu chỉ ra rằng có các yếu tố trong trường mầm non ảnh hưởng đến sự thích ứng của trẻ gồm (1) sự tương tác giữa giáo viên và trẻ, (2) sự quen thuộc của giáo viên và bạn bè và (3) thời gian trẻ ở trường mầm non. Về các yếu tố chủ quan, một số nghiên cứu chỉ ra các đặc điểm của trẻ gây ảnh hưởng tới chính quá trình chuẩn bị cho trẻ thích ứng với trường mầm non như đặc điểm khí chất, độ tuổi, giới tính, thiếu các kĩ năng cần thiết, sự gắn bó với người chăm sóc chính của trẻ. Các nghiên cứu này là căn cứ để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng của trẻ 24 – 36 tháng tuổi ở Việt Nam, với bối cảnh văn hóa gia đình và trường mầm non riêng biệt. 1.1.2. Những nghiên cứu về sự chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non 1.1.2.1. Những nghiên cứu về sự chuẩn bị cho trẻ đến trường Trong số các nghiên cứu về chuẩn bị cho trẻ đến trường, các nghiên cứu chuẩn bị cho trẻ dưới 36 tháng tuổi chuyển tiếp từ nhà đến trường mầm non có phần hạn chế hơn. Đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam, các nghiên cứu về vấn đề này còn khá thiếu vắng. 1.1.2.2. Những nghiên cứu về biện pháp chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non Các nghiên cứu về chuẩn bị kế hoạch cho sự kết nối giữa trường mầm non và gia đình trẻ; Các nghiên cứu về nội dung chuẩn bị của gia đình và trường mầm non; Các nghiên cứu về chuẩn bị các kĩ năng cần thiết cho trẻ thích ứng với trường mầm non.Tuy nhiên nhận thấy các nội dung, biện pháp và hình thức chuẩn bị cho trẻ còn 5
- chung cho độ tuổi trẻ mầm non. Các nghiên cứu xem xét về nội dung, biện pháp và hình thức chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi tại Việt Nam còn khá ít ỏi. 1.2 Lý luận về thích ứng với trường mầm non của trẻ 24 – 36 tháng tuổi 1.2.1. Khái niệm thích ứng với trường mầm non của trẻ 24 – 36 tháng tuổi 1.2.1.1. Khái niệm thích ứng Thích ứng là quá trình con người tiếp nhận những thay đổi của môi trường và điều chỉnh bản thân nhằm thiết lập sự cân bằng và hòa nhập với môi trường mới. 1.2.1.2. Khái niệm thích ứng với trường mầm non của trẻ 24 – 36 tháng tuổi Từ khái niệm thích ứng nêu trên, thích ứng với trường mầm non của trẻ 24 – 36 tháng tuổi được hiểu là quá trình trẻ tiếp nhận những thay đổi khi chuyển từ môi trường gia đình tới trường mầm non và điều chỉnh bản thân nhằm thiết lập sự cân bằng và hòa nhập với trường mầm non. 1.2.2. Đặc điểm phát triển tâm - sinh lý của trẻ 24 – 36 tháng tuổi có liên quan đến thích ứng với trường mầm non Trong ba năm đầu đời, não bộ của trẻ có sự phát triển vượt bậc về các kết nối thần kinh và đạt đỉnh điểm khi trẻ 3 tuổi. Tuy nhiên, nếu trẻ gặp phải tình trạng căng thẳng và những trải nghiệm tiêu cực như trong lần đầu đi học ở trường mầm non thì hệ thần kinh dễ bị kích thích và ảnh hưởng đến sự phát triển cấu trúc não bộ. Giai đoạn 24 – 36 tháng tuổi cũng là thời kì phát cảm ngôn ngữ với nhịp độ phát triển ngôn ngữ tăng lên rõ rệt. Hoạt động với đồ vật là hoạt động chủ đạo của trẻ 24 – 36 tháng tuổi. Thông qua hoạt động với đồ vật, tri giác của trẻ trở nên tinh vi và đầy đủ hơn. Tính chất của xúc cảm vẫn mạnh, có tính bột phát nhưng đã hướng tới một đối tượng khá rõ rệt và ổn định. Trẻ vẫn chưa làm chủ được cảm xúc của mình, hay lo lắng, sợ hãi và thường bị lây lan tình cảm của người khác. Đối với trẻ 24 – 36 tháng tuổi, quan hệ gắn bó với mẹ còn chiếm ưu thế nhưng cũng bắt đầu ý thức được bản thân là một cá thể riêng biệt, khác với mọi người xung quanh. Đây là giai đoạn mà trẻ xuất hiện biểu hiện lo âu khi bị chia cách – một phần tự nhiên của sự gắn bó. Trẻ 24 – 36 tháng tuổi đã hình thành khuôn mẫu hành vi tương đối ổn định. 1.2.3. Biểu hiện thích ứng với trường mầm non của trẻ 24 – 36 tháng tuổi Biểu hiện 1: Trẻ thể hiện cảm xúc ổn định Biểu hiện 2: Trẻ tham gia tích cực trong hoạt động với đồ vật Biểu hiện 3: Trẻ thiết lập mối quan hệ với người lớn và bạn bè Biểu hiện 4: Trẻ sẵn sàng tiếp nhận những thay đổi của các tình huống quen thuộc Biểu hiện 5: Trẻ tham gia tích cực trong các hoạt động sinh hoạt hằng ngày (ăn, ngủ, vệ sinh) 6
