Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước trong Liên minh thuế quan miền Nam châu Phi (SACU)
lượt xem 7
download
Mục tiêu nghiên cứu của luận án là nghiên cứu xác lập các quan điểm, định hướng phát triển và các giải pháp về thể chế và thực thể kinh doanh thương mại trong phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước miền Nam châu Phi (SACU); bổ sung nguồn tư liệu cho công tác quản lý Nhà nước về thương mại, công tác nghiên cứu về việc phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước trong Liên minh thuế quan miền Nam châu Phi (SACU)
- 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài luận án Mở rộng, đa dạng hóa quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các đối tác là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Chiến lược Phát triển kinh tếxã hội 20112020 được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra định hướng: “Đa dạng hóa thị trường ngoài nước, khai thác có hiệu quả các thị trường có hiệp định thương mại tự do và thị trường tiềm năng, tăng nhanh xuất khẩu…”. Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 20112020, định hướng đến năm 2030 được ban hành tại Quyết định số 2471/QĐTTg ngày 28/12/2011. Chiến lược đã đề ra định hướng phát triển thị trường, trong đó nhấn mạnh cần phải “đa dạng hóa thị trường xuất khẩu; củng cố và mở rộng thị phần hàng hóa Việt Nam tại thị trường truyền thống; tạo bước đột phá mở rộng các thị trường xuất khẩu mới có tiềm năng”. Đối với thị trường Châu Phi, Chiến lược đề ra định hướng tới năm 2020 sẽ chiếm tỷ trọng khoảng 5% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Để thực hiện, cụ thể hóa các chủ trương, sách lược của Đảng và Nhà nước ta trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay thế giới có nhiều biến động, Việt Nam phải giảm sự lệ thuộc vào một số ít thị trường, tích cực mở rộng thị trường xuất khẩu, trong đó chú trọng các thị trường mới như thị trường Châu Phi. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, sự cạnh tranh, giành giật thị trường đang diễn ra gay gắt đòi hỏi phải có những nghiên cứu thường xuyên cập nhật, chi tiết về thị trường Châu Phi. Châu Phi là một thị trường rộng lớn với 55 quốc gia. Mỗi quốc gia, khu vực thị trường đều mang những đặc điểm thị trường có tính đặc thù riêng, vì vậy rất cần phải có những nghiên cứu chi tiết, chuyên sâu từng thị trường và khu vực thị trường. Trong số các tổ chức kinh tế khu vực của Châu Phi, Liên minh thuế quan miền Nam châu Phi (SACU) là tổ chức kinh tế khu vực thành công nhất của châu Phi và là đầu tầu tăng trưởng kinh tế của cả châu lục. SACU được thành lập từ năm 1910 và là Liên minh thuế quan được thành lập sớm nhất trên thế giới. Hiện nay khối liên minh này bao gồm 5 quốc gia thành viên đó là Nam Phi, Bostwana, Lesotho, Namibia và Swaziland. Thị trường các nước SACU được đánh giá có nhiều tiềm năng do kinh tế tăng trưởng khá ổn định, có nhu cầu hàng hóa lớn và đa dạng, chủ yếu là sản phẩm chất lượng vừa phải, giá rẻ. Bên cạnh đó, tình hình chính trị của các nước khu vực SACU khá ổn định; việc Mỹ, EU và một số nước cho phép nhiều sản phẩm các nước khu vực SACU tiếp cận tương đối tự do và thuận lợi hơn thị trường của họ cũng như nhiều chính sách thu hút đầu tư nước ngoài khá hấp dẫn đã giúp thị trường các nước khu vực SACU ngày càng giành được sự quan tâm chú ý của nhiều nước trên thế giới. Các nước SACU là một khu vực thị trường còn khá mới lạ đối với các doanh nghiệp nước ta. Trao đổi thương mại với các nước khu vực này vẫn còn hạn chế. Năm 2014, trao đổi thương mại hai chiều mới đạt mức 1,014 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 814 triệu USD và nhập khẩu đạt 200 triệu USD. Một trong những nguyên nhân chính khiến cho trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU còn hạn chế đó các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp chưa thực sự có nhiều giải pháp hữu hiệu để thúc đẩy, phát triển quan hệ thương mại với các nước này.
- 2 Bởi vậy, việc nghiên cứu đề tài Giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước trong Liên minh thuế quan miền Nam châu Phi (SACU) một cách có hệ thống sẽ góp phần cung cấp những luận cứ khoa học cho việc nghiên cứu hoạch định chính sách và giải pháp vĩ mô và vi mô nhằm thúc đẩy trao đổi thương mại của nước ta sang các nước SACU đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Đây cũng chính là lý do cho việc lựa chọn đề tài nghiên cứu của luận án. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục tiêu nghiên cứu: Mục tiêu nghiên cứu của luận án là nghiên cứu xác lập các quan điểm, định hướng phát triển và các giải pháp về thể chế và thực thể kinh doanh thương mại trong phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước SACU. * Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, luận án tập trung thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau: Tổng quan các công trình khoa học đã thực hiện liên quan đến việc phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước SACU , những vấn đề đã được nghiên cứu, xác định những vấn đề chưa được nghiên cứu, hoặc nghiên cứu chưa sâu để tập trung nghiên cứu. Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn quan hệ thương mại quốc tế nói chung và quan hệ thương mại giữa một quốc gia với các nước trong một liên minh thuế quan. Phân tích, đánh giá chính sách thương mại và các giải pháp đã được triển khai nhằm phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước trong SACU; phân tích, đánh giá thực trạng trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước trong SACU để tổng kết những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của quan hệ thương mại giữa Việt Nam và trong các nước SACU. Phân tích triển vọng phát triển, đề xuất các quan điểm, định hướng và kiến nghị một số giải pháp nhằm phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước trong SACU đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu của luận án: Những vấn đề về lý luận và thực tiễn về phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU. * Phạm vi nghiên cứu của luận án: Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu lý luận về phát triển quan hệ thương mại giữa các quốc gia; Nghiên cứu thực tiễn triển khai các chính sách thương mại và biện pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước SACU và đề xuất các giải pháp phát triển hơn nữa mối quan hệ này. Thời gian nghiên cứu: Thực trạng phát triển quan hệ thương mại, trong đó chủ yếu là trao đổi thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và các nước SACU từ năm 1992 đến nay; các giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU cho giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. 4. Phương pháp nghiên cứu * Phương pháp nghiên cứu thu thập dữ liệu sơ cấp
- 3 Bên cạnh việc nghiên cứu lý luận tại bàn về các vấn đề liên quan đến quan hệ thương mại giữa các quốc gia, tác giả còn tiến hành trao đổi với đối tượng có liên quan trong và ngoài nước như các nhà quản lý, các cán bộ làm công tác xúc tiến thương mại, đại diện một số doanh nghiệp và người tiêu dùng của Việt Nam và các nước SACU. * Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp Tác giả thu thập các văn bản, các công trình khoa học, đề tài, bài báo, sách, thông tin liên quan đến phát triển quan hệ thương mại giữa các quốc gia nói chung và phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước SACU nói riêng để nghiên cứu thông qua các phương pháp chọn lọc, phân tích, đánh giá, tổng hợp. 5. Những đóng góp mới của luận án Hệ thống hóa và làm sâu sắc hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU. Bên cạnh các cơ sở lý thuyết mang tính kinh điển, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU được xác lập trên cơ sở chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ thương mại của hai bên trong bối cảnh tự do hóa thương mại và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay. Phân tích và đánh giá chính sách thương mại và các giải pháp đã được triển khai nhằm phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU; thực trạng trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU, những kết quả đã đạt được cũng như các hạn chế và nguyên nhân. Đề xuất các giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU, trong đó có các giải pháp đẩy mạnh trao đổi thương mại hàng hóa giữa hai bên, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận thị trường và nâng cao khả năng cạnh tranh của các hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tại thị trường các nước SACU. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU * Các nghiên cứu ở nước ngoài Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu ngoài nước liên quan về các nước SACU như: Colin Mc Carthy The Southern African Customs Union (Liên minh thuế quan miền Nam châu Phi); Gerhard Erasmus New SACU Institutions: Prospects for Regional Integration (Các định chế mới của SACU – Triển vọng cho hội nhập khu vực); Carine Zamay Kiala The Politics of Trade in the Southern African Customs Union: Prospect of a SACUChina Free Trade Agreement (Vấn đề thương mại của SACU – Triển vọng của Hiệp định thương mại tự do SACU Trung Quốc); Debesh Bhowmik Regional Integration in Africa: a case study of SACU (Hội nhập khu vực ở châu Phi: nghiên cứu trường hợp của SACU); WTO Trade Policy Review of the Southern African Customs Union (Rà soát chính sách thương mại của SACU); Sukati Mphumuzi The Economic Partnership Agreements (EPAs) and the Southern African Customs Union (SACU) Region – The Case for South Africa (Hiệp định đối tác kinh tế và các nước SACU – Trường hợp của Nam Phi). Các nghiên cứu nêu trên đã cho thấy quá trình hình thành và phát triển của khối SACU; sự phát triển kinh tế, chính sách thương mại của các nước SACU và quan hệ
- 4 thương mại của các nước trong SACU và với một số đối tác thương mại trên thế giới. Tuy nhiên, các nghiên cứu nêu trên không có nghiên cứu nào đề cập trực tiếp tới quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước trong SACU. * Các nghiên cứu ở trong nước Tại Việt Nam, cho tới nay mới chỉ có một số đề tài nghiên cứu về thị trường châu Phi, trong đó có đề cập đến các nước SACU, chủ yếu là Nam Phi , gồm có: Trần Thị Lan Hương (2010), Cải cách kinh tế ở Cộng hòa Nam Phi giai đoạn 19942004, Luận án Tiến sĩ kinh tế; Nguyễn Văn Thường và nhóm tác giả (2006), “Giải pháp phát triển quan hệ thương mại Việt NamChâu Phi”, Đề tài khoa học cấp nhà nước, Trường đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội; Bộ Thương mại (2003), “Giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và một số nước châu Phi”, Đề tài cấp Bộ; Bộ Công Thương (2008), “Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường châu Phi”, Đề tài cấp Bộ; Bộ Công Thương (2010), “Nghiên cứu giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp vào thị trường châu Phi”, đề tài cấp Bộ. Các công trình nghiên cứu trên đây có liên quan đến các vấn đề về châu Phi, thị trường châu Phi, về các nước SACU, quan hệ kinh tế và thương mại Việt Nam với các nước châu Phi... Tuy rằng mỗi công trình đã nêu có những cách tiếp cận, đề cập một hoặc một số vấn đề riêng lẻ, với phạm vi nghiên cứu nhất định và mức độ nông sâu khác nhau... liên quan đến vấn đề quan hệ thương mại và phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước thuộc SACU, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, hệ thống về vấn đề giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước thuộc SACU. Do đó, có thể thấy rằng việc phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước trong SACU là một vấn đề hoàn toàn mới, cần được nghiên cứu một cách tổng thể và toàn diện. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA MỘT QUỐC GIA VÀ CÁC NƯỚC TRONG MỘT LIÊN MINH THUẾ QUAN 1.1. Lý luận về quan hệ thương mại giữa các quốc gia 1.1.1. Khái quát lý thuyết về quan hệ thương mại quốc tế 1.1.1.1. Cơ sở lý thuyết về nguồn gốc và bản chất của thương mại quốc tế Thương mại quốc tế được xác định là hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ, hoạt động đầu tư giữa các quốc gia hoặc lãnh thổ. Lý thuyết thương mại cổ điển bắt đầu với những quan điểm của chủ nghĩa trọng thương, tiếp đó là lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith, lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo và lý thuyết về chi phí cơ hội và đường giới hạn khả năng sản xuất của Gotfried Haberler. Từ những năm đầu thế kỷ XX, nhiều học giả và các nhà nghiên cứu kinh tế đã đưa ra nhiều quan điểm và học thuyết quan trọng nhằm chỉ ra và tìm cách bổ sung, hoàn thiện hơn các lý thuyết cổ điển về thương mại quốc tế. Các học
- 5 thuyết này được gọi là học thuyết hiện đại về thương mại quốc tế, bao gồm các học thuyết nổi bật là lý thuyết về tỷ lệ các yếu tố của Heckcher – Ohlin, l ý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia của Michael Porter, l ý thuyết về vòng đời quốc tế của sản phẩm của Raymond Vernon, lý thuyết về chuỗi giá trị toàn cầu. 1.1.1.2. Lý thuyết về chính sách thương mại quốc tế Chính sách thương mại quốc tế là hệ thống các quy định, công cụ và biện pháp thích hợp mà nhà nước sử dụng để điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế của quốc gia trong những thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đã xác định. Mục tiêu của chính sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn có thể khác nhau, nhưng đều hướng đến mục tiêu chung khai thác triệt để các lợi thế so sánh của đất nước, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, nâng cao lợi thế cạnh tranh và vươn ra thị trường quốc tế. Lý thuyết về chính sách thương mại quốc tế (còn gọi là chính sách ngoại thương) là lý thuyết về sự can thiệp của chính phủ một nước nhằm đạt được mục đích nào đó về thương mại quốc tế. Nội dung nghiên cứu chính sách thương mại quốc tế gồm có lý luận về chính sách thương mại tự do và lý luận về chính sách bảo hộ thương mại. Lý luận này nhấn mạnh sự phân tích quan điểm chính sách, mục tiêu chính sách, các công cụ và biện pháp chính sách, phương thức, loại hình và hiểu quả kinh tế của thương mại quốc tế; phân tích các mặt lợi, hại, được, mất của chính sách thương mại, lấy đó làm căn cứ đưa ra chính sách. Các công cụ và biện pháp thực hiện mục tiêu chính sách (có thể là để thúc đẩy thương mại, có thể là hạn chế thương mại) thường gồm các công cụ có tính chất kinh tế, công cụ có tính chất kỹ thuật và công cụ có tính chất hành chính. Thông thường việc phân loại chính sách thương mại quốc tế căn cứ và các công cụ chính sách, chia thành chính sách thuế quan và chính sách phi thuế quan. 1.1.2. Đặc điểm quan hệ thương mại quốc tế của một liên minh thuế quan Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình tất yếu, là xu hướng không thể đảo ngược, với các mức độ liên kết kinh tế quốc tế ngày càng chặt chẽ. Theo nhà kinh tế học Balassa, có năm cấp độ hội nhập kinh tế quốc tế từ thấp đến cao: (i) khu vực thương mại tự do (Free Trade Area – FTA); (ii) Liên minh thuế quan (Customs Union – CU); (iii) Thị trường chung (Common Market); (iv) Liên minh kinh tế (Economic Union) và (v) Liên minh kinh tế toàn diện (Comprehensive Economic Union). Ở góc độ thể chế, hội nhập kinh tế khu vực được mô tả là các hoạt động của chính phủ nhằm tự do hóa hoặc tạo thuận lợi cho thương mại trên nền tảng khu vực giữa một nhóm hai hay nhiều nước. Là một trong các hình thức hội nhập khu vực, một liên minh thuế quan được xác định là một tổ chức kinh tế khu vực, trong đó các quốc gia thành viên thống nhất loại trừ hàng rào thương mại giữa các quốc gia thành viên và chấp nhận một chính sách thương mại đối ngoại chung. Liên minh thuế quan miền Nam châu Phi (SACU) chính là liên minh thuế quan đầu tiên trên thế giới, được thành lập từ năm 1910. Lý luận về liên minh thuế quan là lý luận nghiên cứu hiệu ứng kinh tế ở trạng thái động và tĩnh của liên minh thuế quan. Quan điểm chủ yếu của các kinh tế đưa ra lý luận liên minh thuế quan là:
- 6 Thứ nhất, liên minh thuế quan vừa có hiệu ứng gia tăng thương mại trong nội bộ liên minh, vừa có hiệu ứng chuyển hướng thương mại. Thứ hai, lợi ích kinh tế của liên minh thuế quan được quyết định bởi mức độ chênh lệch của thuế suất thuế quan và mức độ trùng lặp (hoặc tương đồng) của sản phẩm xuất nhập khẩu của các nước thành viên trước khi thành lập liên minh. Thứ ba, việc xây dựng liên minh thuế quan còn có thể sinh ra “hiệu ứng kinh tế động thái” đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước thành viên, chủ yếu biểu hiện ở các khía cạnh: (i) thông qua việc loại bỏ thuế quan giữa các nước thành viên, mở rộng buôn bán nội bộ có thể đem lại lợi thế kinh tế qui mô, việc mở rộng thị trường xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có năng suất tương đối cao trong các nước thành viên thực hiện hiệu quả kinh tế của sản xuất đại qui mô; (ii) nội bộ liên minh thực hành tự do hóa thương mại sẽ gia tăng mạnh mẽ mức độ cạnh tranh hữu hiệu của thị trường, kích thích tăng thêm đầu tư và khai thác kỹ thuật mới, thúc đẩy việc phân bổ tài nguyên hợp lý , đẩy mạnh nâng cao năng suất lao động; (iii) cùng với việc làm cho các nước thành viên được cạnh tranh với bên ngoài nhờ hàng rào thuế quan đối ngoại chung của liên minh thuế quan, cũng có thể tạo ra hiệu quả tiêu cực là tạo nên các doanh nghiệp lạc hậu, gia tăng sức ỳ nội bộ, làm chậm sự phát triển kinh tế của bản thân liên minh thuế quan. 1.2. Nội dung, hình thức, các tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển quan hệ thương mại giữa một quốc gia và các nước trong một liên minh thuế quan 1.2.1. Nội dung và hình thức phát triển quan hệ thương mại Về cơ bản, việc phát triển quan hệ thương mại được tiến hành ở hai cấp độ là cấp độ thể chế thương mại và cấp độ thực thể thương mại. Ở cấp độ thể chế, thương mại quốc tế có sự tham gia chủ yếu của quốc gia và các thực thể công được hiểu là các quan hệ quốc tế ở cấp độ chính sách thương mại, ví dụ, chính sách thuế quan và phi thuế quan, chính sách thương mại tấn công hoặc phòng vệ, chính sách hội nhập kinh tế… của một quốc gia; hoặc sự lựa chọn hội nhập ở cấp độ toàn cầu, khu vực, song phương hoặc đơn phương trong hợp tác thương mại; hay mối quan hệ giữa việc thực hiện các cam kế thương mại quốc tế và pháp luật quốc gia. Chủ thể chủ yếu của các quan hệ thương mại quốc tế nêu trên là các quốc gia và các tổ chức kinh tế quốc tế. Ở cấp độ thể chế, nội dung của quan hệ thương mại bao gồm: Quan hệ liên chính phủ trong lĩnh vực thương mại; Đàm phán ký kết các hiệp định, quy chế thương mại song phương, đa phương; Hợp tác trong xúc tiến và hỗ trợ thương mại vĩ mô; Cơ chế, chính sách giải quyết các tranh chấp về thương mại giữa các bên. Ở cấp độ thực thể, thương mại quốc tế có sự tham gia chủ yếu của thương nhân, bao gồm cả cá nhân và doanh nghiệp. Trên thực tế, việc mở rộng hoạt động kinh doanh ra nước ngoài thường nhằm mục đích tăng doanh số và lợi nhuận, tạo ra thị trường mới, nâng cao vị thế của doanh nghiệp ở phạm vi quốc tế hoặc đảm bảo nguồn nguyên liệu. Nội dung phát triển quan hệ thương mại giữa một quốc gia và các nước trong một liên minh thuế quan, bao gồm:
- 7 Thứ nhất là phát triển thương mại hàng hóa. Thứ hai là thúc đẩy trao đổi về thương mại dịch vụ. Thứ ba là phát triển quan hệ hợp tác đầu tư. 1.2.2. Tiêu chí đánh giá sự phát triển quan hệ thương mại Theo phạm vi nghiên cứu, luận án giới hạn ở quan hệ xuất nhập khẩu hàng hóa đánh giá trên hai cấp độ là thể chế thương mại và thực thể thương mại. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển quan hệ ở cấp độ thể chế được cụ thể hóa thông qua các chỉ tiêu sau: i) Số lượng và cấp độ các mối quan hệ liên chính phủ trong lĩnh vực thương mại; ii) Số lượng và cấp độ các cam kết, thỏa thuận, hiệp định thương mại mà quốc gia đó ký kết với các nước thành viên cũng như với cả khối liên minh thuế quan; iii) Số lượng các hoạt động hợp tác trong xúc tiến và hỗ trợ thương mại ở cấp độ vĩ mô; iv) Số lượng và cấp độ các cơ chế giải quyết các tranh chấp về thương mại giữa các bên. Ở cấp độ thực thể thương mại, sự phát triển quan hệ thương mại giữa một quốc gia và các nước trong một liên minh thuế quan được đánh giá bằng các chỉ tiêu định lượng cụ thể, bao gồm: i) Kim ngạch xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu; ii) Cán cân thương mại; iii) Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu; iv) Cơ cấu thị trường xuất khẩu, nhập khẩu; v) Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, nhập khẩu. 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển quan hệ thương mại 1.2.4.1. Các nhân tố khách quan Các cường quốc kinh tế vừa là đầu tầu, vừa giữ vai trò chi phối các quan hệ thương mại quốc tế. Bên cạnh các nền kinh tế đã phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản… thì vai trò của các nền kinh tế mới nổi như các nước khối BRICS (gồm Braxin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi) cũng ngày càng được khẳng định. Các công ty đa quốc gia chi phối hầu hết nền kinh tế thế giới nói chung và quan hệ thương mại quốc tế nói riêng. Xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa đòi hỏi các quốc gia phải phát triển quan hệ quốc tế và tham gia vào phân công lao động quốc tế. Xu thế tự do hóa thương mại với sự dỡ bỏ dần các rào cản thương mại và hình thành các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế (các luật lệ của WTO) đòi hỏi các quốc gia phải tuân thủ một luật chơi chung. 1.2.4.2. Các nhân tố chủ quan Việc các Nhà nước lựa chọn chiến lược, xây dựng và triển khai thực hiện các chính sách thương mại phù hợp là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến việc phát triển quan hệ thương mại giữa các quốc gia. Trong trường hợp một liên minh thuế quan thì đòi hỏi cần có sự đồng thuận của các quốc gia thành viên trong việc lựa chọn chiến lược và chính sách thương mại cho cả khối cũng như vai trò điều phối của cơ quan thường trực hoặc quốc gia có vai trò chi phối ở trong khối. Điều kiện và trình độ phát triển của nền kinh tế các nước là nhân tố vật chất có tính quyết định để thúc đẩy quan hệ thương mại giữa các quốc gia, góp phần giúp các quốc gia phát huy tối đa lợi thế so sánh của mình. Khả năng xúc tiến mở rộng quan hệ thương mại quốc tế là động lực thúc đẩy quan hệ thương mại giữa các quốc gia. Trong đó xúc tiến thương mại ở cấp độ vĩ mô và vi mô có quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau.
- 8 Việc kịp thời theo dõi, xử lý các vướng mắc trong quá trình phát triển quan hệ thương mại giữa các quốc gia góp phần tạo điều kiện cho quan hệ thương mại giữa các quốc gia có môi trường thuận lợi để phát triển. 1.3 Kinh nghiệm của một số nước về phát triển quan hệ thương mại với các nước trong SACU và bài học rút ra cho Việt Nam 1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước về phát triển quan hệ thương mại với các nước trong SACU 1.3.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc Việc phát triển quan hệ thương mại của Trung Quốc với các nước trong SACU nằm trong khuôn khổ mối quan hệ ngày càng phát triển giữa Trung Quốc với các nước Châu Phi. Ở cấp độ thể chế, nhận thức được tầm quan trọng của châu Phi trong sự nghiệp phát triển và xây dựng đất nước Trung Quốc trong giai đoạn mới, Trung Quốc đã xây dựng một hệ thống chính sách hoàn chỉnh của mình trong quan hệ với các nước châu Phi. Trong đó có các chính sách nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Trung Quốc sang thị trường châu Phi. Để tạo khuôn khổ cho việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp trong nước sang thị trường châu Phi, Trung Quốc đẩy mạnh việc thiết lập quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước châu Phi, ký kết các hiệp định với các điểu khoản thuận lợi cho hàng hoá Trung Quốc thâm nhập vào thị trường châu Phi. Đồng thời, thông qua các khoản viện trợ không hoàn lại và vốn vay ưu đãi dành cho các nước châu Phi nhằm phát triển cơ sở hạ tầng, Chính phủ Trung Quốc đã tạo ra cơ hội để các doanh nghiệp Trung Quốc đưa máy móc, nguyên liệu, công nghệ sang thị trường châu Phi. Để thúc đẩy quan hệ thương mại giữa các nước SACU và Trung Quốc, ngay sau khi Trung Quốc gia nhập WTO năm 2001, Nam Phi và cùng với đó là các thành viên khác của SACU đã công nhận Trung Quốc là nước có nền kinh tế thị trường (trong khi theo thỏa thuận đàm phán gia nhập WTO thì nước này sẽ được công nhận có nền kinh tế thị trường vào năm 2015). Năm 2004, ông Jacob Zuma, khi đó là Phó Tổng thống Nam Phi, tuyên bố rằng SACU sẽ xem xét khả năng đàm phán FTA với Trung Quốc. Hiện nay, hai bên đang tiến hành các nghiên cứu về việc tiến hành đàm phán hiệp định này. Ở cấp độ thực thể thương mại, các doanh nghiệp Trung Quốc, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, được khuyến khích và được hỗ trợ trong việc xuất khẩu sang thị trường Châu Phi. Hiện có khoảng 700 doanh nghiệp nhà nước của Trung Quốc có hoạt động xuất khẩu sang châu Phi và chiếm tỷ trọng lớn so với các loại hình doanh nghiệp khác vì các doanh nghiệp này có nguồn vốn lớn và nhận được nhiều sự hỗ trợ của Chính phủ Trung Quốc. Về phía các doanh nghiệp Trung Quốc, bên cạnh sự hỗ trợ và tạo điều kiện của Chính phủ, họ đã luôn quan tâm đầu tư đang dạng hoá ngành hàng xuất khẩu và nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm, chú trọng nghiên cứu thị trường để sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của thị trường châu Phi. 1.3.1.2. Kinh nghiệm của Ấn Độ Ở cấp độ thể chế, Chính phủ Ấn Độ đã đưa ra nhiều sáng kiến nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại với châu Phi, trong đó chú trọng việc tạo điều kiện và hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá sang thị trường châu Phi.
- 9 Với các nước SACU, Ấn Độ và các nước SACU đã tiến hành đàm phán từ năm 2002 và dự kiến sẽ sớm ký kết Hiệp định ưu đãi thương mại (PTA) nhằm giảm thuế cho các mặt hàng xuất nhập khẩu của hai bên. Ấn Độ cũng đã cung cấp tín dụng xuất khẩu cho các nước SACU, trong đó dành cho Namibia 100 triệu USD và tăng thêm 100 triệu USD năm 2013; các doanh nghiệp của Nam Phi, Lesotho cũng được cấp tín dụng xuất khẩu của Ấn Độ để nhập khẩu hàng hóa của Ấn Độ. Ở cấp độ thực thể thương mại, các doanh nghiệp Ấn Độ cũng rất năng động trong việc khám phá thị trường Châu Phi. Kể từ giữa những năm 90, các tổ chức như Liên đoàn Công nghiệp Ấn Độ (CII), Liên đoàn các phòng thương mại và công nghiệp Ấn Độ (FICCI), Liên đoàn các Tổ chức xuất khẩu Ấn Độ (FIEO) đã xác định được tiềm năng vô cùng to lớn của Châu Phi và đã đưa ra hàng loạt các chương trình hợp tác kinh tế và trao đổi đoàn doanh nghiệp, bao gồm: trao đổi thông tin, tổ chức Hội thảo doanh nghiệp, và tổ chức trưng bày hàng Ấn Độ khắp lục địa Châu Phi. Cộng đồng Ấn kiều tại các nước SACU, trong đó tập trung đông nhất tại thành phố Durban của Nam Phi cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển thương mại giữa Ấn Độ và các nước SACU với việc hình thành các doanh nghiệp thương mại chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa giữa các nước SACU và Ấn Độ. 1.3.2. Một số bài học rút ra cho Việt Nam 1.3.2.1. Những bài học thành công có thể vận dụng Từ những kinh nghiệm của Trung Quốc và Ấn Độ, có thể rút ra một số kinh nghiệm thành công có thể vận dụng cho Việt Nam trong việc phát triển quan hệ thương mại với các nước SACU, cụ thể là: Thứ nhất, cần có sự quyết tâm và định hướng chiến lược của nhà nước đối với việc phát triển thị trường châu Phi nói chung và thị trường các nước SACU nói riêng. Thông qua việc phát triển quan hệ chính trị, ngoại giao và kinh tế với các nước SACU, nhà nước cần thiết lập môi trường kinh doanh thuận lợi để các doanh nghiệp có điều kiện thâm nhập thị trường các nước SACU. Thứ hai, nhà nước cần sử dụng linh hoạt các công cụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp phù hợp với đặc điểm thị trường các nước SACU và trình độ phát triển của các doanh nghiệp trong nước. Trong đó, cần chú ý đến hỗ việc cung cấp hỗ trợ về tài chính vì đây là khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp khi kinh doanh với thị trường Châu Phi nói chung và các nước SACU nói riêng. Thứ ba, về phía các doanh nghiệp, cần hết sức nỗ lực trong việc thâm nhập thị trường các nước SACU, cần nghiên cứu kỹ nhu cầu và thị hiếu của thị trường để tạo ra được những sản phẩm phù hợp, có sức cạnh tranh về chất lượng và giá thành. Đồng thời, để tiếp cận thị trường các nước SACU nói riêng và Châu Phi nói chung cần phải kiên trì, linh hoạt và mềm dẻo do thị trường các nước này có tính thay đổi cao và ít tính nhất quán. 1.3.2.2. Những bài học không thành công cần tránh Bên cạnh những thành công đạt được, Trung Quốc và Ấn Độ cũng gặp phải một số khó khăn trong việc phát triển quan hệ thương mại với các nước SACU. Đối với Trung Quốc, việc các doanh nghiệp Trung Quốc đẩy mạnh xuất khẩu hàng giá rẻ, có chất lượng không cao sang thị trường các nước SACU đã làm giảm
- 10 uy tín của hàng hóa Trung Quốc tại thị trường này. Đồng thời, việc xuất khẩu sản phẩm dệt may và giày dép sang thị trường Nam Phi tăng quá nhanh, tác động tiêu cực đến các ngành sản xuất các mặt hàng này của Nam Phi đã dẫn đến việc Nam Phi áp đặt hạn ngạch đối với việc nhập khẩu các mặt hàng này từ Trung Quốc. Đối với Ấn Độ, mặc dù đã tiến hành đàm phán PTA với các nước SACU từ năm 2002 nhưng do thiếu quyết tâm chính trị và sự linh hoạt trong đàm phán của Ấn Độ nên đến nay hiệp định này vẫn chưa được ký kết. Điều này đã làm giảm khả năng tiếp cận thị trường SACU một cách thuận lợi cho các doanh nghiệp Ấn Độ. Đây là những bài học cần phải được nghiên cứu, xem xét để khắc phục và tránh bị lặp lại trong việc phát triển quan hệ thương mại với các nước SACU. * Kết luận Chương 1: Qua nghiên cứu những vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển quan hệ thương mại giữa một quốc gia và các nước trong một liên minh thuế quan, chương 1 của luận án đã đạt được kết quả và những đóng góp sau: Thứ nhất, hệ thống hóa những vấn đề lý thuyết về thương mại quốc tế từ các lý thuyết thương mại cổ điển như trường phái trọng thương, lý thuyết lợi thế tuyệt đối, lý thuyết lợi thế tương đối, lý thuyết về chi phí cơ hội đến các lý thuyết thương mại hiện đại như định lý HO, lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia, lý thuyết về vòng đời sản phẩm và lý thuyết về chuỗi giá trị toàn cầu. Thứ hai, đã làm rõ nội dung và hình thức của việc phát triển quan hệ thương mại giữa một quốc gia và các nước trong một liên minh thuế quan, dựa trên các mối quan hệ song phương với từng nước thành viên cũng như quan hệ với cả khối. Thứ ba, qua việc nghiên cứu kinh nghiệm của phát triển quan hệ thương mại của Trung Quốc và Ấn Độ với các nước Châu Phi nói chung và các nước SACU nói riêng đã rút ra một số bài học kinh nghiệm để Việt Nam có thể vận dụng trong việc phát triển quan hệ thương mại với các nước SACU. Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC TRONG LIÊN MINH THUẾ QUAN MIỀN NAM CHÂU PHI (SACU) 2.1. Các nước SACU và chính sách thương mại đối với Việt Nam 2.1.1. Đặc điểm kinh tế của các nước SACU 2.1.1.1. Khái quát về SACU Liên minh thuế quan miền Nam châu Phi được thành lập từ năm 1910 và là liên minh thuế quan được thành lập sớm nhất trên thế giới. Hiện nay khối liên minh này bao gồm 5 quốc gia thành viên đó là Nam Phi, Bostwana, Lesotho, Namibia và Swaziland. Hiệp định mới (Hiệp định SACU 2002) được ký ngày 21 tháng 10 năm 2002 và có hiệu lực từ ngày 15 tháng 7 năm 2004. Mục tiêu của Hiệp định SACU năm 2002 là (i) tạo thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa xuyên biên giới giữa các quốc gia thành viên; (ii) thiết lập thể chế hiệu quả, minh bạch và dân chủ để đảm bảo thương mại bình đẳng giữa các quốc gia thành viên; (iii) thúc đẩy điều kiện cạnh tranh lành mạnh trong khu vực
- 11 quan thuế chung; (iv) gia tăng các cơ hội đầu tư trong khu vực quan thuế chung; (v) tăng cường phát triển kinh tê, đa dạng hóa, công nghiệp hóa và tính cạnh tranh của các quốc gia thành viên; (vi) thúc đẩy hội nhập của các thành viên vào nền kinh tế toàn cầu thông qua tăng cường thương mại và đầu tư; (vii) tạo thuận lợi cho việc phân phối công bằng nguồn thu từ thuế hải quan và thuế tiêu thụ đặc biệt của các quốc gia thành viên; và (viii) tạo thuận lợi cho việc phát triển các chính sách và chiến lược chung. 2.1.1.2. Kinh tế các nước SACU Khái quát chung Các nước SACU có tổng diện tích là 2,7 triệu km2 và dân số năm 2012 là 56,3 triệu người, trong đó Nam Phi chiếm đến 86,4%. Kể từ 2002, nền kinh tế của các nước SACU tăng trưởng trung bình hàng năm ở mức 45%. Tăng trưởng kinh tế ở một số nước bị hạn chế bởi cơ sở hạ tầng kém phát triển, thiếu điện, sản lượng khai khoáng biến động, tỷ giá hối đoái thay đổi và tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Quy mô GDP của cả khối năm 2012 đạt 423 tỉ USD trong đó Nam Phi chiếm tới 92,1% GDP của toàn khối và là quốc gia có tiếng nói rất quan trọng và sức ảnh hưởng tới mọi hoạt động của Liên minh. Về cơ cấu kinh tế của SACU năm 2012, khu vực dịch vụ chiếm tới 64,0%, công nghiệp là 32,% và nông nghiệp là 2,6%. Quá trình hội nhập kinh tế khu vực trong khuôn khổ SACU đã giúp cho kinh tế các nước thành viên SACU phát triển tương đối ổn định kể từ năm 2002, khi Hiệp định mới của SACU được kí kết. Tuy nhiên, năm thành viên của SACU – Botswana, Lesotho, Namibia, Nam Phi và Swaziland tiếp tục cho thấy sự khác biệt lớn về mức độ và trình độ phát triển kinh tế. Botswana và Nam Phi được xếp là các nước có thu nhập trung bình ở mức cao, trong khi Namibia và Swaziland là các nước có thu nhập trung bình ở mức thấp, thì Lesotho lại là nước kém phát triển. Tuy nhiên, các nước SACU đều cùng phải đối mặt với một số thách thức như thất nghiệp, bất bình đẳng thu nhập, nghèo đói và bệnh AIDS. 2.1.1.3. Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của các nước SACU Nền kinh tế các nước SACU phụ thuộc nhiều vào thương mại quốc tế. Xuất nhập khẩu hàng hóa so với GDP tăng từ 45% năm 2002 lên 56% năm 2012. Trong những năm trở lại đây, kim ngạch xuất khẩu của cả khối gia tăng mạnh mẽ. Năm 2012 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 236,77 tỉ USD trong đó xuất khẩu là 113,43 tỉ USD, nhập khẩu là 123,34 tỉ USD và nhập siêu ở mức 9,91 tỷ USD. Thị trường xuất khẩu lớn nhất của SACU là EU, sau đó là Hoa Kỳ. Tuy nhiên, với Lesotho và Swaziland thì Hoa Kỳ là thị trường đơn lẻ quan trọng nhất bên ngoài SACU, do những ưu đãi thu được từ đạo luật AGOA. Xuất khẩu của SACU sang Trung Quốc có tốc độ tăng trưởng cao. Các sản phẩm xuất khẩu chính của SACU là khoáng sản, kim loại, kim cương, thịt, cá, dệt may và đường. SACU nhập khẩu chủ yếu từ EU, Trung Quốc và Hoa Kỳ. Các mặt hàng nhập khẩu chính là máy móc và thiết bị vận tải, nhiên liệu và hóa chất. Thương mại nội khối đã tăng đáng kể từ năm 2003 và Nam Phi vẫn giữ vai trò là trung tâm của cả khối, liên quan tới 95% tổng lưu chuyển thương mại nội khối. Trao đổi thương mại nội khối của Bostwana, Namibia, Lesotho, Swaziland với
- 12 Nam Phi chiếm gần 60% kim ngạch trao đổi thương mại của những quốc gia này với các nước trên thế giới. Trong khi đó trao đổi thương mại với các nước trong SACU chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong kim ngạch ngoại thương của Nam Phi, th ể hiện sự đa dạng hơn về thị trường xuất nhập khẩu của nước này so với các thành viên khác trong khối. Giống như hoạt động kinh tế, ngoại thương của các nước thành viên SACU có sự khác biệt lớn về quy mô. Nam Phi tiếp tục chi phối hoạt động xuất nhập khẩu của các nước SACU. Năm 2012, nước này chiếm tới 89,2% xuất khẩu và 86,6% nhập khẩu của cả khối. 3.1.1.4. Đặc điểm thị trường của các nước trong SACU Các nước trong khối SACU là thành viên của một liên minh thuế quan. Các chính sách thương mại nội khối tạo điều kiện rất thuận lợi cho việc trao đổi thương mại giữa các nước trong khối. Việc thâm nhập vào một thị trường cũng là cánh cửa dẫn tới thị trường các nước thành viên khác. Các nước SACU có nhu cầu về các loại hàng hoá đa dạng về chủng loại và đòi hỏi chất lượng không cao, trước hết là nhu cầu về các loại máy móc thiết bị, nguyên vật liệu để phục vụ phát triển kinh tế. Tiếp đó là nhu cầu về lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng phục vụ đời sống nhân dân, đặc biệt trong bối cảnh dân số các nước này đang tăng với tốc độ rất nhanh. Nhu cầu và cơ cấu hàng hóa nhập khẩu của các nước trong SACU rất phong phú đa dạng với nhiều phẩm cấp chất lượng . Một bộ phận người dân các nước SACU như người da trắng ở Nam Phi, Botswana và Namibia có thu nhập khá cao nên có nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm có chất lượng cao như ở các nước phát triển. Bên cạnh đó, mức thu nhập đa số người dân các nước SACU vẫn còn thấp, yêu cầu về chất lượng hàng hóa không quá khắt khe. Ngược lại, các nước SACU có nhiều mặt hàng nguyên liệu xuất khẩu như quặng kim loại, khoáng sản, nhiên liệu… Do trình độ phát triển và quy mô hơn hẳn các nước thành viên còn lại, Nam Phi giữa vai trò chi phối trong hoạt động của cả liên minh thuế quan và các doanh nghiệp Nam Phi cũng chi phối hầu hết các hoạt động kinh tế trong liên minh thuế quan. Ngoài Nam Phi và Botswana, các nước thành viên còn lại trong SACU là những nước đang và kém phát triển do đó cơ sở hạ tầng và môi trường pháp lý yếu kém, còn nhiều bất cập và đang trong quá trình hoàn thiện vì vậy chưa tạo ra được môi trường thực sự thuận lợi cho hoạt động thương mại phát triển. 2.1.2. Chính sách thương mại của SACU đối với Việt Nam 2.1.2.1. Khái quát về chính sách thương mại của SACU Hiệp định SACU năm 2002 đã nêu ra việc hợp tác về thuế quan để tạo thuận lợi và hài hòa hóa các văn bản và thủ tục liên quan đến thương mại; hài hòa hóa tiêu các tiêu chuẩn về sản phẩm và kỹ thuật. Tuy nhiên, riêng với các quy định về SPS, các nước thành viên được quyền áp dụng các quy định phù hợp với nội luật và tiêu chuẩn quốc tế. Một quy định quan trọng của Hiệp định SACU 2002 là về vấn đề các hiệp định thương mại với bên thứ ba. Để thống nhất chính sách thương mại của SACU, Hội đồng Bộ trưởng SACU đã quyết định là SACU sẽ đàm phán các các
- 13 hiệp định thương mại ưu đãi mới với bên thứ ba với tư cách là một khối chứ không phải từng nước riêng lẻ. Về thuế nhập khẩu, Nam Phi tiếp tục quy định mức thuế MFN ngoại khối (CET) trên cơ sở tham vấn với các nước thành viên SACU khác. Trong một số trường hợp, quy định của CET không phản ánh được nhu cầu kinh tế của các nước thành viên SACU khác. Mức thuế CET trung bình của các nước SACU giảm từ 11,4% năm 2002 xuống còn 9,1% năm 2009. Trong đó có sự thay đổi về mức độ bảo hộ đối với các sản phẩm nông nghiệp, tăng từ mức trung bình 9,6% năm 2002 lên 10,1% năm 2009. Đối với các sản phẩm phi nông nghiệp mức thuế trung bình năm 2009 giảm xuống còn 7,8% so với 11,6% năm 2002. Đối với hàng rào phi thuế quan, các quy định về hạn ngạch nhập khẩu, cấm nhập khẩu hoặc phụ thu đối với một số sản phẩm nông nghiệp nhập khẩu từ tất cả các nước, bao gồm cả từ các nước SACU khác, được từng nước SACU áp dụng trong một số trường hợp nhằm khuyến khích việc sản xuất một số sản phẩm nông nghiệp. Các nước SACU sẽ áp dụng thuế chống bán phá giá, đối kháng và tự vệ do Nam Phi quy định. Nam Phi (và cùng với đó là các nước SACU khác) là một trong những nước sử dụng nhiều các biện pháp chống bán phá giá trong WTO. Hàng hoá khi nhập khẩu vào các quốc gia thành viên SACU có thể thông quan tại cảng đến đầu tiên (thông thường là một cảng của Nam Phi) hoặc có thể chuyển khẩu tới một cảng khác của bất kỳ quốc gia thành viên nào để thông quan. Hàng hoá di chuyển trong nội khối được miễn thuế hải quan nhưng vẫn phải chịu sự giám sát Hải quan. Các quốc gia thành viên SACU đều có qui định về quy tắc xuất xứ ưu đãi và không ưu đãi. Các quy tắc xuất xứ đối với hàng hoá không ưu đãi được qui định tại Luật thuế Hải quan và thuế tiêu thụ đặc biệt tại mỗi quốc gia thành viên, mô phỏng theo luật của Nam Phi. Đối với quy định về tiêu chuẩn và kỹ thuật, theo Hiệp định SACU 2002, các nước SACU sẽ thúc đẩy việc hài hòa hóa các quy định về tiêu chuẩn và chất lượng sản phẩm, các biện pháp SPS. Tuy nhiên, đến nay các nước SACU chưa thống nhất được vấn đề này. Các nước Lesotho và Namibia áp dụng quy định của Nam Phi trong khi Botswana va Swaziland áp dụng các quy định riêng. Đối với hàng hóa xuất khẩu, một số nước SACU áp dụng thuế xuất khẩu (Namibia và Nam Phi áp dụng với kim cương thô, Swaziland áp dụng với đường). Botswana duy trì độc quyền xuất khẩu thị bò. 2.1.2.2. Chính sách thương mại đối với Việt Nam Chính sách phát triển quan hệ thương mại của SACU đối với Việt Nam nằm chung trong chính sách phát triển quan hệ thương mại của SACU với các nước đang phát triển và các nước Châu Á. Đối với các nước Châu Á, các nước SACU có mong muốn tăng cường trao đổi thương mại với các nước Châu Á nói chung và nhất là với các nước có nền kinh tế tăng trưởng nhanh như Trung Quốc, Ấn Độ và các nước ASEAN. Riêng với các nước ASEAN, các nước SACU đã từng đề xuất tiến hành nghiên cứu chung về việc đám phán hiệp định ưu đãi thương mại giữa các nước SACU và ASEAN. Đối với riêng Việt Nam, trong khuôn khổ WTO, các nước SACU đã thể hiện sự ủng hộ đối với nỗ lực đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam thông qua việc không
- 14 yêu cầu đàm phán riêng với Việt Nam. Bên cạnh đó, ngay sau khi Việt Nam đã gia nhập WTO, Nam Phi sau khi tham vấn với các nước thành viên còn lại của SACU đã tuyên bố và ký kết thỏa thuận công nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường đầy đủ. Ở góc độ song phương, với tình cảm hữu nghị xuất phát từ việc Việt Nam ủng hộ cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ apácthai của nhân dân Nam Phi và cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Namibia, chính phủ Nam Phi và Namibia đã luôn bày tỏ mong muốn phát triển quan hệ thương mại với Việt Nam và đã sớm đàm phán, ký kết hiệp định thương mại với Việt Nam. Trong khi đó, các thành viên còn lại của SACU là Botswana, Lesotho và Swaziland dù cho quan hệ chính trị, ngoại giao với Việt Nam còn ở bước sơ khai nhưng tại các cuộc tiếp xúc với phía Việt Nam cũng đều mong muốn thúc đẩy trao đổi thương mại với Việt Nam. 2.2. Chính sách thương mại của Việt Nam đối với các nước SACU 2.2.1. Khái quát về quan hệ chính trị, ngoại giao Từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, Việt Nam đã xác định là chủ động, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ đối ngoại. Trong đó, có việc triển khai chủ trương tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển ở châu Châu Phi, Trung Đông và Mỹ la tinh. Với các nước SACU, đến nay do cơ chế phối hợp và cơ quan thường trực của SACU là Ban thư ký hoạt động chưa thực sự hiệu quả, đồng thời Việt Nam cũng chưa chú trọng đến việc phát triển quan hệ với các tổ chức kinh tế khu vực của châu Phi nên quan hệ của Việt Nam với các nước SACU chủ yếu dựa trên quan hệ song phương giữa Việt Nam và các nước thành viên. Việt Nam có quan hệ hữu nghị tốt đẹp với Nam Phi và Namibia, trong khi đó quan hệ với Botswana và Lesotho còn ở mức khiêm tốn và mới thiết lập quan hệ ngoại giao với Swaziland năm 2013. 2.2.2. Chính sách thương mại của Việt Nam đối với các nước SACU Chính sách phát triển quan hệ thương mại với các nước SACU của Việt Nam nằm chung trong chính sách phát triển quan hệ thương mại của Việt Nam với các nước Châu Phi. Trong “Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 2010” của Chính phủ đã nêu ra yêu cầu phải: “Tìm kiếm các thị trường mới ở châu Mỹ La tinh, Châu Phi”. Với định hướng này, một sự kiện rất có ý nghĩa trong quan hệ giữa Việt Nam với châu Phi đó là việc tổ chức “Hội thảo Việt NamChâu Phi: cơ hội hợp tác và phát triển trong thế kỷ 21” tại Hà Nội năm 2003. Hội thảo thực sự đã đánh một dấu mốc mới quan trọng trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước Châu Phi. Đây là lần đầu tiên Việt Nam tổ chức một cuộc Hội thảo quốc tế về hợp tác giữa Việt Nam và các nước Châu Phi. Hội thảo đã góp phần tăng cường hiểu biết và làm thay đổi cách nhìn nhận của các bên về khả năng, lợi ích và triển vọng hợp tác Việt NamChâu Phi. Cùng với việc tổ chức Hội thảo, năm 2004 Chính phủ đã xây dựng và ban hành Chương trình hành động quốc gia thúc đẩy quan hệ Việt NamChâu Phi giai đoạn 20042010. Về thương mại, Chính phủ đặt ra mục tiêu đưa kim ngạch xuất
- 15 nhập khẩu Việt Nam – châu Phi đạt 1 tỷ USD vào năm 2010, trong đó xuất khẩu đạt 700 triệu USD. Triển khai Chương trình hành động quốc gia thúc đẩy quan hệ Việt Nam Châu Phi giai đoạn 2004 2010 của Chính phủ, trong lĩnh vực kinh tế thương mại, Bộ Công Thương đã ban hành Chương trình hành động nhằm thực hiện Chương trình hành động quốc gia thúc đẩy quan hệ Việt Nam Châu Phi. Tiếp đó, năm 2010, Bộ Công Thương đã ban hành đề án “Phát huy khả năng của các doanh nghiệp xuất khẩu tổng hợp trong việc đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Châu Phi” nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh lâu dài với thị trường châu Phi Để tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại với các nước Châu Phi, tháng 10 năm 2010, Chính phủ Việt Nam đã tổ chức Hội thảo Quốc tế Việt Nam – Châu Phi lần 2. Ngày 28/12/2011,Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2471/2011/QĐ TTg phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 – 2020, định hướng đến năm 2030. Về định hướng phát triển thị trường, chiến lược chỉ rõ: Cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu; củng cố và mở rộng thị phần hàng hóa Việt Nam tại thị trường truyền thống; tạo bước đột phá mở rộng các thị trường xuất khẩu mới có tiềm năng, phấn đấu đến năm 2020, thị trường Châu Phi chiếm 5% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. 2.3. Thực trạng phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU 2.3.1. Phát triển quan hệ thương mại ở cấp độ thể chế Sự phát triển của quan hệ thương mại ở cấp độ thể chế giữa Việt Nam và các nước SACU được thể hiện trên các nội dung chính sau: Thiết lập quan hệ liên chính phủ trong lĩnh vực thương mại: Với cả khối SACU, đến nay Việt Nam và các nước SACU chưa thiết lập mối quan hệ liện chính phủ trong lĩnh vực thương mại. Với các nước thành viên SACU, đến nay Việt Nam mới chỉ thiết lập quan hệ liên chính phủ trong lĩnh vực thương mại với Nam Phi. Cụ thể là Việt Nam và Nam Phi đã thành lập Diễn đàn đối tác liên chính phủ về Hợp tác Kinh tế, thương mại, khoa học, kỹ thuật và văn hoá và Ủy ban Thương mại hỗn hợp giữa hai nước. Tăng cường khung pháp lý tạo thuận lợi cho việc phát triển quan hệ kinh tế, thương mại: Nhận thức được tầm quan trọng của việc củng cố khung pháp lý cho hoạt động thương mại, Việt Nam và các nước SACU đã ký kết các Hiệp định thương mại và các Hiệp định hỗ trợ cho việc phát triển các hoạt động về thương mại như các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định về hợp tác ngân hàng, Hiệp định về vận tải biển.... Bên cạnh đó, với việc Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO, trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU đã được hưởng các ưu đãi theo quy định của WTO. Trước đó, Việt Nam mới có MFN với hai nước SACU là Nam Phi và Namibia. Như vậy, sau khi gia nhập WTO, ta đã được hưởng ưu đãi MFN với tất cả các thành việc của SACU.
- 16 Thiết lập các cơ quan đại diện hỗ trợ cho việc phát triển quan hệ thương mại: Nhận thức được tính cần thiết của việc mở rộng các Đại sứ quán và các Thương vụ, Việt Nam đã thành lập cơ quan Thương vụ năm 1999 và thành lập Đại sứ quán năm 2000 tại Nam Phi. Hiện nay, các cơ quan này chịu trách nhiệm về địa bàn các nước SACU. Về phía các nước SACU, Nam Phi mở Đại sứ quán tại Hà Nội năm 2002, Lãnh sự danh dự tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2009. Tăng cường triển khai công tác xúc tiến thương mại ở cấp độ quốc gia để hỗ trợ cho hoạt động của các doanh nghiệp: Triển khai Chương trình hành động hành động Việt Nam Châu Phi, Việt Nam đã lập Diễn đàn doanh nghiệp Việt NamChâu Phi (27/10/2004). Bên cạnh đó, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cũng đã xây dựng được cổng thương mại điện tử Việt Nam Châu Phi (chính thức đi vào hoạt động tháng 9/2005). Từ năm 2005, Chính phủ Việt Nam đã thông qua Chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia. Tính đến nay, hàng năm đều có các đề án chương trình xúc tiến thương mại quốc gia được tổ chức tại Nam Phi, hỗ trợ cho hàng trăm doanh nghiệp tham gia. Tuy nhiên, ngoài Nam Phi, chưa có các chương trình được tổ chức tại các nước SACU khác. Bên cạnh đó, Bộ Công Thương, Cục Xúc tiến thương mại, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cũng chú trọng đến công tác nghiên cứu, tìm hiểu thị trường. 2.3.2. Phát triển quan hệ thương mại ở cấp độ thực thể 2.3.2.1. Về kim ngạch trao đổi thương mại hàng hóa Trao đổi thương mại hàng hóa giữa Việt Nam với các nước SACU chỉ được bắt đầu từ năm 1992 và ngày càng tăng trưởng nhanh trong những năm gần đây và có thể chia thành ba giai đoạn như sau: Giai đoạn từ 19921999 Trong giai đoạn này, các doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu có quan hệ thương mại với Nam Phi từ năm 1992 và cho tới năm 1999, đây là nước duy nhất trong SACU có trao đổi thương mại với Việt Nam. Kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Nam Phi tăng từ mức 1,215 triệu USD năm 1992 lên 35,288 triệu USD năm 1999. Đến năm 1999, với kim ngạch xuất khẩu sang Nam Phi đạt 31 triệu USD đã đưa Nam Phi trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam tại Châu Phi.
- 17 Giai đoạn từ 20002006 Năm 2000, Việt nam đã xuất khẩu sang tất cả các nước SACU với tổng kim ngạch đạt 31,929 triệu USD. Trong đó, xuất khẩu sang Nam Phi đạt 25,797 triệu USD (chiếm 80,8%) và đáng chú ý là xuất khẩu sang Swadiland đạt 5,862 triệu USD (chiếm 18,3%). Đến năm 2006, xuất khẩu sang các nước SACU đạt 101,2 triệu USD. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sang các nước SACU trong giai đoạn từ 2000 2006 đạt bình quân 21,6%/năm và chiếm 16,6% xuất khẩu của Việt Nam sang Châu Phi. Giai đoạn từ 2007 đến nay Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng từ 222,5 triệu USD năm 2007 lên 1.014,6 triệu USD năm 2014. Riêng năm 2011, trao đổi thương mại hai chiều Việt Nam – SACU đạt mức kỷ lục là 2,1 tỉ USD, tuy nhiên chủ yếu là do hoạt động tái xuất vàng của các doanh nghiệp Việt Nam sang Nam Phi trong bối cảnh giá vàng tăng cao. Trao đổi thương mại với các nước SACU tăng trưởng với tốc độ bình quân cao hơn tăng trưởng ngoại thương chung của cả nước trong cùng thời kỳ, trung bình là 24,2%/năm trong giai đoạn 20072014. Tỷ trọng trao đổi thương mại với SACU trong tổng trao đổi thương mại Việt Nam – châu Phi năm 2007 là 22,1%, đạt mức cao nhất là 44,3% năm 2011 và năm 2014 là 21,2%. Tính chung cho cả thời kỳ 20072014, tỷ lệ này là 26,2%. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của thị trường các nước SACU đối với Việt Nam ở châu Phi. Trong tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam, trao đổi thương mại với các nước SACU chiếm 0,2% năm 2007, đạt mức cao nhất là 1,04% năm 2011 và năm 2014 là 0,34%. Tính chung cho cả thời kỳ 20072014, thì tỉ lệ này là 0,43%. Về cán cân thương mại, từ năm 2007 đến nay, Việt Nam luôn ở thế xuất siêu sang thị trường khu vực này. Trong giai đoạn từ 20072014, xuất khẩu của Việt Nam sang các nước SACU tăng từ 125,2 triệu USD năm 2007 lên 814,4 triệu USD năm 2014. Tốc độ tăng trưởng trung bình trong thời kỳ này là 30,7%/năm. Xuất khẩu sang các nước SACU đóng vai trò quan trọng trong xuất khẩu của Việt Nam sang châu Phi, chiếm 18,3% năm 2007, đạt mức cao nhất là 53,1% năm 2011 và năm 2014 là 26,3%. Tính chung cho cả thời kỳ 20072014, xuất khẩu sang các nước SACU chiếm 30,5% xuất khẩu của Việt Nam sang Châu Phi. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, xuất khẩu sang SACU năm 2007 chiếm 0,26%, đạt mức cao nhất là 1,93% năm 2011 và năm 2014 là 0,54%. Tính chung cho cả thời kỳ 20072014 thì tỉ lệ này là 0,72%. Về nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ các nước SACU tăng từ 97,2 triệu USD năm 2007 lên 200,1 triệu USD năm 2014. Tốc độ tăng trưởng trung bình trong thời kỳ 20022014 là 10,8%. Nhập khẩu từ các nước SACU chiếm tới 30% nhập khẩu từ châu Phi năm 2007, nhưng đến năm 2014 tỉ lệ này chỉ là 11,8% và tính chung cho cả thời kỳ 20072014 là 16,6%. 2.3.2.2. Về thị trường và mặt hàng xuất khẩu Thị trường xuất khẩu
- 18 Xuất khẩu của Việt Nam sang SACU tập trung chủ yếu vào thị trường Nam Phi. Trước năm 2000, đây là thị trường xuất khẩu duy nhất của Việt Nam sang các nước SACU. Trong giai đoạn 20002006, Nam Phi cũng chiếm tới 93,7% tổng xuất khẩu của Việt Nam sang các nước SACU. Tỷ lệ này trong giai đoạn 2007 2014 là 97,8%. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nam Phi đạt mức cao kỷ lục là 1,86 tỷ USD năm 2011. Năm 2014, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này đạt 793,9 triệu USD. Với vị thế của Nam Phi, đây chính là cánh cửa để Việt Nam thâm nhập vào thị trường các nước SACU. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu Trước năm 2000, Việt Nam xuất khẩu sang Nam Phi chủ yếu là mặt hàng gạo. Trong thời kỳ 20022012, các nhóm hàng Việt Nam xuất khẩu sang SACU phân theo SITC là lương thực và động vật sống, máy móc và phương tiện giao thông, và các mặt hàng chế biến khác. Trong đó, nhóm hàng lương thực và động vật sống và nhóm các mặt hàng chế biến khác có xu hướng giảm, trong khi nhóm hàng máy móc và phương tiện giao thông có xu hướng tăng. Với từng thị trường, cơ cấu mặt hàng cũng rất khác nhau và thường xuyên thay đổi. 2.3.2.3. Về thị trường và mặt hàng nhập khẩu Thị trường nhập khẩu Tương tự như xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam từ SACU chủ yếu là từ thị trường Nam Phi. Trước năm 2000, đây là thị trường nhập khẩu duy nhất của Việt Nam trong các nước SACU. Trong giai đoạn từ 20002006, Nam Phi chiếm tới 94,5% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ các nước SACU. Tỷ lệ này là 88,3% trong giai đoạn 20072014. Năm 2013, kim ngạch nhập khẩu từ Nam Phi đạt 143,7 triệu USD. Trong khi đó, nhập khẩu từ các nước Botswana, Lesotho, Namibia và Swaziland còn ở mức thấp, không ổn định nhưng có xu hướng gia tăng trong thời gian gần đây. Mặt hàng nhập khẩu Trước năm 2000, Việt Nam nhập khẩu từ Nam Phi một số mặt hàng như thiết bị sản xuất đường, phân bón, giấy, sản phẩm sắt thép… Trong thời kỳ 20022012, các nhóm hàng Việt Nam nhập khẩu từ SACU phân theo SITC là lương thực và động vật sống, nguyên liệu thô, hóa chất và các mặt hàng công nghiệp chế biến. Trong đó, nhóm hàng lương thực và động vật sống và nhóm nguyên liệu thô có xu hướng tăng, trong khi nhóm hàng hóa chất và các mặt hàng công nghiệp chế biến có xu hướng giảm. 2.3.2.4. Quan hệ thương mại dịch vụ và đầu tư Quan hệ trên các lĩnh vực dịch vụ và đầu tư giữa Việt Nam với các nước SACU còn ở mức thấp và chủ yếu mới có quan hệ giữa Việt Nam và Nam Phi. Một số ngân hàng của Việt Nam đã lập quan hệ đại lý với một số ngân hàng của Nam Phi. Về du lịch, Nam Phi là nước có số du khách đến Việt Nam đông nhất so với các nước Châu Phi khác, hàng năm có khoảng từ 1.0002.000 người đến Việt Nam. Các công ty du lịch Việt Nam cũng đã triển khai nhiều chương trình du lịch tại Nam Phi, với số khách hàng năm hiện nay đạt khoảng 5.000 người. Về đầu tư, Nam Phi mới chỉ có một dự án nhỏ đầu tư trực tiếp tại Việt Nam và Việt Nam cũng mới có hai dự án nhỏ đầu tư tại Nam Phi.
- 19 Trong khi đó, cho tới nay đã có một số công ty Việt Nam mở chi nhánh tại Nam Phi. Quan hệ hợp tác song phương về sở hữu trí tuệ chưa được thiết lập. 2.4. Đánh giá chung về thực trạng phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU 2.4.1. Những thành quả đạt được Việt Nam đã ban hành được một số chính sách, giải pháp phát triển quan hệ thương mại với các nước châu Phi, trong đó có các nước SACU. Việt Nam đã bước đầu thiết lập một số cơ chế hợp tác và khuôn khổ pháp lý nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại giữa Việt Nam với các nước SACU. Về tốc độ tăng trưởng kim ngạch trao đổi thương mại hàng hóa: Kim ngạch trao đổi thương mại hàng hóa giữa Việt Nam với các nước SACU tăng trưởng với tốc độ bình quân cao hơn tăng trưởng ngoại thương chung của cả nước. Về cán cân thương mại: Sự tăng trưởng cao của kim ngạch xuất khẩu đã góp phần duy trì vị thế xuất siêu của Việt Nam trong trao đổi thương mại với các nước SACU. Về cơ cấu hàng xuất khẩu: Mặc dù các mặt hàng nông sản vẫn chiếm một tỉ trọng lớn, nhưng trong thời gian gần đây cũng bắt đầu chuyển hướng sang các mặt hàng tiêu dùng và hàng điện tử gia dụng, máy móc thiết bị. Về chất lượng hàng xuất khẩu: hàng hóa của Việt Nam được đánh giá đã đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Về phương thức và chủ thể xuất khẩu: Trong buôn bán với các nước SACU, bên cạnh hình thức xuất khẩu qua trung gian thì hiện nay việc xuất khẩu trực tiếp đang có chiều hướng gia tăng. 2.4.2. Một số hạn chế và nguyên nhân Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU còn nhiều hạn chế, cụ thể là: Thứ nhất, ngoại trừ một số cơ chế hợp tác với Nam Phi và Namibia đã được xây dựng, khuôn khổ pháp lý tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại giữa Việt Nam với cả khối SACU và các nước thành viên khác hầu như chưa được thiết lập. Thứ hai, Việt Nam chưa có bất kỳ chính sách phát triển quan hệ kinh tế, thương mại riêng biệt, cụ thể nào đối với thị trường các nước SACU. Thứ ba, cơ cấu hàng xuất khẩu của ta sang thị trường khu vực còn nhiều hạn chế thể hiện ở hai phương diện: (1) Chủng loại hàng hoá còn đơn điệu, chưa tích cực phát triển những mặt hàng xuất khẩu mới có đóng góp kim ngạch cao; (2) Các mặt hàng có giá trị gia tăng còn thấp do chất lượng lao động chưa cao. Thứ tư, hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu với thị trường này thường được đánh giá là không cao. Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là: Nguyên nhân khách quan Thứ nhất, chi phí vận tải cao, làm tăng giá cả, giảm sức cạnh tranh của hàng hóa. Thứ hai, Việt Nam không phải là đối tác ưu tiên trong chính sách phát triển quan hệ thương mại của các nước SACU với các quốc gia trên thế giới. Thứ ba, trừ Nam Phi, các nước khác trong SACU có quy mô rất nhỏ do đó việc gia tăng số
- 20 lượng hàng và kim ngạch xuất khẩu tương đối khó khăn do tính hiệu quả kinh tế còn hạn chế. Thứ tư, đại đa số người dân các nước SACU có thu nhập thấp, nên mặc dù nhu cầu tiêu dùng lớn nhưng khả năng chi trả có hạn. Thứ năm, Việt Nam đang chịu sự cạnh tranh rất lớn trên thị trường này. Nguyên nhân chủ quan: * Về phía Nhà nước: Thứ nhất, các cơ quan quản lý Nhà nước chưa chú trọng việc đề xuất, xây dựng các chính sách phát triển quan hệ kinh tế, thương mại riêng biệt, cụ thể đối với thị trường các nước SACU. Thứ hai, Việt Nam chưa quan tâm chú trọng đề xuất, đàm phán để xây dựng các cơ chế hợp tác và khuôn khổ pháp lý nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại giữa Việt Nam với cả khối SACU và các nước thành viên… Thứ ba, sự hỗ trợ của Nhà nước đối với các hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp trong việc thúc đẩy phát triển quan hệ thương mại với các nước SACU còn rất hạn chế. Chưa có nhiều các ưu tiên hỗ trợ trong các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia đối với các thị trường khó khăn, xa xôi như thị trường các nước SACU. * Về phía các hiệp hội ngành hàng và các doanh nghiệp, : Thứ nhất, các hiệp hội ngành hàng và các doanh nghiệp Việt Nam ít tổ chức các đoàn doanh nghiệp, khảo sát thị trường và tìm hiểu cơ hội hợp tác thương mại với các nước SACU. Thứ hai, thông tin về thị trường các nước SACU lại rất thiếu, ít được cập nhật. Thứ ba, các hoạt động xúc tiến thương mại tại thị trường các quốc gia khu vực SACU chưa được quan tâm chú ý. Thứ tư, năng lực cạnh tranh của bản thân doanh nghiệp nước ta còn yếu. Thứ năm, các doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự quan tâm đầu tư xây dựng mạng lưới bạn hàng tại các nước SACU. * Kết luận Chương 2: Thông qua việc phân tích, đánh giá thực trạng phát quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU, Chương 2 của luận án đã đạt được những kết quả chủ yếu như sau: Thứ nhất, nêu khái quát đặc điểm của khối SACU cũng như chính sách thương mại của các nước này với Việt Nam; phân tích chính sách của Việt Nam trong việc phát triển quan hệ kinh tế thương mại với các nước Châu Phi nói chung và các nước SACU nói riêng. Đây là nhân tố quan trọng tác động đến việc phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU. Thứ hai, phân tích thực trạng phát triển quan hệ thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và các nước SACU ở cấp độ thể chế và thực thể, thực trạng trao đổi thương mại được phân chia thành các giai đoạn trước năm 2000, từ năm 20002006 và từ năm 20062014; phân tích cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các nước SACU. Luận án cũng nêu khái quát về quan hệ thương mại dịch vụ và đâu tư giữa Việt Nam với các nước SACU. Thứ ba, từ phân tích thực trạng phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước SACU, luận án đã rút ra những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế này trong việc phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU. Đây là những cơ sở thực tiễn cho việc đề ra các giải pháp phát triển hơn nữa quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước SACU. Chương 3
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 306 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 289 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 183 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 269 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 181 | 9
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 149 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 199 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 136 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 17 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn