Tóm tắt Luận án tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC
lượt xem 11
download
Mục tiêu nghiên cứu tổng quát của luận án là trên cơ sở lý luận và thực tiễn về thương mại nội ngành hàng nông sản, phân tích thực trạng về thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và các thành viên APEC nhằm xác định các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC. Từ đó đề xuất các giải pháp và khuyến nghị chính sách nhằm thúc đẩy thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH VÕ THY TRANG Chuyên ngành kinh tế nông nghiệp Mã số: 62 62 01 15 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NÔNG NGHIỆP Thái Nguyên, 2017
- Công trình được hoàn thành tại: ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Khánh Doanh Phản biện 1: ................................................................................. Phản biện 2: .................................................................................. Phản biện 3: ................................................................................. Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án họp tại: ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH Vào hồi ……. giờ, ngày……. tháng ……. năm 2017 Có thể tìm hiểu luận án tại: 1. 2. 3.
- 1 MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới và có tác động lớn đối với nền nông nghiệp, đặc biệt tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển thương mại trong nông nghiệp. Trong sự tăng trưởng của thương mại quốc tế trong nông nghiệp phải kể đến sự đóng góp to lớn của thương mại nội ngành hàng nông sản. Thương mại nội ngành đang trở thành một bộ phận quan trọng của thương mại thế giới. Thương mại nội ngành hàng nông sản tạo ra lợi thế kinh tế theo quy mô và góp phần gia tăng sự lựa chọn cho người tiêu dùng. Qua khảo sát các công trình nghiên cứu cho tới thời điểm này có rất ít công trình nghiên cứu về thương mại nội ngành của Việt Nam, đặc biệt là chưa có công trình nghiên cứu các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC. Việc nghiên cứu mô hình các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC trong thời gian qua, đưa ra các định hướng chính sách xuất nhập khẩu và phát triển thương mại quốc tế phù hợp với tình hình hiện nay là rất cần thiết. Xuất phát từ thực tế trên tác giả đã chọn đề tài “Các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC” cho Luận án tiến sỹ của mình. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Mục tiêu nghiên cứu tổng quát của luận án là trên cơ sở lý luận và thực tiễn về thương mại nội ngành hàng nông sản, phân tích thực trạng về thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và các thành viên APEC nhằm xác định các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC. Từ đó đề xuất các giải pháp và khuyến nghị chính sách nhằm thúc đẩy thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC. Mục tiêu cụ thể (1) Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn, phát triển một bước lý luận về các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành hàng nông sản (2) Phân tích thực trạng thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC (3) Xác định các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC (4) Đề xuất một số giải pháp và khuyến nghị chính sách nhằm thúc đẩy thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC.
- 2 3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về các yếu tố tác động đến đến thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Luận án tập trung phân tích thực trạng thương mại nội ngành hàng nông sản. Đồng thời xác định và lượng hóa các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và các thành viên APEC thông qua mô hình phân tích. Về không gian: Luận án nghiên cứu giữa Việt Nam với 20 nền kinh tế thành viên thuộc APEC. Tuy nhiên trong phần mô hình phân tích, luận án tập trung nghiên cứu thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và 19 nền kinh tế thành viên trừ Đài Loan do thông tin về các mặt hàng xuất nhập khẩu không đầy đủ trong giai đoạn nghiên cứu. Về thời gian: Nghiên cứu thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và các nước thành viên APEC giai đoạn 1997 - 2014. Nghiên cứu thương mại nội ngành hàng nông sản theo chiều ngang giữa Việt Nam và các nước thành viên APEC giai đoạn 2000 - 2014. Nghiên cứu thương mại nội ngành hàng nông sản theo chiều dọc giữa Việt Nam và các nước thành viên APEC giai đoạn 2000 - 2014. Một số giải pháp thúc đẩy thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC cho giai đoạn 2016 - 2020. 4. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU Mặc dù trên thực tế đã có nhiều nghiên cứu thực nghiệm dành cho việc xác định các yếu tố quyết định của thương mại nội ngành, hầu hết nghiên cứu tập trung vào thương mại nội ngành giữa các nước phát triển và đang phát triển, tuy nhiên có rất ít công trình nghiên cứu về thương mại nội ngành của Việt Nam. Còn trên góc độ ngành hàng thì đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt nam với các thành viên APEC. Hơn nữa, đã có những phương pháp khác nhau được giới thiệu để ước lượng những mô hình liên quan đến vấn đề này. Đây là cơ hội để tác giả tiếp tục củng cố hoàn thiện và phát triển các kết quả nghiên cứu trước. Đồng thời nghiên cứu này sẽ được áp dụng phương pháp tác động ngẫu nhiên với dữ liệu mảng cho toàn bộ quá trình ước lượng của các mô hình để xác định yếu tố tác động đến thương mại nội ngành, thương mại nội ngành theo chiều ngang và chiều dọc hàng
- 3 nông sản của Việt Nam. Luận án mong muốn đóng góp vào kho tàng nghiên cứu về thương mại nội ngành trong lĩnh vực hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC. 5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN (1). Kết quả nghiên cứu của luận án giúp hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn, đóng góp một bước vào sự phát triển lý luận về các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành hàng nông sản và là cơ sở quan trọng trong việc xây dựng các chính sách phát triển thương mại nội ngành đối với hàng nông sản. (2). Luận án phân tách thương mại nội ngành thành thương mại nội ngành theo chiều ngang và chiều dọc hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC. (3). Luận án thiết kế mô hình các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành hàng nông sản theo chiều ngang và theo chiều dọc. (4). Luận án sử dụng cả phương pháp định tính và định lượng, đặc biệt là phương pháp tác động ngẫu nhiên để ước lượng các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC (5). Phân tích thực trạng về khối lượng và mức độ thương mại nội ngành, thương mại nội ngành theo chiều ngang và chiều dọc hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC. (6). Luận án đưa ra kết quả ước lượng các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC. (7). Đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC. 6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được bố cục thành 4 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về thương mại nội ngành hàng nông sản Chương 2: Phương pháp nghiên cứu Chương 3: Thực trạng các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC Chương 4: Giải pháp thúc đẩy thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC
- 4 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THƢƠNG MẠI NỘI NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Lý luận về thương mại nội ngành Trong phần này luận án đã phân tích và làm rõ khái niệm, cách đo lường và phân loại thương mại nội ngành a) Khái niệm về thương mại nội ngành Thương mại nội ngành (IIT) được định nghĩa là hoạt động của thương mại quốc tế, là việc đồng thời xuất khẩu và nhập khẩu các sản phẩm trong cùng một ngành hàng dựa trên phân cấp hàng hóa theo tiêu chuẩn phân loại hàng hóa quốc tế. b, Cách đo lường thương mại nội ngành Theo nghiên cứu của Grubel và Lloyd (1975) giới thiệu cách đo lượng khối lượng IIT của ngành hàng i được xác định như sau: IITi X i +M i X i M i Chỉ số được sử dụng phổ biến nhất để đo lường IIT là chỉ số Grubel và Lloyd (1975) (GL) [50]. Chỉ số này được coi là phương pháp đánh giá thích hợp về cơ cấu thương mại tại một thời kì. Chỉ số này được tính toán theo công thức sau: Xi Mi Xi Mi IIT (GLi ) Xi Mi Trong đó:IIT là thương mại nội ngành của ngành hàng i Xi là giá trị xuất khẩu của ngành hàng i Mi là giá trị nhập khẩu của ngành hàng i Công thức chỉ ra mức độ IIT trong tổng giá trị thương mại của một ngành hàng, chỉ số IIT nằm trong khoảng từ 0 đến 1. Khi giá trị xuất khẩu bằng giá trị nhập khẩu, chỉ số này có giá trị bằng 1, toàn bộ giá trị thương mại là thương mại nội ngành, khi giá trị xuất khẩu hoặc nhập khẩu bằng 0, chỉ số này có giá trị bằng 0 thì IIT bằng 0 hay chỉ có thương mại một chiều. c) Phân loại thương mại nội ngành Trên phương diện lý thuyết, IIT được phân tách thành hai phần là IIT theo chiều ngang (HIIT) và IIT theo chiều dọc (VIIT). Lancaster (1980), Krugman (1981), Helpman (1981) nghiên cứu cho rằng HIIT là chỉ mức độ những sản phẩm tương tự được xuất khẩu và nhập khẩu đồng thời tại cùng một giai đoạn của quá trình sản xuất và chủ yếu là do đặc tính của sản phẩm khác nhau, liên quan đến phong cách và sở thích khác nhau của người tiêu dùng. Theo Linder (1961)
- 5 cho rằng cơ cấu về nhu cầu được quyết định bởi thu nhập bình quân đầu người và việc trao đổi thương mại về hàng hoá sẽ diễn ra giữa các quốc gia có cùng mức thu nhập. Chúng ta đều kỳ vọng người tiêu dùng có mức thu nhập tương đồng sẽ có nhu cầu về các sản phẩm giống nhau về chất lượng nhưng khác biệt về mẫu mã. Do đó, HIIT sẽ xảy ra khi có một mức độ thu nhập trùng lặp cao hơn giữa các đối tác thương mại. Trên phương diện nghiên cứu thực nghiệm, có hai cách tiếp cận nhằm phân tách HIIT và VIIT. Cách tiếp cận thứ nhất của Greenaway (1994) dựa trên tỷ lệ giá đơn vị xuất khẩu và nhập khẩu. Sự khác biệt giữa HIIT và VIIT dựa trên phân cấp chất lượng thể hiện bởi giá đơn vị, bởi giá cả phản ánh chất lượng sản phẩm. Giả định quan trọng đối với phương pháp này là chất lượng sản phẩm được phản ánh trong giá đơn vịsản phẩm. Những sản phẩm được bán với mức giá cao thì có chất lượng cao hơn. Mức chênh lệch tỷ lệ giá đơn vị xuất khẩu và nhập khẩu của sản phẩm trong một khoảng nào đó (thường chọn là 0,15%). Nếu tỷ lệ giá đơn vị xuất khẩu và nhập khẩu nằm ngoài khoảng giá trị này thì đó là VIIT. Cách tiếp cận thứ hai dựa trên phân cấp hàng hóa theo Kandogan (2003) đề xuất phân tách HIIT và VIIT. 1.1.2. Lý luận về thương mại nội ngành hàng nông sản Trong phần này luận án đã phân tích và làm rõ Khái niệm, phân loại và đặc điểm hàng nông sản, khái niệm, cách đo lường và phân loại thương mại nội ngành hàng nông sản 1.1.2.1. Khái niệm, phân loại và đặc điểm hàng nông sản a, Khái niệm hàng nông sản Hàng nông sản được hiểu là hàng hoá có nguồn gốc từ hoạt động nông nghiệp, là tập hợp các mặt hàng khác nhau từ các sản phẩm chưa chế biến tới các sản phẩm đã qua chế biến, (không bao gồm sản phẩm của ngành lâm nghiệp và ngư nghiệp). Vì vậy để phù hợp với nội dung nghiên cứu, luận án tập trung nghiên cứu là các sản phẩm liệt kê từ nhóm SITC0, SITC1, SITC2, SITC4 trong Hệ thống Danh mục SITC. Tuy nhiên trong nhóm SITC0 không tính SITC 03 (cá và các chế phẩm từ cá), nhóm SITC2 không tính SITC 27 (Phân bón thô/khoáng sản) và SITC28 (Quặng kim loại/kim loại phế liệu) do không phù hợp với quan điểm về nông sản của WTO. b, Phân loại hàng nông sản theo tiêu chuẩn ngoại thương SITC Với các phân loại này, danh mục hàng nông sản xuất nhập khẩu theo tiêu chuẩn ngoại thương mã cấp 0 - 4 chữ số (SITC – REV.3). Nhóm 0: Phân loại hàng hóa là động thực vật sống và các sản phẩm từ động thực vật
- 6 Nhóm 1: Phân loại hàng hóa là thực phẩm chế biến; đồ uống, rượu mạnh và giấm; thuốc lá và các nguyên liệu thay thế thuốc lá đã chế biến Nhóm 2: Nguyên vật liệu dạng thô, không dùng để ăn, trừ nhiên liệu Nhóm 4: Phân loại hàng hóa là mỡ và dầu động vật hoặc thực vật và các sản phẩm tách từ chúng; mỡ ăn được đã chế biến; các loại sáp động vật hoặc thực vật 1.1.2.2. Khái niệm, cách đo lường IIT hàng nông sản a, Khái niệm: IIT hàng nông sản định nghĩa là hoạt động của thương mại quốc tế, là việc đồng thời xuất khẩu và nhập khẩu các sản phẩm trong cùng một nhóm hàng nông sản dựa trên phân cấp hàng hóa theo tiêu chuẩn phân loại hàng hóa quốc tế. b) Cách đo lường Theo cách tiếp cận và phạm vi nghiên cứu của luận án, hàng nông sản xuất nhập khẩu được phân loại theo danh mục tiêu chuẩn quốc tế (SITC), phiên bản 3. Chỉ số Grubel và Lloyd (1975) được sử dụng để đo lường khối lượng và mức độ IIT. Trong luận án này sẽ sử dụng phương pháp được đề xuất bởi Kandogan (2003) để phân rã HIIT và VIIT bằng việc sử dụng giá trị xuất khẩu và nhập khẩu ở hai mức độ tập trung khác nhau. Mức độ tập trung cao hơn phản ánh cho ngành hàng nông sản (ở mức 2 chữ số SITC phiên bản 3) và mức độ tập trung thấp hơn phản ánh cho các sản phẩm khác nhau ở ngành hàng nông sản (ở mức 4 chữ số SITC phiên bản 3). 1.1.2.3. Lợi ích của thương mại nội ngành hàng nông sản - IIT mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng hàng nông sản của một nước - Các nước có nền kinh tế quy mô nhỏ có lợi khi tham gia vào IIT - Mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu hàng nông sản - IIT hàng nông sản góp phần thúc đẩy phát triển ngành nông nghiệp nói riêng và kinh tế quốc gia nói chung - IIT hàng nông sản vừa góp phần vừa giải quyết sản phẩm đầu ra,vừa là nơi cung cấp đầu vào, thúc đẩy cùng nhau phát triển - Đẩy mạnh hoạt động IIT hàng nông sản góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập, tạo điều kiện đẩy mạnh CNH- HĐH nông nghiệp Việt Nam - Góp phần phân bố lại quá trình sản xuất trên phạm vi toàn cầu - Góp phần thúc đẩy vào quá trình phân công lao động quốc tế. 1.1.2.4. Các yếu tố tác động đến thương mại nội ngành hàng nông sản a) Quy mô kinh tế Đối với nông sản là mặt hàng thiết yếu nên hầu hết các quốc gia sẽ coi trọng mặt hàng này để phục vụ nhu cầu cơ bản thiết yếu của người dân. Do đó quốc gia sẽ tập trung để gia tăng sản lượng và nâng cao chất lượng nông sản trong nước,
- 7 vừa có khả năng đáp ứng nhu cầu xuất khẩu nông sản. Đồng thời khi thị trường có dung lượng lớn sẽ có thể hấp thụ một khối lượng lớn nông sản, do đó lượng hàng hóa nhập khẩu nông sản vào thị trường sẽ tăng lên. Do vậy yếu tố quy mô kinh tế của một quốc gia tác động cùng chiều đến IIT, HIIT và VIIT hàng nông sản. b) Sự khác nhau về quy mô kinh tế Nếu quy mô kinh tế của các đối tác thương mại tương tự nhau, họ có khả năng thực hiện giao dịch thương mại song phương với nhau nhiều hơn. Tuy nhiên sự khác nhau về quy mô kinh tế phản ánh các nguồn lực vốn khác nhau giữa các đối tác thương mại sẽ khuyến khích trao đổi hàng hóa cùng loại nhưng khác nhau về chất lượng nên tác động cùng chiều với VIIT. Do đó, việc đưa ra giả thuyết về mối quan hệ giữa sự khác biệt trong quy mô kinh tế tác động ngược chiều với IIT và HIIT và tác động cùng chiều với VIIT. c) Thu nhập bình quân đầu người Grubel và Lloyd (1975) nghiên cứu về lý thuyết và thực nghiệm IIT giữa các nước phát triển có mức độ dồi dào các yếu tố sản xuất tương tự nhau đã đưa ra một kết luận rằng mức độ gia tăng IIT do yếu tố thu nhập đầu người sẽ tạo ra sự khác nhau trong nhu cầu của người tiêu dùng, yêu cầu về chất lượng sản phẩm khác nhau và dẫn đến tính đa dạng về thị hiếu tiêu dùng. Qua các kết quả thực nghiệm ủng hộ cho giả thuyết rằng thu nhập đầu người cao sẽ đóng góp cho sự tăng lên của IIT. Điều này có nghĩa là việc tăng thu nhập sẽ dẫn đến việc đa dạng hóa trong nhu cầu tiêu dùng. Việc tăng thị hiếu tiêu dùng các sản phẩm dẫn đến việc thúc đẩy IIT giữa các nước. d, Sự khác nhau về thu nhập bình quân đầu người Theo Linder (1961) cho rằng cơ cấu cầu được quyết định bởi thu nhập bình quân đầu người, IIT sẽ diễn ra giữa các quốc gia có cùng mức thu nhập tương đồng. Chúng ta đều kỳ vọng người tiêu dùng có thu nhập tương đồng sẽ có nhu cầu về các sản phẩm giống nhau về chất lượng nhưng khác biệt về mẫu mã sản phẩm. Do đó, HIIT sẽ cao hơn khi một quốc gia có mức độ thu nhập tương đương với đối tác thương mại. Theo Krugman (1979), Lancaster (1980) cho rằng các sản phẩm được phân biệt theo chiều ngang và người tiêu dùng luôn luôn thích có càng nhiều những sản phẩm khác nhau sẽ càng tốt (phương pháp tiếp cận sự đa dạng về sở thích). Trong các mô hình này, mỗi nhóm sản phẩm được sản xuất với chi phí giảm dần và khi các quốc gia mở cửa thị trường, sự giống nhau về nhu cầu sẽ dẫn đến IIT. Mức độ HIIT sẽ lớn hơn với nhiều khả năng xảy ra giữa các quốc gia có nguồn lực sản xuất tương tự nhau.
- 8 Theo Falvey & Kierzkowski (1987), Flam &Helpman (1987) nhận thấy rằng VIIT có thể được giải thích bằng lý thuyết lợi thế so sánh. Theo đó, một quốc gia dồi dào về tư bản sẽ chuyên môn hóa và xuất khẩu các sản phẩm chất lượng cao, trong khi đó, một quốc gia dồi dào về lao động sẽ chuyên môn hóa và xuất khẩu sản phẩm có chất lượng thấp. Đồng thời nghiên cứu đã đưa ra một kết luận rằng nhu cầu về chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào thu nhập của khách hàng. Khi thu nhập càng tăng thì đòi hỏi chất lượng càng cao. Martin-Montaner & Rios (2002) Durkin (2000) đã chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa sự khác biệt về nguồn lực các yếu tố sản xuất được đo lường bằng sự khác biệt về thu nhập đầu người và mức độ VIIT. e) Khoảng cách về địa lý giữa các đối tác thương mại Khoảng cách địa lý là một rào cản thương mại tự nhiên, là một trong những yếu tố tác động đến IIT. Theo Grubel và Lloyd (1975) cho rằng chi phí vận chuyển và thông tin đóng vai trò quan trọng trong việc xác định vị trí để sản xuất sản phẩm. Chi phí vận chuyển trong quá trình phân phối từ người cung ứng đến người tiêu dùng tăng thì sẽ làm tăng giá thành sản phẩm. Nếu giá bán sản phẩm trong nước cao hơn nước ngoài sẽ kích thích người tiêu dùng mua sản phẩm nước ngoài. Theo nghiên cứu của Krugman (1979) khoảng cách giữa hai quốc gia càng gần nhau, đặc biệt là có đường biên giới chung thì chi phí về thông tin và chi phí vận tải càng giảm, do đó sẽ càng làm tăng mức độ IIT. Ngoài ra, trong rất nhiều trường hợp, cơ cấu sản phẩm và cơ cấu cầu của các quốc gia gần nhau thường giống nhau hơn là các quốc gia có khoảng cách xa nhau về mặt địa lý do có sự tương đồng về văn hóa và sở thích tiêu dùng. f) Đầu tư trực tiếp nước ngoài Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là bộ phận quan trọng của tài khoản vốn. Việc gia tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài có tác dụng bù đắp thâm hụt cán cân thương mại. Thu hút FDI vào trong nước cho phép các quốc gia sử dụng công nghệ của nước đầu tư đồng thời đầu tư trực tiếp nước ngoài liên quan đến chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia thông qua nhập khẩu. Do đó FDI góp phần tăng chủng loại các mặt hàng, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa của các quốc gia tiếp nhận vốn đầu tư và có thể xuất khẩu hàng hóa sang nước đầu tư. Do vậy thương mại song phương giữa nước xuất khẩu và nhập khẩu đồng thời gia tăng Helpman và Krugman (1985) đã nghiên cứu lý thuyết IIT với sự có mặt của yếu tố FDI từ các công ty đa quốc gia (MNCs) và lập luận về mặt lý thuyết rằng FDI đã đóng góp tích cực vào khối lượng IIT. Tuy nhiên các kết quả này mới dừng ở mặt lý thuyết và chưa qua thử nghiệm thực tiễn. Marusen và
- 9 Venables (1998) đã tiếp tục mở rộng lý thuyết IIT và kiểm tra sự hiện diện đóng góp tích cực của FDI đến IIT. g) Độ mở nền kinh tế Trong các nghiên cứu của Leamer (1988), Li và cộng sự (2003), Chemspipong và cộng sự (2005), Zhang và Li (2006) nghiên cứu cho rằng yếu tố độ mở nền kinh tế càng lớn thì khối lượng thương mại trao đổi và phân loại sản phẩm càng đa dạng hơn. Trên phương diện lý thuyết độ mở của nền kinh tế tác động cùng chiều với IIT. Caves (1981) cho rằng khi một nước hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, giảm dần các rào cản thương mại quốc tế sẽ làm cho quá trình này diễn ra thuận lợi hơn và làm gia tăng mức độ IIT. - Mức độ mất cân bằng thương mại: Theo Aquino (1978), Leitão và Faustino (2009) cho rằng mức độ mất cân bằng thương mại là một trong yếu tố giải thích trong việc ước lượng các yếu tố tác động đến IIT. Đây là yếu tố đo mức độ mất cân đối trong thương mại sẽ làm giảm thương mại hai chiều giữa hai quốc gia. - Hàng rào thương mại: Hàng rào thương mại là yếu tố phản ánh mức độ bảo hộ của một nền kinh tế, mức độ cam kết và thực hiện các cam kết tự do hóa thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế của mỗi nước. Mức độ bảo hộ càng thấp, mức độ tự do hóa thương mại càng cao sẽ khuyến khích mở rộng thị trường xuất khẩu. Khi Việt Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, các hàng rào thương mại sẽ giảm dần và chính điều này sẽ góp phần cải thiện mức độ IIT hàng nông sản. h) Sự biến động tỷ giá hối đoái Theo nghiên cứu của Serlega và Shin (2007), Rault và cộng sự (2007) cho thấy sự biến động về tỷ giá hối đoái càng cao thì mức độ IIT của quốc gia đó sẽ càng giảm. Điều đó phản ánh sự biến động của tỷ giá hối đoái có tương quan ngược chiều với IIT. Khi nghiên cứu mức độ IIT của hàng nông sản, khi tỷ giá biến động sẽ tác động đến cả xuất khẩu và nhập khẩu hàng nông sản. Vì vậy kỳ vọng có mối tương quan ngược chiều giữa sự biến động của tỷ giá hối đoái với IIT, HIIT và VIIT. k) Quy mô dân số của nước xuất khẩu và nhập khẩu Quy mô dân số càng lớn phản ánh nguồn lực lao động của mỗi quốc gia càng lớn. Đồng thời quy mô dân số càng lớn thì đòi hỏi thị trường tiêu thụ sản phẩm càng lớn. Thêm vào đó là sự đa dạng hóa trong nhu cầu tiêu thụ sản phẩm hàng hóa sẽ góp phần thu hút sản phẩm nhập khẩu từ các quốc gia khác. Chính điều này cho thấy quốc gia có quy mô dân số càng lớn thì khả năng xảy ra mức độ IIT hàng nông sản sẽ càng lớn. m) Diện tích đất nông nghiệp
- 10 Diện tích đất nông nghiệp là nguồn lực quan trọng của ngành nông nghiệp có ảnh hưởng đến IIT hàng nông sản. Theo nghiên cứu về lý thuyết của Jambor (2014) chỉ ra rằng quốc gia có quy mô đất nông nghiệp càng lớn thì càng góp phần gia ra tăng mức độ IIT hàng nông sản. n) Việc tham gia các hiệp định thương mại giữa VN và đối tác thuộc APEC Việc Việt Nam tham gia kí kết các hiệp định thương mại tự do, theo đó các nước sẽ tiến hành lộ trình cắt giảm và xóa bỏ hàng rào thuế quan cũng như phi thuế quan nhằm tiến tới một khu vực mậu dịch tự do. Các nước tham gia hiệp định lần lượt cắt giảm thuế trong từng giai đoạn cho tới mức 0%. Các nước như vậy đã thực hiện các biện pháp làm giảm hoặc loại bỏ các hàng rào thương mại và chi phí giao dịch khi tham gia thương mại quốc tế. Đây có thể là yếu tố tích cực tác động đến IIT hàng nông sản. 1.2. Cơ sở thực tiễn về thƣơng mại nội ngành và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Thứ nhất, khi hai quốc cùng tham gia vào thị trường quốc tế vào cùng ngành hàng với nhiều hãng tham gia đạt lợi thế theo quy mô thì sản lượng chung của hai quốc gia gia tăng. Đối với mỗi nước, số lượng hãng tham gia nhiều hơn, sản lượng mỗi hãng cũng tăng lên với mức giá thấp hơn, thị trường được mở rộng cũng giúp cho hàng hóa đa dạng hơn. Do đó người tiêu dùng cần nhiều sự lựa chọn hơn và gia tăng lợi ích của mình. Vì vậy hội nhập kinh tế chặt chẽ giữa đối tác thương mại thúc đẩy cường độ IIT. Thứ hai, xây dựng chính sách mở cửa thị trường thích hợp để thu hút đầu tư mạnh mẽ của nước ngoài vào phát triển nông nghiệp, nhằm tăng quy mô sản xuất nông sản, phong phú thêm về chủng loại và nâng cao giá trị hàng nông sản xuất khẩu, nâng cao thu nhập cho người sản xuất. Điều này sẽ góp phần gia tăng mức độ phát triển IIT. Thứ ba, chỉ số IIT cao ở các nước có nền công nghiệp chế biến thực phẩm phát triển như Thái Lan, Trung Quốc. Do IIT có thể xảy ra ở các giai đoạn của chu kỳ sống sản phẩm với các mức chất lượng khác nhau. Do việc ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến thực phẩm sẽ nâng cao giá trị gia tăng cho hàng nông sản, nhằm góp phần thúc đẩy mức độ IIT. Thứ tư, đẩy mạnh xu hướng chuyển dịch sản xuất các mặt hàng nông sản dựa vào tài nguyên và lao động sang sản xuất các nông sản khác biệt, nông sản chế biến công nghệ cao. Ngoài ra mức độ IIT phát triển với các nước gần nhau về mặt địa lý, thuận lợi trong giao dịch thương mại.
- 11 Chƣơng 2 PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Câu hỏi nghiên cứu Làm thế nào để đo lường mức độ IIT, HIIT và VIIT hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC? Những yếu tố nào tác động đến IIT, HIIT và VIIT hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC? Mức độ tác động của các yếu tố đó đến IIT hàng nông sản như thế nào? Những giải pháp gì để cải thiện IIT hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC? 2.2. Phƣơng pháp tiếp cận và khung phân tích 2.2.1. Phương pháp tiếp cận Tiếp cận hệ thống Tiếp cận định tính và định lượng Tiếp cận ngành hàng nông nghiệp 2.2.2. Khung phân tích Khung phân tích cho IIT hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC theo hướng 3 nhóm nhân tố như sau: Các yếu tố thuộc bên cung (thuộc nước XK nông sản): Quy mô kinh tế, sự khác biệt quy mô kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài, quy mô dân số nước xuất khẩu, diện tích đất nông nghiệp Các yếu tố thuộc bên cầu (thuộc nước NK nông sản): Thu nhập bình quân đầu người, sự khác biệt về thu nhập bình quân đầu người, quy mô dân số nước nhập khẩu Các yếu tố cản trở hay hấp dẫn: Khoảng cách địa lý, độ mở nền kinh tế, sự biến động tỷ giá hối đoái, mức độ mất cân bằng thương mại, hàng rào thương mại, Tham gia khu vực mậu dịch tự do. . 2.3. Phƣơng pháp thu thập thông tin 2.3.1. Cách thức thu thập và nguồn dữ liệu Luận án sử dụng hoàn toàn dữ liệu thứ cấp, mô hình tập trung nghiên cứu thương mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và 19 nền kinh tế thành viên trừ Đài Loan do thông tin về các mặt hàng xuất nhập khẩu không đầy đủ trong giai đoạn nghiên cứu. Dữ liệu thương mại song phương được thu thập từ UNCOMTRADE để đo lường IIT nông sản ở mức 2 chữ số SITC giữa Việt Nam và các đối tác thuộc APEC từ 1997 - 2014. Dữ liệu IIT ở mức 4 chữ số được thu
- 12 thập từ 2000 - 2014 để đo lường HIIT và VIIT. Ngoài ra dữ liệu về kim ngạch xuất nhập khẩu của các thành viên APEC, dữ liệu GDP, PCI, FDI, tỷ giá hối đoái và quy mô dân số được thu thập từ IMF và W . Khoảng cách về mặt địa lý giữa Việt Nam và các đối tác thương mại của Việt Nam được lấy từ websiteIndo.com. Dữ liệu diện tích đất nông nghiệp được tích từ báo cáo số liệu chính thức của FAO. Để tính toán chỉ số IIT giữa Việt Nam với các nước thành viên APEC, tác giả sử dụng chỉ số G-L (Grubel và Lloyd, 1975). Trong luận án này tác giả sử dụng dữ liệu mảng giữa Việt Nam và từng đối tác thương mại thuộc APEC. Mô hình kinh tế lượng được trình bày trong luận án này ược xây dựng dựa trên 3 mô hình riêng biệt: IIT, HIIT và VIIT. 2.3.2 Tổng hợp dữ liệu Phân tổ dữ liệu ảng thống kê Đồ thị thống kê 2.3.3. Phương pháp phân tích Phương pháp so sánh Phương pháp trung bình động Phương pháp nghiên cứu định lượng Phương pháp thống kê mô tả Ma trận hệ số tương quan Phương pháp phân tích hồi quy Mô hình phân tích Mô hình 1: Các yếu tố tác động đến IIT hàng nông sản Mô hình 2: Các yếu tố tác động đến HIIT hàng nông sản Mô hình 3: Các yếu tố tác động đến VIIT hàng nông sản Phƣơng pháp ƣớc lƣợng Lựa chọn mô hình tác động Đối với mô hình REM, phương pháp nhân tử Lagrange với kiểm định reusch – Pagan được sử dụng để kiểm chứng sự phù hợp của ước lượng của mô hình là REM hay OLS. Sử dụng kiểm định Hausman để kiểm định vấn đề các tác động không quan sát được phụ thuộc đối tượng có tương quan với một hay một số biến giải thích trong mô hình.
- 13 Chƣơng 3 THỰC TRẠNG THƢƠNG MẠI NỘI NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN GIỮA VIỆT NAM VÀ APEC 3.1. Thực trạng thƣơng mại nội ngành hàng nông sản giữa Việt Nam và các thành viên APEC 3.1.1. Khái quát về thương mại nội ngành hàng nông sản IIT hàng nông sản giữa Việt Nam và các thành viên APEC có xu hướng ngày càng phát triển theo thời gian. Tuy nhiên mức độ thương mại hàng nông sản còn khá khiêm tốn và không đồng đều giữa các quốc gia và trong từng giai đoạn khác nhau. Có những nước IIT với Việt Nam có chỉ số IIT nhỏ nhưng khối lượng IIT lớn như Mỹ, Nhật ản, Hàn Quốc. Việt Nam có mức độ IIT hàng nông sản lớn nhất với các nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Indonesia, Úc. Singapore, Malaisia. Việt Nam có mức độ IIT cao hơn với các nước trong khu vực do có sự tương đồng, ít sự khác biệt hơn về quy mô kinh tế và thu nhập so với các thành viên khác trong APEC, thuận lợi về khoảng cách địa lý và cùng tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN. Do vậy Việt Nam cần đẩy mạnh IIT hàng nông sản của Việt Nam trong thời gian tới. 3.1.2. Mức độ HIIT hàng nông sản Mức độ HIIT hàng nông sản giữa Việt Nam và các thành viên APEC ở mức thấp, chiếm khoảng dưới 10% và tương đối ổn định qua giai đoạn 2000 – 2014. Mức độ phát triển HIIT không đồng đều giữa các quốc gia.Chỉ số HIIT hàng nông sản giữa Việt Nam và Thái Lan, Indonesia, Malaysia có mức độ IIT có dấu hiệu ổn định và phát triển hơn so với các đối tác khác trong khu vực APEC.Đồng nghĩa với mặt hàng nông sản được trao đổi giữa Việt Nam và các nước này đa dạng về chủng loại với chất lượng hàng hóa tương tự nhaugiúp người tiêu dùng có nhiều cơ hội lựa chọn. Có được kết quả trên là do Việt Nam với các nước trên đều nằm trong khu vực Đông Nam Á nên có sự tương đồng về quy mô kinh tế và thu nhập bình quân hơn so với các thành viên khác trong APEC, thuận lợi về khoảng cách địa lý và cùng tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN. Do vậy Việt Nam cần đẩy mạnh HIIT hàng nông sản của Việt Nam trong thời gian tới.HIIT có xu hướng tăng lên ở giai đoạn đầu và giảm ở giai đoạn sau cho đến nay thể hiện hàng nông sản của Việt Nam đang bị cạnh tranh trên thị trường sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Do vậy Việt Nam cần nâng cao giá trị cho nông sản, đặc biệt là nông sản chế biến. Thúc đẩy tham gia kí kết các Hiệp định thương mại song phương giữa các nước. Đồng thời thâm nhập thị trường xuất nhập khẩu nông sản vào các thị trường mới, tiếp tục mở rộng cơ cấu mặt
- 14 hàng xuất nhập khẩu. Làm được điều này mới có khả năng thức đẩy IIT giữa các nước trong APEC. 3.1.3. Mức độ VIIT hàng nông sản Nhìn tổng thể giai đoạn 2000 – 2014 có thể thấy mức độ VIIT hàng nông sản giữa Việt Nam và các thành viên APEC có mức độ lớn hơn HIIT. Tuy nhiên mức độ VIIT hàng nông sản giữa Việt Nam và các thành viên APEC có xu hướng ngày càng giảm. Từ năm 2000 đến 2008, IIT hàng nông sản chủ yếu là VIIT, bởi vì trong giai đoạn đó thì trình độ sản xuất và chế biến nông sản của Việt Nam còn khiêm tốn và công nghệ chế biến nông sản chưa cao nên chất lượng sản phẩm làm ra chưa cạnh tranh được các nước khác. Do vậy Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sản phẩm chất lượng thấp và nhập khẩu về các nông sản có chất lượng cao. Điều này khẳng định tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng nông sản của Việt Nam đang phát triển, chủ yếu vẫn là nông sản thuộc cùng phân nhóm SITC nhưng khác nhau về chất lượng. Tuy nhiên mức độ phát triển VIIT không đồng đều giữa các quốc gia. Tập trung chủ yếu với các nước gần về khoảng cách địa lý, nằm trong khu vực FTA, có quy mô kinh tế tương đồng hơn so với các nước khác trong khối. Các mặt hàng xuất khẩu nông sản của nước ta chủ yếu là xuất khẩu nông sản thô, hạn chế về chủng loại và mẫu mã nên có giá trị xuất khẩu chưa cao. Các nông sản mới qua quá trình sơ chế và chế biến đơn giản làm sản phẩm có giá trị gia tăng thấp. Hàng nông sản chất lượng cao còn ít, phần lớn chưa bảo đảm đầy đủ các tiêu chuẩn quốc tế. Ngược lại Việt Nam lại nhập khẩu các mặt hàng nông sản đã qua chế biến có giá trị gia tăng cao như sữa, các chế phẩm từ ngũ cốc, nguyên liệu làm thức ăn chăn nuôi gia xúc nên dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp. Nhưng trong vài năm trở lại đây thì chỉ số HIIT ở một số quốc gia lại chiếm tỷ lệ cao hơn như Philippin, Thái Lan, Singapore.. nguyên nhân chủ yếu là do chất lượng nông sản của Việt Nam được dần được nâng cao lên ngang bằng với các nước khác, nên tính khác biệt hóa sản phẩm theo chiều ngang được chú trọng hơn để tạo nên tính cạnh tranh hơn cho nông sản Việt Nam. Đồng thời, nhiều mặt hàng nông sản của các nước đã có mặt trên thị trường Việt Nam và được người tiêu dùng Việt Nam ưa chuộng sử dụng. 3.2. Phân tích các yếu tố tác động đến IIT hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC 3.2.1. Thống kê mô tả Khi ước lượng mô hình hồi quy do đặc trưng của số liệu mảng là chỉ nhận những quan sát có đầy đủ dữ liệu theo cả chiều ngang và chiều dọc, vì vậy mẫu sử dụng để ước lượng mô hình hồi quy trong các trường hợp: i) mô hình IIT
- 15 chỉ còn 253 quan sát, ii) mô hình HIIT chỉ còn 196 quan sát và iii) mô hình VIIT chỉ còn 214 quan sát. 3.2.2. Ma trận tương quan giữa các biến số Các biến giải thích có tương quan đáng kể tới biến phụ thuộc IIT,HIIT và VIIT. Tương quan của các biến khoảng cách địa lý, mức độ mất cân bằng trong thương mại của Việt Nam và các đối tác thương mại có tương quan ngược chiều với cả IIT, HIIT và VIIT. Các biến sự khác biệt quy mô kinh tế, Sự khác biệt về thu nhập bình quân đầu người có tương quan ngược chiều với IIT và HIIT nhưng tương quan cùng chiều với VIIT. Các biến khác có tương quan cùng chiều với IIT, HIIT và VIIT. Hầu hết mức độ tương quan giữa các biến giải thích trong mô hình IIT, HIIT và VIIT là khá nhỏ, tức mô hình không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến hoàn hảo. 3.2.3. Kết quả ước lượng mô hình Qua các kết quả kiểm định trên cho biết mô hình luận án áp dụng phương pháp REM cho toàn bộ quá trình ước lượng của các mô hình IIT, HIIT và VIIT. Trong mô hình có sử dụng hồi quy Robust nhằm kiểm soát khuyết tật Phương sai sai số thay đổi và Tự tương quan. Ngoài ra tương quan tuyến tính giữa một số biến giải thích cao hơn 0,7 nên mô hình có đa cộng tuyến cao nhưng không phải đa cộng tuyến hoàn hảo, các kết quả ước lượng vẫn đảm bảo tính LUE (tuyến tính, không chệch, tốt nhất). Mặt khác, số quan sát của mô hình lớn hơn 100 quan sát nên theo quy luật số lớn phân phối của mẫu có thể được coi là phân phối chuẩn. Ngoài ra, trong mô hình không có biến chễ là biến phụ thuộc đóng vai trò là biến độc lập nên mô hình không xảy ra hiện tượng nội sinh. Kết quả ước lượng các yếu tố tác động đến IIT, HIIT và VIIT của Việt Nam với các thành viên APEC giai đoạn 1997 – 2014. Cho thấy các hệ số hồi quy đều có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 10%, trừ nhân tố mức độ mất cân bằng trong thương mại, FDI và biến động tỷ giá hối đoái. Điều đó có nghĩa tất cả các nhân tố đều có tác động đến IIT hàng nông sản của Việt Nam với các thành viên APEC chỉ trừ nhân tố mức mất cân bằng trong thương mại, FDI và biến động tỷ giá hối đoái. Qua mô hình phân tích cho thấy các yếu tố quyết định của IIT hàng nông sản giữa Việt Nam và các đối tác thương mại thuộc APEC trong giai đoạn 1997 - 2014 bao gồm: Quy mô của nền kinh tế, sự khác biệt về quy mô kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, sự khác biệt về mức thu nhập bình quân đầu người, khoảng cách địa lý, quy mô dân số và độ mở nền kinh tế, diện tích đất nông nghiệp, đường biên giới chung và cùng tham gia hiệp định thương mại tự do song phương giữa Việt Nam với các đối tác thương mại, còn lại các yếu tố về mức độ mất cân
- 16 bằng thương mại, FDI, biến động tỷ giá hối đoái là không có ảnh hưởng đến IIT hàng nông sản. Chiều hướng tác động của các nhân tố lên IIT, HIIT, VIIT phần lớn là đúng lý thuyết và giả thuyết nghiên cứu. 3.3. Đánh giá chung về IIT hàng nông sản giữa Việt Nam và APEC Những ưu điểm Khối lượng và cường độ IIT giữa Việt Nam và các đối tác thương mại thuộc APEC ngày càng gia tăng trong giai đoạn 1997 – 2014 và có xu hướng chiếm thị phần lớn trong thương mại quốc tế. Tuy nhiên mức độ phát triển IIT không đồng đều giữa các quốc gia. Trong mỗi quốc gia cũng chỉ tập trung IIT vào một nhóm mặt hàng nhất định. Do đó, mức độ của cả HIIT và VIIT đều ở mức thấp. Tuy nhiên, mức độ của VIIT cao hơn HIIT giữa Việt Nam và các đối tác thương mại trong khoảng thời gian nghiên cứu. Xu hướng này được thể hiện rõ thông qua các chỉ số của HIIT và VIIT giữa Việt Nam và các nước phát triển như Úc, Hoa Kỳ, New Zealand, Mehico… Điều này cho thấy rằng, xu hướng trao đổi thương mại hai chiều của Việt Nam về các mặt hàng khác nhau với chất lượng khác nhau xảy ra nhiều hơn thương mại về các sản phẩm giống nhau, chỉ khác nhau về mẫu mã. Điều này có thể là do sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế, sự khác biệt thu nhập bình quân đầu người giữa Việt Nam và các đối tác thương mại. Trong các đối tác thương mại lớn, Việt Nam đã đạt được mức độ IIT cao nhất chủ yếu với các nước phát triển trong khu vực Đông Nam Á. Có được kết quả này một phần là do Việt Nam có lợi thế hơn về khoảng cách địa lý, có nét văn hóa tương đồng tạo nên xu hướng tiêu dùng giống nhau, chi phí vận chuyển và thông tin giảm hơn so với các nước khác trong khối APEC. Do đó Việt Nam cần tận dụng các lợi thế này để góp phần ổn định và phát triển về IIT hàng nông sản. Trong những năm gần đây mức độ HIIT hàng nông sản giữa Việt Nam và thành viên APEC được cải thiện so với với mức độ VIIT. Một mặt là do chất lượng nông sản chế biến của Việt Nam được dần được cải thiện, tính khác biệt hóa sản phẩm theo chiều ngang được chú trọng để tạo nên tính cạnh tranh hơn cho nông sản Việt Nam. Mặt khác, nhiều mặt hàng nông sản của các nước khác đã được nhập khẩu, tiêu thụ trên thị trường và được người tiêu dùng Việt Nam lựa chọn sử dụng. Chính điều này sẽ góp phần cải thiện mức độ IIT hàng nông sản giữa Việt Nam và các nước APEC. Qua mô hình phân tích cho thấy các yếu tố quyết định của IIT hàng nông sản giữa Việt Nam và các đối tác thương mại thuộc APEC trong giai đoạn 1997 - 2014 bao gồm: Quy mô của nền kinh tế, sự khác biệt về quy mô kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, sự khác biệt về mức thu nhập bình quân đầu người, khoảng
- 17 cách địa lý, quy mô dân số và độ mở nền kinh tế, diện tích đất nông nghiệp, đường biên giới chung và cùng tham gia hiệp định thương mại tự do song phương giữa Việt Nam với các đối tác thương mại, còn lại các yếu tố về mức độ mất cân bằng thương mại, FDI, biến động tỷ giá hối đoái là không có ảnh hưởng đến IIT hàng nông sản. Một số hạn chế Nhìn chung, Việt Nam đã bước đầu hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung nhưng khối lượng hàng hóa còn nhỏ bé, thị phần trên thế giới thấp, chất lượng chưa đồng đều và ổn định. Việt Nam chưa hình thành được các vùng chuyên canh sản xuất hàng tươi sống và vùng nguyên liệu tập trung cho các nhà máy chế biến lớn theo yêu cầu kỹ thuật và kinh tế. Gạo của Việt Nam chưa đảm bảo độ đồng nhất về quy cách chất lượng ngay trong từng lô gạo, bao bì đóng gói kém hấp dẫn và chưa có nhãn thương hiệu của doanh nghiệp mình trên vỏ bao bì. Điều đó làm cho giá xuất khẩu của nông sản Việt Nam thấp hơn các nước khác. Phần lớn các loại giống cây con hiện đang được nông dân sử dụng có năng suất và chất lượng thấp hơn so với các nước trên thế giới. Trên địa bàn cả nước chưa hình thành được một hệ thống cung ứng giống cây con tốt cho người sản xuất, từ giống tác giả, giống nguyên chủng cho đến giống thương phẩm. Hầu hết người nông dân đã tự sản xuất giống cây con cho mình từ vụ thu hoạch trước hoặc mua giống trên thị trường trôi nổi mà không có sự đảm bảo về chất lượng, đặc biệt là giống các loại cây ăn quả, cây lương thực, cây rau… Năng suất lúa của Việt Nam chỉ bằng 61% năng suất lúa của Trung Quốc và thấp thua nhiều so với lúa của Nhật ản, Italia, Mỹ. Năng suất cà chua của ta chỉ bằng 65% năng suất cà chua thế giới, cao su Việt Nam mới đạt năng suất 1,1 tấn/ha, so với năng suất thế giới là 1,5 - 1,8 tấn/ha - thấp hơn tới 30-40%. So với các đối thủ cạnh tranh, Việt Nam có công nghệ chế biến lạc hậu, chưa đảm bảo chất lượng sản phẩm theo yêu cầu tiêu dùng của các thị trường khó tính như Nhật ản, EU, ắc Mỹ. Mặt khác, kết cấu hạ tầng phục vụ cho việc vận chuyển, bảo quản dự trữ, bốc xếp hàng hóa nông sản, nhất là hàng tươi sống rất yếu kém nên giá thành sản phẩm và phí gián tiếp khác tăng nhanh. Những hạn chế trong quá trình chế biến nông sản của Việt Nam. Chế biến nông sản đang là một lĩnh vực còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam. Trong thời gian qua, hoạt động chế biến hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu được thực hiện với phương tiện chế biến lạc hậu, chưa có nhiều nông sản có thương hiệu, qua nhiều khâu trung gian nên có năng suất thấp. Hoạt động này chưa được thực hiện một cách đồng bộ, dẫn đến hiệu quả chưa
- 18 cao, sản phẩm đầu ra thường có phẩm cấp thấp do lẫn tạp chất nhiều, mẫu mã chưa hấp dẫn. Mặc dù tại nhiều địa phương đã áp dụng quy trình sản xuất nông nghiệp tốt (GAP) và quy trình chế biến tốt (GMP) để đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh nhưng khâu vận chuyển từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ không hợp lý, chưa đúng cách đã làm cho chất lượng nhiều nông sản bị giảm sút. Nguyên nhân tồn tại Công nghệ chế biến: Một trong những nguyên nhân về sự kém phát triển IIT chính là việc sử dụng hạn chế công nghệ tiên tiến trong sản xuất, được thể hiện ở nguồn lực các yếu tố sản xuất. Với kỹ thuật lạc hậu, Việt Nam không có khả năng nâng cao chất lượng nông sản chế biến và theo đó xuất khẩu chủ yếu của quốc gia là hàng hóa có giá trị gia tăng thấp, thâm dụng lao động cao. Những yếu kém trong khâu chế biến được xem là nổi cộm hiện nay và là một trong những nguyên nhân làm giảm sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam. Điều này phản ánh qua mức độ IIT hàng nông sản tập trung cao ở các mặt hàng nhóm 04, 05, 07 là rau quả, cà phê, chè và nhóm 23 và 24 là cao su và gỗ. Chất lượng nông sản: Một thực tế là hàng nông sản Việt Nam thường thua kém các nước khác từ 15-50% về giá trị do những chênh lệch về chất lượng, hàng nông sản của Việt Nam bị cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế, đặc biệt là tại các thị trường khó tính. Một số sản phẩm có giá thành sản xuất cao nhưng sức cạnh tranh kém như đường, muối… Trong quá trình chế biến và bảo quản, nhiều sản phẩm tổn thất sau thu hoạch cả về số lượng và chất lượng hiện vẫn đang còn rất lớn, như lúa gạo hao hụt khoảng 11-13 %; rau quả khoảng 20-25%... làm tăng giá thành sản xuất nguyên liệu và sản phẩm, giảm chất lượng và giá bán sản phẩm Chủng loại hàng hóa: Nông sản xuất khẩu của Việt Nam đa dạng hơn nhưng các mặt hàng vẫn còn khá đơn điệu, chưa có sự thay đổi đột biến về chủng loại, về chất lượng, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào một vài mặt hàng chủ lực, truyền thống như gạo, cà phê, cao su, … mà phần lớn chúng đều tiềm ẩn nguy cơ tăng trưởng chậm dần do gặp phải những hạn chế mang tính cơ cấu như diện tích, năng suất, khả năng khai thác có hạn… và khả năng cạnh tranh ngày càng giảm dần. Ngoài ra còn kể đến nguyên nhân là thiếu các hiệp định thương mại song phương. Minh chứng cụ thể như hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã thúc đẩy mạnh thương mại giữa hai nước. Kể từ khi ký hiệp định, xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang Mỹ đã tăng lên nhanh chóng. Điều này cho thấy những lợi thế từ việc ký kết các hiệp định thương mại tạo hành lang thông thoáng cho nông sản Việt Nam xâm nhập vào các thị trường nước ngoài.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 183 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030
27 p | 210 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 268 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ: Nghiên cứu tối ưu các thông số hệ thống treo ô tô khách sử dụng tại Việt Nam
24 p | 252 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 177 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 149 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 199 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 136 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn