Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
lượt xem 22
download
Luận án nhằm tìm hiểu thực trạng giáo dục đạo đức nghề nghiệp và xác định giá trị khoa học của những tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình giáo dục đào tạo và rèn luyện đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên ngành báo chí, từ đó đề xuất các biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho SV báo chí theo tư tưởng Hồ Chí Minh để nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên trong các trường đào tạo chuyên ngành báo chí.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Khoa học giáo dục: Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN THANH NGA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN BÁO CHÍ THEO TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH . Ngành : Lý luận và lịch sử giáo dục Mã số: 62.14.01.02 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
- Hà Nội 2015 Công trình được hoàn thành tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Khắc Chương PGS.TS. Nguyễn Thành Vinh Phản biện 1: GS.TSKH. Thái Duy Tuyên....................................... Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam............................ Phản biện 2: PGS.TS. Hoàng Đình Cúc...................................... Học viện Báo chí và Tuyên truyền............................. Phản biện 3: PGS.TS. Phan Thị Hồng Vinh................................ Trường đại học Sư phạn Hà Nội............................. Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào hồi ……giờ …… ngày …… tháng…… năm……2015
- Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia, Hà Nội hoặc Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
- 1 CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 1. Nguyễn Thanh Nga: Một số quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quá trình giáo dục , Tạp chí Quản Lý Giáo Dục, Tháng 6/2011. 2. Nguyễn Thanh Nga: Vận dụng một số quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quá trình giáo dục trong thời kỳ hiện nay, Tạp chí Quản lý Giáo dục, Tháng 8/2011. 3. Nguyễn Thanh Nga: Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về hội nhập trong giáo dục đến tình hình hợp tác đào tạo Việt Mỹ, Tạp chí Giáo dục số 1, tháng 7/2011. 4. Nguyễn Thanh Nga: Ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường vào việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí, Tạp chí Giáo dục số 2, tháng 11/ 2012 5. Nguyễn Thanh Nga: Một số định hướng vận dụng tư tưởng giáo dục đạo đức nghề nghiệp báo chí của chủ tịch Hồ Chí Minh trong các trường đào tạo báo chí, Tạp chí Giáo dục kỳ 1, Tháng 1/2014 6. Thực trạng giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí theo tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh, Tạp chí Giáo dục kỳ 2, tháng 2/2015
- 2 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong xã hội vấn đề đạo đức luôn được mọi người quan tâm ở các lĩnh vực nghề nghiệp khác nhau, ở mỗi nghề lại có những yêu cầu đạo đức nhất định. Chính những yêu cầu này được xem như là những chuẩn mực để con người rèn luyện bản thân. Quá trình hội nhập quốc tế đã đem đến sự thay đổi mọi mặt cho đất nước nhưng nó cũng lam cho đao đ ̀ ̣ ức cua nhiêu thanh thi ̉ ̀ ếu niên bi sa sut nghiêm trong, ̣ ́ ̣ khiến cho một số người chạy theo lối sống thực dụng, ích kỷ, hẹp hòi, lý tưởng sống mờ nhạt, quá đề cao vai trò vật chất, tiền tài… ngay cả những nghề được xã hội tôn vinh là nghề có đạo đức như nghề giáo, nhà báo, thầy thuốc,... Những năm gần đây, chúng ta liên tiếp phải chứng kiến một số nhà báo vi phạm pháp luật, đạo đức nghề nghiệp, lợi dụng tấm thẻ của mình để trục lợi cá nhân, thiếu trách nhiệm xã hội khi đưa tin không trung thực. Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông từ năm 2010 đến 2014 có khoảng 3000 nhà báo vi phạm báo chí đã bị các hình thức kỷ luật như cảnh cáo, khiển trách, phê bình, thu hồi thẻ… Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà”. Nghiên cứu tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết để vận dụng sáng tạo vào quá trình giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí để trở thành người chiến sĩ có đức, có tài trên mặt trận văn hóa tư tưởng trong quá trình hội nhập. Vì vậy, có thể khẳng định việc lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” là có ý nghĩa lí luận và thực tiễn cao. 2. Mục đích nghiên cứu Luận án nhằm tìm hiểu thực trạng giáo dục đạo đức nghiềp nghiệp và xác định giá trị khoa học của những tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình giáo dục đào tạo và rèn luyện đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên ngành báo chí, từ đó đề xuất các biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho SV báo chí theo tư tưởng Hồ Chí Minh để nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên trong các trường đào tạo chuyên ngành báo chí. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh đối với giáo dục đạo đức nghề nghiệp người làm báo chí. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong trường đại học. 4. Giả thuyết khoa học Những tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh rất phong phú và có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giáo dục đào tạo nói chung. Chính Người cũng là một nhà báo lớn,
- 3 Người khai sinh ra nền báo chí cách mạng Việt Nam. Do vậy, nếu những tư tưởng đạo đức của Người được nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện và được vận dụng phù hợp vào quá trình giáo dục, rèn luyện đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên ngành báo chí sẽ nâng cao được chất lượng đào tạo đội ngũ người làm báo có đạo đức, tài năng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng CNH – HĐH đất nước hiện nay. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Tập hợp, hồi cứu, phân tích làm rõ tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh, vấn đề đạo đức, đạo đức nghề nghiệp và nghiên cứu cơ sở lý luận về giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. 5.2. Điều tra để đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức và hoạt động rèn luyện đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí theo tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh trong các trường đào tạo báo chí. 5.3. Đề xuất một số biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên báo chí trong giai đoạn hiện nay và thực nghiệm các biện pháp đã đề xuất. 6. Nội dung và phạm vi nghiên cứu Giới hạn địa bàn nghiên cứu: Nghiên cứu ở hai trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Khoa Báo chí truyền thông, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn. Giới hạn nội dung nghiên cứu + Nghiên cứu và giáo dục một số nội dung trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh với tư cách là một bộ phận cấu thành hết sức quan trọng không thể thiếu được trong quá trình giáo dục, đào tạo nhân cách sinh viên báo chí có đủ tâm đức trong giai đoạn hiện nay. + Chúng tôi tiến hành thực nghiệm khoa học với 50 sinh viên chuyên ngành báo in khóa (2011 2015) tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền 7. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng kết hợp các nhóm phương pháp sau 7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết 7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi (An két); Phương pháp chuyên gia; Phương pháp phỏng vấn;Phương pháp nghiên cứu điển hình (Case Study); Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động; Phương pháp thực nghiệm sư phạm. 7.3. Phương pháp thống kê toán học 8. Những đóng góp mới của đề tài 8.1. Về mặt lí luận Hệ thống hóa lý luận, tìm ra những tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh. Đặc biệt các tư tưởng chính trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đạo đức nghề báo, giáo dục đạo đức nghề báo. 8.2. Về mặt thực tiễn Đề tài góp phần làm sáng tỏ thực trạng quá trình đào tạo và giáo dục đạo đức nghề báo cho sinh viên báo chí. Tìm ra nội dung và đề xuất một số định hướng và
- 4 biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong thời kỳ hiện nay, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường đào tạo báo chí và tiến hành thực nghiệm sư phạm khẳng định tính hiệu quả của các biện pháp đã đề xuất. 9. Bố Cục của luận án. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và khuyến nghị, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án gồm 3 chương. Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN BÁO CHÍ THEO TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH 1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề 1.1.1. Những nghiên cứu về tư tưởng đạo của đức Hồ Chí Minh Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh được rất nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu. Tất cả các tác giả dù nghiên cứu ở khía cạnh nào đi chăng nữa cũng khâm phục tấm lòng của Bác đối với dân, với nước. Tư tưởng đạo đức của Người là tài sản, là báu vật vô giá để mọi thế hệ con cháu học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người. 1.1.2. Những công trình nghiên cứu về đạo đức nghề báo Việc nghiên cứu về đạo đức nghề nghiệp nói chung và đạo đức nghề báo nói riêng, được nhiều tác giả ở các quốc gia trên thế giới quan tâm sâu sắc. Mỗi quốc gia trên thế giới đều có những quy ước riêng đối với đạo đức người làm báo trên cơ sở quy ước chung của liên đoàn báo chí thế giới. Báo chí Việt Nam cũng có những quy ước riêng phù hợp với truyền thống dân tộc. Cái riêng đó là đạo đức truyền thống dân tộc, đạo đức của Hồ Chí Minh, người khai sinh ra nền báo chí các mạng nước ta. Cho nên sinh viên báo chí cũng phải được giáo dục để thực hiện theo những quy ước đó trong công việc của mình khi ra trường. 1.1.3. Những công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh với báo chí và đạo đức nghề báo Rất nhiều tác giả đã nghiên cứu chân dung nhà báo Hồ Chí Minh, quá trình hoạt động báo chí của Bác ở nước ngoài, phong cách báo chí của Người, với các yêu cầu mà Người đặt ra đối với người cán bộ và nhà báo: viết như thế nào, viết cho ai, nhà báo cần có những phẩm chất đạo đức nào. Từ đó, khẳng định một lần nữa Bác là nhà báo tài ba và những tư tưởng này đã và đang được các thế hệ nhà báo Việt Nam viết và làm theo.
- 5 Các công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh với hoạt động giáo dục Trong các công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh với hoạt động giáo dục, tuy viết dưới các góc độ khác nhưng các tác giả đều đưa ra các tư tưởng lớn của Người về giáo dục và giáo dục đạo đức, khẳng định những giá trị to lớn trong tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh trong việc xây dựng một nền giáo dục Việt Nam, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Từ đó, các tác giả rút ra những tư tưởng chính về đạo đức cách mạng được thể hiện vắn tắt trong những phẩm chất như: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm,... 1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài 1.2.1. Đạo đức và đạo đức nghề nghiệp 1.2.1.1. Đạo đức Có nhiều quan điểm khác nhau nói về đạo đức và chúng tôi đồng tình với quan điểm cho rằng “Đạo đức là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với cộng đồng xã hội, với tự nhiên và với cả bản thân mình”. Đạo đức xét dưới góc độ giáo dục, thì đó là một bộ phận cấu thành nên cấu trúc nhân cách của con người, gồm năng lực và phẩm chất. 1.2.1.2. Đạo đức nghề nghiệp Đạo đức nghề nghiệp là hệ thống các chuẩn mực đạo đức phản ánh những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, của bản thân nghề nghiệp đối với người lao động trong lĩnh vực nghề nghiệp đó, giúp họ hoàn thành nhiệm vụ của mình với lương tâm, trách nhiệm đạt kết quả cao nhất. 1.2.2. Đạo đức nghề nghiệp nhà báo 1.2.2.1. Khái niệm báo chí Báo chí là: Các loại báo và tạp chí nói chung: công tác báo chí vai trò của báo chí trong công cuộc đổi mới xã hội. Báo chí có các loại hình như sau: Báo in, báo hình, báo phát thanh, báo mạng điện tử, báo ảnh, v.v… 1.2.2.2. Đạo đức nghề nghiệp nhà báo Với mỗi loại hình báo sẽ có những đòi hỏi khác nhau về đạo đức đối với người làm báo. Trong khuôn khổ nghiên cứu tác giả đi nghiên cứu sâu vào đối tượng sinh viên học chuyên ngành báo in, đây là chuyên ngành được đào tạo lâu nhất tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền và Khoa báo chí Truyền thông trường Khoa học xã hội nhân văn. Đây chính là giới hạn phạm vi nghiên cứu. Trên cơ sở các khái niệm của các tác giả, theo chúng tôi: đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là những quy tắc, chuẩn mực quy định thái độ và hành vi ứng xử của nhà báo trong các mối quan hệ nghề nghiệp. 1.2.3. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp nhà báo 1.2.3.1. Giáo dục đạo đức Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ là quá trình tác động tới học sinh của nhà trường, gia đình và xã hội, hình thành lí tưởng, ý thức và tình cảm đạo đức, tạo nên thói quen và hành vi đạo đức của con người ở trong đời sống xã hội. Thể hiện các phẩm chất đạo đức như: lòng nhân ái, yêu tổ quốc, yêu đồng bào, yêu lao động, đức
- 6 hy sinh, dũng cảm, tính liêm khiết trung thực, vô tư… GDĐĐ nhằm thực hiện các nhiệm vụ sau: Giáo dục ý thức đạo đức; Giáo dục thái độ, tình cảm đạo đức; Giáo dục hành vi, thói quen đạo đức; 1.2.3.2. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí Trên cơ sở phân tích những khái niệm về đạo đức, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức nghề nghiệp nhà báo và giáo dục đạo đức chúng tôi có thế đưa ra khái niệm về giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí như sau: Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí chính là làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của họ trong quá trình học tập và tác nghiệp sau khi ra trường. 1.3. Nội dung tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức được xem là một trong những khâu quan trọng nhất của việc đào tạo nhân tài, phát triển nhân lực, góp phần trực tiếp vào tiến trình lịch sử của dân tộc và thời đại, nội dung tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh là hết sức rộng lớn, bao quát trên nhiều lĩnh vực. Nội dung tư tưởng đạo đức ở HCM bao gồm: 1.3.1. Nội dung cơ bản của đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù. Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”. Chính, " thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình. Chí công vô tư: Theo tư tưởng đạo đức của HCM là nhận rõ phải trái, giữ vững lập trường, tận trung với nước, tận hiếu với dân. Đối với mình những tư tưởng, hành động là lợi ích cho tổ quốc, đồng bào là bạn bè. Những tư tưởng, hành động có hại cho tổ quốc, cho đồng bào là thù. 1.3.2. Nội dung cơ bản của đạo đức truyền thống trong tư tưởng Hồ Chí Minh Bên cạnh đạo đức cách mạng, một người cán bộ, một nhà báo chân chính muốn thể hiện được đạo đức cách mạng, phải luôn tự bồ dưỡng, trau dồi những phẩm chất đạo đức nền tảng cả con người nói chung mà ông cha ta đã chắt lọc, tinh luyện mang đạm màu sắc dân tộc: Nhân, nghĩa, trí, tín, dũng.
