intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Can thiệp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa về đào tạo - tư vấn kinh doanh: Phát triển mô hình logic và đánh giá tác động thực nghiệm ở Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:29

2
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế "Can thiệp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa về đào tạo - tư vấn kinh doanh: Phát triển mô hình logic và đánh giá tác động thực nghiệm ở Việt Nam" được nghiên cứu với mục tiêu: Phát triển mô hình logic của can thiệp hỗ trợ SMEs về đào tạo-tư vấn kinh doanh; Đánh giá tác động của can thiệp hỗ trợ SMEs về đào tạo-tư vấn kinh doanh của Chính phủ Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Can thiệp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa về đào tạo - tư vấn kinh doanh: Phát triển mô hình logic và đánh giá tác động thực nghiệm ở Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------------------------------------ Nguyễn Khánh Duy CAN THIỆP HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VỀ ĐÀO TẠO - TƯ VẤN KINH DOANH: PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH LOGIC VÀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG THỰC NGHIỆM Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Kinh tế Phát triển Mã số: 9310105 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh - Năm 2024
  2. 2 Công trình được hoàn thành tại: Đại học Kinh tế Thành Phố Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học: 1. Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Bảo 2. Tiến sĩ Nguyễn Hữu Lam Phảnbiện 1:………………………………………………………. …………………………………………………………………… Phản biện 2:……………………………………………………… …………………………………………………………………… Phản biện 3:……………………………………………………… …………………………………………………………………… Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường họp tại:…………………………………………………………… …………………………………………………………………… Vào hồi……..giờ……ngày…….tháng…….năm Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: 2
  3. 3 CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN CỦA TÁC GIẢ 1. ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Nguyen Khanh Duy, Nguyen Thi Hoang Oanh, Pham Tien Thanh, Nguyen Duy Tam, Truong Thanh Vu (2014), Investment in human capital and labor productivity in Vietnam: the case study on small and medium enterprises, The Mekong Economic Research Network (MERN) – [a research initiative managed by the Centre for Analysis and Forecasting (CAF) of the Vietnam Academy of Social Sciences (VASS) with financial support from the International Development Research Centre (IDRC), Canada]. Sẵn có tại: https://idl-bnc- idrc.dspacedirect.org/server/api/core/bitstreams/a4dc36fe- 3a9d-4dea-803c-476dbe1bd554/content 2. BÀI BÁO KHOA HỌC Nguyen Khanh Duy, Pham Tien Thanh, Nguyen Thi Hoang Oanh, Nguyen Duy Tam, Truong Thanh Vu (2015), Impact Evaluation of Training on Firms’ Performance – The Case of the Small and Medium Enterprises in Vietnam, Mediterranean Journal of Social Sciences, March 2015 Nguyen Khanh Duy, Nguyen Thi Hoang Oanh (2015), Impact Evaluation of Training on Productivity of the Small and Medium Enterprises in Vietnam, Asian Social Science, May 2015 Nguyen Khanh Duy, Nguyen Thi Hoang Oanh, Pham Tien Thanh, Nguyen Duy Tam, Truong Thanh Vu (2013), Investment in Human Capital and Labor Productivity in Southern Key Economic Zone An Application of Propensity Score Matching Method, Journal of Economic Development (Vietnam), No.215 January 3. HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC Nguyen Khanh Duy, Nguyen Thi Hoang Oanh, Nguyen Duy Tam, Pham Tien Thanh, Truong Thanh Vu (2014), The
  4. 4 usage of propensity score matching method for training impact evaluation on productivity in Vietnam: the case of small and medium enterprises (SMEs), The 1st International Conference on Finance and Economics 2014, June 2nd-4th, 2014, HCMC, Ton Duc Thang University (Vietnam)– Tomas Bata University in Zlín (Czech Republic), Corvinus University of Budapest (Hungary) Nguyen Khanh Duy, Pham Tien Thanh, Nguyen Thi Hoang Oanh, Nguyen Duy Tam, Truong Thanh Vu (2015), Impact evaluation of training on firms' performance - The case of the small and medium enterprises in Vietnam, The Eighth Vietnam Economist Annual Meeting (VEAM 2015), 9th – 10th June 2015 Nguyễn Khánh Duy (2019), Can thiệp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa về hỗ trợ đào tạo - tư vấn kinh doanh: bằng chứng thực nghiệm về tác động đến năng suất lao động, trong Nguyễn Hữu Huy Nhựt (chủ biên) Năng lực lao động của công nhân trên địa bàn TPHCM: thực tế và tương lai, NXB Kinh tế TP.HCM 4. CÔNG BỐ KHÁC
  5. 5 Nguyễn Khánh Duy (2018), Đánh giá tác động các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, trong Nguyễn Việt Dũng, Nguyễn Ngọc Vinh, Huỳnh Văn Hùng (chủ biên), Báo cáo thường niên năm 2017: Hoạt động Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong 4 ngành công nghiệp trọng điểm trên địa bàn TPHCM, Nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp thành phố, Sở Khoa học và công nghệ TPHCM Viet Hoang, Khanh-Duy Nguyen, Hoang-Le Nguyen (2023), Framework and determinants of benchmarking: a theoretical analysis and case study in Vietnam, International Journal of Emerging Markets, Vol. 18 No. 10. pp. 4651-4668.
  6. 6 Tóm tắt Hiện nay, mô hình logic (lý thuyết thay đổi) của can thiệp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) về đào tạo-tư vấn kinh doanh được công bố chưa nhiều. Thêm vào đó, những mô hình được tìm thấy vẫn còn một số giới hạn về nền tảng lý thuyết, phương pháp xây dựng, và nội dung của mô hình. Ngoài ra, việc thiết kế, thực thi, giám sát và đánh giá các chính sách, chương trình, dự án liên quan đến loại can thiệp này ở nhiều quốc gia cũng còn một số hạn chế. Do vậy, mục tiêu chính của đề tài là: (1) phát triển mô hình logic của can thiệp hỗ trợ SMEs về đào tạo-tư vấn kinh doanh; (2) đánh giá tác động của can thiệp hỗ trợ SMEs về đào tạo-tư vấn kinh doanh của Chính phủ Việt Nam. Với phương pháp định tính, mô hình logic của can thiệp này đã được bổ sung nhiều căn cứ lý thuyết và bằng chứng thực địa, mở rộng cho nhiều cấp độ (cá nhân-hộ; doanh nghiệp-ngành; địa phương-quốc gia), bổ sung các kết quả tiềm năng mới. Bằng phương pháp định lượng với kỹ thuật PSM, DID-PSM và cách tiếp cận Minimum Bayes Factor dựa trên dữ liệu khảo sát SMEs, đề tài phát hiện rằng can thiệp do chính phủ Việt Nam thực hiện đã có tác động tích cực lên các SMEs được thụ hưởng về thực tiễn kinh doanh, mạng lưới, đầu tư, hiệu quả hoạt động kinh doanh, và đóng góp vào ngân sách nhà nước. Từ khóa: Đánh giá tác động, Mô hình logic, Can thiệp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa về đào tạo-tư vấn kinh doanh, PSM, DID-PSM, MBF
  7. 1. GIỚI THIỆU Đề tài này hướng đến hai mục tiêu nghiên cứu chính: (1) phát triển mô hình logic (hay lý thuyết thay đổi) của can thiệp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) về đào tạo-tư vấn kinh doanh; và (2) đánh giá tác động1 của can thiệp hỗ trợ SMEs về đào tạo-tư vấn kinh doanh của Chính phủ Việt Nam lên các doanh nghiệp được thụ hưởng. Những lý do chính để thực hiện hai mục tiêu này là: Thứ nhất, các chính sách, chương trình, dự án (gọi chung là các can thiệp) về hỗ trợ SMEs đã và đang được chính phủ, doanh nghiệp (DN), tổ chức và các bên liên quan của nhiều quốc gia quan tâm. Mô hình logic của can thiệp hỗ trợ đào tạo-tư vấn về kinh doanh cho SMEs (viết tắt là BTCI, business training–consulting intervention for SMEs) có vai trò rất quan trọng trong việc hoạch định, triển khai, giám sát loại can thiệp này. Tuy nhiên, mô hình logic của can thiệp này ít được đề cập trong lý thuyết, trong các nghiên cứu thực nghiệm; đồng thời, một số mô hình logic hoặc những luận điểm chính của mô hình logic của can thiệp hiện có (Grimm & Paffhausen 2014 2015, McKenzies & Woodruff 2012 2014) vẫn còn một số hạn nhất định về căn cứ lý thuyết, về nội dung và phương pháp xây dựng. Ở thời điểm năm 2024, tác cũng chưa tìm thấy các mô hình logic của BTCI hợp lý hơn được công bố trên các tạp chí học thuật. Thứ hai, SMEs chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế và có vai trò ngày càng lớn về tạo việc làm, đóng góp vào ngân sách, thúc đẩy tăng trưởng; do vậy, các khía cạnh liên quan đến SMEs được 1 ‘Đánh giá tác động’ được dịch từ thuật ngữ ‘impact evaluation’. Đánh giá tác động của can thiệp chương trình hay dự án là việc nỗ lực tìm hiểu xem có phải sự thay đổi trong phúc lợi (the changes in well-being) của đối tượng thụ hưởng là do can thiệp chương trình hay dự án (project or program intervention) tạo nên hay không (Khandker & ctg. 2010) .
  8. nhiều nhà nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế phát triển và các nhà hoạch định chính sách quan tâm (Rand & Tarp 2020, Trần & Trần 2023). Ở thời kỳ 2011-2015, 2016-2020, 2021-2025 cũng như trong tương lai, BTCI được Chính Phủ Việt Nam quan tâm và thực hiện. Trong gần 10 năm trong quá khứ, ở Việt Nam, Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ (mà trực tiếp là Thông tư liên tịch số 05/2011/TTLT-BKHĐT-BTC của Bộ Kế hoạch & đầu tư và Bộ tài chính được áp dụng trên thực tế ở thời kỳ cuối 2011 đến cuối năm 2014, và Thông tư số 04/2014/TTLT-BKHĐT-BTC ở thời kỳ cuối 2014 đến cuối năm 2019) là văn bản chính liên quan đến can thiệp này cho đến khi Luật hỗ trợ SMEs và các văn bản hướng dẫn thi hành được ban hành đầy đủ, có hiệu lực và thực sự được triển khai mạnh mẽ trên thực tế (từ cuối năm 2019 trở về sau) 2. Tuy vậy, tính hiệu quả của can thiệp này vẫn còn nhiều tranh luận (Nguyễn 2023) và chưa tìm thấy nghiên cứu định lượng (với thiết kế thí nghiệm hoặc bán thí nghiệm) về đánh giá tác động can thiệp hỗ trợ SMEs về đào tạo-tư vấn kinh doanh của chính phủ Việt Nam nhằm thấy được can thiệp có thực sự mang lại lợi ích cho các SMEs được thụ hưởng hay không. Việc đánh giá tác động của can thiệp này bằng phương pháp định lượng (và kết hợp với phương pháp định tính) cũng sẽ góp phần giúp chính phủ, chính quyền các địa phương và đơn vị liên quan có thêm thông tin trong việc điều chỉnh chính sách trong tương lai cũng như triển khai các chính sách mới có hiệu lực (ở thời kỳ sau 2019) được tốt hơn, và có thể góp phần bổ sung bằng chứng, bài học kinh nghiệm cho các can thiệp liên quan đến SMEs của các tổ chức hỗ trợ SMEs, hay một số quốc gia có bối cảnh tương đồng với Việt Nam. 2 Trên thực tế, ngày 1/1/2018 Luật Doanh nghiệp có hiệu lực thi hành nhưng các Thông tư hướng dẫn chi tiết về hoạt động hỗ trợ đào tạo, tư vấn kinh doanh cho SMEs và cũng như hướng dẫn sử dụng nguồn kinh phí nhà nước cho các hoạt động này được ban hành, cập nhật tương đối đầy đủ ở thời điểm đầu năm 2024.
  9. 2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM 2.1 Lý thuyết Có một số lý thuyết (hoặc luận điểm lý thuyết), mô hình lý thuyết (hay có thể gọi là khung lý thuyết) lý giải ảnh hưởng của hoạt động đào tạo-tư vấn trong doanh nghiệp nói chung, đào tạo-tư vấn về kinh doanh cho chủ doanh nghiệp, người quản lý cũng như người lao động trong doanh nghiệp và những người có ý định khởi sự kinh doanh đến một số kết kết quả (trung gian hoặc cuối cùng) ở cấp độ cá nhân cũng như cấp độ doanh nghiệp, ngành hay cấp độ cộng đồng. Hai nhánh lý thuyết/luận điểm lý thuyết quan trọng trong việc lý giải ảnh hưởng của đào tạo lên năng suất, sản lượng là lý thuyết vốn quản lý của Bruhn và ctg. (2010) và lý thuyết vốn con người của Becker (1993, 2010) cũng như những bổ sung phát triển lý thuyết vốn con người của Chang và Wang (1996) và Acemoglu và Pischke (1998, 1999, 2009) khi có thông tin bất cân xứng, hay sự quan tâm đến khái niệm vốn con người đổi mới của (McGuirk & ctg. 2015, Xu & Li 2019). Trên nền tảng hai nhánh lý thuyết được đề cập, hai nhóm mô hình kinh tế liên quan. Mô hình của Bruhn và Zia (2013) đã sử dụng ngôn ngữ toán kinh tế nhằm mô tả một số luận điểm Bruhn và ctg. (2010) về vốn quản lý trong việc lý giải một số kênh tác động của kỹ năng kinh doanh hay quản lý (business or management skills) đến năng suất, sản lượng, cũng như lợi nhuận (ở góc độ doanh nghiệp hay ngành). Dựa trên khung khổ lý thuyết vốn con người, mô hình kinh tế lý giải ảnh hưởng của hoạt động đào tạo trong doanh nghiệp đến năng suất, sản lượng, tiền lương bình quân một lao động cho cấp độ doanh nghiệp/ngành đã được phát triển bởi Dearden và ctg (2000, 2006) và Konings vàVanoemlingen (2011). Các tác giả này cũng tiến hành thu thập dữ liệu và kiểm định mô hình mà họ đề xuất.
  10. Ngoài ra, dựa trên khung lý thuyết quản trị nguồn nhân lực chiến lược (Wright &McMahan 1992), khung lý thuyết về mối liên hệ giữa đào tạo trong DN và kết quả quản trị nguồn nhân lực, kết quả của tổ chức, kết quả tài chính đã được Tharenou & ctg. (2007) phát triển. Bên cạnh đó, một số luận điểm lý thuyết liên quan đến khái niệm mạng lưới cũng như mối quan hệ giữa mạng lưới, cải tiến-đổi mới và hiệu quả hoạt động của DN của nhiều tác giả (Ví dụ, Törnroos & ctg. 2017, Granovetter 1973 1985, Coleman 1988, Hansen 1999, Uzzi 1997, Watson 2007) sẽ là một trong những cơ sở cho việc bổ sung khái niệm mạng lưới vào khung phân tích, khung logic của BTCI. Ảnh hưởng của BTCI cho DN lên một số kết quả tiềm năng cũng có thể được lý giải bởi nghiên cứu của Solow (1957) (ảnh hưởng lên tăng trưởng sản lượng thông qua sự thay đổi trong tốc độ tăng/giảm TFP), các nghiên cứu của World Bank (2004 2005 2018 2019) và ADB và ctg. (2014), của Mankiw, Romer và Weil (1992) (thông qua cải thiện vốn con người), của McGuirk & ctg. (2015) và Xu & Li (2019) (thông qua vốn con người đổi mới), của Schumpeter (1934) (trích trong Atkinson & Ezell 2017) (thông qua hoạt động cải tiến-đổi mới) hay World Bank (2005) (thông qua môi trường đầu tư kinh doanh), của World Bank (2008) (khi lý giải các quốc gia giàu hơn nhờ kỹ năng của nguồn nhân lực và chất lượng thể chế được cải thiện). Ngoài ra, Blundell & ctg. (1999), đã giới thiệu một số lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm trong việc lý giải ảnh hưởng của đầu tư vào vốn con người lên một số kết quả tiềm năng ở cấp độ cá nhân, DN và quốc gia. 2.2 Mô hình logic của can thiệp hỗ trợ đào tạo-tư vấn kinh doanh
  11. Mô hình logic của các chương trình hỗ trợ SMEs3 nói chung được Grimm và Paffhausen (2015) đề xuất dựa trên việc tổng quan các nghiên cứu định lượng về đánh giá tác động có liên quan. Các chương trình hỗ trợ SMEs (các can thiệp phát triển) trong nghiên cứu bao gồm 5 nhóm hoạt động can thiệp chính. Đó là: (1) hỗ trợ về tài chính; (2) hỗ trợ về đào tạo và tư vấn (training); (3) hỗ trợ liên quan đến dịch vụ phát triển kinh doanh 4 (4) đơn giản hóa thủ tục đăng ký; (5) và hệ thống khuyến khích khu vực tư nhân, mà chủ yếu tập trung vào hệ thống khuyến khích lương. Grimm và Paffhausen (2015, tr. 69) mô tả rằng5: Các can thiệp được xem xét ảnh hưởng đến những doanh nghiệp hiện tại hoặc những doanh nghiệp trong tương lai theo nhiều cách thức khác nhau. Cách thức thứ nhất là nới lỏng những ràng buộc của thị trường vốn, Cách thức thứ hai là cải thiện những kỹ năng quản lý (improve management skills) và thực tiễn kinh doanh (business practices), và cách thức thứ ba là giảm chi phí lao động (reduce the cost of labor) hoặc là thuận lợi hơn trong các thủ tục chính thức hóa hoạt động kinh doanh. (...) Bước tiếp theo, kết quả liên quan đến tài chính của các kênh mà chúng ta quan tâm, cũng có thể được thể hiện là những kết quả trung gian (intermediate outcomes); đó là: đầu tư (investment), năng suất (productivity), sản lượng hay giá trị sản lượng (output) và lợi nhuận (profits). Rõ ràng là tất cả các can thiệp không nhất thiết sẽ làm thay đổi số lượng việc làm. Nếu sự không hoàn hảo trong thị trường vốn được nới lỏng và đầu tư tăng lên, tác động lên việc làm chỉ xuất hiện khi sự đầu tư là đủ lớn và khi lao động là một yếu tố bổ sung chứ không phải là yếu tố thay thế. Nếu sự đầu tư có tính chất tiết kiệm lao động thì có thể dẫn đến giảm số lượng việc làm. Các 3 Nhiều nhà nghiên cứu gọi là “lý thuyết thay đổi“ (theory of change) (ví dụ như Grimm & Paffhausen 2015); hay lý thuyết của chương trình (Posavac 2011) 4 business development services 5 Do Grimm và Paffhausen (2015) mô tả tương đối ngắn gọn, và có rất ít lý thuyết thay đổi của can thiệp tương tự được công bố chính thức nên tác giả luận án này đã trích dẫn trực tiếp để người đọc có được thông tin đầy đủ nhất.
  12. khoản tín dụng mà được sử dụng để làm tăng lượng hàng tồn kho thì không chắc dẫn đến tăng việc làm. Cơ chế mà ảnh hưởng của BTCI cho SMEs có thể dẫn đến tăng việc làm là thông qua việc tăng năng suất, tăng sản lượng, giảm chi phí; Grimm và Paffhausen (2015, tr. 69) đã trình bày cơ chế này và đưa ra một số giả định6: Những can thiệp mà làm tăng năng suất, chẳng hạn như can thiệp đào tạo, sẽ chỉ dẫn đến tăng việc làm nếu như sản lượng (hay giá trị sản lượng) tăng lên kết hợp với sự hạ thấp chi phí. […]. Chỉ tăng trưởng theo chiều rộng mới có liên quan chặt chẽ với sự tăng thêm số lượng việc làm. Nếu như số lượng việc làm chưa tăng lên, sự tăng năng suất có thể duy trì sự sống sót của doanh nghiệp và do vậy ngăn chặn sự mất đi các công việc hiện hữu; trên phương diện này, sự cải thiện năng suất cũng có một đóng góp vào số lượng việc làm. Grimm và Paffhausen (2014, tr. 22) mô tả mô hình logic của can thiệp hỗ trợ đào tạo và tư vấn về kinh doanh cho SMEs như sau: Với giả định rằng đối tượng mục tiêu của can thiệp tham gia chương trình đào tạo kinh doanh và tận dụng các dịch vụ, can thiệp đào tạo về kinh doanh sẽ cải thiện các kỹ năng quản lý 7 của chủ các doanh nghiệp đang tồn tại hoặc các doanh nghiệp trong tương lai (ví dụ như các kỹ năng giải quyết vấn đề và các kỹ năng liên quan đến tài chính được cải thiện, nâng cao nhận thức về các sản phẩm tài chính và lợi ích mà họ có thể nhận được). Do đó, nếu các đối tượng thụ hưởng sử dụng các kết quả từ can thiệp trên (cải thiện kiến thức, kỹ năng quản lý) vào doanh nghiệp của họ thì họ có thể làm tăng năng suất của doanh nghiệp (giả định rằng: những kiến thức/kỹ năng được học từ khóa huấn luyện thực sự có tính ứng dụng và phù hợp với bối cảnh của doanh nghiệp); hàm ý rằng có sự tăng lên về quy mô của ảnh hưởng biên. Lợi nhuận cũng sẽ tăng lên do sự tăng năng suất này. 6 ngoài giả định rằng lao động là yếu tố bổ sung cho vốn, tăng trưởng theo chiều rộng, còn có những giả định khác về sự thuận lợi trong việc tuyển dụng lao động đáp ứng được yêu cầu của DN 7 management skills
  13. Nếu vốn quản lý (managerial capital) ảnh hưởng đến năng suất cận biên của các đầu vào khác (the marginal productivity of other inputs) (ví dụ như như lao động)8 thì mức tăng trong quy mô của ảnh hưởng cận biên mở rộng 9 cũng có thể kể phụ thuộc vào mức độ cạnh tranh và nhu cầu; vì tối đa hóa lợi nhuận, các cá nhân cũng có thể tăng cường đầu tư vào doanh nghiệp (investment in the enterprise) và sử dụng đầu vào nhiều hơn để mở rộng sản xuất và thu được những khoản lợi nhuận tiềm năng bổ sung. Kết quả là: số lượng việc làm của các MSMEs được đào tạo sẽ tăng lên. McKenzie và Woodruff (2012, tr. 14) mô tả chuỗi nhân quả của can thiệp như sau: -Can thiệp đào tạo kinh doanh có ảnh hưởng đến tình trạng sống sót10 cũng như sự khởi sự kinh doanh11. -Can thiệp đào tạo kinh doanh có thể có tác động ngắn hạn lên việc khởi sự kinh doanh. Tuy nhiên nó không nhất thiết làm tăng việc làm vì có thể có người chuyển đổi từ công việc làm công ăn lương sang công việc tự kinh doanh. -Mối liên hệ trong chuỗi nhân quả từ can thiệp đào tạo kinh doanh đến hiệu quả/kết quả hoạt động kinh doanh (sự có lãi, tăng trưởng) như sau: can thiệp đào tạo kinh doanh giúp nâng cao kiến thức của chủ doanh nghiệp, và từ đó chủ doanh nghiệp thực hiện ít nhất một vài hoạt động (hay thực tiễn) và có các hành vi mà khóa đào tạo đã hướng dẫn cho họ. Cũng có thể có một cơ chế tiềm năng khác là: can thiệp đào tạo kinh doanh ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh thông qua việc thay đổi thái độ của người lao động hay giờ làm việc. Tuy nhiên, bất kỳ sự thay đổi trong thực tiễn nào cũng có thể thất bại; và khi đó sự thay đổi trong thực tiễn kinh doanh có thể hạn chế khả năng tác động tích 8 Đây là luận điểm của Bruhn & ctg. (2010) 9 an increase on the extensive margin 10 Có thể đo bằng sự xuất hiện thông tin của các biến kết quả, hay tỷ lệ mất dần các doanh nghiệp trong mẫu khảo sát. McKenzie & Woodruff (2012) lập luận rằng: sự đóng cửa của doanh nghiệp thường là nguyên nhân của sự mất dần trong trong các đợt khảo sát 11Với các nghiên cứu tập trung vào các doanh nghiệp tồn tại, khởi sự kinh doanh có thể được thể hiện bởi khởi sự một hoạt động kinh doanh thứ hai
  14. cực của can thiệp đào tạo đến việc cải thiện kết quả/hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp 2.3 Các nghiên cứu thực nghiệm về đánh giá tác động Nhiều can thiệp hỗ trợ đào tạo-tư vấn kinh doanh cho SMEs ở các quốc gia đã được đánh giá tác động. Một số can thiệp do chính phủ các quốc gia thực hiện (độc lập hoặc có sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế) trên phạm vi rộng (về số doanh nghiệp, số ngành được thụ hưởng; về phạm vi địa lý) được đánh giá bởi Jaramillo & Diaz (2011) (ở Pêru); (Indonesia); López-Acevodo và Tinajero (2010) và López-Acevodo và Tan (2011) (Ở Mê-hi-cô); Dumas & Hanchane 2010 (ở Ma-rốc) Cancino & ctg (2015) (ở Chi Lê); Castillo (2010) (ở Ác-hen-ti-na). Bên cạnh đó, một số can thiệp do các tổ chức hoặc các nhà nghiên cứu triển khai trên phạm vi hẹp cũng đã được đánh giá; ví dụ như Valdivia (2015), Bruhn & ctg (2014), Vũ (2012), Mano và ctg. (2011 2014), Higuchi & ctg. (2015 2019) 2.4. Các nghiên cứu thực nghiệm khác Ngoài ra, nhiều nghiên cứu thực nghiệm khác liên quan đến mối quan hệ giữa các khái niệm được sử dụng trong mô hình logic của can thiệp (ở nhiều cấp độ phân tích khác nhau) cũng đã được tổng quan. Chẳng hạn, những nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến đào tạo của DN; về ảnh hưởng của đào tạo đến hiệu quả hoạt động, tiền lương; về mối quan hệ giữa mạng lưới, cải tiến-đổi mới và hiệu quả hoạt động; về mối quan hệ giữa một số biến số vĩ mô của địa phương/quốc gia; về ảnh hưởng của đào tạo trong DN đến thu nhập, tiền lương của cá nhân người lao động. Từ các lý thuyết, mô hình kinh tế, khung lý thuyết, mô hình logic của can thiệp liên quan, các nghiên cứu thực nghiệm liên quan, đề tài đã phác thảo một khung phân tích. 3. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU Với thiết kế nghiên cứu hỗn hợp, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp với định lượng. Phương pháp nghiên
  15. cứu định tính được sử dụng để phát triển mô hình logic của can thiệp (mục tiêu 1) cũng như giúp bạn đọc có thêm thông tin để có thể thể hiểu sâu hơn về các kết quả định lượng, và đóng góp vào việc gợi ý chính sách. Phương pháp nghiên cứu định lượng được sử dụng để đánh giá tác động của can thiệp hỗ trợ SMEs về đào tạo-tư vấn kinh doanh do Chính phủ Việt Nam thực hiện theo Nghị định số 56 (mục tiêu 2). 3.1 Phương pháp nghiên cứu định tính Bên cạnh việc tổng quan tài liệu học thuật, thu thập thông tin định tính từ một số DN, chương trình dự án liên quan, đề tải sử dụng kỹ thuật quan sát-tham dự, phân tích tài liệu nội bộ, kỹ thuật phỏng vấn bán cấu trúc đối với các bên liên quan của ba tình huống chính. Tình huống 1 là “Chương trình trợ giúp, hỗ trợ về phát triển nguồn nhân lực cho SMEs” theo Nghị định 56 của chính phủ Việt Nam và trực tiếp là Thông tư 05/2011 và sau này được thay thế bởi Thông tư 04/2014. Tình huống 2 là Chương trình nâng cao năng lực của ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam thông qua phải cử các tình nguyện viên cao cấp người Nhật Bản (Gọi tắt là chương trình JICA). Tình huống 3 được nghiên cứu là Dự án phát triển doanh nghiệp bền vững (Gọi tắt là Dự án SCORE). 3.2 Phương pháp nghiên cứu định lượng Đánh giá tác động của BTCI do Chính phủ Việt Nam triển khai được thực hiện bởi hai kỹ thuật chính: kỹ thuật so sánh điểm xu hướng (PSM), Khác biệt trong khác biệt kết hợp với sánh điểm xu hướng (DID-PSM). Bên cạnh cách tiếp cận thống kê truyền thống, đề tài bổ sung thêm cách tiếp cận Minimum Bayes Factor (MBF) nhằm tận dụnng những ưu điểm của Thống kê Bayes nói chung cũng như của cách tiếp cận MBF nói riêng, chẳng hạn cung cấp thêm thông tin về độ mạnh của bằng chứng trong việc chống lại giả thuyết Ho (hay ủng hộ Ha), biết được khả năng xảy ra Ha cao hơn bao nhiêu lần so
  16. với Ho, tính toán được xác suất xảy ra Ha với điều kiện dữ liệu đã có,v.v... Nguồn dữ liệu định lượng là dữ liệu khảo sát SMEs của Việt Nam năm 2013 và năm 2015 (viết tắt là SMEs2013 và SMEs2015). Bộ dữ liệu khảo sát SMEs được thiết kế, thu thập, phân tích tổng quan bởi một số tổ chức chính: Khoa Kinh tế của Đại học Copenhagen (Đan Mạch), ILSSA và CIEM. Ngoài ra, có sự tham gia phối hợp của Viện thế giới về nghiên cứu Kinh tế phát triển của ĐH Liên Hiệp Quốc (UNU-WIDER). Dữ liệu được khảo sát hai năm một lần, đợt khảo sát năm 2015 là đợt cuối cùng (tại thời điểm năm 2024, chưa có thông tin về các đợt khảo sát sau năm 2015). Trong mỗi đợt khảo sát, dữ liệu SMEs gồm có thông tin của khoảng 2500 SMEs (bao gồm doanh nghiệp và hộ kinh doanh) thuộc lĩnh vực công nghiệp chế biến – chế tạo, ở khu vực ngoài quốc doanh trong nước, thuộc 10 tỉnh thành phố của Việt Nam. Tuy vậy, đề tài sử dụng dữ liệu liên quan đến các doanh nghiệp chính thức (không bao gồm các hộ kinh doanh) mà tồn tại ở cả hai đợt khảo sát. 4. PHÁT TRIỂN LÝ THUYẾT THAY ĐỔI CỦA CAN THIỆP HỖ TRỢ SMEs VỀ ĐÀO TẠO-TƯ VẤN KINH DOANH Mô hình logic của BTCI được phát triển dựa trên việc tổng quan các lý thuyết, mô hình kinh tế, các khung lý thuyết, các khung logic của BTCI của Grimm và Paffhausen (2014 2015) và McKenzie và Woodruff (2012 2014), các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan, và đặc biệt là các thông tin định tính mà tác giả thu thập được. Mô hình logic của BTCI được phát triển bởi nghiên cứu này có thể được trình bày một cách trực quan và mang tính tóm lược thông qua Sơ đồ phát triển như Hình 4.2. Các đầu vào của chính của can thiệp bao gồm: (1) nhân lực; (2) cơ sở vật chất, phương tiện, dịch vụ hỗ trợ; (3) mạng lưới; (4) tài chính, chính sách liên quan. Các hoạt động chính của BTCI gồm có:
  17. (1) cung cấp thông tin, biên soạn tài liệu, tổ chức hội thảo; (2) cung cấp dịch vụ đào tạo-tư vấn kinh doanh, giám sát và đánh giá; (3) miễn/giảm học phí, chi phí tư vấn cho doanh nghiệp, học viên; (4) huấn luyện các nhân viên hỗ trợ, trợ giảng, giảng viên; xây dựng mạng lưới các chuyên gia/đơn vị cung cấp dịch vụ đào tạo-tư vấn kinh doanh. Các đầu ra chính bao gồm: (1) cá cá nhân/hộ nhận được thông tin về can thiệp; (2) doanh nghiệp nhận được thông tin về can thiệp, về kiến thức, thực tiễn tốt, cơ hội kinh doanh; (3) sự hỗ trợ DN/cá nhân về đào tạo- tư vấn kinh doanh; (4) sự tham gia can thiệp của các Bộ ngành, chính quyền địa phương, hiệp hội, tổ chức, cá nhân. Các kết quả trung gian, kết quả cuối cùng (hay tác động) của can thiệp được thể hiện ở 3 cấp độ: (1) cá nhân/hộ gia đình; (2) doanh nghiệp/ngành; và (3) cộng đồng/địa phương/quốc gia. Ở cả ba cấp độ, đề tài (Chương 4 cùng với Chương 2 và Phụ lục C, D, E, F, H, I, J) đã luận giải sự tồn tại của các kết quả cuối cùng, kết quả trung gian mà được mô tả trong Hình 4.2 từ một số lý thuyết, nghiên cứu thực nghiệm trong kinh tế & quản trị, từ bằng chứng thực địa của 3 tình huống nghiên cứu cũng như các dữ liệu định tính được thu thập khác. Chẳng hạn, ở cấp độ DN/ngành, một số kết quả tiềm năng mới (so với hai mô hình logic của BTCI hiện có) là mở rộng mạng lưới của DN, tăng xuất khẩu, tăng đóng góp vào ngân sách nhà nước, và có sự thảo luận liên quan đến kết quả nâng cao năng lực cạnh tranh. Lấy ví dụ minh họa cho việc bổ sung kết quả “mở rộng mạng lưới” vào mô hình logic của BTCI, một số luận điểm từ góc cạnh lý thuyết/thực nghiệm và thông tin định tính được trình bày tóm lược như dưới đây. Ảnh hưởng của Mạng lưới đến hiệu quả hoạt động kinh doanh cũng đã được đề cập ở một số nghiên cứu (Ví dụ, Watson 2007, Uzzi 1997, Donchels & Lambrecht 1995, Lerner, Brush &
  18. Hisrich 1997). Đồng thời có mối quan hệ giữa ảnh hưởng của mạng lưới đến cải tiến-đổi mới12 (Havnes & Senneseth 2001, Kessler & Chakrabatri 1996, Nieto & Santamaria 2007, Freel 2003, Faems & ctg. 2005). Một trong những trở ngại đối với sự phát triển của SMEs chính là do các SMEs thiếu kết nối với các chuyên gia bên ngoài (Larsson & ctg. 2003). Việc cung cấp dịch vụ tư vấn cho DN cũng có thể xem là việc tạo thêm mạng lưới kết nối giữa DN và các chuyên gia tư vấn (Lerner, Brush & Hisrich 1997), và điều này thúc đẩy cải tiến-đổi mới cũng như tăng hiệu quả hoạt động (Kent 1994). Ngoài ra, ở trường hợp bối cảnh chương hình hỗ trợ SMEs về đào tạo kinh doanh của Chính phủ tại Tỉnh A (đã được đổi tên) Theo Thông tư 04, vào 9/2016, Anh Sử, trưởng phòng Kế toán-ngân quỹ của Ngân hàng hợp tác chi nhánh Tỉnh A tham dự lớp học đã kể rằng anh ấy có thêm khách hàng mới là do quen biết từ lớp học: Trước đây tôi cũng tham gia nhiều khóa, chi nhánh ngân hàng tôi làm việc cũng là ngân hàng thuộc nhóm có quy mô nhỏ và vừa, mới chuyển sang dạng thương mại. Ở đây cũng gặp được nhiều bạn quen...mấy bạn kia [anh chỉ tay về phía các chị mặc áo thun tím] là ở Ngân hàng Nông nghiệp. Khi tham gia lớp học trước đây, cũng có dịp gặp được công ty chế biến có nhu cầu vay vốn, và rồi họ cũng trở thành khách hàng của tôi. (PV anh Sử, Ngân hàng hợp tác chi nhánh Tỉnh A, 9/2016) Một ví dụ khác mà tác giả quan sát, phỏng vấn được liên quan đến việc mở rộng “mạng lưới” của DN là tình huống của công ty Nam Tiến13 (chuyên về sản xuất vòi nước, vòi sen cao cấp, cung cấp cho thị trường trong nước cũng như cho thị trường Campuchia). 12 về sản phẩm, quy trình, công nghệ, thị trường... 13 Tên công ty đã được thay đổi
  19. Việc giám đốc và một người quản lý của DN tham dự lớp học về đào tạo kinh doanh (khóa 1 về quản trị sản xuất chuyên sâu, thí điểm triển khai Thông tư 04 do TAC-HCM tổ chức với giảng viên là chuyên gia Nhật Bản/Hàn Quốc) đã giúp DN cải tiến-đổi mới trong thực tiễn kinh doanh (áp dụng 5S trong khu vực sản xuất, sau đó là khu vực văn phòng) và mở rộng mạng lưới thông qua mời chuyên gia đến tư vấn tại hiện trường nhiều lần, gửi trưởng phòng kinh doanh và 2 nhân viên đến TAC-HCM học tiếp khóa 2, tham gia các sự kiện khác do TAC-HCM và MPI tổ chức. TAC-HCM cũng phối hợp với các đơn vị khác tổ chức các sự kiện để kết nối thị trường, tìm kiếm nhà cung cấp của các DN FDI (nhiều SMEs từng tham gia khóa đào tạo/tư vấn do TAC-HCM và CT JICA tổ chức đã tham dự sự kiện; xem Hình 4.4 trong báo cáo chính). Bên cạnh đó, báo cáo của JICA (2018) cũng trình bày một minh chứng về ảnh hưởng tích cực của khóa học kinh doanh cao cấp (Keieijuku) đến thực tiễn kinh doanh, hiệu quả hoạt động, mạng lưới kinh doanh của Cty Hanel PT. Ở trường hợp của Dự án SCOREs, Dự án cũng có đề cập đến mục tiêu: “nâng cao năng suất và điều kiện làm việc trong các SMEs và giúp họ tham gia vào chuỗi cung cứng toàn cầu 14” (McGregor & Ulrich 2017, tr. 3). Tham gia được vào chuỗi cung ứng toàn cầu của các SMEs cũng phản ánh việc mở rộng mạng lưới kinh doanh và có thể được thể hiện ở nhiều cách thức, trong đó có việc cung cấp được sản phẩm dịch vụ cho các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam, hay các công ty khác là một trong các thành phần của chuỗi. Đã có nghiên cứu thực nghiệm quan tâm đến ảnh hưởng của BTCI cho SMEs đến việc “cung ứng sản phẩm hay dịch vụ cho các công ty đa quốc gia” (Ví dụ, López-Acevodo & Tinajero, 2010). Tuy nhiên, không nhiều 14 global supply chains
  20. báo cáo đánh giá tác động định lượng, cũng như mô hình logic của can thiệp BTCI cho SMEs quan tâm đến kết quả này. Hình 4.2 Sơ đồ phát triển của CT hỗ trợ SMEs về đào tạo-tư vấn KD Nguồn: Tác giả
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
33=>0