intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Dạy học đọc hiểu văn bản tự sự ở trung học phổ thông theo quan điểm kiến tạo

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:29

13
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận án "Dạy học đọc hiểu văn bản tự sự ở trung học phổ thông theo quan điểm kiến tạo" là tìm ra những điểm kết nối giữa lý thuyết đọc hiểu, lý thuyết tự sự học hiện đại và thuyết dạy học kiến tạo để có thể hỗ trợ nhau trong việc dạy học đọc hiểu VBTS ở THPT. Từ đó xây dựng được mô hình dạy học đọc hiểu VBTS theo QĐKT, đề xuất vận dụng các phương pháp, biện pháp dạy học phù hợp để HS kiến tạo ý nghĩa của VBTS, giúp nâng cao chất lượng dạy học đọc hiểu ở nhà trường THPT.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Dạy học đọc hiểu văn bản tự sự ở trung học phổ thông theo quan điểm kiến tạo

  1. 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI HOÀNG BÁCH VIỆT DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TỰ SỰ Ở TRUNG HỌC PHỔ THÔNG  THEO QUAN ĐIỂM KIẾN TẠO Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học  bộ môn Văn và tiếng Việt Mã số: 9.14.01.11 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Hà Nội ­ 2021
  2. 2
  3. 3 Công trình được hoàn thành tại:  Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS. Nguyễn Thanh Hùng 2. TS. Nguyễn Thị Quế Anh Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Thủy, Trường DDHSP Hà Nội Phản biện 2:PGS.TS. Chu Thị Thủy Anh, Trường Đại học Vinh Phản biện 3: TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh, Trường ĐHSP Hà Nội 2 Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp…  vào hồi …..giờ … ngày … tháng… năm… Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Thư viện Quốc Gia, Hà Nội
  4. 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở THPT đã và đang nhận được  sự  quan tâm của toàn xã hội. Chủ  trương đổi mới phương pháp dạy học đã   bước vào giai đoạn thực hiện những bước đi cụ thể từ những định hướng chỉ  đạo của Đảng, quy định của pháp luật và các văn bản hướng dẫn của Bộ  Giáo dục và Đào tạo. Điểm nổi bật trong giai đoạn này là việc coi trọng quan   điểm giáo dục và dạy học theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực  của HS, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong xu thế  hội nhập quốc tế, giữ gìn bản sắc dân tộc và truyền thống. Quả  vậy, trong  việc hình thành năng lực đọc hiểu cho HS THPT cần  đặc biệt nhấn mạnh đến việc hình thành và phát triển năng lực đọc văn một  cách có hiểu biết, tức là có kiến thức nền tảng để  phát triển tư  duy và năng   lực trí tuệ  để  phát hiện và nắm vững tri thức mới. Đọc hiểu xem việc vận  dụng các hành động đọc đa dạng, phong phú trong đọc văn bản, tác phẩm văn  chương và VBTS là việc học tập thực chất bằng tự học qua đọc văn để hiểu  văn. Học văn là phải đọc văn. Đó là lẽ thường tình vì có đọc văn thì ngôn từ  văn chương mới phát huy được giá trị âm thanh và sự hồi âm mang nghĩa trực  tiếp của nó. Đọc văn không chỉ là đọc ý nghĩa của văn bản mà người đọc còn  hiểu ra ý nghĩa tự đọc, tự nghe và tự hiểu những điều mình cảm nhận và suy  nghĩ được. Đến nay, chưa có công trình khoa học đi sâu nghiên cứu về  việc dạy  học đọc hiểu VBTS ở THPT theo QĐKT. Tuy VBTS mang tính sử thi thời đại   nhưng nó lại khá phù hợp với cách nghĩ cách sống hiện đại của HS THPT,  luôn tìm kiếm sự cân bằng giữa đời sống cá nhân và yêu cầu mới của xã hội  đòi hỏi. Đó cũng là một lợi thế  để  HS tự  thể  hiện cá tính và năng lực riêng   trong việc học VBTS. Việc tiếp thu quan điểm dạy học kiến tạo với sự nhấn   mạnh học tập là quá trình HS tự  điều khiển, học theo tình huống xử  lý khó   khăn trở ngại trong học tập là rất phù hợp với yêu cầu đổi mới phương pháp  dạy học đọc hiểu văn bản văn học nêu trên. Không chỉ dừng lại ở quan điểm   mà thuyết kiến tạo còn chỉ  ra tiến trình học tập kiến tạo cụ  thể dựa trên sự  tương tác giữa kinh nghiệm và tri thức HS đã có với tri thức mới cần học.  Trong quá trình giải quyết vấn đề, HS theo đuổi đến cùng một cách có trách  nhiệm, không sợ sai lầm trong dự đoán và thử nghiệm và tìm cách điều chỉnh   để tìm ra tri thức mới theo nhu cầu bản thân và đòi hỏi của thực tiễn.  Từ  những lý do nêu trên, chúng tôi chọn đề  tài nghiên cứu:  “Dạy học   đọc hiểu văn bản tự sự ở trung học phổ thông theo quan điểm kiến tạo”.
  5. 5 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận án là tìm ra những điểm kết nối giữa lý   thuyết đọc hiểu, lý thuyết tự sự học hiện đại và thuyết dạy học kiến tạo để  có thể  hỗ  trợ  nhau trong việc dạy học đọc hiểu VBTS  ở  THPT. Từ  đó xây  dựng được mô hình dạy học đọc hiểu VBTS theo QĐKT, đề  xuất vận dụng   các phương pháp, biện pháp dạy học phù hợp để  HS kiến tạo ý nghĩa của  VBTS, giúp nâng cao chất lượng dạy học đọc hiểu ở nhà trường THPT. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Nghiên cứu những nội dung cơ  bản của lý thuyết  đọc hiểu, lý  thuyết tự sự học hiện đại và thuyết dạy học kiến tạo, từ đó xây dựng cơ  sở  lý luận cho đề tài. 3.2. Khảo sát và phân tích định hướng của Chương trình giáo dục phổ  thông môn Ngữ Văn 2018 và thực tiễn dạy học đọc hiểu VBTS ở THPT, xây   dựng cơ sở thực tiễn cho đề tài nghiên cứu. 3.3. Đề xuât mô hình dạy học đọc hiểu VBTS theo QĐKT. 3.4.  Đề  xuất  các  biện  pháp  dạy  học  đọc  hiểu  VBTS  ở   THPT  theo   QĐKT. 3.5. Thực nghiệm để  kiểm chứng tính khả  thi và độ  tin cậy của các  biện pháp đã đề xuất. 4. Đối tượng nghiên cứu 4.1. Điểm kết nối giữa lý thuyết đọc hiểu, lý thuyết tự sự học hiện đại  và thuyết dạy học kiến tạo. 4.2. Các biện pháp dạy học đọc hiểu VBTS ở THPT theo QĐKT. 5. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu ­ VBTS và đọc hiểu VBTS hiện đại  ở  lớp 11 theo Chương trình giáo  dục phổ thông môn Ngữ văn 2018. ­Về   đối   tượng   thực   nghiệm:   Chúng   tôi   lựa   chọn   đối   tượng   thực  nghiệm của luận án gồm HS lớp 11 tại hai trường THPT: THPT dân tộc nội   trú tỉnh Thái Nguyên (Thái Nguyên), THPT Hòn Gai (Quảng Ninh).  6. Phương pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp hồi cứu tài liệu 6.2. Phương pháp mô hình hóa 6.3. Phương pháp đối chiếu 6.4. Phương pháp khảo sát thực tiễn 6.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
  6. 6 7. Giả thuyết khoa học Nếu  luận án nghiên cứu đề  xuất được mô hình quá trình kiến tạo ý  nghĩa VBTS của HS trong dạy học đọc hiểu VBTS và các biện pháp dạy học  đọc hiểu VBTS theo mô hình đề  xuất   thì  HS sẽ  thực hiện được các hoạt  động kiến tạo để  xây dựng ý nghĩa của VBTS, qua đó góp phần phát triển  năng lực đọc hiểu văn bản của HS.  8. Dự kiến đóng góp của luận án 8.1. Về lý luận Kết quả  nghiên cứu của luận án góp phần bổ  sung vào lý luận nghiên   cứu về dạy học kiến tạo và vận dụng quan điểm kiến tạo trong dạy học đọc   hiểu văn bản ở nhà trường phổ thông.  8.2. Về thực tiễn Luận án củng cố  niềm tin đọc văn, học kiến thức thông qua các hành   động đọc phù hợp để  hiểu ý nghĩa và giá trị  tác phẩm là cách học văn hiệu  quả nhất hiện nay; góp phần động viên GV mạnh dạn vận dụng dạy học đọc  hiểu VBTS theo QĐKT. Các biện pháp cụ  thể mà luận án đề  xuất để  dạy học đọc hiểu VBTS  theo QĐKT, chủ đề  đọc hiểu truyện ngắn  giai đoạn 1930­ 1945 mà luận án  xây dựng là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên cứu và giáo viên  THPT.  9. Bố cục của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phục lục, luận án  gồm có bốn chương cụ thể như sau: Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu của đề tài Chương 2. Cơ  sở  lý luận và thực tiễn của vấn đề  dạy học đọc  hiểu văn bản tự sự theo quan điểm kiến tạo Chương 3. Tổ chức dạy học đọc hiểu VBTS ở THTP theo QĐKT Chương 4. Thực nghiệm sư phạm NỘI DUNG CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Nghiên cứu về đọc hiểu văn bản 1.1.1. Ở nước ngoài
  7. 7 Trên thế giới, đọc hiểu và dạy học đọc hiểu đã được quan tâm rất sớm.   Từ những thập niên 70 của thế kỉ XX đã có nhiều công trình, bài báo viết về  đọc hiểu có nội hàm khoa học không hoàn toàn đồng nhất bởi cách tiếp cận  khác nhau của các nhà nghiên cứu. Đọc hiểu như một quá trình diễn ra thống  nhất với sự  tiếp nhận văn học. Quá trình này gắn liền với việc xử  lý thông   tin, nhận xét, phán đoán và lựa chọn nội dung thích hợp với ý nghĩa tác phẩm.  1.1.2. Ở Việt Nam Từ  năm 2000 vấn đề  đọc hiểu đã được đưa vào chương trình và sách  giáo khoa Ngữ  văn trung học cơ  sở, THPT. Tóm lại, lịch sử  nghiên cứu vấn   đề  đọc hiểu văn bản và đọc hiểu văn bản văn chương đã làm nổi bật hàm  nghĩa phong phú của các khái niệm lý thuyết và cách thức vận dụng chúng.  Đọc hiểu theo quan điểm chung là một quá trình nhận thức tích cực chủ động  và sáng tạo của người đọc tác phẩm. Đó còn là quá trình kết nối, tương tác,   thương lượng ý nghĩa giữa người đọc với tác phẩm, giữa người đọc với cộng  đồng lý giải tác phẩm theo thời gian và với chính bản thân người đọc. Đọc hiểu là quá trình tìm kiếm và sử dụng các hành động đọc thích hợp  bao gồm các chiến thuật và kỹ năng đọc có suy nghĩ và hiệu quả để chủ động  giải mã nghệ thuật và tìm ý nghĩa thỏa đáng cho văn bản tác phẩm và giá trị  sống cho bản thân độc giả. 1.1.3. Thành tựu nghiên cứu đọc hiểu Tóm lại, lý thuyết đọc hiểu tác phẩm văn chương và cách vận dụng   chúng trong nhà trường không chỉ giới hạn trong hành động đọc, cấp độ  đọc,   chiến thuật đọc để hiểu ý nghĩa cũng như giá trị của văn bản đọc mà còn giúp  học sinh mở rộng kiến thức về đặc điểm của tác phẩm văn chương, về  tính  mở  để  tự  hoàn thành cùng hiệu quả  biết cách đọc của công chúng. Sự  tác  động qua lại giữa kí hiệu nghệ thuật và hành động đọc hiểu tạo ra hiệu quả  đó. Từ tác phẩm tưởng như đơn nghĩa đối với cấu trúc bền vững, bạn đọc  ­ học sinh sẽ chinh phục nó với rất nhiều tiếp điểm được lý giải và quy chiếu  ý nghĩa phù hợp thỏa đáng mà không làm mất đi giá trị ổn định của tác phẩm  và giá trị mở ra ở người đọc. Có thể tạm thời tìm nơi cư ngụ nghĩa tác phẩm trên mặt bằng hiển hiện  của ngôn từ tác phẩm. Ý nghĩa là sự giao thoa giữa điều muốn bày tỏ của nhà  văn với hiệu quả thẩm mỹ của văn bản nghệ thuật cũng có thể hiểu là ý nghĩa  toát ra từ cơ cấu hình tượng tác phẩm. Nghĩa lý của tác phẩm là nguồn cội dẫn  đến những hồ nghi để phủ định sai lầm trong nhận thức giản đơn, ngây thơ về  cuộc sống. Cuối cùng là nghĩa tình với hiệu  ứng thấu cảm của tâm hồn có   nguồn gốc sâu xa trong thanh lọc qua sự bùng nổ cảm xúc trái chiều để tạo ra   sự hài lòng với niềm vui mới ở người đọc. 1.2. Nghiên cứu về tự sự học
  8. 8 1.2.1. Ở nước ngoài Những khái niệm then chốt của tự sự học mà cấu trúc luận phát triển  trở  thành lý thuyết công cụ  để  phân tích và đọc hiểu truyện kể  văn xuôi có   hiệu quả. Việc đọc để tìm hiểu nghĩa và ý nghĩa của tác phẩm tự sự chịu ảnh  hưởng của năng lực người đọc và ngữ cảnh kể, bối cảnh tri thức của văn hóa  đọc. Điều đó được trình bày hầu hết trong những nghiên cứu sau này của  Rimon và Kenen, Todorov, Barthes và của Hamburger về “hư cấu tự sự”, “hệ  thống đối thoại” hay về  “chủ  thể  sáng tạo ­ tác giả” với tư  cách người kể  dấu mặt trong tác phẩm tự sự. 1.2.2. Ở Việt Nam Theo chúng tôi, lý thuyết và một phần của vận dụng lý thuyết tự  sự  học được nghiên cứu khái quát trong các từ điển văn học của Lại Nguyên Ân,  của Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử  và bộ  từ  điển mới của Đỗ  Đức Hiểu, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá, Nguyễn Huệ  Chi.Công trình tập  thể với những khía cạnh phong phú về tự sự học trong công trình “Tự sự học   và một số  vấn đề  lý luận và lịch sử”  do Trần Đình Sử  chủ  biên là tài liệu  tham khảo hữu ích cho luận án. 1.2.3. Về thành tựu nghiên cứu tự sự học Tác phẩm tự  sự  hiện đại cũng dùng kỹ  thuật miêu tả  nhưng với mục   đích khác. Miêu tả không lấn át trần thuật hay kể về cái gì vốn nó là như thế.   Hàm lượng nhận thức thế giới hiện thực phải đạt độ  chính xác và chiều sâu   của những gì được kể lại độc lập với người kể và người đọc. Như vậy miêu   tả mới có thể  tham gia làm bộc lộ nội dung tác phẩm tự  sự  một cách khách   quan và trở thành cấu tố nòng cốt của câu chuyện được kể. Cái mới và hấp dẫn trong miêu tả  là tạo ra vị trí khách quan của người  trần thuật bảo đảm những gì thuộc về thế giới này đều có giá trị  đối với con   người, đều có giá trị thực bằng cảm nhận suy tư trí tuệ nhiều hơn chứ không   sa đà vào sự du dương của xúc động. Quả thật nghệ thuật miêu tả và kỹ thuật   miêu tả trong tác phẩm tự sự hiện đại đã làm mới một cách huy hoàng cho trần  thuật và là đầu mối của sự lạ hóa. Văn xuôi tự sự là một thể loại văn học ra đời chậm hơn so với thơ trữ  tình và kịch nhưng nó là thể loại lớn có khả  năng bành trướng sang lĩnh vực  diễn ngôn văn hóa, xã hội. Tác phẩm tự  sự  là vật quy chiếu của nhiều cách  tiếp cận lý thuyết theo xu hướng đa nguyên lý thuyết sẽ không tránh được cái   nhìn phân tán có thể làm mờ nhòe đối tượng tác phẩm tự sự. Bù lại, tác phẩm   tự sự hiện đại vẫn hấp thụ chất thơ đời sống và chất thơ trong văn cũng như  những xung đột và hành động trong những biến cố từ hai thể loại thơ trữ tình  và kịch trước nó. 1.3. Nghiên cứu về dạy học đọc hiểu tác phẩm tự sự
  9. 9 1.3.1. Ở nước ngoài Đối với GV, tác giả sách giáo khoa trên đề xuất các phương pháp tạo ra  văn cảnh đọc để  HS tự  đọc độc lập tập trung vào thi pháp cấu trúc kết hợp  với tiên đoán nội dung và viễn cảnh của nhân vật, hồi đáp với tác phẩm như  trình bày những suy nghĩ về tác phẩm bằng cách đọc to, đọc chia sẻ, bàn tròn  văn học, và tìm hiểu những quan điểm khác nhau về một vấn đề hoặc chủ đề  của tác phẩm [173]. Ngoài ra sách giáo khoa trên còn hướng dẫn HS sử dụng  nhật ký đọc, ghi chép những tình tiết mở  đầu, kết thúc hoặc hành động bất   ngờ của nhân vật theo suy nghĩ của họ. 1.3.2. Ở Việt Nam Vấn đề  dạy học đọc hiểu  ở  Việt Nam có thể  kể  đến các công trình  hiếm hoi như “Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể”  (1968) của  Trần Thanh Đạm, Huỳnh Lý, Phan Sĩ Tấn, Đàm Gia Cẩn, Hoàng Như  Mai  với những nội dung chính làm cho học sinh cảm thụ  được sâu sắc, đánh giá  đúng đắn nhân vật trong tác phẩm và làm cho học sinh cảm và hiểu được cái  ý vị trong lời kể của tác giả hay người kể chuyện. Trong  “Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể”   (2003), Nguyễn Viết Chữ đã giới thuyết về từng phương pháp và biện pháp   dạy học dành cho truyện kể dân gian và truyện kể có tác giả. Ở  chuyên luận “Kỹ  năng đọc hiểu Văn” (2011), Nguyễn Thanh Hùng  đã giới thiệu mô hình đọc hiểu tác phẩm tự sự với ba chỉ dẫn cụ thể: Một là   hướng dẫn học sinh nắm vững chất liệu ngôn ngữ nghệ thuật và ý nghĩa tầng  cấu trúc ngôn từ  tác phẩm. Hai là hướng dẫn học sinh nắm vững sản phẩm   nghệ  thuật và ý nghĩa tầng cấu trúc hình tượng nghệ  thuật tác phẩm. Ba là  hướng dẫn học sinh nắm vững giá trị  của tác phẩm thông qua ý nghĩa tầng  cấu trúc tư tưởng thẩm mỹ, ý vị nhân sinh của tác phẩm qua chủ đề tư tưởng  để  nâng cao năng lực nhận thức, năng lực đánh giá và năng lực thưởng thức  tác phẩm. Nguyễn Thanh Hùng nhấn mạnh rằng khi vận dụng đọc sáng tạo   tác phẩm văn xuôi tự sự thì cần phát huy năng lực tri giác bởi vì văn xuôi giàu   hàm lượng trí tuệ. 1.4. Nghiên cứu về thuyết kiến tạo 1.4.1. Ở nước ngoài Tư  tưởng về  thuyết kiến tạo vốn có từ  tư  tưởng hoài nghi và ngụy  biện thời Hy Lạp cổ  đại và từ  thuyết học tập của Bruney với quan niệm  người học tạo nên kiến thức một cách tích cực bằng cách tạo lập một giản  đồ kết nối các kinh nghiệm với nhau giữa những gì đã biết và cái vừa lĩnh hội  được. Thuyết kiến tạo ra đời chính thức từ cuối thế kỷ XVIII với câu nói có ý  nghĩa về  nhận thức của con người   của nhà triết học Battista Vico:  “Con  
  10. 10 người chỉ có thể hiểu một cách rõ ràng những gì mà người học tự  xây dựng   nên cho mình”. Vico đã thách thức nguy cơ  bá quyền đang manh nha trong  ngành khoa học tự  nhiên đầu thế  kỷ XVIII và tồn tại tới nay trong tư  tưởng   của Richard Rorty. 1.4.2. Ở Việt Nam Ở  Việt Nam, một số  tác giả  góp phần giới thiệu thuyết kiến tạo và  vận dụng chúng vào các khoa học tự  nhiên phải kể  đến Nguyễn Hữu Châu,  Bùi Gia Thịnh, Đỗ  Tiến Đạt, Vũ Văn Đức, Đào Tam, Nguyễn Mạnh Hùng,  Nguyễn   Thị   Sửu,   Trần   Luận,   Nguyễn   Anh   Tuấn,   Vũ   Quang,   Đoàn   Duy  Hinh…Các nhà khoa học đã hướng dẫn một số  luận án tiến sĩ về  vận dụng  thuyết kiến tạo trong dạy học các môn khoa học tự nhiên. CHƯƠNG II CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 2.1. Về đọc hiểu văn bản 2.1.1. Tính hiện đại của vấn đề đọc hiểu Quá trình nhận thức là sự  vận động đi từ  trực quan sinh động đến tư  duy trừu tượng và tư  duy trừu tượng  đến thực tiễn. Theo Mác  đó là con  đường duy nhất để xác định chân lý. Trước hết chúng ta hiểu vì sao đọc hiểu  là quá trình nhận thức tích cực và sáng tạo của người đọc. Thứ  nhất, con người là một động vật có trí tuệ  năng sản. Trí tuệ   ấy  phối hợp nhuần nhuyễn giữa tư  duy như một bản chất sống của con người   (Tôi tư duy là tôi tồn tại ­ Đề các). Tư duy còn là khả năng vô hạn được phối  hợp với trí tưởng tượng để tạo nên tiềm năng sáng tạo của con người. Thứ hai, tác phẩm văn chương được sáng tạo để người đọc bao giờ cũng   tìm thấy nghĩa lý của nó. Nó chân thật vì độ  tin cậy của tư duy lôgíc bao gồm  quan sát, cảm nhận, phản đoán, suy lý, khái quát hóa và đánh giá hiện thực.  Ngoài ra tác phẩm văn chương phản ánh hiện thực bằng hình tượng nghệ thuật   để bộc lộ thái độ yêu ghét sau khi nhận thức chân xác về hiện thực đời sống xã  hội. Nói cách khác tác phẩm văn chương biểu lộ  thế  giới quan ­ cách nhìn  sự  vật và thể hiện nhân sinh quan ­ cách ứng xử  nhân văn đối với con người   không phải là con người chung chung mà là những số phận trong biển đời lận   đận.  Truyện Kiều  của Nguyễn Du trong xã hội những ngày qua và   “Chiếc   thuyền ngoài xa”  của Nguyễn Minh Châu hiện thời là những minh họa rõ  điều đó.  2.1.2. Lý thuyết đọc hiểu là tri thức nền tảng có ý nghĩa phương  pháp trong dạy học đọc hiểu VBTS theo QĐKT
  11. 11 Chúng tôi đã tìm đến những điểm kết nối lý thuyết xuất hiện trong đề  tài để tìm cách vận dụng phù hợp trong dạy học đọc hiểu VBTS theo QĐKT.   Tiếp theo, lý thuyết đọc hiểu là tri thức nền tảng có ý nghĩa phương pháp  trong dạy học đọc hiểu VBTS theo QĐKT. 2.2. Về lý thuyết tự sự học 2.2.1. Về thuật ngữ tự sự học Thực chất của hoạt động trần thuật là kể  và thuật câu chuyện đã qua  trong quá khứ  và đã qua trong hiện thời để  làm nên truyện kể  về  một câu  chuyện nào đó. Cái gốc của tự  sự  học hay trần thuật học là kể  chuyện. Sự  thích thú và say mê của đời người là kể chuyện, nghe chuyện, là viết truyện  và đọc truyện. Đó là sự  đam mê không dứt vừa là trần thế  vừa là siêu trần   thế, vừa là đời sống thường nhật vừa là đời sống được hư  cấu. Truyện, vừa   có mặt thiết thực vừa là phương diện  ước mơ  của con người đã thu hút sự  quan tâm về mặt lý thuyết từ cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI. 2.2.2. Thi pháp cấu trúc VBTS như một mô hình đọc hiểu Thi pháp thể loại là cái gốc để sáng tạo thi pháp cấu trúc tác phẩm cụ  thể  với những cách nhìn mới tương  ứng với những tri thức và năng lực đọc   hiểu nhằm khai thác sâu rộng hơn về ý nghĩa đích thực và thỏa đáng cũng như  giá trị tư tưởng nghệ thuật cần lý giải, biện minh có căn cứ về bối cảnh văn  hóa xã hội cụ  thể  lịch sử. Điều đó cũng phù hợp với lý thuyết kiến tạo xã  hội. 2.3. Lý thuyết tự sự học hiện đại là tri thức đọc hiểu văn bản cụ  thể Ngay cả  những người  ưa thích dùng thuật ngữ  tự  sự  học cũng buộc  phải dùng “điểm nhìn trần thuật” chứ  không dùng điểm nhìn tự  sự. Sự  lưu   luyến ấy với “trần thuật” chắc hẳn nói lên cái rốc rễ của tác phẩm tự sự là   truyện kể. 2.3.1. Người kể chuyện trong VBTS Có   thể  hiểu  người   kể  chuyện  cũng  là người trần thuật. Người kể  chuyện là sự  tổ  hợp nhân vật truyện kể  vào mình như  một người thuật lại  chuyện đời bằng sự tái sinh bởi nhân vật truyện kể. Điều đó có liên quan đến   người đọc giả  định và điểm nhìn trần thuật của người kể  chuyện. Sự  liên  quan này là gợi ý quan trọng trong đọc hiểu. Nó thu hẹp khoảng cách tiếp  nhận của độc giả nói chung theo “tầm đón nhận” của người đọc giả định để  có thể  hiểu được những thông điệp nghệ  thuật mà tác giả  muốn gửi vào tác   phẩm bằng kí hiệu thẩm mỹ.  2.3.2. Nhân vật truyện kể trong VBTS
  12. 12 Một số nhà nghiên cứu cho rằng bản sắc nhân vật là bản sắc của truyện  kể. Khi truyện kể tiến đến gần điểm xóa bỏ nhân vật thì tiểu thuyết, một loại  truyện kể phức tạp lại càng mất đi các phẩm chất đặc tính về truyện kể của   bản thân nó. Như vậy sự biến mất bản sắc của nhân vật tương đương với sự  biến mất “hình thức tự sự” và đồng nghĩa với sự  bất lợi trong việc kết thúc  truyện kể hay tác phẩm văn xuôi tự sự. 2.3.3. Tri thức tự sự về không gian và thời gian nghệ thuật Tri thức tự  sự  xem không gian và thời gian nghệ thuật là nơi lưu giữ,  bảo tồn và phát triển nhân vật. Có thể  nói thời gian là tâm hồn của không  gian được truyền qua trong thực tế  không chỉ  gắn với một vài chức năng  riêng lẻ  của sự  phát ngôn, trái lại ngay cùng một lúc tri thức này quy định  không chỉ  những gì phải được nói ra để  được nghe mà cả  những gì phải   được nghe để có thể nói cũng như sau này những gì phải được nhớ để được   kể lại cho một truyện kể khác. 2.3.4. Lời kể trong VBTS Lời kể  là một tri thức đi liền với nhịp điệu kể  để  người nghe, người  đọc, đọc để  tự  nghe và nghe trong nghe đọc chính là một trong những thủ  pháp đọc hiểu VBTS. 2.3.5. Kết cấu trong VBTS Kết cấu truyện kể hay văn xuôi tự sự là cách tổ chức các yếu tố ngoại  diên để hình thành một vọng tuyến soi sáng ý nghĩa và giá trị của tác phẩm.  Với HS cần giúp họ gọi tên và phân biệt nội dung của bố cục, kết cấu   và cấu trúc tác phẩm văn xuôi tự sự. Sự phân biệt này phụ thuộc vào sự quan  sát, tiếp cận trong khi đọc VBTS. Bố cục là sự theo dõi thời gian xảy ra của   cốt truyện. Kết cấu là lối tiếp cận những tình tiết, biến cố  trong không gian  nghệ thuật, còn cấu trúc là sự tổng hòa hai lối tiếp cận trên. Chính vì thế mà   cấu trúc VBTS là một loại tri thức cần được vận dụng sau khi HS đã nắm   được bố  cục và kết cấu tác phẩm. Nhìn chung cấu trúc bao gồm các yếu tố  được biểu hiện đặc biệt trong các cấp độ phụ thuộc nhau như đề tài, chủ đề,  tư tưởng chủ đề, hệ thống hình tượng, ngôn ngữ. 2.4. Thuyết kiến tạo và dạy học kiến tạo 2.4.1. QĐKT trong dạy học  Quan điểm được hiểu rộng hơn định nghĩa. Nó gần với tư tưởng nhưng  còn mơ  hồ  trừu tượng chưa định hình như  tư  tưởng, nơi xuất phát của lý   thuyết đã có nội dung cụ thể được biểu hiện bằng hệ thống khái niệm, thuật 
  13. 13 ngữ. Hiểu tư  tưởng là hiểu mục đích cuối cùng của đối tượng tức là phải  diễn giải, xác định tư tưởng. Hiện nay người nghiên cứu dùng QĐKT, tư  tưởng kiến tạo, lý thuyết  kiến tạo. Giữa chúng có sự  phân biệt rất mong manh cần lưu ý. Không ai có  thể  đưa ra những định nghĩa chắc chắn. Khi vận dụng QĐKT chúng tôi chủ  yếu đặt nó vào vị  trí quán triệt những nội dung cơ  sở  của lý thuyết và tư  tưởng kiến tạo trong quá trình dạy học đọc hiểu VBTS. 2.4.2. Những tiền đề triết học của thuyết kiến tạo 2.4.2.1. Triết học cổ điển Đức Từ  cái nôi triết học lớn sau nền triết học cổ đại Hy Lạp phải kể  đến  các nhà triết học cổ  điển Đức như  I.Kant (1724­1804) đã đề  ra phương pháp  tổng hợp trong nhận thức để  khắc phục sự  tách rời siêu hình giữa hai cách  nhận   thức   đang   thịnh   hành   ở   thế   kỷ   XVIII   đó   là   lối   quy   nạp   duy   cảm  (Ph.Bacơn­Anh), (Thesodor­Đức)  và  lối phân  tích duy  lý (R.Decartes­Pháp)  hay cách nhận thức cho rằng “lô gíc là tất cả” (W.Hegel­Đức). 2.4.2.2. Triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Mác­Lênin  Không những có nhiệm vụ  “giải thích thế giới” mà triết học Mác ­ Lê  nin với tư cách là lịch sử tư tưởng của loài người, theo Mác phải biến nó thành  công cụ “cải tạo thế giới” . Là bạn chiến đấu của Mác, Ăngghen đã đề cao vai  trò lao động trong việc cải tạo thế giới và con người trong tác phẩm triết học   kinh điển “Chống Đuy rinh”. 2.4.2.3. Triết học của chủ nghĩa thực dụng  Nhìn qua lịch sử  ta biết chữ  thực dụng khởi sinh từ  tiếng Hy Lạp là   pragma có nghĩa là hành động. Từ  đây xuất hiện từ  pratice mang nghĩa thực  hành và practical là thực tiễn. Khái niệm thực dụng được dùng lần đầu tiên  trong triết  học  của Charles Peirce vào năm  1878.  Đối với Peirce  niềm tin  tưởng cũng là một tiền đề cho hành động và không có sự  khác biệt nào trong   chân lý trừu tượng mà không bộc lộ  qua một số khác biệt trong một sự  kiện   cụ thể và những hành vi tiếp theo sau sự kiện đó được áp dụng bằng cách nào  đấy vào con người.  2.4.3. Những đóng góp của J. Piaget cho thuyết kiến tạo J. Piaget là người đặt nền móng cho tâm lý học phát triển trí tuệ. Trong  đó, nổi bật nhất là vấn đề  nhận thức. Quan điểm của ông cho rằng cấu trúc  nhận thức không có tính di truyền bẩm sinh mà là quá trình nhận thức của con   người được phát triển trong lịch sử  nhân loại. Sự  phát triển trí tuệ   ấy được   mặc định bởi hai quá trình tương hỗ cho nhau mà ông gọi là sự đồng hóa làm   cho cái khác giống hay phù hợp với bản thân về quan niệm và mục đích nhận  thức. 
  14. 14 2.4.4. Những đóng góp của L. Vygotxky cho thuyết kiến tạo Để  giải quyết sự  mất cân bằng trong lý thuyết của J. Piaget, nhà bác  học Nga L. Vygotxky đưa ra cách giải quyết sự mâu thuẫn giữa kinh nghiệm   học và sự tiếp thu, phát triển tri thức mới bằng xử lý mối quan hệ giữa trình  độ tri thức hiện tại với vùng phát triển gần nhất. 2.4.5. Những điểm kế thừa và phản biện lại thuyết kiến tạo 2.4.5.1. Về quan niệm lý thuyết Thuyết kiến tạo nhấn mạnh đến kiến tạo luận xã hội với những sự  lưu ý rằng cái thực tại xã hội được hiểu là những sự kiến tạo mang tính lịch  sử và tính thường ngày của các tác động cá nhân và tập thể. Sự kiến tạo này  được hiểu theo nghĩa quá trình lẫn kết quả. Đối với các nhà kiến tạo luận,   tính lịch sử là một khái niệm rất quan trọng bao gồm ba nội dung: thế giới xã  hội được kiến tạo bắt đầu từ sự kiến tạo đã có trước trong quá khứ. 2.4.5.2. Những hạn chế của thuyết kiến tạo Cụm từ kiến tạo xã hội về tri thức vừa tinh tế vừa mơ hồ rơi rớt trong   cách hiểu khá xa nhau khiến người sử dụng vượt qua cái nghĩa ban đầu và dễ  lạm dụng nó như  một thứ  thời thượng. Không nên nghĩ kiến tạo xã hội là   một nguyên tắc phổ quát xem bất cứ cái gì cũng đều do con người nói chung   kiến tạo nên, kể cả các định luật toán, lý, hóa, sinh học. Ngay trong khoa học  văn học, con người làm sao có thể kiến tạo nên linh cảm, trực giác và thế giới   vô thức! Không nên quy giản tri thức vào hành động và mục đích của con  người là xong. Quan niệm vận dụng lý thuyết kiến tạo không hề  dễ  dàng  mang lại hiệu quả tức thì. Đa số chúng ta quen dạy học chứ chưa thành thạo   trong việc dạy cách học.  2.4.6.  Tiến   trình  kiến  tạo  tri  thức  bằng  “hành   động   đọc  hiểu”  trong dạy học đọc hiểu VBTS Chúng tôi thừa nhận cái gọi là thuyết kiến tạo bao gồm tư  tưởng và   quan điểm về  những hạt nhân hợp lý của nó được thừa nhận rộng rãi trong   giáo dục và dạy học ngày nay. Đề  tài nghiên cứu của chúng tôi sử  dụng khái  niệm QĐKT. Sự  phân biệt nội dung và hàm nghĩa của tư  tưởng kiến tạo,   QĐKT và lý thuyết kiến tạo đã được bàn luận  ở  chương tổng quan.  Ở  đây,  chúng tôi cho rằng QĐKT được vận dụng trong dạy học đọc hiểu VBTS là   thích hợp vì nó chú trọng hoạt động tư  duy để  tái hiện, hình thành và khám  phá tri thức mới, vừa phát triển phẩm chất tự học độc lập vừa phát triển năng   lực sáng tạo của HS THPT. 2.5. Th ự c tr ạ ng d ạy h ọc đ ọ c hi ể u VBTS  ở  THPT 2.5.1. Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018
  15. 15 Nhìn chung những yêu cầu về  đọc hiểu văn bản văn học của Chương  trình giáo dục phổ  thông môn Ngữ  Văn 2018 là chi tiết cụ  thể  và khá toàn   diện. Tính cụ  thể  và toàn diện  ấy dựa trên mối quan hệ  tương tác giữa tác   giả, tác phẩm, người đọc và bối cảnh tri thức, bối cảnh văn hóa, bối cảnh xã   hội của người đọc. Năng lực người đọc được nâng lên rõ rệt. Ngoài việc chú   trọng đặc trưng thể loại trong đọc hiểu văn bản văn học ra, chương trình giáo  dục phổ thông môn Ngữ văn mới còn đi sâu vào mối quan hệ hữu cơ của đặc  điểm thi pháp thể  loại như  “nhận biết và phân tích được mối quan hệ  giữa   tính cách nhân vật với sự phát triển của cốt truyện”. 2.5.2. Sách giáo khoa Ngữ  văn THPT (cơ  bản và nâng cao) hiện  hành Trong khi chưa có sách giáo khoa Ngữ  văn THPT mới, GV và HS vẫn  đang sử dụng hai bộ sách giáo khoa Ngữ văn THPT (cơ bản và nâng cao) hiện   hành. Cả  hai bộ  sách giáo khoa Ngữ  văn THPT nâng cao và bộ  cơ  bản đều   đưa ra ba bài tổng kết phương pháp đọc hiểu. 2.5.3. Hoạt động dạy học đọc hiểu VBTS ở lớp 11 THPT Chúng tôi đã khảo sát hoạt động dạy và học đọc hiểu VBTS  ở  THPT theo   QĐKT tại hai trường THPT: THPT dân tộc nội trú tỉnh Thái Nguyên (Thái Nguyên),  THPT   Hòn  Gai   (Quảng   Ninh)   trong   năm   học   2018­2019.  Trên   cơ   sở   phiếu  hỏi,  nghiên cứu giáo án của GV, bảng tổng kết điểm số và xếp loại môn Ngữ Văn của   HS, vở ghi chép và chuẩn bị bài của HS, chúng tôi đã tổng hợp  kết quả  thu thập và  phân tích thông tin về thực trạng hiểu biết về đọc hiểu, về đặc trưng của VBTS và  cách thức dạy học kiến tạo của GV và HS như sau: ­ Đối với GV: 100% GV đều bám sát Chương trình, SGV và SGK môn Ngữ  Văn để  xây dựng giáo án, tổ  chức dạy học, kiểm tra và đánh giá kết quả  học tập   của HS theo hướng dẫn. Qua đó, cho thấy GV đã nắm được kiến thức cơ  bản về  dạy học đọc hiểu tác phẩm tự sự theo đặc trưng thể loại. Tuy nhiên, việc dạy học  đọc hiểu VBTS theo quan điểm kiến tạo chưa được các GV quan tâm nghiên cứu và  chú trọng trong quá trình dạy học vì Chương trình, SGV và SGK môn Ngữ Văn chưa  có những hướng dẫn cụ thể về dạy học theo QĐKT để GV có cơ sở triển khai thực   hiện.  ­ Đối với HS: chúng tôi khảo sát kết quả học tập môn Ngữ Văn của HS trong  năm học 2018 ­ 2019 đều có kết quả  học tập loại môn Ngữ  Văn xếp loại khá và   giỏi trở lên. Tuy nhiên, kết quả môn thi Ngữ Văn trong kỳ  thi trung học phổ thông  quốc gia hằng năm  cho thấy có khoảng 30% HS đạt kết quả  dưới trung bình và   70% HS đạt kết quả trên trung bình. Đồng thời, qua Phiếu khảo sát vở  ghi chép và  thực tế hoạt động của HS trước, trong và sau giờ học trên lớp cho thấy HS chủ yếu   dựa vào các tài liệu hướng dẫn có được để  chuẩn bị  bài  học và làm các bài kiểm   tra, bài thi. Do vậy, năng lực đọc hiểu VBTS theo QĐKT của HS chưa thực sự được  phát huy và nâng cao hiệu quả.
  16. 16 CHƯƠNG 3 TỔ CHỨC DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VBTS Ở THPT THEO QĐKT 3.1. Các yêu cầu của dạy học đọc hiểu VBTS ở THPT theo QĐKT 3.1.1. Đảm bảo đặc trưng của VBTS và mục tiêu của hoạt động  đọc hiểu VBTS VBTS là đối tượng trong hoạt động kiến tạo ý nghĩa của HS. Hoạt  động của người học diễn ra trong mối quan hệ mật thiết gắn bó giữa chủ thể  và đối tượng. Trong mối quan hệ này, các đặc điểm của đối tượng quy định   cách thức độc giả cần lựa chọn để đảm bảo khám phá, chiếm lĩnh được bản  chất của đối tượng đó.  Mô hình đọc VBTS, vì thế, nhất thiết cần gắn liền với các yếu tố làm  nên đặc trưng của VBTS như: người kể chuyện, câu chuyện được kể, nhân   vật tự  sự, bối cảnh không gian, thời gian trong tác phẩm tự  sự, điểm nhìn   trần thuật và sự  di chuyển điểm nhìn trong thế  giới tự  sự,… Bức tranh đời  sống mà văn bản tự  sự  đem lại trong cảm nhận của người đọc tuy tạo cho   độc giả   ấn tượng “như  thật”, thậm chí “thật hơn cả  đời sống thực tại” thì  chẳng qua đó cũng chỉ là “hiệu ứng” của nghệ thuật tự sự mà người cầm bút  muốn tạo ra  ở bạn đọc của mình. Bản chất của thế  giới  ấy là hư  cấu nghệ  thuật của nhà văn. Người viết trở thành người sáng tạo, nhào nặn ra trong tác  phẩm của mình một thế giới đa dạng bằng tưởng tượng và sử dụng chất liệu  ngôn từ cùng các quy ước, sáng tạo riêng của mình về thể loại để tạo dựng.   Hư  cấu  ấy bắt đầu bằng việc sáng tạo ra một chủ  thể  kể  chuyện. Từ  chủ  thể  kể  chuyện này, một bức tranh đời sống được dựng lên với bối cảnh cụ  thể, những nhân vật, các sự việc, quá trình phát triển của chúng theo một cách   thức nào đó cho đến khi câu chuyện được dừng lại, hàm chứa một thông điệp  gửi gắm, tạo ra những khoảng mở sẽ được tiếp tục phát triển bằng sự  đọc  qua những không gian, thời gian, những thế  hệ  độc giả  khác nhau. Dạy học   đọc hiểu VBTS theo QĐKT cần phải nương vào các đặc trưng đó để  xây  dựng các hoạt động kiến tạo cho HS, đảm bảo không làm “biến dạng” đối  tượng thẩm mĩ, đánh đồng bức tranh đời sống mà văn bản gợi ra với hiện   thực cuộc đời, không lấy các tiêu chí của thế giới hiện thực làm tiêu chí định   hướng và đánh giá thế giới nghệ thuật được xây dựng bằng tưởng tượng, hư  cấu.  3.1.2.  Đảm bảo môi trường kiến tạo dân chủ, tích cực trong dạy  học đọc hiểu VBTS Môi trường học tập bao gồm tất cả các yếu tố  bên trong và bên ngoài  luôn tác động tích cực hay tiêu cực vào quá trình dạy học. Môi trường bên  ngoài là GV, bạn học, trường lớp, gia đình và xã hội. Môi trường bên trong   bao gồm đời sống tinh thần và thể chất của HS. Đó là tiềm năng trí tuệ, năng 
  17. 17 lực tư  duy, tình cảm, ý chí, khát vọng lí tưởng, nội tâm, kinh nghiệm, phẩm  chất, phương pháp học tập,… Điều quan trọng nhất trong quan hệ thân thiện, dân chủ, tích cực của  dạy học kiến tạo tri thức là đề cao sự tôn trọng lẫn nhau giữa thầy và trò. Đó  là tiền đề  tạo ra sự  độc lập, khai phóng, đầy trách nhiệm của HS trong quá  trình nhận thức và kiến tạo tri thức. 3.1.3. Hiểu ưu điểm và những điều cần lưu ý của QĐKT trong dạy   học, phối hợp linh hoạt, hài hòa các hoạt động kiến tạo cơ bản và kiến  tạo xã hội Bất cứ  quan điểm hay lý thuyết nào cũng có những  ưu điểm và giới  hạn của nó. QĐKTtrong dạy học cũng vậy. Vả  lại, mọi lý thuyết thì màu  xám, chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi (Gớt). Thế mạnh nổi bật của QĐKT là  nó đề  cao chủ  thể  HS và quá trình hoạt động trong môi trường xã hội để  tự  khám phá, chiếm lĩnh, tổ  chức thực tại theo cách thức tri nhận của mỗi cá  nhân. Từ  đó dẫn đến những thức nhận trong việc hiểu biết sâu sắc về  hoạt  động học, hoạt động dạy, tránh được sự  cực đoan của chủ  nghĩa hành vi   trước đó. Tuy nhiên, hạn chế của QĐKT như đã chỉ ra trong nội dung lý luận,  chính là, ở mức độ cực đoan, nó lại tuyệt đối hóa tính chất chủ quan của hoạt   động nhận thức. Tri thức là khách quan. Sự  nhận thức, diễn giải về tri thức,  con đường đi đến chiếm lĩnh tri thức là chủ  quan. Trong dạy học đọc hiểu   VBTS, người đọc được tạo cơ  hội và có quyền bổ  sung, đồng sáng tạo, sử  dụng cảm nhận chủ  quan, sự  nhạy cảm và khả  năng riêng của bản thân vào  việc lý giải, cắt nghĩa, đánh giá bức tranh đời sống được thể  hiện bởi nhà   văn. Không có tiếng nói duy nhất đúng khi bàn về  tác phẩm. Không có cách  hiểu cuối cùng về văn bản. Không cá nhân nào có uy quyền tuyệt đối để  ấn   định nghĩa cho văn bản đọc hiểu. Song, điều đó không có nghĩa là ai muốn   hiểu thế nào cũng được, cắt nghĩa lý giải thế nào cũng được. Bên cạnh “điểm  tựa” chủ quan là nền tảng, tri thức, hiểu biết, kinh nghiệm, vốn sống, h ệ giá   trị,… của người đọc, thì còn cần tính đến yếu tố  tồn tại khách quan là văn  bản. Do vậy, khi vận dụng QĐKT vào dạy học đọc hiểu, GV cần điều chỉnh   các suy diễn thiếu căn cứ, phi văn học, thiếu hệ  thống của bạn đọc HS, để  người học xây dựng được các tri thức khoa học. Làm được như vậy tức là đã  hiểu và phát huy được các ưu điểm, tránh được hạn chế của QĐKT. 3.1.4. Đa dạng hóa các hình thức tổ chức hoạt động kiến tạo trong  dạy học đọc hiểu VBTS Mỗi hoạt động trong quá trình đọc hiểu VBTS theo quan điểm kiến tạo   đều hướng đến một mục tiêu xác định. Có nhiều hình thức, con đường khác  nhau để  đi đến mục tiêu đó tùy thuộc vào các tham số  khác nữa. Trong hoạt  động nhận thức, quá trình tri giác và các quá trình nhận thức lí tính khác muốn   hiệu quả  thì đều cần chủ  thể  có sự  tập trung, sự  quyết tâm và độ  hứng thú 
  18. 18 cao. Các hoạt động đúng hướng, sát mục tiêu nhưng đơn điệu, lặp đi lặp lại,   không được phối hợp hài hòa, hợp lý sẽ  dễ  dẫn đến nhàm chán, thiếu sự  hứng thú và độ  tập trung. Bởi vậy, đa dạng hóa các hình thức tổ  chức hoạt  động để HS kiến tạo ý nghĩa trong đọc hiểu VBTS là yêu cầu tất yếu đối với   GV. 3.2. Mô hình quá trình kiến tạo ý nghĩa VBTS của HS trong dạy học   đọc hiểu 3.2.1.Yêu cầu của mô hình quá trình kiến tạo ý nghĩa VBTS của HS  trong dạy học đọc hiểu Đề  xuất và làm rõ mô hình kiến tạo ý nghĩa VBTS của HS trong dạy   học đọc hiểu sẽ  giúp nghiên cứu, xác định các phương pháp, biện pháp dạy  học hiệu quả phù hợp với quá trình đó. Mô hình kiến tạo ý nghĩa của VBTS trong dạy học đọc hiểu cần đảm  bảo được các yêu cầu sau đây: ­Được đề xuất dựa trên sự tích hợp của các mô hình:  (1)mô hình đọc hiểu VBTS của HS với hạt nhân trung tâm là quá trình đọc   hiểu;  (2)mô hình kiến tạo tri thức của người học với hạt nhân trung tâm là  quy trình, cơ chế kiến tạo, các dạng kiến tạo cơ bản và kiến tạo xã hội;  (3) mô hình dạy học với hạt nhân trung tâm là quá trình dạy học (sự  tương tác giữa quá trình dạy của GV và quá trình học của HS) diễn ra trong   một không gian, thời gian cụ thể, có thể bao quát ngắn gọn là trước khi thực  hiện hoạt động học tập trong giờ  học (trước giờ  học), trong khi thực hiện   hoạt động học tập trên giờ học (trong giờ học) và sau khi giờ học trên lớp đã   kết thúc (sau giờ học). ­Hiển thị  được các yếu tố  cơ  bản, chủ  yếu nhất giúp xác định rõ đối  tượng nghiên cứu. ­ Được sử  dụng để  nghiên cứu đề  xuất các phương pháp, biện pháp  dạy học cụ thể đáp ứng định hướng lí luận đặt ra trong đề tài.  ­Được trình bày ngắn gọn, trực quan bằng các phương tiện ngôn ngữ  và sơ đồ bảng biểu, màu sắc,… Dựa trên những yêu cầu này và kết quả  nghiên cứu trong các chương  trước của luận án, chúng tôi xin đề  xuất mô hình quá trình kiến tạo ý nghĩa   VBTS trong dạy học đọc hiểu. 3.2.2. Sơ đồ mô hình quá trình kiến tạo ý nghĩa VBTS trong dạy học   đọc hiểu a. Sơ đồ mô hình
  19. 19 b. Thành tố  và các loại hoạt động đọc hiểu của HS theo mô hình quá  trình kiến tạo ý nghĩa VBTS ­Các thành tố trong mô hình:  +Sơ  đồ  hiển thị  trực quan của mô hình cho thấy thành tố  thứ  nhất,   được xem là khởi điểm để  tạo lập mô hình, là quá trình đọc hiểu VBTS của  HS (theo tiến trình trước, trong và sau khi đọc). Quá trình này được biểu hiện   bằng mô hình “tảng băng năng lực” theo cách tiếp cận của Seema Sanghigồm   hai phần chính. Phần chìm bao gồm các kiến thức, trải nghiệm nền liên quan   đến VBTS (chẳng hạn như kiến thức về đặc điểm các thể loại của tự sự, các  tri thức về  văn học sử, văn hóa có liên quan đến VBTS, vốn sống, vốn trải   nghiệm đọc VBTS hoặc các liên văn bản khác mà VBTS có tiềm năng gợi ra, …); các kĩ năng đọc hiểu VBTS (gồm cả  kĩ năng nhận thức và siêu nhận   thức); các cảm xúc, hứng thú;  hệ giá trị mà bản thân theo đuổi, niềm tin vào  bản thân có thể đảm nhiệm hoạt động đọc hiểu được tốt đến đâu với tư cách  
  20. 20 là một độc giả của HS. Phần sâu nhất của tảng băng năng lực này là động cơ  của hoạt động đọc hiểu, nằm ở lớp dưới cùng. Phần nổi của tảng băng năng  lực gồm các yếu tố, cũng chính là các hoạt động cụ  thể, hệ  thống hành vi  biểu hiện, hoặc cũng có thể  gọi là các nhiệm vụ  đọc hiểu như: Giải mã   VBTS; Phân tích, cắt nghĩa VBTS; Phản hồi đánh giá VBTS; Vận dụng VBTS   vào thực tiễn. Quá trình đọc hiểu chính là quá trình người đọc huy động tổng  hợp, vận hành, kết nối các yếu tố  vốn thuộc phần chìm của tảng băng năng  lực theo một cách thức phù hợp, sáng tạo để thực hiện thành công hoạt động  đọc hiểu văn bản tự  sự. Quá trình này diễn ra theo tiến trình trước khi đọc,  trong khi đọc, sau khi đọc và có thể trở đi trở lại nhiều lần theo các vòng đọc  khác nhau (trong những lần đọc chuẩn bị ở nhà trước khi đến lớp; trong hoạt  động đọc trên lớp, trong các hoạt động đọc khi giờ học đã kết thúc) [79]. Như  vậy, quá trình đọc hiểu VBTS của HS là xuất phát điểm để  tư  duy về  hoạt   động dạy học đọc hiểu VBTS theo QĐKT.  + Thành tố  thứ  hai trong sơ  đồ  là sự  vận dụng mô hình quá trình kiến   tạo tri thức của người học vào hoạt động đọc hiểu VBTS. Từ  góc độ  kiến  tạo cơ bản, hoạt động đọc hiểu VBTS được thực hiện theo quy trình:  +Thành tố thứ ba của sơ đồ tổng thể trên là quá trình dạy học đọc hiểu   VBTS. Thành tố  này được biểu hiện bằng trục mô tả  màu xanh lá cây song  song đồng hành với hai quá trình trên. Bên trái của trục mô tả  này (gồm 2   thành tố là quá trình đọc hiểu, quá trình vận dụng quan điểm kiến tạo vào đọc   hiểu) chính là hoạt động học của HS trong hoạt  động dạy học đọc hiểu   VBTS. Hoạt động dạy của GV sẽ được tiến hành phù hợp với tiến trình của  hoạt động học theo quan điểm kiến tạo như đã được minh giải trong sơ đồ.  ­ Các loại hoạt động đọc hiểu của HS theo mô hình quá trình kiến tạo ý  nghĩa VBTS:  Sơ đồ trực quan cho thấy 3 loại hoạt động chính mà GV cần tập trung  hướng dẫn để HS kiến tạo ý nghĩa trong đọc hiểu VBTS.  + Hoạt động đồng hóa của người đọc: hoạt động này hướng đến việc  làm ra tri thức, trải nghiệm mới trong khuôn khổ  bộ  khung nền tảng đang có  của người học, có thể  xem như  tương  ứng với vùng phát triển hiện tại của  họ. + Hoạt động điều ứng của người đọc: hoạt động này hướng đến việc   làm ra tri thức, trải nghiệm bằng cách tái cấu trúc lại bộ khung nền tảng đang   sở  hữu của người đọc khi những gì đang có tỏ  ra không hiệu quả  trong việc   kiến tạo ý nghĩa, hướng đến vùng phát triển gần của người học để mở ra từ  đó vùng phát triển tiếp theo.  + Hoạt động hợp tác của người đọc: Hoạt động này hướng đến việc  làm ra tri thức, trải nghiệm bằng cách tương tác, cùng chia sẻ, hỗ trợ với các 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2