- 7 Nhân: Là phải có lòng bác ái, yêu nước, yêu đồng bào, yêu bộ đội của mình. Yêu thương con người được thể hiện ngay chính bài viết về những nội dung mang tính chân thực, khách quan, nhà báo viết bài phải gần dân, phải hiểu tâm tư nguyện vọng của quần chúng, văn phong gần gũi. Theo Người, một nhà báo có đạo đức là một nhà báo biết "hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng". Nghĩa: Là ngay thẳng, không có làm việc bậy, không làm việc gì giấu Đảng, ngoài lợi ích của Đảng, không có gì lợi ích cho riêng tư, việc gì Đảng giao phải hết sức cẩn thận, không sợ phê bình và phê bình người khác phải đúng đắn. Đối với người làm báo, sự ngay thẳng, dám nói lên sự thật và viết đúng sự thật là việc nghĩa. Trí: Là sáng suốt, biết địch, biết mình, biết người tốt thì nâng đỡ, biết người xấu thì không dùng, biết cái tốt của mình mà phát triển lên, biết cái xấu của mình để mà tránh. Người làm báo phải luôn biết xử lý thông tin một cách sáng suốt, ứng xử thông minh trong mọi trường hợp. Tín: Nói cái gì phải cho tin, nói và làm cho nhất trí, làm thế nào cho dân tin, cho bộ độ tin ở mình. Báo chí là tiếng nói của Đảng và nhân dân, vì thế người viết báo phải luôn tạo ra lòng tin cho người đọc. Để viết được những bài báo hợp lòng dân, sát với cuộc sống của nhân dân, theo Người, nhà báo phải học cách tìm tài liệu trong dân. Năm cách để tìm được tài liệu phục vụ cho bài viết đã được Người đưa ra, đó là: Nghe, Hỏi, Thấy, Xem và Ghi. Năm cách này gắn bó chặt chẽ với nhau theo một hệ thống có tính logic. Dũng: Phải mạnh dạn, quả quyết nhưng không phải làm liều. Phải có kế hoạch, rồi kiên quyết làm ngay. Nguy hiểm cũng phải làm. Nghĩa là phải có lòng dũng cảm trong công việc. Nhà báo luôn phải xông pha đến những nơi gian khó, báo chí là nghề nguy hiểm nhất, hàng năm con số nhà báo thiệt mạng vì đến các khu vực nguy hiểm lấy tin bài ngày một tăng lên, theo báo Người đưa tin năm 2013 ít nhất 70 nhà báo thiệt mạng trong khi làm nhiệm vụ, viết về chiến tranh, buôn bán ma túy, tham nhũng… như Syria, Brazil, Colombia, Ấn Độ, Bangladesh, Pakistan, Nga và Philippines. 1.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức nhà báo cách mạng 1.4.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhà báo cách mạng tài năng. Người khai sinh ra nền báo chí cách mạng Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người khai sinh ra nền báo chí cách mạng Việt Nam với tờ báo đầu tiên là tờ Thanh niên mà chính bản thân Người cũng là một cây bút tài ba. Hơn 50 năm hoạt động sáng tạo không ngừng, Người đã để lại một khối lượng tác phẩm báo chí đồ sộ, với trên 2000 bài báo thuộc nhiều thể loại như: kịch, phóng sự, bút ký… các tác phẩm của Người còn được viết bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, đề cập đến toàn bộ các vấn đề rộng lớn của cách mạng cũng như đời sống xã hội Việt Nam. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng Người đã sáng lập ra 9 tờ báo khác nhau: Le parie (Người cùng khổ), L’humanite (Nhân đạo), La vie d’ouvriers (Đời sống thợ thuyền), La femme (Phụ nữ), với bút danh Nguyễn Ái Quốc. Tạp chí “Đỏ”, “Búa Liềm”, “Tranh đấu”, “Tiếng nói của chúng ta” sử dụng khoảng hơn 150 bút danh
- 8 khác nhau như: Nguyễn Ái Quốc, Bình Sơn,Tân Sinh, Lê Ba, CK, ĐX, Trầm Lam … đã tuyên truyền vận động đấu tranh cách mạng. Những tư tưởng lớn của Người về đạo đức báo chí cách mạng đã nằm trong các bài báo viết, bài nói ngắn gọn, được diễn đạt rất cô đọng, hàm súc theo phong cách phương Đông, rất quen thuộc với người Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của người làm báo: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”. Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo chí cần phải tu dưỡng đạo đức cách mạng, “Cố gắng trau dồi tư tưởng, nghiệp vụ và văn hóa; chú trọng học tập chính trị để nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ; đi sâu vào thực tế, đi sâu vào quần chúng lao động” Những kinh nghiệm làm báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành những nguyên tắc cơ bản không thể thiếu đối với những người cầm bút. Đây chính là những bài học vô cùng quý báu mà Người đã để lại cho các nhà báo. Tính chân thật luôn được xem là đạo đức của người làm báo cách mạng. Tư tưởng cùng những lời dạy của Người về báo chí mãi còn nguyên giá trị, từ bài báo đầu tiên của Người: “Vấn đề dân bản xứ” và bài cuối cùng: “Nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên nhi đồng” đã có ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với sự hình thành nền báo chí cách mạng Việt Nam nói chung, những thế hệ người cầm bút nói riêng, ngay từ những thế hệ đầu tiên những tờ báo trước và sau cách mạng tháng 8/1945 như: Nhà báo Hữu Thọ, Nguyễn Bạch Đằng, Trần Lâm, Phan Quang… và đội ngũ đông đảo các nhà báo hôm nay của báo Nhân Dân, báo Quân Đội, Phụ Nữ, Thanh Niên, Đoàn Kết, Giáo Dục… Và nhiều tờ báo tạp chí khác đang thực sự góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa công bằng, văn minh, tiến bộ. 1.4.2. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức nhà báo cách mạng Những tư tưởng của Người về phẩm chất đạo đức người làm báo cách mạng thường có trong các mẩu chuyện, các bức thư hay bài nói chuyện. Nó được tập trung ở những điểm sau: Trung thành với lý tưởng của đất nước, nhân dân và Đảng cộng sản: Theo Hồ Chủ tịch, “đạo đức cách mạng là triệt để trung thành với cách mạng, một lòng, một dạ phục vụ nhân dân là “quyết tâm suốt đời phấn đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”. Phản ánh chân thực khách quan: Tính chân thực là một trong những đặc trưng cơ bản của báo chí, cho nên Người thường căn dặn các nhà báo phải luôn trung thực, coi đó là một tiêu chuẩn trong phẩm chất đạo đức của người làm báo cách mạng. Gần dân, yêu dân, vì quyền lợi của nhân dân: Nhân dân chính là đội ngũ công chúng đông đảo nhất, gần gũi nhất của báo chí, do đó nhà báo phải có ý thức phục vụ nhân dân chân thành nhất, tận tâm nhất. Có tinh thần phê bình và tự phê bình: Phê bình và tự phê bình là vũ khí sắc bén của Đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên trong quá trình tu dưỡng, rèn luyện, xây dựng đạo đức cách mạng. Đồng thời cũng là động lực mạnh mẽ giúp cho sự tiến bộ, trưởng thành, phát triển của mỗi cá nhân và mỗi tổ chức cách mạng. Theo Người, tự
- 9 phê bình và phê bình có mục đích và ý nghĩa tốt đẹp đó là để mọi người học tập ưu điểm của nhau, giúp nhau nhận ra sai lầm và sửa chữa sai lầm, để mọi người ngày càng tiến bộ, trưởng thành, đoàn kết. Rèn luyện học tập suốt đời: Người làm báo phải lấy đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp làm gốc, là điều trước tiên khi đặt bút. Song bản lĩnh chính trị, tri thức mọi mặt…. sẽ là những nhân tố quan trọng giúp cho nhà báo giữ được cái “tâm” trong sáng ấy. Hoạt động báo chí là một hoạt động đặc biệt, đòi hỏi phải có tầm trí tuệ, có hiểu biết sâu rộng, kinh nghiệm cuộc sống phong phú và nhiều năng lực nghề nghiệp. Vì vậy, người làm báo phải luôn luôn học hỏi, luôn luôn cầu tiến bộ,… Tinh thần quốc tế trong sáng: Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em". Với tư cách là một nhà báo quốc tế, Bác viết báo đấu tranh đòi sự công bằng cho dân tộc Việt Nam và các dân tộc bị áp bức trên thế giới. 1.5. Những tiêu chuẩn đạo nghề nghiệp của nhà báo. Những tiêu chuẩn này được thể hiện khái quát ra 9 điều trong “Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt nam” và được khái quát như sau: 1.5.1. Trong dân, vì dân – Tiêu chuân hàng đâu đao đ ̣ ̉ ̀ ̣ ức nghê nghi ̀ ệp nhà báo ̣ Trong dân là nói vê thái đ ̀ ộ ưng x ́ ử cua nhà báo khi hành nghê và sáng tao phai ̉ ̀ ̣ ̉ ̣ luôn kính trong nhân dân, tôn trong lê phép, găn bó ch ̣ ̃ ́ ặt che ṽ ơi nhân dân, yêu th ́ ương tin tưởng ở nhân dân; luôn lăng nghe và chiu s ́ ̣ ự giám sát cua nhân dân. ̉ Vì dân là nói về ̣ muc đích hoat đ ̣ ộng nghê nghi ̀ ệp cua nhà báo, phai hêt lòng hêt s ̉ ̉ ́ ́ ưc t́ ận tuy phuc vu ̣ ̣ ̣ nhân dân; moi hoat đ ̣ ̣ ộng sáng tao cua nhà báo phai luôn h ̣ ̉ ̉ ương t ́ ơi l ́ ợi ích và sự tiên b ́ ộ ̉ cua nhân dân. 1.5.2. Tính trung thực – đặc trưng nhân cách đao đ ̣ ức nghê nghi ̀ ệp nhà báo Trung thực là đặc trưng nhân cách cua nhà báo và cung là phâm chât hàng đâu ̉ ̃ ̉ ́ ̀ ̉ mà Đang, Nhà n ươc, nhân dân đòi hoi các c ́ ̉ ơ quan báo chí, các nhà báo phai tôn trong ̉ ̣ và thực hiện. 1.5.3. Trách nhiệm xã hội – Tiêu chuân đao đ ̉ ̣ ưc sông còn cua báo chí và nhà báo ́ ́ ̉ Trách nhiệm xã hội thuộc pham trù nghia vu đao đ ̣ ̃ ̣ ̣ ức. Nhà báo khi hoat đ ̣ ộng nghê nghi ̀ ệp mang trên vai hai thứ trách nhiệm. Đó là trách nhiệm trươc c ́ ơ quan báo ̉ chí, phai hoàn thành tôt moi công vi ́ ̣ ệc được giao. Vượt lên trên trách nhiệm ây là trách ́ nhiệm vơi xã h ́ ội. Đê nâng cao trách nhi ̉ ệm xã hội, môi nhà báo phai có ban linh chính ̃ ̉ ̉ ̃ ̣ tri và lòng yêu n ươc, th ́ ương dân, tính trung thực; có kiên th ́ ưc và vôn sông sâu săc ́ ́ ́ ́ nhăm x ̀ ử lý thông tin đúng đăn, h ́ ợp tình hợp lý. 1.5.4. Lương tâm – Thươc đo đao đ ́ ̣ ức nghê nghi ̀ ệp nhà báo Lương tâm nghê nghi ̀ ệp là sự phát triên cao cua trình đ ̉ ̉ ộ đao đ ̣ ức vì nó dựa trên cơ sở tự ý thưc vê trách nhi ́ ̀ ệm cua ban thân ng ̉ ̉ ười lao động khi hoat đ ̣ ộng nghề nghiệp. Đao đ ̣ ức nghê nghi ̀ ệp được nâng cao se thành l ̃ ương tâm nghê nghi ̀ ệp. Vì vậy lương tâm trở thành thươc đo cua trình đ ́ ̉ ộ đao đ ̣ ức nhà báo. Nhà báo có lương tâm, sẽ luôn tâm huyêt v ́ ơi nghê nghi ́ ̀ ệp mà mình theo đuôi, vì v ̉ ậy mà có lòng yêu nghê, yêu ̀ ngươi tha thiêt. ̀ ́ 1.6. Một số định hướng giáo dục đạo đức nghề nghiệp báo chí theo tư tưởng
- 10 Hồ Chí Minh 1.6.1. Đặc điểm của sinh viên báo chí và mục tiêu đào tạo trong nhà trường Sinh viên ngành báo cũng như sinh viên các ngành học khác, ở ở độ tuổi từ 18 đến 23, độ tuổi trẻ trung, năng động và nhiệt huyết, có sự trưởng thành và chín chắn về mặt tâm lý. Xuất thân từ mọi vùng của đất nước, với mong muốn trở thành những phóng viên, biên tập viên báo, truyền hình, MC, phát thanh viên truyền hình, những người tổ chức sự kiện, … Có năng lực hoạt động nghiệp vụ báo chí ở nhiều loại hình báo chí. Có khả năng thích ứng rộng để có thể thực hiện các chức trách công tác tại các cơ quan đơn vị có liên quan đến báo chí và truyền thông đại chúng. Có khả năng tham gia vào hoạt động tư tưởng của Đảng và các nhiệm vụ chính trị xã hội của Đảng và Nhà nước Có lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định với chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc. Có đạo đức của người cán bộ cách mạng với phẩm chất của nhà báo chân chính; có ý thức trách nhiệm nghề nghiệp, có lối sống tích cực, lành mạnh,... Quá trình đào tạo cho sinh viên báo chí báo sát theo quy ước của hội nhà báo Việt Nam đó là: 1. Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Luôn gắn bó với nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân. 3. Hành nghề trung thực, khách quan, tôn trọng sự thật. 4. Sống lành mạnh, trong sáng, không lợi dụng nghề nghiệp để vụ lợi và làm trái pháp luật. 5. Gương mẫu chấp hành pháp luật, làm tròn nghĩa vụ công dân, làm tốt trách nhiệm xã hội. 6. Bảo vệ bí mật quốc gia, nguồn tin và giữ bí mật cho người cung cấp thông tin. 7. Tôn trọng, đoàn kết, hợp tác giúp đỡ đồng nghiệp trong hoạt động nghề nghiệp. 8. Thường xuyên học tập, nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, nghiệp vụ, khiêm tốn cầu tiến bộ. 9. Giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc các nền văn hóa khác. 1.6.2. Một số định giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh là sự kết tinh những giá trị và tinh hoa của nhân loại. Việc vận dụng những tư tưởng đó trong quá trình đào tạo, giáo dục sinh viên báo chí hiện nay nhằm mục đích nâng cao chất lượng đào tạo, góp phần tạo ra một đội ngũ những nhà báo vừa có tài vừa có tâm, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên việc vận dụng để giáo dục cho sinh viên báo chí hiện nay cần có sự lựa chọn sao cho phù hợp để phát huy cao độ những giá trị đạo đức tốt
- 11 đẹp, cách mạng trong tư tưởng đạo đức của Người 1.6.2.1. Phát huy cao độ giá trị đạo đức của nhà báo cách mạng Hồ Chí Minh “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất” của Việt Nam. Người là nhà thơ, nhà văn, nhà báo vĩ đại. Sự vĩ đại không chỉ là người xây dựng nền báo chí cách mạng Việt Nam mà Hồ Chí Minh còn là nhà báo cách mạng chân chính. Có thể nói “Văn đức”, “Đạo đức báo chí” được hình thành từ phong cách và đạo đức làm báo, viết văn của Hồ Chí Minh. 1.6.2.2. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp báo chí theo tư tưởng Hồ Chí Minh là kết hợp chặt chẽ học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn sôi động xã hội Báo chí là tiến nói của Đảng, của nhân dân, cho nên trong quá trình đào tạo đội ngũ cán bộ báo chí, vấn đề giáo dục đạo đức được đặt lên hàng đầu.. Trong quá trình đào tạo cán bộ báo chí thì việc vận dụng những tư tưởng, lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh là cần thiết và có ý nghĩa vô cùng to lớn. Người từng dạy: Trong quá trình đào tạo ở trường phải luôn trang bị lý luận, tay nghề cho người học, hay nói cách khái quát: học phải đi đôi với hành. Hồ Chí Minh dùng nhiều cách diễn đạt khác nhau: “Lý luận đi đôi với thực tiễn”, “Lý luận kết hợp với thực hành”, “Lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau”, “Lý luận phải liên hệ với thực tế. Việc gắn lý luận với thực tiễn xây dựng đất nước trong nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế, giúp sinh viên báo chí trang bị cho mình đầy đủ kiến thức cần thiết đem ngòi bút xây dựng đất nước theo quan điểm của Đảng và Nhà nước, giúp họ có thêm vốn hiểu biết, trải nghiệm thực tiễn cuộc sống sinh động, đó là những chất liệu giúp cho những bài viết chính xác, gần với thực tế hơn. giúp họ thấy rõ được những ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực tới hoạt động báo chí. 1.6.2.3. Đảm bảo vận dụng kết hợp đa dạng các con đường giáo dục Quá trình GD hình thành và phát triển nhân cách của người nói chung và nhà báo nói riêng cần thông qua nhiều lực lượng khác nhau, gia đình, nhà trường, xã hội và bằng nhiều con đường khác nhau như qua các môn học khoa học cơ bản, môn học chuyên ngành, giúp SV hiểu được giá trị của nghề nghiệp, thông qua các môn học này lồng ghép tư tưởng đạo đức nghề báo của chủ tịch Hồ Chí Minh vào nội dung GD, nhằm hình thành những phẩm chất đạo đức ở SV theo tư tưởng của Người; thông qua các hoạt động ngoại khoá như: tổ chức hội thảo, nghiên cứu chân dung, nghiên cứu các bài báo của chủ tịch Hồ Chí Minh, làm cho SV hiểu rõ hơn về cuộc đời làm báo của Bác. 1.6.2.4. Quan tâm giáo dục đạo đức và đạo đức nghề nghiệp của người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng văn hóa GD nâng cao ĐĐNN cho SV báo chí xét cho cùng là nâng cao trình độ nhận thức, nâng cao phẩm chất chính trị, nghiệp vụ của người phóng viên tương lại. GD phải làm cho người học hiểu được các giá trị đạo đức trong xã hội, hiểu được “ chân, thiện, mĩ”, hiểu rõ đạo đức trong nghề nghiệp của mình, những phẩm chất đạo đức cần thiết trong nghề nghiệp, để khi tác nghiệp họ hiểu mình có quyền và nghĩa vụ như thế nào. Như Hồ Chí Minh đã căn dặn trong di chúc: “giáo dục đạo đức cách mạng cho đời sau là việc làm quan trọng và cần thiết”, GD ĐĐNN là một trong những nhiệm vụ quan trọng của các trường đại học
- 12 hiện nay, giáo dục tri thức, kỹ năng, nghề nghiệp. ĐĐ người làm báo phải gắn với những phẩm chất nghề nghiệp, trong đó chứa đựng những tư tưởng đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh. Và những phẩm chất này phải được GD và rèn rũa trước khi họ trở thành những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Chương 2 THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁO CHÍ THEO TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA HỒ CHÍ MINH 2.1. Đôi nét khái quát về địa bàn nghiên cứu 2.2. Khảo sát thực trạng 2.2.1. Mục đích khảo sát thực trạng Nhằm xác định cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng các biện pháp GDĐĐNN cho SVBC theo tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh. 2.2.2. Nội dung khảo sát Chúng tôi đã tiến hành khảo sát các nội dung sau: Đánh giá những ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh tới ĐĐNN của nghề làm báo; đạo đức và ĐĐNN của SVBC; nhận thức, thái độ và hành vi NN của SVBC; thực trạng sử dụng các biện pháp GDĐĐNN cho SVBC; hiệu quả của GDĐĐNN cho SVBC. Từ đó, xác lập cơ sở thực tiễn của việc xây dựng các biện pháp GDĐĐNN cho SVBC theo tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh. 2.2.3. Đối tượng khảo sát 2.2.3.1. Sinh viên báo chí Trường Học viện Báo Chí và Tuyên truyền với 190 sinh viên khoa Báo in với năm 1, 2, 3. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn với 170 sinh viên chuyên ngành Báo in với năm 1,2,3. 2.2.3.2. Các lực lượng giáo dục Chúng tôi tiến hành điều tra, khảo sát 120 đối tượng, gồm: Giảng viên báo chí tại các trường ĐH, cán bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh lãnh đạo một số khoa, bộ môn, cán bộ Phòng Công tác học sinh, sinh viên, phòng Thanh tra, Biên tập, phóng viên tại một số tòa soạn, các nhà báo vừa tham gia viết báo và giảng dạy. 2.3. Kết quả khảo sát thực trạng 2.3.1. Thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi về nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp Về nhận thức của sinh viên về nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp cho thấy sinh viên hiểu về tiêu chuẩn nghề nghiệp mình đã lựa chọn cho tương lai chỉ dừng lại ở mức trung bình. Kết quả điều tra cho thấy có 28 sinh viên cho rằng mình hiểu rất rõ các tiêu chuẩn, quy định của nghề nghiệp chiếm 7.78% nhưng có tới 124 sinh viên cho rằng
- 13 mình chỉ hiểu lơ mơ các quy định này chiếm 34,44% và đặc biệt có 3,33% sinh viên không hiểu về các tiêu chuẩn và quy định nghề nghiệp. Đa số sinh viên được đánh giá có phẩm chất đạo đức ở mức độ trung bình. Theo tự đánh giá của sinh viên về phẩm chất đạo đức của chính họ có tới 53,33% ý kiến cho rằng đạo đức của sinh viên ở mức trung bình. Mặc dù vậy, có 2,22% ý kiến cho rằng đạo đức của sinh viên báo chí hiện nay là rất tốt, nhưng cũng có tới 6,66% sinh viên đánh giá ở mức độ yếu kém. Bên cạnh đó chúng tôi cũng tìm hiểu nhận thức của lực lượng giáo dục và sinh viên về các phẩm chất đạo đức nghề báo chí cần giáo dục cho sinh viên. Trên cơ sở lý luận, chúng tôi xây dựng hệ thống tiêu chí với 20 phẩm chất đạo đức của người làm báo thu được kết quả như sau: Hầu hết các phẩm chất chúng tôi nêu ra đều được các giảng viên và lực lượng giáo dục khác đánh giá cao. Những phẩm chất đạo đức được đánh giá cao nhất bao gồm Bảo vệ bí mật quốc gia, nguồn tin và giữ bí mật cho người cung cấp thông tin và Lòng nhân ái, trung thực cùng với 85% ý kiến đồng ý; Ý thức học tập nâng cao vốn sống sâu rộng và Phẩm chất khiêm tốn, liêm khiết có cùng 80% ý kiến đồng ý. Tuy nhiên, vẫn có những phẩm chất đạo đức có dưới 50% ý kiến đồng ý đó là Trách nhiệm công dân chân chính theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và Sống lành mạnh, trong sáng, không lợi dụng nghề nghiệp để vụ lợi và làm trái pháp luật cùng có 45% ý kiến đồng ý. Xếp cuối cùng là phẩm chất Ý thức phối hợp với các cơ quan chức năng thực hiện trách nhiệm của nhà báo của dân, do dân, vì dân chỉ với 35% ý kiến đồng ý. Tất cả các nội dung trên được sinh viên đánh giá rất cao với điểm trung bình rất cao. Xếp thứ nhất là nội dung Ý thức tôn trọng danh dự, uy tín nghề nghiệp chân chính theo pháp luật với 208 sinh viên đánh giá ở mức độ rất cần thiết, 102 sinh viên đánh giá là cần thiết và không có sinh viên nào cho rằng phẩm chất này là không cần thiết với điểm trung bình 4,5. Xếp thứ 2 với điểm trung bình 4,42 là nội dung Lòng yêu nghề, có niềm tin vào nghề nghiệp. Có tới 3 nội dung cùng xếp thứ bậc 3 với điểm trung bình 4,39 là các nội dung Bảo vệ bí mật quốc gia, nguồn tin và giữ bí mật cho người cung cấp thông tin; Tính sáng tạo, tò mò, năng động và nhạy bén; Sống lành mạnh, trong sáng, không lợi dụng nghề nghiệp để vụ lợi và làm trái pháp luật,... Nhìn chung, tất cả các nội dung chúng tôi đưa ra đều được sinh viên đánh giá cao và rất cần thiết trong việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp của nhà báo bởi đây là những phẩm chất cốt lõi của người làm báo cần được trang bị ngay từ khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường. Từ nhận thức đến thái độ là cả một quá trình, mà trong quá trình ấy được trang bị đầy đủ kiến thức chuyên môn lẫn nghiệp về nghề nghiệp trong tương lai của mình, được tham gia viết bài, thực hành thực tập trực tiếp vào công việc tạo ra tình cảm đối với nghề nghiệp. Xét tổng thể tình cảm của sinh viên báo chí đối với nghề báo có sự phân tán nhất định và tình yêu nghề là không cao. Chỉ có 7,78% sinh viên cho rằng mình rất yêu nghề nhưng trong đó lại có tơi 38,89% sinh viên cho rằng mình chưa thật yêu nghề chiếm tỷ lệ cao nhất và vẫn còn 2,22% sinh viên tự nhận mình không yêu nghề. Trên cơ sở nhận thức, thái độ chúng tôi nghiên cứu tiếp hành vi đạo đức của
- 14 sinh viên. Đặc biệt đối với nghề báo, đạo đức càng có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện đạo đức nghề nghiệp của sinh viên sau này. Một trong những nội dung để thể hiện hành vi đạo đức nghề nghiệp đó chính là việc rèn luyện nghiệp vụ của nghề nghiệp, đây cũng có thể coi là một trong những con đường để hình thành và phát triển đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên. Kết quả thu được ở bảng sau: Mức độ rèn luyện nghiệp vụ báo chí của sinh viên chỉ ở mức độ trung bình với điểm trung bình là 3,37/5. Qua điều tra sinh viên, mức độ rèn luyện đạt tỷ lệ cao nhất đó là thường xuyên cũng chỉ chiếm 41,11%, trong khi đó vẫn còn tới 17,78% sinh viên chỉ thỉnh thoảng mới rèn luyện nghiệp vụ và không có sinh viên nào là không bao giờ rèn luyện. Để đánh giá hành vi đạo đức trong học tập của sinh viên chúng tôi tìm hiểu về việc sinh viên vi phạm đạo đức trong học tập với những hình thức như thiếu trung thực trong học tập, thiếu chuyên cần, đặc biệt là quay cóp bài trong thi cử,… kết quả thu được ở bảng trên cho thấy, chỉ có 140 sinh viên chưa bao giờ vi phạm đạo đức trong học tập chiếm 38,89%, trong khi có vẫn có hơn 5% sinh viên báo chí vi phạm đạo đức trong học tập nhiều và thường xuyên với tỷ lệ lần lượt là 3,33% và 2,22%. 2.3.2. Thực trạng giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí Thông qua các kết quả nghiên cứu về đạo đức và đạo đức nghề nghiệp ở trên, chúng tôi đi vào nghiên cứu tiếp thực trạng việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí trong các nhà trường có đào tạo báo chí, kết quả thu được như sau: Việc thực hiện các nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí gộp thành các nhóm phẩm chất đạo đức cơ bản (với mình, với người, tổ quốc, nhân dân với xã hội, công việc). Qua bảng chúng ta thấy mức độ giáo dục đạo đức cho sinh viên chỉ dừng lại ở mức độ trung bình khá. Đứng ở vị trí số một là nội dung Giáo dục lòng yêu nghề, có niềm tin vào nghề nghiệp có số sinh viên cho ý kiến về mức độ thực hiện rất thường xuyên và thường xuyên nhiều nhất với điểm trung bình cao nhất là 3,97. Nội dung Giáo dục vai trò, vị trí của nghề nghiệp báo chí đứng thứ 2 với điểm trung bình là 3,94. Những nội dung có mức độ thực hiện thấp nhất trong các nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên đó là: Ý thức phối hợp với các cơ quan chức năng thực hiện trách nhiệm của nhà báo của dân, do dân, vì dân xếp thứ 19 với điểm trung bình là 3,58 và Bảo vệ bí mật quốc gia, nguồn tin và giữ bí mật cho người cung cấp thông tin xếp cuối cùng với điểm trung bình là 3,54. Để giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên, nhà trường cần có những biện pháp cụ thể để hoạt động này đạt hiệu quả. Dựa trên thực tế, chúng tôi đã xây dựng các biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp nhằm tìm hiểu xem lực lượng giáo dục trong nhà trường đã tiến hành những biện pháp nào để giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên. Các biện pháp được sử dụng nhiều nhất cũng chỉ đạt 65% ý kiến của lực lượng giáo dục bao gồm: Lồng ghép vào giảng dạy các môn học chuyên ngành; Lồng ghép vào giảng dạy các môn học nghiệp vụ; Mời các nhà báo nổi tiếng đến nói chuyện. Điều này chứng tỏ rằng việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí chủ yếu thông qua việc giảng dạy của giảng viên trên lớp với những môn chuyên ngành và nghiệp vụ, tiếp đến là các biện pháp Thông qua công tác giáo dục tư tưởngchính trị có 60% lực lượng giáo dục lựa chọn, Thông qua rèn luyện nghiệp vụ báo chí thường xuyên thực tế và thực tập có 55%. Đứng ở những vị trí cuối cùng là
- 15 các biện pháp Thông qua công tác Đoàn TNCSHCM, Hội Sinh viên và Giao cho sinh viên đi lấy tin để viết bài cùng chỉ có 30% ý kiến. Có tới 3 biện pháp chỉ có 25% ý kiến của lực lượng giáo dục nhà trường đó là Thông qua kỷ niệm các ngày lễ, truyền thống: 21/6, 26/3; Thông qua khen thưởng người tốt, việc tốt trong các phong trào học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Thông qua thực tập viết bài theo chủ đề, tiêu điểm. Trên cơ sở các lực lượng giáo dục tự đành giá về vai trò, vị trí của chính các lực lượng giáo dục trong việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu các đánh giá của sinh viên về mức độ tích cực tham gia giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên của từng lực lượng giáo dục. Kết quả thu được như sau: Mức độ tích cực tham gia giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên của các lực lượng giáo dục chỉ đạt ở mức độ trung bình khá. Tích cực nhất trong việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên đó là giảng viên giảng dạy xếp thứ bậc 1 với điểm trung bình là 3,93. Đừng thứ 2 đó là tập thể lớp và chi đoàn với điểm trung bình là 3,84 và đứng thứ 3 là Giảng viên chủ nhiệm với điểm trung bình là 3,63. Điều này hoàn toàn phù hợp với kết quả thứ bậc các lực lượng tham gia GD ĐĐNN cho sinh viên mà chúng tôi đã trình bày. 2.3.3. Thực trạng việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho SV báo chí tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh Đối với sinh viên báo chí, với đặc trưng nghề nghiệp tương lai là làm công tác tuyên truyền nên việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt là trong việc hình thành và phát triển đạo đức nghề nghiệp của sinh viên. Chúng tôi đã tìm hiểu về nhận thức của lực lượng giáo dục và sinh viên về mục đích và sự cần thiết của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Sinh viên nhận thức chưa đầy đủ về mục đích của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trong 5 mục đích chúng tôi nêu ra không có mục đích nào đạt được trên 50% ý kiến. Mục đích có tỷ lệ nhận thức cao nhất cũng chỉ đạt 44,44% đó là Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nhằm rèn luyện phẩm chất đạo đức, trong khi đó Học để áp dụng trong nghề nghiệp đem lại hạnh phúc chân chính cho cá nhân, gia đình và xã hội chỉ có 31,11% ý kiến của sinh viên. Đặc biệt, mục đích Thực hiện đức nhân: “làm cho ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” chỉ có 16,67% ý kiến của sinh viên Đây là tỷ lệ rất thấp. Lực lượng giáo dục nhận thức được sự cần thiết của việc vận dụng tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh vào giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên với tỷ lệ rất cao. Có tới 80% lực lượng giáo dục cho rằng việc vận dụng tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh vào giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên là cần thiết và rất cần thiết, trong đó cơ 30% lực lượng giáo dục đánh giá là rất cần thiết. Về mức độ thực hiện việc vận dụng và làm theo tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh vào giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí. Đa số lực lượng giáo dục cho rằng nhà trường chưa thường xuyên vận dụng và làm theo tư tưởng đạo đức
- 16 của Hồ Chí Minh vào giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên chiếm tới 50% ý kiến của lực lượng giáo dục. Trong khi đó mức độ rất thường xuyên chỉ có 10% ý kiến. Việc thực hiện các nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần có những hình thức và biện pháp phù hợp để đạt được hiệu quả cao. Các cách thức học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của sinh viên báo chí bao gồm học tập: Thông qua các tác phẩm văn học viết về Hồ Chí Minh; Thông qua các tác phẩm nghiên cứu về đạo đức Hồ Chí Minh; Thông qua tuyển tập Hồ Chí Minh; Đã được học ở trường và Thông qua bảo tàng, thư viện, hội thảo, mạng internet và tự học. Xét về tổng thể ta thấy các cách thức học tập trên được sinh viên sử dụng không nhiều. Không có cách thức nào đạt được 50% ý kiến của sinh viên. Cách thức đạt tỷ lệ sinh viên lựa chọn cao nhất đó là Thông qua bảo tàng, thư viện, hội thảo, mạng internet và tự học có 45,55% ý kiến. Cách thức có tỷ lệ thấp nhất đó là thông qua tuyển tập Hồ Chí Minh chỉ có 7,78% ý kiến. Bên cạnh việc học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta cùng tìm hiểu các cách thức, con đường giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đa số lực lượng giáo dục cho rằng: giáo dục đạo đức nghề nghiệp nghiệp cho sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua lồng ghép qua các môn học như: Luật Báo chí và đạo đức nghề báo, Tư tưởng Hồ Chí Minh ở trên lớp với 80% ý kiến. Xếp thứ 2 là cách thức Mời các nhân chứng lịch sử, các nhà báo lão thành đã có dịp làm việc tiếp xúc với Bác đến nói chuyện về đạo đức nghề báo của Bác với 70% ý kiến. Bên cạnh đó các cách thức dù đã được tổ chức thực hiện nhưng chưa được đánh giá cao đó là Thường xuyên tổ chức học tập tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức nghề làm báo cho sinh viên và Tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm qua các đợt thi đua học tập và làm theo lời Bác trong lĩnh vực rèn luyện đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên có cùng 35% ý kiến. Hiệu quả Qua nghiên cứu về nhận thức và việc tổ chức giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí nói chung và giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên theo tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh nói riêng, chung tôi tiếp tục nghiên cứu về hiệu quả của các cách thức tổ chức giáo dục đó theo đánh giá của sinh viên. Nhìn chung các cách thức, con đường giáo dục đạo đức nghề nghiệp và giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên đạt hiệu quả ở mức độ trung bình với điểm trung bình chung xoay quanh điểm 3 và số lượng sinh viên đánh giá mức độ hiệu quả chủ yếu ở mức trung bình và ít hiệu quả. Cách thức, con đường được sinh viên đánh giá đạt hiệu quả cao nhất đó là Thông qua dạy học các môn nghiệp vụ như luật báo chí, đạo đức nghề báo,… với điểm trung bình chỉ là 3,31 xếp thứ nhất. Cách thức Thông qua giáo dục truyền thống nghề báo xếp thứ 2 với điểm trung bình là 3,26 điểm. Đáng chú ý là cách thức Thông qua dạy các môn học chuyên ngành chỉ đứng ở vị chí thứ 8 với điểm trung bình khá khiêm tốn là 3,07 điểm. Cách thức này đều được sinh viên và lực lượng giáo dục đánh giá cao ở mức độ cần thiết và mức độ thực hiện nhưng mức độ hiệu quả lại chưa đạt như mong muốn. Những cách thức có tỷ lệ đánh giá ít hiệu quả và không hiệu quả cao như Thông qua công tác giáo dục tư tưởng chính trị đầu khóa xếp thứ 13 với điểm trung
- 17 bình chỉ đạt 2,88 điểm; Tổ chức ngày lễ truyền thống như ngày Báo chí cách mạng 21/6, ngày thành lập Đoàn 26/3, ngày thành lập Đảng 03/2,… xếp thứ 14 với điểm trung bình chỉ 2,86 điểm. Đặc biệt cách thức Thông qua các biện pháp truyền thông đa dạng xếp cuối cùng với điểm trung bình chỉ đạt 2,74 điểm. 2.3.4. Đánh giá thực trạng 2.3.4.1. Những ưu điểm và nguyên nhân Với một đội ngũ các nhà giáo, nhà báo dày dặn kinh nghiệm giảng dạy và làm báo, thì đây là một thuận lợi lớn trong công tác đào tạo nghề báo. Theo số liệu khảo sát, có tới 60% lực lượng giáo dục cho rằng thuận lợi trong giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên báo chí đó là: Các giảng viên báo chí tại Việt Nam không chỉ có kỹ năng sư phạm, kỹ năng làm báo mà bản thân họ có trình độ lý luận cao. Họ luôn tuân thủ mục tiêu báo chí là tiếng nói của Đảng, của nhân dân, nên ngoài việc hiểu quy ước báo chí quốc tế, họ hiểu và luôn làm theo quy ước của hội nhà báo Việt Nam. Về phía đội ngũ quản lý: Đây là một lực lượng có kinh nghiệm quản lý, am hiểu về mục tiêu đào tạo của nhà trường, luôn thực hiện đúng chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, Pháp luật và Nhà nước về quản lý giáo dục và đào tạo. Đặc biệt nhà trường luôn có ý thức trong việc phát động phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong cán bộ, sinh viên. Tuyên truyền các giá trị đạo đức đó tới quá trình giáo dục đối với sinh viên nói chung và sinh viên báo chí nói riêng. Sinh viên có trình độ đầu vào điểm cao hơn một số ngành khác, họ có sự yêu thích nghề nghiệp, năng động và có ý thức tự học để nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ. Ngoài học ở trường, bản thân sinh viên báo chí còn tham gia vào các hoạt động xã hội, làm thêm tại các tòa soạn báo, nhằm nâng cao nhận thức về các vấn đề xã hội, là cơ sở quan trọng để làm việc với nghề báo. Cơ sở vật chất của các trường đào tạo báo chí đáp ứng được nhu cầu ngày càng phát triển của các loại hình báo chí từ báo in tới báo truyền hình, mỗi khoa báo đều có các diễn đàn và trang báo dành cho chuyên ngành đào tạo. Phòng thu studio, các câu lạc bộ báo chí như: Câu lạc bộ kỹ năng điều tra, kỹ năng thu thập xử lý thông tin, … có sự tham gia của sinh viên, các thầy cô và nhiều nhà báo có kinh nghiệm của các tờ báo lớn. Các sinh viên thường xuyên được đi thực tế xuống cơ sở lấy tin viết bài, đi thực tế tại các tòa soạn. Mời các nhân chứng lịch sử là các nhà báo lão thành đến giảng bài và nói chuyện trong các sự kiện quan trọng của nghề báo chí. Các nhà trường đào tạo sinh viên báo chí cũng mở rộng sự hợp tác quốc tế với các trường đại học nước ngoài nhằm trang bị cho sinh viên hiểu hơn thong lệ báo chí thế giới và từ đó họ có sự trân trọng đối với những tư tưởng đạo đức, đặc biệt là những tư tưởng đạo đức trong nghề nghiệp báo chí của Hồ Chí Minh. 2.3.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân Cùng với nhiều thuận lợi trong công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp thì trong quá trình này cũng gặp không ít những khó khăn. Những khó khăn này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trước hết trong xu thế hội nhập hiện nay những tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh chưa thực sự được các trường áp dụng trong quá trình đào tạo sinh viên, đặc biệt với
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 307 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 289 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 183 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 269 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 182 | 9
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 149 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 199 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 136 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 17 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn