intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Khoa học giáo dục: Hình thành kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông

Chia sẻ: Phong Tỉ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

50
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án được nghiên cứu với mục tiêu nhằm nghiên cứu lí luận về hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ em DTTS và đánh giá thực trạng việc hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông trên địa bàn tỉnh Lào Cai, đề tài nghiên cứu đề xuất một số biện pháp hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông qua các hoạt động giáo dục tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non, giúp trẻ tự tin GT tiếng Việt và học tập có hiệu quả khi bước vào trường phổ thông.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án tiến sĩ Khoa học giáo dục: Hình thành kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI GIÀNG THỊ GẤM H×NH THµNH KÜ N¡NG GIAO TIÕP TIÕNG VIÖT CHO TRÎ 5 - 6 TUæI D¢N TéC H’M¤NG Chuyên ngành: Giáo dục mầm non Mã số: 9.14.01.01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC HÀ NỘI – 2019
  2. Công trình đƣợc hoàn thành tại Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. TS Đinh Văn Vang 2. PGS.TS Đinh Hồng Thái Phản biện 1: GS.TS Nguyễn Thiện Giáp Trường ĐHKHXHNV – ĐHQG Hà Nội Phản biện 2: PGS.TS Phan Thị Hồng Xuân Trường ĐHSP Hà Nội Phản biện 3: TS Nguyễn Thị Thu Nga Trường ĐH Thủ đô Hà Nội Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào hồi …..giờ … ngày … tháng… năm 2019 Có thể tìm hiểu luận án tại thƣ viện: Thƣ viện Quốc Gia, Hà Nội hoặc Thƣ viện Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chương trình giáo dục của Việt Nam là chương trình quốc gia, thống nhất trong toàn quốc, không phân biệt dân tộc, vùng miền. Và tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia, được sử dụng làm ngôn ngữ chính để triển khai chương trình giáo dục, là phương tiện cơ bản để giao tiếp (GT) xã hội và quan hệ quốc tế. Để học tập có kết quả ở trường phổ thông, khi vào lớp Một trẻ phải có vốn từ tiếng Việt phong phú, kĩ năng giao tiếp (KNGT) tiếng Việt vững vàng. Tiếng Việt ngoài chức năng là công cụ học tập và sinh hoạt ở trường phổ thông nó còn hỗ trợ đắc lực cho học sinh trong việc chiếm lĩnh những tri thức trong cuộc sống, thiết lập các mối quan hệ xã hội. Trong thực tế ở các vùng dân tộc thiểu số (DTTS) nước ta, mặc dù tiếng Việt được phổ biến rộng rãi nhưng KNGT tiếng Việt của trẻ em còn nhiều bất cập. Nguyên nhân của sự bất cập này có thể là do trẻ không được thường xuyên GT tiếng Việt và người lớn chưa thực sự quan tâm dạy KNGT tiếng Việt cho trẻ. Trong các hoạt động giáo dục ở trường mầm non, GVMN chưa có những biện pháp phù hợp để hình thành, phát triển KNGT tiếng Việt cho trẻ. Trẻ mầm non, đặc biệt là trẻ 5 - 6 tuổi DTTS cần phải được dạy tiếng Việt và rèn luyện KNGT tiếng Việt. Về KNGT tiếng Việt, các hoạt động ở trường mầm non đều có vai trò nhất định trong việc hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ. Song các hoạt động học có chủ đích, hoạt động chơi, hoạt ngoài trời... là những hoạt động cơ bản tạo nhiều cơ hội cho trẻ được trải nghiệm GT tiếng Việt một cách thường xuyên, liên tục, điều đó rất cần thiết cho việc hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ. Dạy trẻ tiếng Việt và hình thành KNGT tiếng Việt còn giúp trẻ tiếp nhận, khám phá và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Dạy trẻ dân tộc H’mông nói tiếng Việt, GT tiếng Việt chính là dạy trẻ biết yêu quê hương, Tổ quốc, bởi đó là tiếng nói của dân tộc Việt Nam. Từ những lí do trên, chúng tôi chọn thực hiện đề tài: Hình thành kĩ năng GT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông. Hi vọng rằng kết quả nghiên cứu này sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở lí luận và thực tiễn về việc dạy tiếng Việt và KNGT tiếng Việt cho trẻ mầm non DTTS nói chung, dân tộc H’mông nói riêng. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lí luận về hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ em DTTS và đánh giá thực trạng việc hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông trên địa bàn tỉnh Lào Cai, đề tài nghiên cứu đề xuất một số biện pháp hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông qua các hoạt động giáo dục tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non, giúp trẻ tự tin GT tiếng Việt và học tập có hiệu quả khi bước vào trường phổ thông. 3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu Hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông qua các hoạt động giáo dục tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Biện pháp hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông qua các hoạt động giáo dục tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non.
  4. 4. Giả thuyết khoa học Hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình dạy tiếng Việt cho trẻ em ở những trường mầm non có trẻ dân tộc H’mông. Sự hình thành KNGT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông phụ thuộc biện pháp tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ em của GVMN. Nếu GVMN có những biện pháp hấp dẫn, phù hợp với đặc điểm phát triển của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông, tạo cơ hội cho trẻ mạnh dạn, tự tin và thường xuyên GT tiếng Việt khi tổ chức các hoạt động giáo dục tích hợp theo chủ đề cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông ở trường MN thì KNGT tiếng Việt của trẻ sẽ được hình thành và phát triển. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về việc hình KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông. 5.2. Khảo sát thực trạng về việc hình thành KNGT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông ở trường mầm non. 5.3. Đề xuất một số biện pháp hình thành KNGT tiếng Việt tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông qua các hoạt động giáo dục tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non. 5.4. Thực nghiệm sư phạm nhằm xác định hiệu quả và tính khả thi của các biện pháp đã đề xuất. 6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 6.1. Giới hạn nội dung nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu một số biện pháp hình thành KNGT tiếng Việt tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông qua các hoạt động giáo dục tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non. 6.2. Giới hạn về khách thể và địa bàn nghiên cứu - Khảo sát thực trạng: Khảo sát 285 GVMN và 337 trẻ 5 - 6 tuổi ở các trường mầm non vùng cao của 5 huyện: Sa Pa, Bát Xát, Mường Khương, Si Ma Cai và Bắc Hà tỉnh Lào Cai. - Thực nghiệm tiến hành trên 8 GVMN và 102 trẻ 5 - 6 tuổi ở hai trường mầm non của huyện Si Ma Cai và huyện Bắc Hà tỉnh Lào Cai. 7. Phƣơng pháp nghiên cứu 7.1. Quan điểm tiếp cận trong nghiên cứu: Tiếp cận hoạt động; tiếp cận tích hợp; tiếp cận cá nhân; tiếp cận văn hóa 7.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận; nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn; nhóm phương pháp xử lí số liệu. 8. Đóng góp mới của đề tài 8.1. Về lí luận - Hệ thống hóa cơ sở lí luận về vấn đề KN, KNGT và hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông, góp phần làm phong phú cơ sở lí luận về giáo dục trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông . - Xây dựng được những tiêu chí và thang đánh giá KNGT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông. - Xây dựng được một số biện pháp hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông qua các HĐGD tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non.
  5. 8.2. Về thực tiễn - Đánh giá thực trạng các biện pháp GV sử dụng để hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ trong các HĐGD tích hợp theo chủ đề ở mầm non vùng cao và mức KNGT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông. Trên cơ sở đó đề xuất những biện pháp hình thành KNGT tiếng Việt phù hợp với thực tiễn GDMN vùng cao. - Khẳng định hiệu quả và tính khả thi khi áp dụng các biện pháp đã đề xuất qua thực nghiệm sư phạm nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của các hoạt động này trong việc hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông. 9. Luận điểm bảo vệ 9.1. Tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông - phương tiện chính để học sinh học tập và rèn luyện ở trường phổ thông. Để học tập và rèn luyện có hiệu quả ở trường phổ thông, trẻ em, nhất là trẻ em DTTS phải được trang bị vốn từ tiếng Việt và KNGT tiếng Việt cần thiết. 9.2. KNGT tiếng Việt của trẻ mầm non DTTS nói chung, trẻ 5-6 tuổi dân tộc H’mông nói riêng phụ thuộc khá lớn vào biện pháp hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ trong quá trình chăm sóc - giáo dục của GVMN. Nếu chỉ ra được những hạn chế của các biện pháp GVMN sử dụng trong quá trình chăm sóc - giáo dục nhằm hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông để khắc phục thì sẽ nâng cao được KNGT cho trẻ. 9.3. Các biện pháp tổ chức cho trẻ em DTTS GT tiếng Việt trong quá trình chăm sóc - giáo dục của GVMN chỉ có hiệu quả khi chúng thực sự hấp dẫn, phù hợp với đặc điểm tâm lí của trẻ em dân tộc và phù hợp với văn hóa dân tộc của các em. 10. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận án gồm ba chương: Chương 1: Cơ sở lí luận của hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông Chương 2: Thực trạng hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông trong các HĐGD tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non Chương 3: Biện pháp hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông qua các HĐGD tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA HÌNH THÀNH KĨ NĂNG GIAO TIẾP TIẾNG VIỆT CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI DÂN TỘC H’MÔNG 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 1.1.1. Những nghiên cứu về kĩ năng giao tiếp GT, KNGT được khá nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Có thể khái quát thánh 2 hướng nghiên cứu chính sau: - Hướng thứ nhất: Xem xét KNGT như là năng lực thiết lập các mối quan hệ của con người trong quá trình giao tiếp: V.P. Dakharov; Wang Gang và Dale Carnegie, Nguyễn Văn Lê, Trần Tuấn Lộ, Nguyễn Sinh Huy, Trần Trọng Thuỷ [55], Trần Đình Tuấn,... Những người theo hướng này cho rằng KNGT là khả năng thiết lập mối quan hệ của chủ thế với đối tượng trong quá trình GT để đạt được mục đích GT của mình.
  6. - Hướng thứ hai: Xem xét KNGT như là năng lực điều khiển quá trình GT của con người. Theo hướng này có thể kể đến: A. A. Lêônchiev, Pơlotnhibôva, Cudơmina, V.P. Dakharov, A. Cubanova, M. Rakhmatulina … Những người theo hướng này cho rằng KNGT là khả năng chủ thể GT điều khiển nhận thức, thái độ, hành vi của người khác để đạt được mục đích của mình trong quá trình GT. 1.1.2. Những nghiên cứu về giao tiếp và kĩ năng giao tiếp của trẻ mầm non GT là con đường quan trọng để phát triển nhân cách nói chung và ngôn ngữ cho trẻ em. Do vậy nó được nhiều nhà tâm lí học trên thế giới quan tâm nghiên cứu: Iudenphin Dilokhne, Maria Keliar, Perreklicman, A.N. Perreklicman,Spitz, Klaus và Kenell, V.X. Mukhina, Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Thị Ánh Tuyết, Lê Xuân Hồng, Ngô Công Hoàn, Nguyễn Thạc, Nguyễn Xuân Thức, Hoàng Thị Phương ... 1.1.3. Những nghiên cứu về giao tiếp và giao tiếp tiếng Việt của trẻ em dân tộc thiểu số Đối với trẻ 5 - 6 tuổi DTTS nói chung và dân tộc H’mông nói riêng, việc dạy trẻ GT tiếng Việt là rất cần thiết, cũng đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này song không nhiều, điển hình là: Triệu Thị Liên, Kim Tuyến , Nguyễn Thị Oanh, Trần Thị Xuyến ... Các tác giả này chủ yếu nghiên cứu về giải pháp dạy tiếng Việt cho trẻ dân tộc vùng cao và cách dạy tiếng Viêt như ngôn ngữ thứ 2. 1.2. Một số vấn đề về giao tiếp và kĩ năng giao tiếp tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông 1.2.1. Những vấn đề chung về giao tiếp và kĩ năng giao tiếp 1.2.1.1. Giao tiếp * Khái niệm GT GT là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người với con người, thể hiện sự tiếp xúc tâm lí giữa người với người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau bằng ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau. * Chức năng của GT: GT có những chức năng cơ bản sau: Chức năng thông tin liên lạc; Chức năng điều chỉnh, điều khiển hành vi; Chức năng cảm xúc; Chức năng hoạt động phối hợp cùng nhau của con người; Chức năng động viên, kích thích * Các loại GT: Có nhiều các phân loại GT: Dựa vào phương tiện GT, có các loại GT sau: GT bằng ngôn ngữ , GT phi ngôn ngữ, GT vật chất; Dựa vào khoảng cách GT, có các loại GT sau: GT trực tiếp, GT gián tiếp; Dựa vào quy cách GT, có các loại GT sau: GT chính thức, GT không chính thức. * Phương tiện GT: GT bằng ngôn ngữ, GT phi ngôn ngữ: 1.2.1.2. Kĩ năng giao tiếp * Khái niệm KN và KNGT KN là mặt biểu hiện của năng lực thể hiện ở khả năng con người thực hiện một cách có hiệu quả một hành động, công việc nào đó trên cơ sở nắm vững phương thức thực hiện và vận dụng những tri thức, kinh nghiệm đã có phù hợp với những điều kiện, hoàn cảnh nhất định. KN được hình thành trong hoạt động, được phát triển và hoàn thiện trong quá trình luyện tập của con người. KNGT là mặt biểu hiện của năng lực GT được thể hiện ở khả năng chủ thể GT sử
  7. dụng hợp lí ngôn ngữ và các phương tiện phi ngôn ngữ phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh nhất định nhằm điều khiển, điều chỉnh đối tượng GT theo mục đích GT đã đặt ra. KNGT được hình thành trong các mối quan hệ giữa con người với con người, được phát triển và hoàn thiện trong quá trình luyện tập của con người. * Cấu trúc của KNGT Cấu trúc của KNGT bao gồm các thành phần cơ bản: tri thức, vốn kinh nghiệm về đối tượng GT, về phương thức, phương pháp GT; những thao tác, hành động, những xúc cảm tình cảm chi phối các hành vi GT của chủ thể phù hợp với điều kiện GT. Trong cấu trúc vĩ mô của hoạt động (theo A.N. Leonchiev), KNGT không phải là một thành tố độc lập, tồn tại bên cạnh các thành tố khác (mục đích, động cơ, hành động, thao tác) mà KNGT là một mức độ của hành động GT. * Phân loại KNGT - Dựa vào trật tự các bước tiến hành của một pha GT, V.P.Dakharov cho rằng, để có năng lực GT, cần có các KN sau: KN thiết lập mối quan hệ trong GT, KN cân bằng nhu cầu của chủ thể và đối tượng GT, KN nghe và biết lắng nghe, KN tự chủ cảm xúc và hành vi... - Nếu dựa vào diễn biến của quá trình GT thì KNGT gồm ba nhóm KN cơ bản: KN định hướng trong GT, KN định vị trong GT, Nhóm KN điều khiển, điều chỉnh - A.T.Kurbawa và Ph.M.Rakhmatinlira dựa vào tính chất biểu đạt của từ ngữ trong quá trình GT, cho rằng một quá trình GT gồm ba nhóm KN: KN sử dụng ngôn ngữ, KN diễn đạt nghĩa trong câu, KN diễn đạt các đặc điểm văn phạm trong câu. 1.2.1.3. Cơ chế tâm lí của quá trình hình thành kĩ năng giao tiếp Tâm lí học macxit đã khẳng định: tâm lí người có bản chất là hoạt động. Nói cách khác tâm lí, ý thức (trong đó có KN, KNGT) được nảy sinh, hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động và giao lưu. Nói về vấn đề hình thành KN có nhiều quan điểm khác nhau, song đều có điểm chung đó là “KN được hình thành trong hoạt động”. 1.2.2. Một số vấn đề về ngôn ngữ, văn hóa và giao tiếp của dân tộc H’mông 1.2.2.1. Đặc điểm ngôn ngữ dân tộc H’mông Ngôn ngữ H’mông thuộc nhóm ngôn ngữ Mèo - Dao. Ngôn ngữ của người H’mông hàm chứa một lượng tri thức văn hóa vô cùng phong phú, đa dạng. Với tiếng nói và chữ viết của mình hàm chứa văn hóa tinh thần độc đáo của dân tộc, ngôn ngữ H’mông có nguyên âm, phụ âm và các âm tiết phong phú vào bậc nhất Việt Nam hiện nay, bao gồm 59 phụ âm, 11 nguyên âm và 24 vần, 8 thanh điệu. 1.2.2.2. Đặc điểm văn hóa dân tộc H’mông Dân tộc H’mông là một trong các DTTS tương đối đông ở miền Bắc nước ta (1.068.189 theo điều tra dân số năm 2009), xếp thứ 8 trong các dân tộc ở Việt Nam theo tỉ lệ dân số. Họ sống ở vùng cao các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Hòa Bình, Thanh Hóa… Văn hóa tinh thần truyền thống của người H’mông ở Lào Cai có nhiều thành tố khác nhau như: tín ngưỡng, tôn giáo, văn học dân gian, nghệ thuật biểu diễn, ngôn ngữ, chữ viết… Trong khuôn khổ luận án này chúng tôi quan tâm nhiều đến ngôn ngữ, chữ viết và văn học dân gian. 1.2.2.3. Đặc điểm GT của người H’mông
  8. - Thái độ GT: vừa thích GT vừa rụt rè, thiếu tự tin. - Quan hệ GT: lấy tình cảm làm nguyên tắc ứng xử. - Cách thức GT: thẳng thắn, chân thành và trọng sự hoà thuận. 1.2.3. Tiếng Việt và giao tiếp tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông 1.2.3.1. Tiếng Việt - Ngôn ngữ thứ hai của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông Ngôn ngữ thứ hai (NN2) là ngôn ngữ đến sau TMĐ. Theo cách hiểu này thì ngoại ngữ là NN2. Ngôn ngữ thứ hai thường được nắm vững sau NN1 và chủ yếu để làm phương tiện giao lưu, học hỏi, lĩnh hội tri thức trong chương trình học tập, tiếp nhận nền văn hóa của dân tộc khác. 1.2.3.2. Đặc điểm giao tiếp tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông Đặc điểm GT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông thể hiện ở 3 yếu tố: nhu cầu GT, nội dung GT, đối tượng và phạm vi GT 1.3. Hình thành kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông 1.3.1. Khái niệm hình thành kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông Hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông là quá trình làm nảy sinh ở trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông khả năng sử dụng hợp lí tiếng Việt và các phương tiện phi ngôn ngữ phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh GT nhằm điều khiển, điều chỉnh đối tượng GT theo mục đích GT đã đặt ra. 1.3.2. Ý nghĩa của việc học tiếng Việt và hình thành KNGT tiếng Việt đối với trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông Như đã trình bày, tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia, được sử dụng làm ngôn ngữ chính để triển khai chương trình giáo dục phổ thông, là phương tiện cơ bản để GT xã hội và quan hệ quốc tế. Do vậy, ngay từ lứa tuổi mầm non, trẻ em, đặc biệt là trẻ em DTTS cần phải biết về tiếng Việt và có KNGT tiếng Việt. 1.3.3. Các kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cần hình thành cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông Dựa trên khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam của Bộ Giáo dục và Đào tạo [15] và bộ tiêu chuẩn đánh giá năng lực tiếng Việt của người học tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ thứ hai do Nguyễn Chí Hòa và Vũ Đức Nghiệu xây dựng [41], chúng tôi cho rằng, để hoạt động GT lời nói tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông đạt hiệu quả, cần phải hình thành cho trẻ những KN thành phần về nghe và nói cơ bản sau đây: KN nghe hiểu lời nói tiếng Việt; KN độc thoại bằng tiếng Việt; KN đàm thoại bằng tiếng Việt; KN biểu cảm bằng tiếng Việt và các phương tiện phi ngôn ngữ. 1.3.4. Các phương thức hình thành kĩ năng giao tiếp tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông: KNGT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông được hình thành qua hoạt động chơi; hoạt động học; hoạt động sinh hoạt thường ngày ở trương mầm non; hoạt động ngoài trời, qua HĐGD tích hợp theo chủ đề ở trường MN,... Trong luận án này tập trung vào phương thức hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 – 6 tuổi qua HĐGD tích hợp theo chủ đề ở trường MN. * Hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông qua các hoạt động giáo dục tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non
  9. Giáo dục tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non là một phương thức giáo dục mà ở đó mỗi cá nhân hoặc một nhóm trẻ cùng nhau học tập, cùng nhau tìm hiểu, khám, nghiên cứu về một chủ đề nào đó gần gũi với cuộc sống mà trẻ quan tâm và có hứng thú tìm hiểu, khám phá. Từ một chủ đề đã lựa chọn, trẻ cùng nhau bàn bạc, trao đối và tiến hành tìm tòi, khám phá, phát hiện, thu thập thông tin cần thiết về chủ đề đó. Qua đó trẻ có một số biểu tượng, KN và thái độ ứng xử phù hợp với môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh trẻ. Tổ chức HĐGD tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non là phương thức đan cài, lồng ghép các HĐGD theo chủ đề một cách tự nhiên, hài hòa phù hợp với nhu cầu, hứng thú và nguyện vọng của trẻ trên cơ sở lấy hoạt động chủ đạo làm “hoạt động công cụ” để tích hợp các hoạt động khác nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ GDMN. Biện pháp hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông qua các HĐGD tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non là cách thức tác động cụ thể đến hoạt động GT tiếng Việt của trẻ khi tổ chức các GĐGD tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non nhằm hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông. 1.3.5. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành KNGT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông: Đặc điểm tâm lí trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông; môi trường GT tiếng Việt: môi trường gia đình, môi trường nhà trường, môi trường xã hội; năng lực của GVMN. Chương 2 THỰC TRẠNG HÌNH THÀNH KĨ NĂNG GIAO TIẾP TIẾNG VIỆT CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI DÂN TỘC H’MÔNG TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC TÍCH HỢP THEO CHỦ ĐỀ Ở TRƢỜNG MẦM NON 2.1. Khái quát về khảo sát thực trạng 2.1.1. Mục đích khảo sát - Xác định thực trạng nhận thức, thái độ, biện pháp của GV và phụ huynh trong việc hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông trong các HĐGD tích hợp theo chủ đề ở một số trường mầm non tại 5 huyện vùng cao Si Ma Cai, Bắc Hà, Sa Pa, Mường Khương, Bát Xát tỉnh Lào Cai. - Xác định thực trạng mức KNGT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông ở một số trường mầm non của 5 huyện vùng cao nói trên. Dựa trên cơ sở nghiên cứu lí luận, đánh giá thực trạng và phân tích nguyên nhân của thực trạng, đề xuất một số biện pháp tổ chức các HĐGD tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non nhằm hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông. 2.1.2. Đối tượng khảo sát - 285 GV dạy các lớp 5 - 6 tuổi, 337 trẻ 5-6 tuổi và 120 phụ huynh của 30 trường mầm non thuộc 5 huyện vùng cao Si Ma Cai, Bắc Hà, Sa Pa, Mường Khương, Bát Xát tỉnh Lào Cai. - Các HĐGD tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non 2.1.3. Thời gian khảo sát Từ tháng 02/2015 đến tháng 05/2015
  10. 2.1.4. Nội dung khảo sát - Nhận thức của GV về tầm quan trọng của GT tiếng Việt và việc hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông. - Thực trạng biện pháp hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông qua các HĐGD tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non nhằm của GVMN vùng cao tỉnh Lào Cai. - Thực trạng về nhận thức và việc làm của phụ huynh trong việc hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông. - Thực trạng KNGT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông và những nguyên nhân của thực trạng. 2.1.5. Phương pháp và công cụ khảo sát 2.1.5.1. Phương pháp khảo sát: Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi (anket); Phương pháp quan sát; Phương pháp thực nghiệm (thực nghiệm phát hiện); Phương pháp trò chuyện; Phương pháp xử lí số liệu 2.1.5.2. Công cụ khảo sát: Phiếu điều tra bằng bảng hỏi (anket); Phiếu quan sát kĩ năng GT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông; Bài tập đo kĩ năng GT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông; Tiêu chí và thang đánh giá kĩ năng GT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông; Tiêu chí đánh giá theo 4 mức độ (Mức 1, mức 2, mức 3, mức 4) ở mỗi chỉ số. - Mức 1 (KN thành thục): Từ 30 đến 36 điểm - Mức 2 (KN đã có nhưng chưa thành thục): Từ 23 đến 29 điểm - Mức 3 (Có biểu hiện của KN): Từ 16 đến 22 điểm - Mức 4 (Chưa có KN): Dưới 16 điểm. 2.1.6. Cách tiến hành khảo sát 2.1.6.1. Khảo sát giáo viên và phụ huynh Sau khí xây dựng xong mẫu phiếu điều tra anket, chúng tôi tiến hành khảo sát 285 GVMN và 120 phụ huynh ở 30 trường mầm non của 5 huyện; xử lí số liệu bằng phần mềm SPSS, trên cơ sở đó đưa ra các kết luận khoa học. 2.1.6.2. Khảo sát kĩ năng giao tiếp tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông Chúng tôi tiến hành khảo sát KNGT tiếng Việt của 337 trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông bằng 2 công cụ cơ bản: phiếu quan sát và bài tập thực nghiệm phát hiện. Phiếu quan sát được xây dựng theo 9 tiêu chí về 4 KN nghe và nói trong GT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông. Mỗi tiêu chí có 4 mức độ biểu hiện (như đã trình bày ở mục 2.5.2.2) trong các HĐGD cụ thể. Bài tập thực nghiệm phát hiện được xây dựng để đo 4 nội dung tương ứng với 4 KN thành phần trong GT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông. Mỗi nội dung có những yêu cầu trẻ phải giải quyết về một số lô tô theo chủ đề. Qua mức độ giải quyết những yêu cầu của từng nội dung nhà nghiên cứu xác định mức KN của trẻ. 2.2. Kết quả khảo sát 2.2.1. Nhận thức của giáo viên mầm non về sự cần thiết phải hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông
  11. Bảng 2.1. Nhận thức của GVMN Lào Cai về sự cần thiết phải hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông Mức độ cần thiết Không cần Thứ GV các dân tộc Rất cần thiết Cần thiết ∑ X thiết bậc SL % SL % SL % H’mông (n = 89) 71 79,8 18 20,2 0 0 249 2,80 2 Tày (n = 45) 35 77,8 10 22,2 0 0 125 2,78 3 Dao (n = 37) 26 70,3 11 29,7 0 0 100 2,70 4 Nùng (n = 28) 18 64,3 10 35,7 0 0 74 2,64 5 Kinh (n = 86) 71 82,6 15 17,4 0 0 243 2,83 1 Chung (n = 285) 221 77,5 64 22,5 0 0 (Ghi chú: Rất cần thiết: 3 điểm; Cần thiết: 2 điểm; Không cần thiết: 1 điểm) Số liệu cho thấy, phần lớn GVMN trong địa bàn nghiên cứu (77,5%) cho rằng hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ em DTTS nói chung, trẻ em 5 - 6 tuối dân tộc H’mông nói riêng là việc làm rất cần thiết. Không có GVMN nào cho rằng việc dạy tiếng Việt và hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ em DTTS ngay từ lứa tuổi mầm non là không cần thiết… có những nhận thức khá đúng về sự cần thiết phải dạy tiếng Việt và hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ em DTTS ngay từ bậc học mầm non. Điểm trung bình cộng (TBC) về sự cần thiết phải hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ em DTTS của GVMN mọi DTTS đều khá cao (Dao động từ 2,64đ - 2,83đ). Nhận thức về sự cần thiết phải dạy tiếng Việt và hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ em DTTS ngay từ bậc học mầm non được tăng dần cùng với thâm niên công tác và theo trình độ chuyên môn. Giáo viên càng có thâm niên công tác và có trình độ chuyên môn cao thì càng thấy mức độ cần thiết phải dạy giao tiếp tiếng Việt cho trẻ. 2.2.2. Thực trạng sử dụng các hoạt động giáo dục nhằm hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông của giáo viên mầm non tỉnh Lào Cai Bảng 2.4. Mức độ sử dụng các HĐGD nhằm hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông của GVMN Lào Cai Mức độ sử dụng Thường Thỉnh Không Thứ TT Hoạt động ∑ X xuyên thoảng bao giờ bậc SL % SL % SL % 1 Hoạt động chơi 185 64,91 59 20,70 41 14,39 714 2,51 2 2 Hoạt động học có chủ đích 222 77,89 56 19,65 7 2,46 785 2,75 1 3 Đón trẻ, trả trẻ 125 43,86 95 33,33 65 22,81 630 2,21 5 4 Tổ chức cho trẻ ăn, ngủ 177 62,11 68 23,86 40 14,04 707 2,48 3 5 Vệ sinh cá nhân 90 31,58 125 43,86 70 14,56 590 2,07 6 6 Hoạt động tự chọn 170 59,65 74 25,96 41 14,39 699 2,45 4 7 Dạo chơi, tham quan 96 33,68 84 29,47 105 36,84 561 1,97 7 8 Hoạt động lao động đơn giản 75 26,32 116 40,70 94 32,98 551 1,93 8 (Ghi chú: Thường xuyên: 3 điểm; Thỉnh thoảng: 2 điểm; Không bao giờ: 1 điểm)
  12. Nhiều HĐGD thỉnh thoảng GV mới sử dụng để hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ, như: hoạt động vệ sinh cá nhân (43,86%); lao động trực nhật (40,70%);… thậm chí có những HĐGD nhiều GV không bao giờ sử dụng làm phương tiện để hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ, như: tổ chức cho trẻ dạo chơi, tham quan (36,84%); hoạt động lao động trực nhật (32,98%). GV cho rằng hoạt động học có chủ đích là hoạt động giúp trẻ hình thành KNGT tiếng Việt tốt nhất, nên họ thường chú trọng đến hoạt động này. 2.2.3. Thực trạng biện pháp hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông qua các hoạt động giáo dục của giáo viên mầm non tỉnh Lào Cai Bảng 2.7. Thực trạng biện pháp hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông qua các hoạt động HĐGD ở trường mầm non Mức độ sử dụng Thường Thỉnh Không bao Thứ TT Biện pháp ∑ X xuyên thoảng giờ bậc SL % SL % SL % Tạo môi trường GT tiếng Việt 1 192 67.37 65 22.81 28 9.82 734 2.58 2 trong mọi hoạt động. Tạo các tình huống GT tiếng Việt 2 129 45.26 91 31.93 65 22,81 634 2.22 5 có vấn đề trong mọi hoạt động. Xây dựng vòng tay bè bạn, 3 khuyến khích, động viên trẻ GT 75 26.32 124 43.51 86 30,18 559 1.96 8 tiếng Việt. Tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm, 4 108 37.89 65 22.81 112 39,30 566 1.99 7 khám phá cuộc sống xung quanh. Sử dụng các tác phẩm văn học 5 185 64.91 75 26.32 25 8.77 730 2.56 3 (thơ, câu đố, ca dao…) 6 Sử dụng trò chơi 101 38.11 69 26.04 95 35,85 536 2.02 6 Động viên, khuyến khích kịp 7 210 73.68 65 22.81 10 3.51 770 2.70 1 thời. Phối hợp với gia đình trong việc 8 hình thành KNGT tiếng Việt cho 115 40.35 121 42.46 49 17,19 636 2.23 4 trẻ. Định hướng và tạo cơ hội cho trẻ 9 60 21.05 100 35.09 125 43,86 505 1.77 9 sử dụng ngôn ngữ hình thể. (Ghi chú: Thường xuyên: 3 điểm; Thỉnh thoảng: 2 điểm; Không bao giờ: 1 điểm) Qua bảng này ta thấy, mặc dù GV mầm non tỉnh Lào Cai đã sử dụng khá nhiều biện pháp hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông khi tổ chức các HĐGD ở trường mầm non nhưng ở tần suất sử dụng rất khác nhau. Trong đó, những biện pháp được nhiều GV sử dụng thường xuyên nhất là Động viên, khuyến khích kịp thời (73,68% thường xuyên sử dụng), thứ hai là Tạo môi trường GT tiếng Việt trong mọi hoạt động (67,37%); thứ ba là Sử dụng các tác phẩm văn học (64,91%);… Quan sát một số hoạt động của trẻ, chúng tôi thấy, các biện pháp GV sử dụng nhằm hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ không hợp lí nên chưa kích thích được sự mạnh dạn, tự tin của trẻ trong việc sử dụng tiếng Việt để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra. Chẳng hạn, khi tổ chức các hoạt động GDTH theo chủ đề cho trẻ, một số cô thỉnh thoảng có tạo cơ hội cho trẻ sử dụng tiếng Việt để trả lời câu hỏi của cô, để mô tả về đối tượng mà trẻ biết, trẻ quan sát thấy, để trao đổi với bạn bè,… nhưng không chú ý
  13. sửa lỗi phát âm, lỗi tạo lập câu khi trả lời cô, khi mô tả đối tượng, khi trao đổi với bạn bè,… Điều này làm hạn chế khả năng tiếng Việt và KNGT tiếng Việt của trẻ. GVMN có nhiều năm kinh nghiệm công tác (từ 6 năm trở lên) và có trình độ nghiệp vụ SPMN cao (từ CĐSPMN trở lên) quan tâm đến việc tạo môi trường GT tiếng Việt cho trẻ trong mọi hoạt động hơn GVMN trẻ (từ 1 - 5 năm) và có trình độ nghiệp vụ sư phạm thấp (TCSPMN) trong quá trình hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông. 2.2.4. Thực trạng ảnh hưởng của gia đình đến việc hình thành KNGT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông Qua khảo sát 120 phụ huynh và trò chuyện trực tiếp với một số phụ huynh về vấn đề hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông, chúng tôi thu được kết quả như sau: Bảng 2.10. Nhận thức của phụ huynh về sự cần thiết phải hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ H’mông Mức độ cần thiết Địa bàn cƣ trú Rất cần thiết Cần thiết Không cần thiết SL % SL % SL % Bắc Hà (n = 28) 25 89.3 3 10.7 0 0.0 Si Ma Cai (n = 27) 22 81.5 5 18.5 0 0.0 Sa Pa (n = 25) 21 84.0 4 16.0 0 0.0 Mường Khương (n = 21) 19 90.5 2 9.5 0 0.0 Bát Xát (n = 19) 16 84.2 3 15.8 0 0.0 Chung (n = 120) 103 85.9 17 14.1 0 0.0 Phần lớn phụ huynh của tất cả các huyện vùng cao của tỉnh Lào Cai được khảo sát đều cho rằng việc hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ là rất cần thiết (85,9%), nhất là các bậc phụ huynh huyện Mường Khương (90,5%) và huyện Bắc Hà (89,3%). Như vậy chúng ta thấy, phụ huynh người DTTS đã nhận thức được sự cần thiết của việc hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông, họ mong muốn được cho con đến trường để học tiếng Việt, học cái chữ. Bảng 2.11. Mức độ sử dụng tiếng Việt để GT với nhau trong gia đình Mức độ sử dụng Địa bàn cƣ trú Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ SL % SL % SL % Bắc Hà (n = 28) 6 21,5 18 64,2 4 12,3 Si Ma Cai (n = 27) 7 25,9 16 59,3 4 14,8 Sa Pa (n = 25) 8 32,0 15 60,0 2 8,0 Mường Khương (n = 21) 5 23,8 13 61,9 3 14,3 Bát Xát (n = 19) 3 15,8 14 73,6 2 10,5 Chung (n = 120) 29 24,2 76 63,3 15 12,5 Nhìn vào bảng thống kê cho thấy, tần suất sử dụng tiếng Việt để GT với nhau trong gia đình là rất thấp, chỉ có 24,2% các gia đình được hỏi thường xuyên sử dụng tiếng Việt để GT với nhau khi ở nhà. Thậm chí có một số gia đình (12,5%) không bao giờ sử dụng tiếng Việt để GT với nhau. Thông qua đó chúng ta thấy, mặc dù 100% các bậc phụ huynh xác định được sự cần thiết phải hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ, song họ vẫn chưa dành nhiều thời gian, tạo cơ hội để trẻ GT tiếng Việt.
  14. 2.2.5. Thực trạng KNGT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông Bảng 2.12. Thực trạng KNGT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông (theo địa bàn cư trú) Mức kĩ năng Địa bàn cƣ trú Mức 1 Mức 2 Mức 3 Mức 4 SL % SL % SL % SL % Bắc Hà 10 10,8 15 16,1 31 33,3 37 39,8 Si Ma Cai 10 9,5 17 16,2 35 33,3 43 41,0 Sa Pa 6 12,8 9 19,1 12 25,5 20 42,6 Mường Khương 5 10,0 6 12,0 18 36,0 21 42,0 Bát Xát 6 14,3 11 26,2 13 31,0 12 28,6 Chung 37 11,0 58 17,2 109 32,3 133 39,5 Qua bảng này ta thấy, KNGT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông ở các huyện vùng cao tỉnh Lào Cai còn rất hạn chế. Có tới 39,5% trẻ chưa có KNGT tiếng Việt (Mức 4); 32,3% trẻ chỉ có dấu hiệu của KNGT tiếng Việt (Mức 3). Số trẻ có KNGT tiếng Việt không nhiều: 28,2% (Trong đó 11,0% ở mức 1 - Mức thành thục; 17,2% mức 2 - Mức chưa thành thục). * Xét theo từng kĩ năng Bảng 2.14. Thực trạng KNGT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông (theo từng kĩ năng) Mức kĩ năng Thứ Các kĩ năng Mức 1 Mức 2 Mức 3 Mức 4 X bậc SL % SL % SL % SL % KN nghe hiểu lời nói tiếng Việt 28 8,3 62 18,4 99 29,4 148 43,9 1,91 2 KN độc thoại bằng tiếng Việt 38 11,3 49 14,5 115 34,1 135 40,1 1,97 1 KN đàm thoại bằng tiếng Việt 30 8,9 47 13,9 105 31,2 155 46,0 1,86 3 KN biểu cảm bằng tiếng Việt và các 39 11,6 65 19,3 105 31,2 128 38,0 1,75 4 phương tiện phi ngôn ngữ Qua bảng này ta thấy, điểm trung bình của các KN trong KNGT tiếng Việt của trẻ xoay quanh mức 3 - Có biểu hiện KN. Trong đó KN độc thoại tiếng Việt là khá hơn cả ( X = 1,97), tiếp đến là KN nghe hiểu lợi nói tiếng Việt ( X = 1,91). Thấp hơn là KN biểu cảm bằng tiếng Việt và các phương tiện phi ngôn ngữ ( X = 1,75). Chương 3 BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH KĨ NĂNG GIAO TIẾP TIẾNG VIỆT CHO TRẺ 5 - 6 TUỔi DÂN TỘC H’MÔNG QUA CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC TÍCH HỢP THEO CHỦ ĐỀ Ở TRƢỜNG MẦM NON 3.1. Một số nguyên tắc xây dựng biện pháp hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông qua các hoạt động giáo dục tích hợp theo chủ đề ở trƣờng mầm non
  15. - Nguyên tắc đảm bảo thực hiện được mục tiêu, chương trình chăm sóc - giáo dục trẻ 5 - 6 tuổi; - Nguyên tắc đảm bảo tính phù hợp; - Nguyên tắc đảm bảo hình thành ở trẻ sự mạnh dạn, tự tin trong quá trình GT tiếng Việt; - Đảm bảo tính phát triển; - Đảm bảo tạo ra nhiều cơ hội thực hành GT tiếng Việt của trẻ. 3.2. Xây dựng một số biện pháp hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông qua các HĐGD tích hợp theo chủ đề ở trƣờng mầm non Biện pháp 1: Tạo cơ hội cho trẻ sử dụng thường xuyên tiếng Việt để GT với cô và với bạn khi tổ chức các HĐGD tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non a. Mục đích, ý nghĩa Khi tổ chức các HĐGD tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non, nếu GV tạo cơ hội cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông được sử dụng tiếng Việt để GT với cô và các bạn một cách thường xuyên thì KNGT tiếng Việt của trẻ sẽ được hình thành, phát triển. b. Nội dung và cách tiến hành - Trong giờ đón, trả trẻ: Cô yêu cầu trẻ sử dụng tiếng Việt để chào cô, tạm biệt mẹ, cất/lấy giầy dép và đồ dùng cá nhân ở nơi quy định,…. - Trong hoạt động học: Cô cùng trẻ sử dụng tiếng Việt để tương tác với nhau trong quá trình tổ chức hoạt động học theo chủ đề nhằm thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ của hoạt động: - Trong hoạt động vui chơi: Cô sử dụng tiếng Việt để tổ chức cho trẻ: thỏa thuận với nhau về chủ đề chơi, nội dung chơi, cách chơi và thực hiện nội dung chơi, hành động chơi với những lời thoại tiếng Việt phù hợp với nhiệm vụ của mình;… - Khi tổ chức cho trẻ hoạt động ngoài trời (tham quan, dạo chơi, lao động,…): Cô sử dụng tiếng Việt để tổ chức hoạt động tham quan, dạo chơi, lao động,… theo chủ đề cho trẻ. - Khi tổ chức cho trẻ ăn, ngủ, vệ sinh cá nhân,…: Cô sử dụng tiếng Việt để trò chuyện với trẻ bằng tiếng Việt về các món ăn, dụng cụ ăn uống; về giường chiếu, chăn gối, đồ dụng vệ sinh cá nhân và ăn uống, ngủ, vệ sinh cá nhân,… như thế nào là đúng cách. c. Điều kiện thực hiện - Trẻ chỉ GT được bằng tiếng Việt khi có vốn từ tiếng Việt cần thiết, nắm được ngữ pháp của câu tiếng Việt,… - GV cần tạo cơ hội, khuyến khích trẻ sử dụng tiếng Việt để trò chuyện, trao đổi, GT với nhau trong quá trình tham gia hoạt động. Biện pháp 2: Động viên, khuyến khích kịp thời những tiến bộ của trẻ về KNGT tiếng Việt; chỉnh sửa kịp thời cho trẻ những lỗi GT tiếng Việt trong quá trình tổ chức các HĐGD tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non. a. Mục đích, ý nghĩa Động viên, khuyến khích kịp thời những tiến bộ của trẻ khi GT tiếng Việt sẽ giúp trẻ tích cực, tự tin, hào hứng và mạnh dạn hơn trong quá trình GT tiếng Việt. b. Nội dung và cách tiến hành - Động viên, khuyến khích kịp thời những tiến bộ của trẻ về KNGT tiếng Việt trong
  16. quá trình tổ chức các HĐGD tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non. - Đồng thời với việc động viên, khuyến khích kịp thời những tiến bộ về KNGT tiếng Việt của trẻ, GVMN cần phải chỉnh sửa kịp thời những lỗi mà trẻ mắc phải khi GT tiếng Việt. c. Điều kiện thực hiện - Động viên, khuyến khích kịp thời những tiến bộ của trẻ về KNGT tiếng Việt phải được diễn ra thường xuyên, mọi lúc, mọi nơi, mọi hoạt động; đặc biệt chú ý đến những trẻ nhút nhát, thiếu tự tin. - Khi chỉnh sửa những lỗi mà trẻ mắc phải trong GT tiếng Việt cần nhẹ nhàng, tế nhị, tránh gây cho trẻ sự xấu hổ, mặc cảm, tự ti, dẫn đến ngại GT tiếng Việt. Biện pháp 3: Tổ chức cho trẻ làm việc theo nhóm giữa trẻ em các dân tộc với nhau khi tham gia các HĐGD tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non a. Mục đích, ý nghĩa Khi tham gia làm việc theo nhóm đa dân tộc, trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông sẽ học hỏi được kiến thức tiếng Việt và KNGT tiếng Việt từ bạn bè một cách nhẹ nhàng, thoải mái. b. Nội dung và cách tiến hành Cô chia lớp thành các nhóm nhỏ, mỗi nhóm vừa có trẻ dân tộc H’mông vừa có trẻ em các dân tộc khác. Tổ chức cho trẻ hoạt động theo nhóm khi học, khi chơi, khi hoạt động ngoài trời, trong khi ăn uống, vệ sinh,… c. Điều kiện thực hiện - Chia nhóm phải dựa trên tinh thần tự nguyện của trẻ, không ép trẻ vào nhóm những bạn mà trẻ không thân thiết, hay xung đột nhau. - Mỗi nhóm phải có những em có kiến thức và KNGT tiếng Việt vững vàng. Biện pháp 4: Tổ chức cho trẻ sử dụng tiếng Việt để trải nghiệm, khám phá cuộc sống xung quanh a. Mục đích, ý nghĩa Tạo cơ hội cho trẻ giao lưu, tiếp xúc với các đối tượng khác nhau, qua đó kĩ năng nghe, nói tiếng Việt của trẻ được rèn luyện, làm cho KNGT của trẻ trở nên thành thục và giúp trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong quá trình GT. b. Nội dung và cách tiến hành - Cho trẻ tham gia vào các hoạt động trong cộng đồng tại địa phương: như chợ phiên, ngày lễ hội truyền thống, tổ chức cho trẻ giao lưu với các anh chị ở trường tiểu học…. - Khích lệ trẻ mạnh dạn, tự tin sử dụng tiếng Việt đểt hỏi han, trò chuyện với nhiều đối tượng khác nhau về những nội dung khác nhau. c. Điều kiện thực hiện - Những người trẻ tiếp xúc, hỏi han, trò chuyện khi tham quan, trải nghiệm phải biết tiếng Việt, có KNGT tiếng Việt thành thạo và sẵn sàng trò chuyện, GT với trẻ bằng tiếng Việt. - Khi cho trẻ tham gia các hoạt động giao lưu, tiếp xúc với cộng đồng cần phải tạo cho trẻ tâm thế thoải mái, mạnh dạn, tự tin khi GT tiếng Việt. Biện pháp 5: Phối hợp giữa nhà trường với gia đình dạy trẻ sử dụng tiếng Việt để GT hằng ngày với nhau a. Mục đích, ý nghĩa
  17. Phối hợp giừa nhà trường với gia đình trong việc dạy trẻ sử dụng tiếng Việt để GT hằng ngày, một mặt sẽ nâng cao được ý thức, trách nhiệm của các thành viên trong gia đình đối với việc rèn luyện KNGT cho trẻ, một mặt nó tạo cơ hội cho trẻ được rèn luyện KNGT tiếng Việt cho trẻ. b. Nội dung và cách tiến hành Xác định vai trò, trách nhiệm của nhà trường và gia đình trong việc dạy KNGT tiếng Việt cho trẻ em và xây dựng và thực hiện kế hoạch phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong việc dạy KNGT tiếng Việt cho trẻ em phù hợp với từng chủ đề giáo dục tích hợp của năm học. c. Điều kiện thực hiện - Nhà trường (GVMN) phải giữ vai trò chủ đạo trong việc phối kết hợp với gia đình trong việc dạy KNGT tiếng Việt cho trẻ. - Gia đình phải xác định được đây là việc làm rất cần thiết và sẵn sàng phối kết hợp với nhà trường về vấn đề này. * Các biện pháp nêu trên có mối quan hệ tác động qua lại, tương hỗ, đan xen vào nhau trong quá trình hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông khi tổ chức HĐGD tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non. 3.3. Thực nghiệm sƣ phạm 3.3.1. Khái quát về thực nghiệm 3.3.1.1. Mục đích thực nghiệm Tổ chức thực nghiệm (TN) nhằm xác định hiệu quả và tính khả thi của những biện pháp hình thành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông qua các HĐGD tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non do chúng tôi đề xuất. 3.3.1.2. Đối tượng và thời gian thực nghiệm - Đối tượng thực nghiệm: Trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông trường Mầm non Lử Thẩn, huyện Si Ma Cai và trường mầm non Thải Giàng Phố, huyện Bắc Hà. - Thời gian thực nghiệm: + Thực nghiệm lần 1: 4 tháng (Từ tháng 09/2015 đến tháng 12/2015): 50 trẻ của 2 lớp MGL trường mầm non Lử Thẩn. Trong đó, 25 trẻ của lớp MGLA được chọn là nhóm thực nghiệm (TN1), 25 trẻ của lớp MGLB được chọn là nhóm đối chứng (ĐC1). + Thực nghiệm lần 2: 4 tháng (Từ tháng 9/2016 đến tháng 12/2016): 52 trẻ của 2 lớp MGL, trường Mầm non Thải Giàng Phố, huyện Bắc Hà. Trong đó, 26 trẻ của lớp MGL1 được chọn là nhóm thực nghiệm (TN2), 26 trẻ của lớp MGL2 được chọn là nhóm đối chứng (ĐC2). 3.3.1.3. Nội dung thực nghiệm TN được tiến hành song song giữa nhóm TN và nhóm ĐC. Ở nhóm TN, chúng tôi sử dụng các biện pháp hình hành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông qua các HĐGD tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non do chúng tôi đề xuất. Ở nhóm ĐC, chúng tôi sử dụng những biện pháp hình hành KNGT tiếng Việt cho trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông GV thường dùng khi tổ chức các HĐGD tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non.
  18. 3.3.1.4. Tiến trình thực nghiệm * Bước 1: Chuẩn bị TN * Bước 2: Thiết kế chương trình TN * Bước 3: Triển khai TN * Bước 4: Xử lí và phân tích kết quả TN 3.3.1.5. Điều kiện thực nghiệm 3.3.2. Kết quả thực nghiệm 3.3.2.1. Kết quả thực nghiệm lần 1 a. Kết quả trước thực nghiệm lần 1 * Đánh giá chung về mức KNGT tiếng Việt của trẻ trước TN lần 1 Bảng 3.1. Mức KNGT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông trước TN lần 1 Mức kĩ năng Nhóm trẻ ∑ X Mức 1 Mức 2 Mức 3 Mức 4 Nhóm TN1 (n=25) 1 4 10 10 532 18.9 Nhóm ĐC1 (n=25) 1 5 10 9 545 19.3 Qua bảng này ta thấy, điểm trung bình cộng (TBC) về KNGT tiếng Việt của trẻ nhóm lớp TN1 và nhóm lớp ĐC1 ở cả 4 mức độ là khá tương đương nhau ( X ĐC1 = 19.3; X TN1 = 18.9) - xoay quanh mức 3 (từ 16 đến 22đ), mức có biểu hiện KN. Sự khác biệt của điểm TBC trên đây là rất nhỏ và không có ý nghĩa thống kê khi chúng tôi kiểm định giá trị thống kê bằng thử t-student. Dựa trên kết quả thống kê ở bảng 3.1, chúng tôi xây dựng biểu đồ về mức KNGT của nhóm TN1 và nhóm ĐC1 trước TN như sau: 10 8 6 Nhóm TN (n=25) 4 Nhóm ĐC (n=25) 2 0 Mức 1 Mức 2 Mức 3 Mức 4 Biểu đồ 3.1. Mức KNGT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông trước TN lần 1 Nhìn vào bảng 3.1 và biểu đồ 3.1 ta thấy, KNGT tiếng Việt của trẻ ở cả 2 nhóm (TN1 và ĐC1) chủ yếu tập trung ở mức 3 (Có biểu hiện KN) và mức 4 (Chưa có KN). Số trẻ có KNGT tiếng Việt ở mức 2 (Mức đã có KN nhưng chưa thành thục), đặc biệt là mức 1 (mức có KN thành thục) rất ít. Như vậy KNGT tiếng Việt của tre 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông của cả 2 nhóm trước TN còn ở mức độ thấp.
  19. b. Kết quả sau thực nghiệm lần 1 * Đánh giá chung về mức KNGT tiếng Việt của trẻ sau TN lần 1 Bảng 3.3. Mức KNGT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông sau TN lần 1 Mức kĩ năng Nhóm trẻ ∑ X Mức 1 Mức 2 Mức 3 Mức 4 Nhóm TN1 (n=25) 11 11 3 0 781 27,6 Nhóm ĐC1 (n=25) 2 6 12 5 590 20,8 Kết quả này cho thấy, sau TN mức KNGT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi ở nhóm TN1 cao hơn nhóm ĐC1. Cụ thể là: ở nhóm ĐC1, sau TN mặc dù KNGT tiếng Việt của trẻ có thay đổi theo chiều hướng đi lên, nhưng vẫn ở mức 3 - mức có biểu hiện KN ( X ĐC1 = 20,8 đ). Trong khi đó ở nhóm TN1, sau TN có sự thay đổi đáng kể về KNGT tiếng Việt: từ mức 3 - có biểu hiện KN lên mức 2 - có KN nhưng chưa thành thục ( X TN1 = 27,6đ). Để thấy rõ sự chênh lệch về mức KNGT tiếng Việt của trẻ ở nhóm TN1 và nhóm ĐC1 chúng tôi xây dựng biểu đồ sau: 12 10 8 6 TN1 ĐC1 4 2 0 Mức 1 Mức 2 Mức 3 Mức 4 Biểu đồ 3.3. Mức KNGT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông sau TN lần 1 Nhìn vào bảng 3.3 và biểu đồ 3.3 chúng ta thấy, số trẻ có KNGT tiếng Việt ở mức 1 - KN thành thục và mức 2 - có KN nhưng chưa thành thục của trẻ nhóm TN1 nhiều hơn nhóm ĐC1. Ngược lại, số trẻ chưa có KNGT tiếng Việt (mức 4) hoặc mới chỉ có biểu hiện KN ở nhóm ĐC1 còn khá nhiều (mức 4: 5 trẻ; mức 3: 12 trẻ), trong khi ở nhóm TN1 không có trẻ nào còn ở mức 4 và chỉ còn 3 trẻ ở mức 3. Như vậy những tác động thực nghiệm đã mang lại hiệu quả trong việc hình thành KNGT tiếng Việt của trẻ 5 - 6 tuổi dân tộc H’mông. * Mức KNGT tiếng Việt của trẻ nhóm TN1 và nhóm ĐC1 trước và sau TN lần 1 Bảng 3.4 . Mức KNGT tiếng Việt của trẻ nhóm TN1 và nhóm ĐC1 trước và sau TN lần 1 Nhóm trẻ Mức 1 Mức 2 Mức 3 Mức 4 X SD Trước TN 1 4 10 10 18.9 0.45 Nhóm TN1 (n=25) Sau TN 11 11 3 0 27.6 0.40 Trước TN 1 5 10 9 19.3 0.44 Nhóm ĐC1 (n=25) Sau TN 2 6 12 5 20.8 0.43
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2