- 1.2.4. Ý nghĩa của thích ứng với trường mầm non đối với trẻ 24 – 36 tháng tuổi Thích ứng với trường mầm non giúp cảm xúc của trẻ được ổn định, hệ thần kinh được nuôi dưỡng và bảo vệ khỏi sự căng thẳng trước những thay đổi trong lần đầu đến trường. Việc trẻ hòa nhập vào các hoạt động trong chế độ sinh hoạt hàng ngày như ăn, ngủ, vệ sinh giúp cơ thể trẻ thiết lập được nhịp sinh học đều đặn. Khi trẻ thiết lập được sự cân bằng và hòa nhập vào các hoạt động, trẻ chủ động tham gia một cách tích cực vào các hoạt động giáo dục. Đó là các hoạt động được tổ chức một cách khoa học, có mục đích, có kế hoạch theo chương trình cụ thể của trường mầm non sẽ giúp trẻ được phát triển một cách toàn diện, phù hợp với nhu cầu và khả năng của trẻ. Qua đó, khả năng nhận thức của trẻ được phát triển. Thích ứng với trường mầm non còn giúp trẻ tích cực chủ động tham gia và hòa mình vào trong các mối quan hệ với mọi người. 1.3. Lý luận về chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non 1.3.1. Khái niệm chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non Chuẩn bị cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non được hiểu là quá trình tác động sư phạm có mục đích, có hướng trong việc tổ chức hoạt động phối hợp cùng nhau giữa trường mầm non và gia đình nhằm giúp trẻ thiết lập sự cân bằng và hòa nhập với trường mầm non. 1.3.2. Ý nghĩa của việc chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non Quá trình chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp trẻ giảm lo sợ, giảm các ảnh hưởng tiêu cực khi trẻ không thích ứng với trường mầm non, tăng tần suất các biểu hiện thích ứng và rút ngắn thời gian thích ứng của trẻ. Một sự chuẩn bị tốt để bước vào một môi trường mới sẽ tránh cho hầu hết trẻ em phải chịu đựng ngay cả giai đoạn đầu của sự căng thẳng. Bên cạnh đó, việc chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non cũng giúp chính gia đình trẻ và trường mầm non thích ứng với giai đoạn chuyển tiếp từ nhà đến trường mầm non của trẻ. Bởi việc trẻ lần đầu đi học không chỉ gây ra khó khăn tới bản thân trẻ và gia đình trẻ mà nó còn tác động tới trường mầm non nói chung và giáo viên mầm non nói riêng. Ngoài ra, việc chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non góp phần giúp đảm bảo Quyền trẻ em. 1.3.3. Quá trình chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non 1.3.3.1. Mục tiêu chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non Chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non hướng đến mục tiêu giúp trẻ thiết lập được sự cân bằng với môi trường mầm non mới. Trong đó, trách nhiệm của gia đình và trường mầm non là nâng đỡ, hỗ trợ trẻ để xóa dần sự chênh lệch giữa hai môi trường này, giảm bớt sự lo hãi và thúc đẩy thời gian thích ứng của trẻ nhanh chóng hơn. 7
- 1.3.3.2. Nội dung chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non Nội dung 1: Chuẩn bị tâm thế cho trẻ làm quen với môi trường trường, lớp mới Nội dung 2: Chuẩn bị cho trẻ mở rộng các mối quan hệ xã hội Nội dung 3: Chuẩn bị cho trẻ làm quen với các hoạt động giáo dục Nội dung 4: Chuẩn bị cho trẻ làm quen với chế độ sinh hoạt ở trường mầm non 1.3.3.3. Hình thức chuẩn bị cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non Gia đình và trường mầm non có thể thông qua nhiều hình thức khác nhau như thông qua chính các hoạt động trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của gia đình, hoạt động thăm trường, lớp tổ chức trước khi trẻ chính thức đến trường, thông qua hoạt động chủ đạo của trẻ 24 – 36 tháng tuổi là hoạt động với đồ vật, thông qua các hình thức thông tin, tuyên truyền… Quá trình chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non gồm 2 giai đoạn chính: Giai đoạn 1: Trước khi trẻ chính thức đến trường. Trẻ vẫn sống trong môi trường gia đình quen thuộc nhưng bắt đầu tham gia vào các hoạt động được gia đình và nhà trường chuẩn bị. Giai đoạn này nhấn mạnh vai trò của gia đình cũng như sự hợp tác ban đầu giữa gia đình với trường mầm non và giáo viên của trẻ. Giai đoạn 2: Khi trẻ đến trường mầm non Thời kì đầu trẻ mới đến trường (thường là tuần đầu tiên) Thời kì trẻ bắt đầu thích ứng với trường mầm non: Trẻ, gia đình và giáo viên dần tìm kiếm được sự cân bằng với các mối quan hệ xã hội mới được thiết lập. Trẻ dần cảm thấy an toàn, được tôn trọng, được đáp ứng các nhu cầu trong môi trường mới. Trẻ dần nhận ra vị trí, vai trò của bản thân trong môi trường lớp học thông qua sự tích cực, chủ động trong các hoạt động và các mối quan hệ. Trẻ cũng dần tiếp nhận các sự thay đổi nhỏ trong môi trường đó, cảm thấy mình thuộc về môi trường mầm non. Lúc này, vai trò của trường mầm non là chủ yếu và gia đình tiếp tục hỗ trợ trẻ, thúc đẩy trẻ hòa mình vào cuộc sống ở trường, lớp mầm non. 1.3.3.4. Phương pháp và biện pháp chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non Biện pháp chuẩn bị cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non là cách làm cụ thể trong việc tổ chức hoạt động phối hợp cùng nhau giữa trường mầm non và gia đình để giúp trẻ thiết lập sự cân bằng và hòa nhập với trường mầm non. 1.3.3.5. Đánh giá về chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non (1) Về phía người chuẩn bị: đánh giá chuẩn bị của gia đình (cha mẹ) và của trường mầm non (giáo viên); (2) Về phía người được chuẩn bị: đánh giá kết quả thích ứng với trường mầm non của trẻ 24 – 36 tháng tuổi. 8
- 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non, bao gồm: Đặc điểm của trẻ; Môi trường gia đình; Môi trường mầm non; Cộng đồng. Tiểu kết chương 1 Quá trình mà trẻ phản ứng để điều chỉnh bản thân trước những thay đổi của môi trường và tích cực hoạt động nhằm thiết lập sự cân bằng mới chính là thích ứng với trường mầm non. Khi thích ứng với trường mầm non, trẻ tìm thấy được sự quen thuộc và gắn bó, cảm nhận mình thuộc về môi trường mới. Điều này được thể hiện thông qua sự ổn định trong cảm xúc của trẻ, sự chủ động, phù hợp và hiệu quả trong các hoạt động chăm sóc – giáo dục, sự tiếp nhận các sự thay đổi khác trong môi trường mới và sự chủ động thiết lập mối quan hệ với giáo viên và bạn bè. Chuẩn bị cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non là quá trình phối hợp cùng nhau giữa gia đình và nhà trường để giúp trẻ thiết lập sự cân bằng và hòa nhập với môi trường mầm non mới. Quá trình này diễn ra theo hai giai đoạn chính bao gồm (1) trước khi trẻ chính thức đến trường và (2) khi trẻ đến trường. Các thành tố của một quá trình chuẩn bị cho trẻ 24 -36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non bao gồm mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp, biện pháp và đánh giá. Biện pháp chuẩn bị cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non là cách làm cụ thể trong phối hợp cùng nhau giữa gia đình và nhà trường để giúp trẻ thiết lập sự cân bằng và hòa nhập với môi trường mầm non mới. 9
- CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHUẨN BỊ CHO TRẺ 24 - 36 THÁNG TUỔI THÍCH ỨNG VỚI TRƯỜNG MẦM NON 2.1. Tổ chức khảo sát thực trạng chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non 2.1.1. Mục đích khảo sát Điều tra nhằm làm rõ thực trạng của việc chuẩn bị cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non. Dựa trên kết quả điều tra, xác lập cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng biện pháp chuẩn bị cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi thích ứng với đến trường mầm non. 2.1.2. Nội dung khảo sát - Thực trạng chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non của cha mẹ trẻ. - Thực trạng chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non của giáo viên mầm non và cán bộ quản lý. - Thực trạng thích ứng với trường mầm non của trẻ 24 – 36 tháng tuổi. - Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thích ứng với trường mầm non của trẻ 24 – 36 tháng tuổi. 2.1.3. Khách thể và địa bàn khảo sát - Khách thể: + Tiến hành điều tra 4 cán bộ quản lý và 70 giáo viên mầm non trực tiếp dạy trẻ 24 – 36 tháng tuổi các trường mầm non thuộc 2 nhóm trường công lập, tư thục ở khu vực nội thành và ngoại thành. + Tiến hành nghiên cứu trên 70 trẻ 24 – 36 tháng tuổi, trong đó có 38 trẻ nam và 32 trẻ nữ đang học ở các trường mầm non; 70 cha/mẹ của những trẻ này. - Địa bàn: Thành phố Nam Định - Thời gian điều tra: Tháng 8 – 9/2020 2.1.4. Phương pháp và công cụ khảo sát 2.1.4.1. Phương pháp khảo sát: Phương pháp quan sát, Phương pháp trò chuyện, Phương pháp phỏng vấn, Phương pháp xử lý số liệu 2.1.4.2. Công cụ khảo sát - Đối với giáo viên mầm non và cha mẹ trẻ: Sử dụng phiếu phỏng vấn (KAP) dành cho giáo viên mầm non và cha mẹ trẻ. Các câu hỏi tập trung vào khảo sát về kiến thức, thái độ và thực hành chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non. - Đối với cán bộ quản lý: Sử dụng phiếu phỏng vấn sâu dành cho cán bộ quản lý để làm rõ quan điểm và chính sách hỗ trợ của trường mầm non trong việc chuẩn bị cho trẻ thích ứng với trường mầm non. - Đối với trẻ 24 – 36 tháng tuổi: Thang đánh giá thích ứng với trường mầm non của trẻ 24 – 36 tháng tuổi được xây dựng dựa trên cơ sở kế thừa 5 items trong thang 10
- đánh giá của A.S. Ronzhina và 5 items trong thang đánh giá của Pechora K.L. Để đảm bảo đánh giá đầy đủ các biểu hiện thích ứng của trẻ, luận án bổ sung thêm 3 biểu hiện. Mỗi items được đánh giá ở 3 mức độ. Bên cạnh thang đánh giá mức độ thích ứng của trẻ khi ở trường mầm non, luận án có xây dựng thang đánh giá các biểu hiện thích ứng khi trẻ ở nhà do cha mẹ đánh giá. Dựa trên bảng hỏi dành cho phụ huynh của Pechora K.L; Pantyukhina G.V; Golubeva L.G., luận án xây dựng thang đánh giá sự thích ứng với trường mầm non của trẻ 24 – 36 tháng tuổi dành cho cha mẹ với 18 items. 2.1.5. Tiến trình khảo sát 2.1.5.1. Chuẩn bị khảo sát: Xây dựng công cụ khảo sát thực trạng; Liên hệ với trường mầm non và gia đình trẻ; Bồi dưỡng cộng tác viên khảo sát 2.1.5.2. Thực hiện khảo sát: Khảo sát trên giáo viên mầm non và cha mẹ trẻ; Khảo sát trên cán bộ quản lý; Khảo sát thực trạng thích ứng với trường mầm non và yếu tố ảnh hưởng đến thích ứng với trường mầm non của trẻ 24 – 36 tháng tuổi 2.1.5.3. Xử lý số liệu Thu thập và xử lý số liệu để phân tích kết quả khảo sát thực trạng chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non. 2.2. Kết quả khảo sát thực trạng 2.2.1. Thực trạng chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non của cha mẹ trẻ Bảng 2.1. Bảng tổng hợp kiến thức, thái độ và thực hành của cha mẹ trong việc chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non Mức độ (n=70) ̅ 𝑿 SD Cao (%) Trung bình (%) Thấp (%) Kiến thức 0 2,9 97,1 7,5 3,5 Thái độ 80,0 20,0 0 13,2 1,6 Thực hành 30,0 54,3 15,7 13,7 4,7 Kết quả bảng bảng 2.1. trên cho thấy, có sự chênh lệch về kiến thức, thái độ và thực hành của cha mẹ trong việc chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non. Cụ thể, có 97,1% cha mẹ chưa có kiến thức về chuẩn bị cho trẻ thích ứng với trường mầm non (ĐTB = 7,5 điểm), trong khi đó, cha mẹ có thái độ và thực hành tốt lần lượt là 80% và 30%, ĐTB lần lượt là 13,2 điểm và 13,7 điểm. Có thể thấy rằng, mặc dù cha mẹ chưa trang bị về kiến thức để giúp trẻ thích ứng với trường mầm non song cha mẹ luôn sẵn sàng tìm kiếm các thông tin từ các nguồn khác nhau, học hỏi các kinh nghiệm từ các cha mẹ, người thân khác. Cha mẹ có các hoạt động chuẩn bị cho trẻ thích ứng với trường mầm non mặc dù họ chưa hiểu việc họ làm có ý nghĩa giúp trẻ thích ứng như thế nào. 11
- 2.2.2. Thực trạng chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non của giáo viên mầm non Bảng 2.2. Bảng tổng hợp kiến thức, thái độ và thực hành của giáo viên trong việc chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non Mức độ (n=70) ̅ 𝑿 SD Cao (%) Trung bình (%) Thấp (%) Kiến thức 0 12,9 87,1 13,6 4,9 Thái độ 77,1 22,9 0 13,0 2,1 Thực hành 17,1 57,1 25,7 14,7 5,2 Trong ba nội dung khảo sát về kiến thức, thái độ và thực hành của giáo viên, chỉ có yếu tố thái độ có mức độ tốt cao là 77.1%. Chỉ có 22.9% giáo viên có thái độ ở mức trung bình. Về kiến thức, có tới 87.1% giáo viên có mức độ kiến thức thấp; 12.9% giáo viên đạt mức độ trung bình; không có giáo viên nào có mức độ kiến thức tốt. Điều này cho thấy, hầu như giáo viên chưa trang bị được kiến thức về chuẩn bị cho trẻ thích ứng với trường mầm non. Về thực hành, giáo viên đạt mức độ tốt chỉ có 17.1%; trong khi có 57.1% giáo viên đạt mức độ trung bình và có 25.7% có mức độ thực hành thấp. 2.2.3. Thực trạng thích ứng với trường mầm non của trẻ 24 - 36 tháng tuổi 2.2.3.1. Thực trạng thích ứng với trường mầm non của trẻ 24 – 36 tháng tuổi theo trong bốn tuần đầu đi học ở trường mầm non 50 47 50 43 40 35 35 26 30 18 16 20 10 5 4 1 0 0 Tuần 1 Tuần 2 Tuần 3 Tuần 4 Cao Trung bình Thấp Biểu đồ 2.1. Mức độ thích ứng với trường mầm non của trẻ trong 4 tuần Nhìn vảo biểu đồ trên có thể nhận thấy, mức độ thích ứng của trẻ trong 4 tuần đã có sự thay đổi. Số trẻ có mức độ thích ứng ở mức độ cao tăng dần, số trẻ có mức độ thích ứng thấp giảm dần. Tuy nhiên, số trẻ có mức độ thích ứng trung bình vẫn còn cao. 12
- Bảng 2.17. Biểu hiện thích ứng với trường mầm non của trẻ 24 – 36 tháng tuổi trong bốn tuần Biểu hiện thích ứng với trường Tuần 1 Tuần 2 Tuần 3 Tuần 4 mầm non của trẻ 𝑿̅ SD ̅ 𝑿 SD ̅ 𝑿 SD 𝑿̅ SD 1. Trẻ thể hiện cảm xúc ổn định 1,9 0,6 2,2 0,6 2,5 0,6 2,8 0,4 Trẻ tham gia tích cực trong hoạt 2,2 0,5 2,4 0,5 2,6 0,4 2,7 0,3 động với đồ vật 2. Sự chủ động 1,9 0,7 2,2 0,6 2,5 0,6 2,6 0,5 3. Sự tập trung 2,2 0,6 2,3 0,6 2,6 0,5 2,6 0,5 4. Sự thích thú với đồ vật 2,2 0,7 2,5 0,5 2,7 0,5 2,8 0,4 5. Hoàn thành sản phẩm hoạt động 2,5 0,7 2,5 0,6 2,7 0,5 2,7 0,5 Trẻ thiết lập mối quan hệ với 1,9 0,5 2,2 0,4 2,4 0,5 2,5 0,5 người lớn và bạn bè 6. Với người lớn 1,9 0,5 2,2 0,4 2,3 0,5 2,4 0,5 7. Với bạn bè 2,0 0,7 2,3 0,6 2,4 0,6 2,6 0,5 Trẻ sẵn sàng tiếp nhận những thay đổi của các tình huống 1,7 0,4 1,9 0,4 2,1 0,4 2,2 0,3 quen thuộc 8. Với việc thay đổi giáo viên 1,8 0,7 2,2 0,6 2,5 0,6 2,7 0,5 9. Xuất hiện hành vi mới 1,2 0,6 1,2 0,6 1,2 0,5 1,2 0,5 10. Với đồ chơi mới 2,0 0,7 2,3 0,6 2,5 0,6 2,6 0,5 Trẻ tham gia tích cực trong các hoạt động sinh hoạt hằng ngày 2,0 0,5 2,2 0,5 2,4 0,4 2,5 0,4 (ăn, ngủ, vệ sinh) 11. Ăn 2,0 0,6 2,2 0,6 2,4 0,5 2,5 0,5 12. Ngủ 2,1 0,6 2,2 0,5 2,4 0,6 2,6 0,5 13. Vệ sinh 2,0 0,6 2,2 0,6 2,4 0,6 2,4 0,7 Tiêu chí 1: Cảm xúc chung của trẻ tích cực và ổn định dần sau 4 tuần với ĐTB tăng từ 1,9 điểm lên 2,8 điểm. Trong 3 tuần đầu, cảm xúc của trẻ tích cực hơn nhưng vẫn ở mức trung bình, chỉ sang tuần thứ 4 ĐTB mới ở mức cao. Tiêu chí 2: ĐTB tăng dần trong 4 tuần từ 2,2 điểm lên 2,7 điểm, trong đó 2 tuần đầu ĐTB ở mức trung bình và 2 tuần sau ĐTB đạt mức cao. Khả năng hoạt động của trẻ cũng bị ảnh hưởng khi trẻ mới đi học. Có trẻ không tham gia bất cứ hoạt động nào và ngược lại có trẻ hoạt động quá mức. Tiêu chí 3: ĐTB tăng dần trong 4 tuần từ 1,9 điểm lên 2,5 điểm nhưng cả 4 tuần vẫn ở mức trung bình. Điều này cho thấy khả năng thiết lập mối quan hệ với người lớn và bạn bè của trẻ chưa được cải thiện nhiều sau 4 tuần. Số trẻ có biểu hiện thụ động/từ chối thiết lập mối quan hệ với người lớn và bạn bè của trẻ luôn cao hơn các biểu hiện khác ở tuần 1, 3 và 4. Số trẻ chỉ tham gia thiết lập khi có sự hỗ trợ của người khác luôn chiếm số lượng cao nhất trong cả 4 tuần. Tiêu chí 4: ĐTB tăng dần trong 4 tuần từ 1,7 điểm lên 2,2 điểm nhưng cả 4 tuần vẫn ở mức trung bình. Trẻ có sự tiếp nhận sự thay đổi giáo viên và đồ chơi mới sau 4 13
- tuần nhưng số trẻ có các biểu hiện xuất hiện hành vi mới như mút ngón tay, đung đưa người… vẫn nhiều. Điều này cho thấy trẻ vẫn cảm thấy căng thẳng và cần trấn an thông qua các hành vi này. Tiêu chí 5: ĐTB tăng dần trong 4 tuần từ 2,0 điểm lên 2,5 điểm nhưng cả 4 tuần vẫn ở mức trung bình. Sự căng thẳng của trẻ trong thời gian đầu đi học ở trường mầm non cũng ảnh hưởng tới việc ăn, ngủ và vệ sinh của trẻ. Cùng với tiêu chí 3, tiêu chí 5 có sự tăng dần mức độ cao và giảm mức độ trung bình thấp hơn so với các tiêu chí khác. 2.2.3.2. Mức độ thích ứng với trường mầm non của trẻ 24 – 36 tháng tuổi theo các yếu tố: tháng tuổi, giới tính, thứ tự sinh, loại trường, mức độ thực hành của cha mẹ và giáo viên Trẻ 24 – 30 tháng tuổi có xu hướng có mức độ thích ứng cao hơn so với trẻ 30 – 36 tháng tuổi. Tỉ lệ trẻ thích ứng ở mức độ cao của nhóm trẻ là con thứ hai trở đi cao hơn so với nhóm con thứ nhất. Trẻ nam có xu hướng thích ứng nhanh hơn so với trẻ nữ. Mức độ thích ứng của trẻ trường công lập có xu hướng thấp hơn so với trường tư thục. Tuy nhiên, khi kiểm định t – test thì sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê với p >0,05. Kết quả khảo sát cho thấy, trẻ thích ứng với trường mầm non chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong đó phải kể đến đặc điểm riêng của trẻ, sự chuẩn bị của cha mẹ và giáo viên cũng như sự phối hợp giữa cha mẹ và giáo viên. Việc cha mẹ và giáo viên không có sự phối hợp tốt dẫn đến những trường hợp cha mẹ hoặc giáo viên có sự chuẩn bị nhưng kết quả thích ứng với trường mầm non của trẻ vẫn chưa cao. 2.3. Đánh giá chung thực trạng chuẩn bị cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non 2.3.1. Ưu điểm Cha mẹ và giáo viên thể hiện thái độ tích cực cũng như đã có các hoạt động thực hành chuẩn bị cho trẻ trong giai đoạn chuyển tiếp từ nhà đến trường mầm non. Mức độ thích ứng với trường mầm non của trẻ 24 – 36 tháng tuổi tham gia khảo sát ở mức độ trung bình chiếm tỉ lệ cao. Có sự thay đổi về mức độ thích ứng với trường mầm non của trẻ trong 4 tuần đầu đi học ở trường mầm non. 2.3.2. Hạn chế Mặc dù có thái độ tích cực trong việc chuẩn bị cho trẻ thích ứng với trường mầm non, song kết quả khảo sát thực trạng cho thấy, cha mẹ có ít kiến thức về vấn đề này. Các hoạt động thực hành chuẩn bị cho trẻ của cha mẹ ở mức trung bình và thấp vẫn còn cao. Kết quả khảo sát trên giáo viên cũng cho thấy, giáo viên cũng chưa được trang bị các kiến thức về việc chuẩn bị cho trẻ thích ứng với trường mầm non. Các hoạt động thực hành giúp trẻ nhanh chóng làm quen với môi trường lớp học mới còn ít, chủ yếu ở mức độ trung bình và thấp. 14
- Kết quả thích ứng với trường mầm non của trẻ 24 – 36 tháng tuổi đã có sự tiến bộ sau 4 tuần đầu đi học song tỉ lệ trẻ đạt mức độ thích ứng trung bình vẫn còn chiếm tỉ lệ cao. 2.3.3. Nguyên nhân của thực trạng Nhà trường và gia đình chưa được trang bị đầy đủ kiến thức và kĩ năng về việc chuẩn bị cho trẻ thích ứng với trường mầm non. Một số trẻ có tốc độ thích ứng nhanh là do có đối tượng quen thuộc với trẻ ở trường mầm non. Phân tích số lượng trẻ trong lớp các trẻ quan sát cho thấy, do lo ngại tình hình dịch bệnh nên nhiều gia đình không cho trẻ đến trường. Vì thế, sĩ số trẻ ở các lớp hiện nay không nhiều như mọi năm. Do đó, các giáo viên dành được nhiều thời gian cho các trẻ hơn, giúp trẻ có tốc độ thích ứng tốt hơn so với các năm trước. Tiểu kết chương 2 1. Mặc dù có thái độ tích cực trong việc chuẩn bị cho trẻ thích ứng với trường mầm non song kiến thức và thực hành của cha mẹ và giáo viên tham gia khảo sát còn tương đối thấp. 2. Khả năng thích ứng với trường mầm non của trẻ 24 – 36 tháng tuổi vẫn còn tương đối thấp, chủ yếu đạt ở mức độ trung bình. Khả năng thiết lập các mối quan hệ của trẻ với giáo viên và bạn bè và các hoạt động trong sinh hoạt như ăn, ngủ, vệ sinh của trẻ là hai biểu hiện khó hình thành nhất ở trẻ khi thích ứng với trường mầm non. 3. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các yếu tố về giới tính, tháng tuổi, loại trường, thứ tự sinh, mặc dù có sự chênh lệch về điểm trung bình giữa các yếu tố này. Điều này cho thấy sự đa dạng về khả năng thích ứng với trường mầm non của trẻ 24 – 36 tháng tuổi. 15
- CHƯƠNG 3: BIỆN PHÁP CHUẨN BỊ CHO TRẺ 24 - 36 THÁNG TUỔI THÍCH ỨNG VỚI TRƯỜNG MẦM NON 3.1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp chuẩn bị cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non 3.1.1. Đảm bảo tính cá biệt hóa 3.1.2. Đảm bảo tính toàn diện 3.1.3. Đảm bảo tính hệ thống và liên tục 3.1.4. Đảm bảo sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng 3.2. Biện pháp chuẩn bị cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi thích ứng với trường mầm non Biện pháp 1: Thống nhất kế hoạch chuẩn bị cho trẻ đến trường giữa trường mầm non và gia đình Kế hoạch chuẩn bị của nhà trường bao gồm phân tích tình hình, xác định mục tiêu, nội dung và phương thức thực hiện. Gia đình tham gia trao đổi và thỏa thuận để đồng thuận các quy định của trường lớp mầm non và các hoạt động chuẩn bị cho trẻ. Gia đình tham gia trao đổi và thỏa thuận để đồng thuận các quy định của trường lớp mầm non. Biện pháp 2: Phối hợp tổ chức cho trẻ làm quen với trường mầm non Gia đình và trường mầm non phối hợp tổ chức các hoạt động cho trẻ làm quen trực tiếp và gián tiếp với trường mầm non. Gia đình thực hiện các chuyến thăm quan trường lớp mầm non mà trẻ sẽ học. Đó là những chuyến thăm giống như một chuyến đi chơi nhỏ của trẻ tại một nơi thú vị, hấp dẫn. Lựa chọn các câu chuyện, bài hát, bài thơ về việc đi học, về cô giáo, về các bạn, về các hoạt động ở trường lớp để cho trẻ làm quen tại gia đình. Qua đó, cha mẹ cùng trẻ nói chuyện về việc trẻ chuẩn bị đi học ở trường mầm non. Đồng thời, cha mẹ rèn luyện cho trẻ một số kĩ năng tự phục vụ trong các hoạt động sinh hoạt hằng ngày tại gia đình. Trên cơ sở tìm hiểu về chế độ sinh hoạt hằng ngày ở trường mầm non, cha mẹ có những điều chỉnh thói quen sinh hoạt ở nhà của trẻ cho phù hợp để trẻ đỡ bỡ ngỡ. Bên cạnh đó, cha mẹ cho trẻ làm quen dần với việc vắng mặt của mình ngay tại không gian trong gia đình cũng như làm quen với nhiều người khác ngoài gia đình để trẻ dạn dĩ hơn. Giáo viên xây dựng các khu vực chơi trong môi trường lớp học của mình với các đồ dùng, đồ chơi đa dạng về chất liệu, màu sắc, kích thước nhằm kích thích hứng thú say mê tìm tòi của trẻ. Một số đồ dùng của trẻ ở gia đình có thể là một phần của các góc chơi đó để tạo ra tính kết nối với môi trường gia đình, tạo cảm giác thân thuộc cho trẻ. 16
- Biện pháp 3: Cùng nhau xây dựng môi trường tâm lý an toàn cho trẻ ở nhà và ở lớp học Gia đình thực hiện các hoạt động đã được thống nhất với giáo viên như đưa đón trẻ trực tiếp và đúng giờ, thông báo cho trẻ về thời gian đón trẻ cũng như thường xuyên nói chuyện cùng trẻ, vỗ về trẻ mỗi khi trẻ đi học để trẻ được bù đắp sự thiếu hụt khi không có cha mẹ bên cạnh trong thời gian cả ngày ở lớp. Giáo viên giúp trẻ trở nên tích cực hơn thông qua việc lên kế hoạch tổ chức các hoạt động để trẻ trút bỏ các cảm xúc tiêu cực. Giáo viên nhận diện các cảm xúc này và suy nghĩ thời điểm và cách thức tác động phù hợp với từng trẻ và từng tình huống cụ thể. Đồng thời, để giúp cha mẹ trẻ thích ứng với sự chia cách, giáo viên có những hoạt động hỗ trợ cha mẹ trẻ như trò chuyện, khảo sát ý kiến, cung cấp các thông tin cần thiết về trẻ cho cha mẹ. Gia đình trẻ và giáo viên thường xuyên trao đổi với nhau về biểu hiện của trẻ khi ở lớp và khi về nhà cũng như chia sẻ về cảm xúc và khó khăn mà họ gặp phải. Biện pháp 4: Hợp tác tổ chức các hoạt động phù hợp với trẻ: Giáo viên tổ chức các hoạt động với đồ vật phù hợp với nhu cầu, hứng thú và khả năng của trẻ. Khi trẻ say mê tham gia hoạt động, trẻ lại càng mong muốn được đến trường khám phá thêm những điều mới lạ. Cha mẹ dựa trên các hoạt động trên lớp của trẻ được giáo viên cung cấp để lựa chọn các hoạt động mà trẻ yêu thích và cùng trẻ thực hiện tại gia đình như đọc thơ, truyện, hát, vẽ, xếp hình… Biện pháp 5: Tạo cơ hội cho trẻ tham gia vào các mối quan hệ với người lớn và bạn bè Giáo viên và cha mẹ tôn trọng tốc độ thích ứng của mỗi trẻ, hỗ trợ trẻ làm quen với những người lớn khác và bạn bè theo tốc độ của riêng trẻ. Trên cơ sở những hiểu biết về trẻ, người lớn dần giúp trẻ hòa mình vào các mối quan hệ, chủ động thiết lập thay vì cần sự hỗ trợ hay thụ động tiếp nhận sự tương tác của người khác. Các biện pháp đề xuất đều dựa trên hai yếu tố giúp trẻ thiết lập sự cân bằng đó là tính quen thuộc của môi trường và sự gắn bó về mặt quan hệ. Các biện pháp được đề xuất có mối quan hệ qua lại và thống nhất theo các giai đoạn chuẩn bị cho trẻ thích ứng với trường mầm non: từ giai đoạn chuẩn bị trước khi trẻ đến trường đến giai đoạn trẻ mới đến trường và giai đoạn trẻ bắt đầu thích ứng. Trong 5 biện pháp được đề xuất, biện pháp 1 được coi là biện pháp chủ đạo và chi phối các biện pháp còn lại. 17
- Tiểu kết chương 3 Việc đề xuất các biện pháp chuẩn bị cho trẻ thích ứng với trường mầm non cần đảm bảo các nguyên tắc như lấy trẻ làm trung tâm, tính toàn diện, tính hệ thống và liên tục, phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình. Gia đình và trường mầm non cần sử dụng các biện pháp chuẩn bị cho trẻ từ trước khi trẻ chính thức đến trường cho tới khi trẻ bắt đầu thích ứng. Các biện pháp bao gồm: (1) Thống nhất kế hoạch chuẩn bị cho trẻ đến trường giữa trường mầm non và gia đình; (2) Phối hợp tổ chức trẻ làm quen với trường mầm non; (3) Cùng nhau xây dựng môi trường tâm lý an toàn cho trẻ ở nhà và ở lớp học; (4) Hợp tác tổ chức các hoạt động phù hợp với trẻ; (5) Tạo cơ hội cho trẻ tham gia vào các mối quan hệ với người lớn và bạn bè. 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 303 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 288 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 178 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 266 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 222 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 173 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 53 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 198 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 148 | 7
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 182 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 134 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 170 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn