intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Năng suất lao động trong doanh nghiệp Việt Nam

Chia sẻ: Nguyễn Kim Tuyền Hoa | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:24

21
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu tổng quát của luận án là phân tích sự tác động đến năng suất lao động của các doanh nghiệp Việt Nam thông qua đầu tư trực tiếp, xuất khẩu và chính sách phúc lợi ngoài lương.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Năng suất lao động trong doanh nghiệp Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ­­­­­­­­ DAO VU PHUONG LINH NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ PHÁT TRIỂN                                                 MàSỐ                    : 9310105 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh ­ Năm 2020
  2. Công trình được hoàn thành tại:  Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học:  1. TS. Phạm Khánh Nam 2. TS. Lê Văn Chơn Phản biện 1: .........................................................................................................  Phản biện 2: .......................................................................................................... Phản biện 3: .......................................................................................................... Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường họp tại: ........ ................................................................................................................................ Vào hồi    giờ   ngày    tháng    năm  Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: ................................................................................................................................ ................................................................................................................................ ................................................................................................................................
  3. 3 CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU 1.1 Bối cảnh và khoảng trống nghiên cứu 1.1.1 Bối cảnh thực tiễn Vào những năm 1990 của thế kỷ 20, nền kinh tế Việt Nam đã có bước tăng trưởng vượt   bậc chủ  yếu đến từ  tăng năng suất suất lao động (NSLĐ) trong nông nghiệp. Điều này  chính là kết quả của quá trình giải tán hợp tác xã (HTX) và giao quyền sử dụng đất cho tư  nhân.  Mặc dù có những tiến bộ  rõ ràng và  ổn định hơn một số  quốc gia khác, hiện nay Việt   Nam đang tiếp tục đối mặt với những thách thức mới. Tốc độ  tăng trưởng kinh tế  và việc  chuyển đổi từ  khu vực nông nghiệp sang các ngành khác có dấu hiệu chậm lại, thu nhập   bình quân đầu người  ở mức thấp (Vũ Minh Khương, 2016). Tăng trưởng năng suất từng là  nhân tố chính cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong những năm đầu đổi mới đã giảm dần   trong thập kỷ vừa qua, tốc độ  tăng NSLĐ đi xuống (Nguyễn Đức Thành và Ohno Kenichi,   2018). Thay vì cải thiện NSLĐ để tiếp tục đạt được thành tựu, đầu tư  vốn trở thành nguồn  tăng trưởng kinh tế  chính trong giai đoạn kế  tiếp này. Nhưng theo Bodewig và Magnusson   (2014), đây không phải là mô hình bền vững, thích hợp đối với Việt Nam để đảm bảo duy trì  mức độ tăng trưởng cao. Mặc dù được đánh giá là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng NSLĐ tốt nhất  khu vực nhưng khi so sánh quốc tế theo báo cáo của Tổ chức lao động quốc tế (ILO, 2015)  và ADB về NSLĐ của ASEAN 2014 vào ngày 19/08/2014 năng suất lao động của Việt Nam  chỉ bằng 1/4 của Thái Lan, 1/5 của Malaysia, 1/10 của Hàn Quốc và 1/15 của Singapore. Những phương thức giúp gia tăng năng suất lao động hiện nay được Việt Nam sử dụng   phổ biến đó là gia tăng công nghệ thông qua việc mở cửa nền kinh tế cụ thể là tăng thu hút   đầu tư trực tiếp nước ngoài, khuyến khích các doanh nghiệp trong nước xuất khẩu hay gia  tăng năng suất lao động thông qua chính sách tăng lương cơ  bản. Tuy nhiên, thành tựu đạt  được vẫn chưa được như mong đợi bằng chứng là những kết quả về năng suất lao động đã   nêu ở trên. Để lực lượng lao động trở  nên năng suất hơn đầu tiên cần xem xét đến LLLĐ trong hệ  thống các doanh nghiệp vì đây là nơi nắm giữ  phần lớn lực lượng lao động của cả  nước.   Hệ thống doanh nghiệp (DN) và khu vực tư nhân là một phần vô cùng quan trọng và là động   lực chính của tăng trưởng kinh tế Việt Nam (WB, 2014).  Theo báo cáo của Bộ  Kế  hoạch và đầu tư  (2019) về  năng suất và khả  năng cạnh tranh   của các doanh nghiệp Việt Nam, năng suất lao động hiện nay của Việt Nam trong giai đoạn   gần đây được đóng góp phần lớn từ “hiệu ứng nội ngành”(2). Chính vì vậy việc phân tích các  yếu tố  quyết định năng suất lao động  ở  góc độ  doanh nghiệp, với giả  định là thành phần   chính của “hiệu ứng nội ngành” trong NSLĐ tăng là rất quan trọng. 1.1.2 Bối cảnh lý thuyết Tăng trưởng năng suất lao động đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại, tăng trưởng và   phát triển doanh nghiệp và ảnh hưởng quyết định đến tăng trưởng kinh tế (Breu và cộng sự,   2012). Do đó, trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu cả lý thuyết và thực nghiệm dưới nhiều   góc độ cả vi mô và vĩ mô để nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lao động. Vì   muốn tập trung cải thiện năng suất lao động cho khu vực tư nhân, doanh nghiệp nên trong   bối cảnh lý thuyết, luận án chỉ trình bày những nghiên cứu về các yếu tố tác động đến năng   suất lao động dưới gốc độ vi mô. Đối với mối quan hệ giữa FDI, xuất khẩu đến năng suất lao động ở góc độ doanh nghiệp   có thể  kể  đến những nghiên cứu đầu tiên như  của Vernon (1966), Caves (1974), Findlay   (1978),   Dunning   (1979)   sau   đó   có   Blomstrom   (1986),   (Griffith   và   cộng   sự,   2002),  Vadlamannati (2011), Georgescu (2012), Bernard và Jensen (1999), Blalock (2004), Wagner  (2007), Haidar (2012), De Loecker (2013). Những mô hình lý thuyết cổ  điển như  của Swan   (1956); Solow (1957) đơn thuần coi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là kênh cung cấp  
  4. 4 vốn quan trọng đối với nền kinh tế  thì những nghiên cứu thực nghiệm sau này khi nghiên  cứu dưới góc độ  vi mô còn cho thấy dòng vốn FDI chảy vào nội địa một quốc gia sẽ  dẫn  đến chuyển giao cộng nghệ, gia tăng năng suất đối với các công ty nội địa của nước đó  (Aitken và Harrison, 1999; Griffith, 2002; Ng, 2007).  Các công ty có vốn FDI, đặc biệt các công ty đa quốc gia là công cụ quan trọng trong việc   áp dụng công nghệ  vì họ  mang đến những  ưu thế  vượt trội về trình độ  công nghệ. Ngoài   những tác động trực tiếp đến nền kinh tế, các doanh nghiệp FDI còn có thể gián tiếp tạo ra   các tác động lâu dài đến nội ngành sản xuất  ở quốc gia tiếp nhận đầu tư  (Mô hình Caves,  1974)  Tuy   nhiên,   các   công   ty   đa   quốc   gia   cũng   có   thể   làm   giảm   NSLĐ   của   nước   sở   tại  (Rodriguez­Clare, 1996). Dẫn chứng của những nghiên cứu này đó là do các công ty đa quốc  gia  ảnh hưởng đến nước chủ  nhà thông qua các liên kết ngược và xuôi và các hiệu  ứng  khác.  Một kênh áp dụng công nghệ khác cũng tác động đến NSLĐ đó là thông qua thương mại  quốc tế, đặc biệt là xuất khẩu. Hầu hết các lý thuyết và các nghiên cứu ứng dụng hiện nay  đều cho rằng xuất khẩu tác động dương đến NSLĐ (World Bank 1993; Metliz 2003; Bernard   và cộng sự  2003). Tuy nhiên, một số  nghiên cứu như  Young (1991) cho thấy một chế  độ  giao dịch tự do hơn làm chậm quá trình tăng trưởng NSLĐ của các quốc gia đang phát triển  do không có lợi thế so sánh bằng quốc tế. Vì vậy, ảnh hưởng của xuất khẩu đến NSLĐ của   các quốc gia đang phát triển có thể khác nhau. Mặc dù cả FDI và xuất khẩu có thể ảnh hưởng đến lan tỏa công nghệ từ  đó ảnh hưởng  đến năng suất lao động, hầu hết những nghiên cứu tại Việt Nam (Nguyen, 2019; Pham,   2008; Le, 2007, Newman và cộng sự, 2017) ghi nhận sự lan tỏa công nghệ của FDI hay xuất   khẩu đến NSLĐ như hai kênh riêng lẻ mà không xem xét đồng thời sự tác động của FDI và  xuất khẩu đến NSLĐ của các doanh nghiệp như  2 kênh lan tỏa công nghệ  quốc tế  cạnh   tranh nhau và sự  khác biệt của chúng đến những đối tượng doanh nghiệp có mức độ  thâm   dụng vốn khác nhau.  Mối liên hệ giữa phúc lợi hay những chính sách đãi ngộ và NSLĐ đã được củng cố trong  lý thuyết kinh tế  (lý thuyết nhu cầu (Maslow, 1954); lý thuyết kỳ  vọng (Vrom, 1964); lý   thuyết hai yếu tố (Herzberg, 1987) và một số các lý thuyết khác). Nhiều kết quả nghiên cứu   thực nghiệm (Dreher và cộng sự, 1988; Micelli và Lane, 1991; Millea, 2002; Tsai và Yu,  2005; Singh, 2009; Anand và cộng sự, 2010) chứng minh được rằng những khoản phúc lợi   ngoài lương này đóng góp tích cực vào NSLĐ của người lao động và sức khỏe của NLĐ lại  ảnh hưởng tích cực đến NSLĐ và sức khỏe của nền kinh tế quốc gia. Những phúc lợi này  ảnh hưởng mạnh mẽ  đến hành vi của NLĐ, là lý do thuyết phục giúp NLĐ tiếp tục làm  việc cho chủ  DN cũng như  họ  buộc phải cạnh tranh lẫn nhau và điều này dẫn đến NSLĐ   của doanh nghiệp sẽ tăng lên. Không đồng tình với quan điểm trên, một số nghiên cứu cho   rằng các chế  độ  phúc lợi chỉ được xem như một yếu tố điều chỉnh và cung cấp tài trợ  cho  nhân viên vì là thành viên của tổ  chức hay doanh nghiệp chứ  không tạo động lực hay liên   quan đến NSLĐ (Rosenbloom và Hallman, 1981; Hills, 1987; Adigun và Stephenson, 1992;  Mondy và cộng sự, 2002).  1.1.3 Khoảng trống nghiên cứu Nghiên cứu về năng suất lao động có ý nghĩa quan trọng đối với cả chính sách công cộng  và các quyết định đối với khu vực tư  nhân (Sauermann, 2016) vì đây là chỉ  tiêu quan trọng   phản ánh hiệu quả phát triển kinh tế của quốc gia, doanh nghiệp và chất lượng NLĐ. Đặc   biệt hơn đối với bối cảnh của Việt Nam khi hai thập kỷ qua dù cho năng suất lao động Việt   Nam tăng nhanh nhưng vẫn nằm ở mức cận đáy của ASEAN (ILO, 2015). Thúc đẩy năng suất lao động của nền kinh tế đầu tiên cần thúc đẩy năng suất lao động  của doanh nghiệp. Có ba nhóm yếu tố chính giúp xác định năng suất lao động bao gồm: vốn   con người, tiến bộ công nghệ và quy mô kinh tế (Greelaw và cộng sự, 2018).  Trong luận án  
  5. 5 này đặc biệt quan tâm đến 2 kênh tác động đến năng suất lao động đó là tiến bộ công nghệ  thông qua hội nhập kinh tế, vốn con người thông qua phúc lợi cho nhân viên. Việt Nam đang hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, do đó đã có nhiều các nghiên cứu  trong nước về sự ảnh hưởng của các kênh áp dụng công nghệ từ nước ngoài thông qua FDI  và xuất khẩu đến năng suất (Nguyễn Khắc Minh & Nguyễn Việt Hùng, 2012; Ngô Hoàng  Thảo Trang, 2017; Phạm Thế Anh,2018). Tuy nhiên, hầu hết những nghiên cứu này đều  nghiên cứu các kênh tác động đến NSLĐ rời rạc mà không xem xét chúng như những kênh  tác động cạnh tranh với nhau. Các doanh nghiệp có mức độ thâm dụng vốn khác nhau sẽ có những chiến lược theo đuổi   khác nhau khi muốn gia nhập vào cơ chế toàn cầu hóa. Việc lựa chọn tham gia bằng chiến   lược nào để  thu được lợi ích tốt nhất cũng là vấn đề  của các DNVN trong giai đoạn toàn   cầu hóa hiện nay. Kênh thứ hai tác động đến năng suất lao động mà luận án quan tâm ở đây là vốn nhân lực   thông qua chính sách phúc lợi cho nhân viên. Chính sách đãi ngộ được nghiên cứu chủ yếu ở  Việt Nam vẫn là vấn đề  tiền lương và tỏ ra không hiệu quả  những năm gần đây, trong khi  các chính sách đãi ngộ  liên quan đến những phần thưởng vô hình hoặc mang tính phi tài   chính thì không thể hoặc không dễ để bắt chước, sao chép tạo ra lợi thế riêng về nguồn lực  con người cho tổ chức lại chưa được quan tâm đúng mức. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu  Mục tiêu tổng quát:  Mục tiêu nghiên cứu tổng quát của luận án là phân tích sự  tác động đến năng suất lao   động của các doanh nghiệp Việt Nam thông qua đầu tư  trực tiếp, xuất khẩu và chính sách   phúc lợi ngoài lương. Mục tiêu 1: Phân tích tác động của 2 kênh ứng dụng công nghệ, đầu tư trực tiếp  nước ngoài và xuất khẩu đến NSLĐ trong các doanh nghiệp có mức độ thâm dụng vốn khác  nhau;  Mục tiêu 2: Đánh giá tác động của các chính sách phúc lợi ngoài lương đến NSLĐ  của các DNNVV Việt Nam. 1.3 Câu hỏi nghiên cứu Câu hỏi 1: Với sự khác biệt về mức độ thâm dụng vốn, liệu có sự khác biệt giữa tác  động của FDI và xuất khẩu đến NSLĐ của doanh nghiệp Việt Nam hay không? Câu hỏi 2: Chính sách phúc lợi ngoài lương tác động đến NSLĐ của DNNVV Việt Nam  như thế nào? 1.4 Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 1.4.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của luận án gồm năng suất lao động của doanh nghiệp trong  các mối quan hệ với đầu tư FDI, xuất khẩu trong điều kiện đặc điểm mức độ thâm dụng  vốn của ngành khác nhau; năng suất lao động của doanh nghiệp trong mối quan hệ với các  chính sách phúc lợi ngoài lương cho nhân viên. 1.4.2 Phạm vi nghiên cứu Tổng thể  luận án nghiên cứu các vấn đề  xoay quanh năng suất lao động của các doanh  nghiệp Việt Nam giai đoạn từ năm 2009 đến 2016. Phạm vi doanh nghiệp: bao gồm doanh nghiệp lớn và DNNVV đối với mục tiêu số 1 và  tập trung ở DNNVV ở mục tiêu số 2. Phạm vi khu vực/ngành của doanh nghiệp: Doanh nghiệp với các loại hình sở hữu khác  nhau thuộc ngành chế biến chế tạo. 1.5 Phương pháp nghiên cứu
  6. 6 Để giải quyết 2 mục tiêu, luận án sử dụng mô hình tác động cố định FEM và mô hình tác  động ngẫu nhiên REM để xử lý dữ liệu bảng ước tính mô hình nghiên cứu. Các phương  pháp này cho phép kiểm soát các tác động cố định không quan sát được của  công ty  (Wooldridge, 2002).  Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu số 1, luận án sử dụng bộ số liệu được tổng hợp từ 2   bộ dữ liệu Tổng điều tra doanh nghiệp Việt Nam (VES) năm 2015 và 2016.  Đối với mục tiêu nghiên cứu số  2, luận án sử  dụng bộ  dữ  liệu được tổng hợp từ  3 bộ  Điều tra các Doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) năm 2011, 2013 và 2015.  Do sự  không đồng nhất trong bảng hỏi của bộ  số liệu VES  ở các năm. Do đó, luận án   gặp khó khăn trong việc sử dụng thông tin cần thiết phục vụ có mục tiêu nghiên cứu nếu sử  dụng bộ  dữ  liệu nhiều năm dẫn đến có sự  không đồng bộ  về  thời gian nghiên cứu của 2   mục tiêu. 1.6 Ý nghĩa của luận án Mục tiêu 1 phân tích sự tác động khác nhau giữa FDI và xuất khẩu đến NSLĐ của các  DN thuộc các ngành có đặc điểm thâm dụng vốn khác nhau. Kết quả của luận án giúp các  DN cũng như chính phủ có thể định hướng rõ hơn nên gia nhập vào chế độ toàn cầu hóa  thông qua FDI hay xuất khẩu dựa vào đặc điểm thâm dụng vốn của ngành để mang lại  nhiều lợi ích tốt nhất. Từ đó giúp các DN, chính phủ đưa ra các chính sách, định hướng đầu  tư phù hợp hơn. Ở mục tiêu số 2, nghiên cứu về sự tác động của các chính sách phúc lợi đến năng suất  lao động của các DNNVV, do đó ý nghĩa đầu tiên của luận án là đóng góp bằng chứng thực  nghiệm về mối quan hệ này tại Việt Nam khi có khá ít các nghiên cứu dành cho chính sách  phúc lợi. Thứ hai là, luận án đặt mối quan hệ của chính sách phúc lợi và năng suất lao động  của doanh nghiệp được nghiên cứu ở cấp độ doanh nghiệp sẽ dẫn đến tính liên kết giữa lợi  ích của NLĐ và năng suất (lợi ích) của doanh nghiệp. Hay nói cách khác nó phản ánh được  lợi ích của bên cung cấp các chính sách này. Thứ ba, kết quả của luận án trả lời vấn đề gây  tranh cãi ở Việt Nam hiện nay đó là liệu rằng có nên xem xét thay thế việc tăng lương tối  thiểu bằng việc thực thi các chính sách phúc lợi ngoài lương nhằm cải thiện NSLĐ của  doanh nghiệp. 1.7 Cấu trúc của luận án Kết cấu của đề tài gồm 5 chương như sau: ­ Chương 1. Giới thiệu chung. ­ Chương 2. Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu.  ­ Chương 3. Tác động của đầu tư  trục tiếp nước ngoài và xuất khẩu đến năng suất lao   động của các doanh nghiệp có mức độ vốn khác nhau. ­ Chương 4. Tác động của chế độ phúc lợi ngoài lương đến năng suất lao động. ­ Chương 5. Kết luận và hàm ý chính sách.   CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 2.1 Giới thiệu 2.2 Khái niệm và đo lương năng suất lao động  Syverson (2010) năng suất là hiệu quả  trong sản xuất thể  hiện qua có bao nhiêu sản   lượng thu được từ một loại đầu vào nhất định. Do đó, nó thường được biểu thị dưới dạng  tỷ lệ đầu vào của đầu ra. Có nhiều phương pháp đo lường năng suất, trong đó NSLĐ là một   trong những tiêu chí được sử  dụng nhiều nhất. Theo đó, năng suất lao động khai thác mức   độ  mà vốn nhân lực mang lại giá trị  cho nền kinh tế hay doanh nghiệp (Koch và McGrath,   1996).
  7. 7 Trong luận án này đối tượng được nhắm đến là năng suất lao động của các doanh nghiệp   ở  các ngành công nghiệp với các đầu ra khác nhau, có và không có gia công  ở  cả  hai mục   tiêu đồng thời về tính khả dụng của bộ dữ liệu không đáp ứng được những yêu cầu đối với  thước đo tổng sản lượng. Do vậy luận án quyết định sử  dụng tiêu chí giá trị  gia tăng làm   thước đo cho đầu ra và số lượng lao động là thước đo đầu vào để tính năng suất lao động: Năng suất lao động của doanh nghiệp =  2.3  Lý thuyết phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến NSLĐ của doanh nghiệp Theo Theo Greelaw và cộng sự  (2018) cho rằng năng suất lao động của NLĐ bị   ảnh   hưởng bởi 3 nhóm yếu tố: (1) Vốn con người, (2) Tiến bộ công nghệ, (3) Quy mô kinh tế. Theo Syverson (2010) khi nghiên cứu năng suất lao động ở cấp vi mô doanh nghiệp nhận   ra rằng năng suất lao động được tác động trực tiếp bởi 2 nhóm chính đó là nhóm bên trong   và nhóm bên ngoài doanh nghiệp. Nhóm bên trong doanh nghiệp bao gồm các yếu tố  hoạt  động trong doanh nghiệp như thực hành/ tài năng quản lý, chất lượng lao động và đầu vào   vốn, đổi mới sản phẩm và cơ cấu tổ chức của các đơn vị sản xuất bên trong công ty. Nhóm   yếu tố thứ hai đề cập đến các yếu tố quyết định môi trường sẽ gồm những yếu tố như sự  lan tỏa năng suất đến từ  chuyển giao kiến  thức, mức độ  cạnh tranh trong thị  trường lao  động và sản phẩm cũng như tác động của quy định, chính sách từ bên ngoài.  Ngoài 2 nhóm nhân tố chính như trên Micallef (2016) còn đưa ra một số các yếu tố có sự  tác động kép như hai nhóm trên. Đối với các nghiên cứu dựa vào hàm sản xuất, đặc biệt là xuất phát từ Cobb­Douglas (ví  dụ  như  Globerman, 1979; Blomström và Persson, 1983, Kokko,1994 và Kokko và cộng sự,  1996) trong việc xem xét các yếu tố quyết định NSLĐ ở  cấp độ  doanh nghiệp, mức cường   độ vốn và cường độ lao động là mối quan tâm chính.  Hình 1: Những nhân tố chính ảnh hưởng đến năng suất lao động Ngoài những nhóm yếu tố  chính  ảnh hưởng đến NSLĐ được phân như  trên, các nghiên   cứu thực nghiệm với chủ  đề  NSLĐ  ở  cấp độ  vi mô doanh nghiệp cũng cung cấp bằng   chứng về sự tác động của các yếu tố khác ảnh hưởng đến năng suất lao động bao gồm các   yếu tố về đặc điểm doanh nghiệp, công đoàn, ngành công nghiệp, độ  tuổi doanh nghiệp và   các yếu tố khác (Koch và McGrath, 1996; Hsu và Chen, 2000; Roger và Tseng, 2000; Wagner,   2002; Vahter, 2004; Greenaway và cộng sự, 2004; Doraszelski và Jaumandreu, 2013; Arshad  và Malik, 2015).
  8. 8 Hình 2: Khung phân tích  2.4 Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và năng suất lao động của doanh nghiệp 2.4.1 Các lý thuyết về mối quan hệ giữa FDI và năng suất lao động Ở  góc độ  vi mô dòng vốn FDI chảy vào một nước nào đó mang đến sự  chuyển giao  không chỉ kiến thức công nghệ mà cả  kỹ năng quản lý giúp FDI khác biệt với các loại vốn  khác (Liu và cộng sự, 2001). Những mô hình kinh tế nghiên cứu đầu tiên về tác động lan tỏa   này chính là Vernon (1966), Dunning (1977), Caves (1974) và Globerman (1979).  Tác động của FDI đến năng suất có thể  gián tiếp hoặc trực tiếp (Aitken và Harrison,   1999; Gorg và Greenaway, 2004; Liu và cộng sự, 2001). Khi vốn FDI được đầu tư  vào nền  kinh tế ngoài việc tăng thêm nguồn vốn nó còn đi liền với việc giới thiệu kỹ năng sản xuất  và quản lý mới có  ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả  sản xuất (Dunning (1979). Bên cạnh   đó FDI cũng cung cấp các hiệu ứng gián tiếp bằng cách phổ  biến kiến thức (Blomstrom &   Kokko, 1998). Theo Caves (1974) tác động gián tiếp của FDI đến năng suất của các doanh nghiệp nội  địa có thể  được phân thành 3 kênh chính: (1) Các doanh nghiệp nhận vốn FDI có thể  làm  tăng năng suất cho các doanh nghiệp nội địa cùng ngành với họ bằng cách cải thiện sự phân   bổ  nguồn lực trong ngành đó; (2) Sự  xuất hiện của các doanh nghiệp FDI vào một ngành  cũng đã được tìm thấy sẽ  làm tăng cạnh tranh và năng suất, bằng cách buộc các DN trong   nước tăng hiệu quả để duy trì tính cạnh tranh và/hoặc buộc các công ty không sản xuất phải   rời khỏi thị  trường (Blomström, 1986, Griffith và cộng sự  2002); (3) sự  hiện diện của các   công ty con đa quốc gia trong một ngành có thể  đẩy nhanh quá trình hoặc giảm chi phí   chuyển giao công nghệ.  2.4.2 Những nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa FDI và NSLĐ Các nghiên cứu thực nghiệm gần đây cho thấy đầu tư  trực tiếp nước ngoài có các hiệu   ứng tác động khác nhau đối với việc tăng năng suất, diễn ra cùng một lúc và có thể  là trực   tiếp   hoặc   gián   tiếp   (Aitken   &   Harrison,   1999;   Lichtenberg   &   Siegel,   1987;   Djankov   &   Hoekman,   1999;   Anderson,   2000;   Piscitello,   Rabbiosi,   2005;   Ng,   2007;   Liu,   Zhao,   2006;  Wacker và Vadlamannati, 2011; Georgescu, 2012).    Ảnh hưởng tích cực đến NSLĐ của các doanh nghiệp địa phương đã được chứng minh   là kết quả  của đầu tư  trực tiếp nước ngoài trong các nghiên cứu ở  các quốc gia khác nhau   như:   Hoa   Kỳ   (Lichtenberg   và   Siegel,   1987),   Cộng   hòa   Séc   (Djankov,   Hoekman,   1999),   Indonesia (Anderson , 2000), Ý (Piscitello, Rabbiosi, 2005), Trung Quốc (Liu, Zhao, 2006) và  một số nghiên cứu khác. Ngoài ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, FDI còn mang đến một số hiệu ứng   đối với thị  trường lao  động,  ảnh hưởng gián tiếp  đến NSLĐ. Wacker và Vadlamannati   (2011)   nghiên   cứu  ảnh  hưởng   của   FDU   đến  tối   ưu   hóa  quy   trình   thị   trường   lao   động.  Georgescu (2012) phát hiện ra rằng tại các thị trường mới nổi để thu hút FDI, các chiến lược   đã được thực hiện thông qua các biện pháp hoặc phương tiện khác nhau nhằm cung cấp một 
  9. 9 môi trường kinh doanh minh bạch và thân thiện với các nhà đầu tư, điều này giúp hỗ  trợ  tăng NSLĐ.  2.5 Xuất khẩu và năng suất lao động Theo Wagner (2007) có 2 giả  thuyết được đưa ra giải thích cho việc các doanh nghiệp  xuất khẩu có NSLĐ cao hơn so với các doanh nghiệp không có xuất khẩu: (1) do vấn đề về  tự lựa chon (self selection) nghĩa là các DN có năng suất tốt hơn sẽ xuất khẩu hàng hóa; (2)   lý thuyết học hỏi thông qua xuất khẩu (learning by exporting): Kiến thức từ  những người   mua quốc tế  (những khách hàng, nhà nhập khẩu ở nước ngoài) hay ngay cả  những đối thủ  quốc tế giúp cải thiện năng suất của các DN khi họ xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài. Hơn  nữa, các DN tham gia vào thị trường quốc tế phải đối diện với sự cạnh tranh khốc liệt hơn   và buộc tự cải thiện nhanh hơn để đáp ứng nhu cầu thị hiếu những người chỉ bán hàng cho   thị trường trong nước.  2.5.1 Lý thuyết cơ chế tự lựa chọn (self selection) Khi bán hàng ra nước ngoài (xuất khẩu), các doanh nghiệp phải tốn thêm nhiều loại chi  phí bao gồm chi phí vận chuyển, chi phí bán hàng, chi phí tiếp thị, chi phí truyền thông  ở  nước ngoài,  kỹ  năng quản lý mạng lưới nước ngoài hoặc chi phí sản xuất trong việc sửa   đổi các sản phẩm hiện tại cho tiêu dùng nước ngoài (Haidar, 2012; Harris và Li, 2008). Để  đủ  tiền chi trả  cho những chi phí này, các DN buộc phải có năng suất cao hơn (Roberts và  Tybout, 1997; Clerides và cộng sự 1998; Bernard và Wagner, 2001). Theo Wagner (2007) hành vi của DN có thể  là hướng tới tương lai theo nghĩa là mong   muốn xuất khẩu vào ngày mai sẽ giúp cải thiện năng suất ngày hôm nay để cạnh tranh trên   thị trường nước ngoài. 2.5.2 Lý thuyết học hỏi thông qua xuất khẩu (Learning by exporting) Khi các DN tham gia vào thị  trường quốc tế, họ có được kiến thức vượt trội thông qua  nhu cầu đổi mới của khách hàng nước ngoài, áp dụng các kỹ  thuật sản xuất mới với công  suất cao hơn làm tăng NS và hiệu suất đổi mới của công ty (Lu và Beamish, 2006; Castellani,   2002; De Loecker, 2013). 2.5.2 Những nghiên cứu thực nghiệm giữa xuất khẩu và năng suất lao động Wagner (2007) đã khảo sát các dữ  liệu vi mô về  mối quan hệ  giữa xuất khẩu và năng  suất của DN từ năm 1995 đến 2004. Ông nhận thấy rằng các  DN có NS hơn sẽ tự chọn gia  nhập vào thị trường xuất khẩu, trong khi xuất khẩu không nhất thiết cải thiện năng suất. Quan điểm của Wagner (2007) cũng được chứng minh cho các nghiên cứu sau này khi  nghiên cứu cho trường hợp các quốc gia khác nhau từ  các quốc gia công nghiệp hóa như ở  Tây Ban Nha trong nghiên cứu của Cassiman và cộng sự (2007) hay ở Đức trong Baumann và   cộng sự  (2016); Các nước Mỹ  Latinh như    Chile trong nghiên cứu của Alvarez và Lopez   (2005), Mexico, Colombia và Ma – rốc trong nghiên cứu của Clerides và cộng sự (1998); Các  nước châu Á như  Trung Quốc giai đoạn 1988­1992 trong nghiên cứu của Kraay (2002) hay   Indonesia trong khoảng thời gian từ  1990 đến 1996 của Blalock và Gertler (2004), Banri &  Ayumu (2013) nghiên cứu cho DNNVV Nhật Bản.  Mặt khác, một số nghiên cứu đưa ra kết quả nghiên về giả thiết thứ 2 hơn, nghĩa là các   doanh nghiệp sau khi gia nhập vào thị trường xuất khẩu nhờ đó học hỏi từ người mua quốc   tế  cũng như  đối thủ  cạnh tranh mà có NS cao hơn. Bằng chứng về  giả  thuyết này được   cung cấp bởi Martins và Yang (2009). Họ đã tiến hành phân tích tổng hợp giả thuyết học hỏi  từ  xuất khẩu (LBE) trên hơn 30 bài báo và xác định rằng xuất khẩu cải thiện đáng kể  NS  các DN ở các nước đang phát triển do khoảng cách lớn hơn với biên giới công nghệ. 2.6. Chính sách phúc lợi ngoài lương và ảnh hưởng đến năng suất lao động Vốn con người được xem là yếu tố chính dẫn đến sự khác biệt về năng suất giữa người   lao động và giữa các doanh nghiệp (Becker, 1975; Koch&McGrath, 1996). Theo mô hình Towers Perrin (Armstrong, 2010), chia chế  độ  đãi ngộ  thành 2 phần bao  gồm những phần thưởng hữu hình (thuần túy tài chính) và phần thưởng vô hình. Những  
  10. 10 phần thưởng thuần túy tài chính như tiền mặt (ví dụ lương) dễ dàng bắt chước trong cộng  động các doanh nghiệp nhưng những phần thưởng vô hình hoặc mang tính phi tài chính như  các chính sách phúc lợi không thể hoặc không dễ để bắt chước, sao chép và do đó tạo ra lợi  thế về nguồn lực con người riêng cho tổ chức.  Cần phải hiểu tác động của nó đối với năng suất của cá nhân hoặc doanh nghiệp vì phần  phúc lợi trong tổng số  tiền chi cho các gói chế  độ  đãi ngộ  đang có xu hướng tăng lên  trên  toàn thế  giới  (Kang, Yu và Lee, 2016) và cả  lợi thế  riêng mà nó tạo ra về  nguồn lực con   người cho tổ chức, doanh nghiệp. 2.6.1 Chính sách phúc lợi ngoài lương Phúc lợi đại diện cho tất cả các hình thức phần thưởng, ngoại trừ  các khoản bằng tiền  mặt (Mikovich và Newman, 2004). Waititu (2017) phúc lợi là một khái niệm năng động vì theo thời gian những chính sách   phúc lợi mới sẽ được thêm vào những chính sách hiện có phù hợp theo những thay đổi về  nhu cầu của xã hội.  2.6.2 Lý thuyết về  sự  tác động của các chính sách phúc lợi ngoài lương đến năng  suất lao động doanh nghiệp Theo Kang và cộng sự (2016), hầu hết các nghiên cứu cho rằng các thành phần của phúc  lợi có liên quan tích cực với sự  hài lòng của   NLĐ. Việc mở  rộng phúc lợi cho người lao   động cung cấp cho nhân viên động lực và đến lượt mình, mức độ  động lực tăng lên ngăn   cản NLĐ bỏ việc và giúp họ phát triển. Cuối cùng, năng suất hoặc hiệu suất doanh nghiệp   có thể tăng. Lý thuyết hai yếu tố (dual factor theory của Herzberg) cho thấy các chế  độ  phúc lợi mà  nhân viên nhận được giống như là động lực thúc đẩy động lực cá nhân.  Theo mô hình lý thuyết mức độ  thay đổi lao động (theory of change), chi phí cơ  hội của   thay đổi lao động được định nghĩa là chi phí sử dụng để  thuê người lao động và chi phí để  đào tạo và phát triển lại nhân viên (Hom, Caranikas­Walker, Prussia, và Griffeth, 1992). Chi   phí cơ hội của mức độ thay đổi NLĐ làm cản trở các lợi thế cạnh tranh của DN.  2.6.3 Vai trò của các chế độ phúc lợi ngoài lương Theo Greg (2006) và Kamau (2013), những chế  độ  phúc lợi ngoài lương được các nhà   tuyển dụng thường cung cấp nhất bao gồm: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chính sách ưu   đãi, chế  độ  hưu trí, nghỉ  phép, thai sản. Mỗi chế  độ  phúc lợi cung cấp những vai trò khác  nhau với năng suất lao động. 2.6.4 Các nghiên cứu thực nghiệm về sự tác động của chế độ phúc lợi ngoài lương   đến năng suất lao động Gray và Starke (1988) trong một số tổ chức, hành vi trong công việc của nhân viên có mối   quan hệ  với các chế  độ  phúc lợi nhiều hơn bất kì yếu tố  nào khác. Millea (2002) một số  bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ hai chiều giữa chế độ phúc lợingười lao động và  năng suất lao động, đặc biệt là xem xét bản chất của quá trình thiết lập lợi ích ở  các nước   khác nhau. Theo Williams (2007), việc thực hiện phúc lợi cho nhân viên sẽ mang lại những   lợi ích tốt đối với một DN như cải thiện NS, giúp DN thực hiện được mục tiêu của mình,   giảm chi phí nguồn nhân lực, đạt được mục đích của nguồn nhân lực. Ngoài những nghiên cứu  ủng hộ cho mối quan hệ tích cực của phúc lợi dành cho người   lao động đối với NSLĐ, cũng có những quan điểm trái chiều (Rosenbloom và Hallman, 1981;   Hills, 1987; Milkovich và Newman, 1990). CHƯƠNG 3: TÁC ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ XUẤT KHẨU  ĐẾN NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CÓ MỨC THÂM DỤNG  VỐN KHÁC NHAU 3.1 Giới thiệu chung 3.2 Dữ liệu nghiên cứu
  11. 11 Nghiên cứu sử  dụng dữ  liệu bảng của doanh nghiệp được thu thập và xử  lý từ  bộ  dữ  liệu Điều tra hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay còn được gọi là Điều tra   doanh nghiệp năm 2015 và 2016 cho các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành chế  biến chế tạo   để phục vụ cho mục tiêu số 1. Bộ dữ liệu của nghiên cứu chỉ lựa chọn mỗi một tiểu ngành  duy nhất trong nhóm ngành chế  biến chế  tạo đại diện để  phân tích ngành thâm dụng lao   động và thâm dụng vốn. 3.3 Tổng quan mô hình ước lượng NSLĐ ở cấp độ doanh nghiệp Để   ước lượng NSLĐ  ở  cấp độ  doanh nghiệp, mô hình hàm sản xuất Cobb – Douglas   được vận dụng để ước lượng cùng với các biến số tác động.  Theo Griliches (1986), đại diện Y nên đo bằng giá trị gia tăng của doanh nghiệp. Yit = A. (1) Để nghiên cứu sự tác động của FDI và xuất khẩu đến NSLĐ phương trình (1) được biến  đổi như sau: lnyit= β0 + β1FDIit +β2Xit + βi  + εit (2) 3.4 Định nghĩa, đo lường biến và giả thuyết nghiên cứu Bảng 1: Bảng định nghĩa và đo lường biến mục tiêu 1 Giả thuyết nghiên cứu Variable Definition and measure FDIi Giá trị =1: Nếu doanh nghiệp có nhận vốn FDI Giá trị = 0: Nếu doanh nghiệp không nhận vốn FDI FDIit*Quymoit Hiện diện FDI của doanh nghiệp i năm t* quy mô doanh nghiệp  của doanh nghiệp đó  FDIit*Quymoit Hiện diện FDI của doanh nghiệp i năm t * mức độ  VH trên mỗi   lao động của DN đó Xuất khẩu Giá trị =1: Nếu DN tiến hành xuất khẩu Giá trị =0: Nếu DN không tiến hành xuất khẩu Xit*Quymoit Hiện  diện xuất  khẩu  của  doanh nghiệp  i  năm  t  *với  quy  mô   doanh nghiệp của doanh nghiệp đó Xit*Vonhoait Hiện diện xuất khẩu của doanh nghiệp i năm t*mức độ vốn hóa   trên mỗi lao động của doanh nghiệp đó FDIit*Xit* Quymoit Hiện diện FDI  của doanh nghiệp i năm t*xuất khẩu của doanh   nghiệp i năm t*quy mô DN của DN đó FDIit*Xit*Vonhoait Hiện diện FDI  của doanh nghiệp i năm t*xuất khẩu của doanh   nghiệp i năm t * mức VH của DN đó Quy mô (Quymoit) Log cơ số e của tài sản doanh nghiệp. Với đơn vị đo của tài sản   doanh nghiệp: triệu đồng  Mức độ vốn hóa  Log cơ số e giá trị tài sản cố định trên mỗi lao động (). Với đơn vị  (Vonhoait) đo của mức độ Vốn hóa:triệu đồng/người Chất lượng lao động Chi phí lao động bình quân (tổng số  tiền DN chi cho lao động)   (CLit) cho mỗi NLĐ. Đơn vị đo: triệu đồng/người Hình thức sở hữu Giá trị =1: nếu là doanh nghiệp nhà nước (Quocdoanhit) Giá trị = 0: nếu là doanh nghiệp hữu tư nhân Khu/cụm công  Giá trị =1: nếu DN nằm trong khu chế xuất nghiệp Giá trị =0: nếu DN nằm trong ngoài chế xuất (KCN) Miền Nam Giá trị =1: nếu DN ở miền Nam (Miennam) Giá trị =0: nếu DN nằm ở miền khác. Miền Trung Giá trị =1: nếu DN ở miền Trung
  12. 12 (Mientrung) Giá trị =0: nếu DN nằm ở miền khác Giả thuyết H1: Có sự tác động đến NSLĐ của các doanh nghiệp ngành chế biến chế tạo   Việt Nam từ FDI. Giả thuyết H2: Sự  xuất hiện của xuất khẩu được kỳ  vọng có sự  tác động lên năng suất   lao động của các doanh nghiệp ngành chế biến chế tạo. Giả thuyết H3: Những DN có quy mô lớn của ngành chế biến chế tạo được kỳ vọng  có   năng suất cao hơn các DN có quy mô nhỏ. Giả  thuyết H4: Các DN ngành chế  biến chế  tạo có mức độ  vốn hóa càng cao được kỳ   vọng có NSLĐ càng cao. Giả  thuyết H5: Doanh nghiệp chế  biến chế tạo có chất lượng nguồn nhân lực cao hơn   được kỳ vọng có NSLĐ cao hơn Giả thuyết H6: Năng suất lao động của các doanh nghiệp ngành chế biến chế tạo sở hữu   hình thức doanh nghiệp khác nhau được kỳ vọng khác nhau. Giả  thuyết  H7:  NSLĐ   của  các  doanh nghiệp  ngành chế   biến chế  tạo  đặt  trong các   khu/cụm công nghiệp được kỳ vọng cao hơn. 3.5 Khung phân tích và mô hình kinh tế lượng cụ thể phân tích sự tác động khác  biệt của FDI và xuất khẩu đến NSLĐ của các doanh nghiệp thuộc các ngành  có  mức độ thâm dụng vốn khác nhau Hình 3: Khung phân tích mục tiêu số 1 Từ khung phân tích, ta có mô hình nghiên cứu cụ thể: Ln(yit)= β0 + β1FDIit +β2Xit+ β3XiFDIit+ β4Quymoit+ β5FDIitQuymoit  +β6XitQuymoit +  β7XitFDIitQuymoit  +β8Vonhoait +β9FDIitVonhoait + β10XitVonhoait + β11VonhoaitXitFDIit+ β12Clit+  β13Mientrungit +β14Miennamit+β15KCXit + β16Quocdoanhit + εit (7) 3.6 Kết quả nghiên cứu 3.6.1 Thống kê mô tả 3.6.2  Kết quả ước lượng mô hình nghiên cứu phân tích sự tác động khác  nhau của FDI và xuất khẩu đến năng suất lao động các doanh nghiệp có mức  độ thâm dụng vốn khác nhau
  13. 13 3.6.1.1 Nhóm ngành thâm dụng lao động. Bảng 2: Kết quả mô hình ước lượng FEM và REM cho doanh nghiệp thâm dụng  lao động Đối với các doanh nghiệp ngành may trang phục, các doanh nghiệp nhận vốn đầu tư FDI  có năng suất lao động trung bình cao hơn các doanh nghiệp không được nhận vốn FDI với   điều kiện quy mô doanh nghiệp phải thật lớn. Đồng thời, các doanh nghiệp FDI muốn gia   tăng năng suất lao động cần gia tăng quy mô doanh nghiệp hoặc phải thu hẹp mức độ  vốn  hóa trên mỗi lao động trong điều kiện các yếu tố  khác không đổi. Hoạt động xuất khẩu   hàng hóa ra thị trường nước ngoài không làm cho năng suất lao động thay đổi. Bằng chứng  là các doanh nghiệp có xuất khẩu hay không xuất khẩu không có sự khác biệt về năng suất   lao động trung bình. Các doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp FDI vừa xuất khẩu có thể  gia   tăng năng suất bằng cách gia tăng quy mô doanh nghiệp hoặc giảm mức độ  vốn hóa trên   mỗi lao động. Ngược lại, để  gia tăng năng suất lao động của mình, những doanh nghiệp   không có vốn FDI nhưng vẫn tiến hành xuất khẩu ra thị trường nước ngoài của ngành may   trang phục nên giảm quy mô doanh nghiệp hoặc tăng mức độ  vốn hóa trên mỗi lao động  trong điều kiện các yếu tố  khác không đổi. Các doanh nghiệp không phải là doanh nghiệp  FDI và chỉ sản xuất phục vụ cho nội địa trong nước có thể  mở rộng thêm quy mô hoặc gia  tăng mức độ  vốn hóa trên mỗi lao động trong điều kiện các yếu tố  khác không đổi để  gia   tăng năng suất lao động của mình. 3.6.2.2 Nhóm ngành thâm dụng vốn Bảng 3: Bảng kết quả   ước  lượng mô hình  FEM  và REM  cho nhóm các  doanh  nghiệp thuộc ngành thâm dụng vốn
  14. 14 Đối với các doanh nghiệp ngành sản xuất sản phẩm từ  kim loại  đúc sẵn, các doanh   nghiệp nhận xuất khẩu ra nước ngoài có năng suất lao động trung bình cao hơn các doanh  nghiệp chỉ sản xuất và cung ứng cho thị trường trong nước. Trong khi đó, các doanh nghiệp  ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn nhận vốn FDI không có sự khác biệt về năng  suất lao động so với các doanh nghiệp không nhận được dòng vốn này. Có sự khác biệt đối   với sự  tác độngcủa quy mô và mức độ  vốn hóa của doanh nghiệp phụ  thuộc vào doanh   nghiệp là FDI và có tiến hành xuất khẩu hay không. Đối với các doanh nghiệp vừa là doanh  nghiệp FDI vừa xuất khẩu và doanh nghiệp không phải doanh nghiệp FDI và có xuất khẩu   sản phẩm ra thị  trường nước ngoài nếu muốn tăng năng suất lao động doanh nghiệp nên   giảm bớt quy mô doanh nghiệp hoặc gia tăng mức độ  vốn hóa của của DN. Riêng đối với  các doanh nghiệp không có vốn FDI và chỉ sản xuất phục vụ thị trường nội địa cần gia tăng   hoặc mức độ vốn hóa hoặc quy mô doanh nghiệp để tăng năng suất lao động       Từ  kết quả của 2 mô hình nghiên cứu thực nghiệm cho 2 ngành may trang phục và   ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc đại diện cho ngành thâm dụng lao động và thâm  dụng vốn luận án rút ra được một số kết quả chính như sau:  Đối với ngành thâm dụng lao động, việc xuất hiện của FDI đối với một doanh nghiệp   trong ngành có tác động đến năng suất lao động của doanh nghiệp. Tuy nhiên FDI chỉ  làm  tăng năng suất lao động của doanh nghiệp trong trường hợp là doanh nghiệp có quy mô lớn.  Việc các doanh nghiệp có xuất khẩu hay không xuất khẩu không làm thay đổi năng suất lao   động của doanh nghiệp. Điều này có thể ngụ ý rằng các doanh nghiệp ngành thâm dụng lao   động thu hút đầu tư  FDI sẽ  có hiệu quả  tốt hơn là tìm cách xuất khẩu sản phẩm ra thị  trường nước ngoài. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp FDI chỉ nên đầu tư vào các doanh nghiệp   có quy mô càng lớn càng tốt. Ngược lại với ngành thâm dụng lao động, dường như  việc xuất hiện của FDI đối với  một DN trong ngành lại không làm thay đổi NSLĐ của doanh nghiệp đó. Tuy nhiên, xuất  khẩu sản phẩm ra thị trường nước ngoài của ngành thâm dụng vốn lại mang lại ý nghĩa tích   cực đối với năng suất lao động của các doanh nghiệp thuộc ngành này.  Sự tác động của quy mô và mức độ vốn hóa đến năng suất lao động của mỗi ngành phụ  thuộc vào doanh nghiệp có phải là doanh nghiệp FDI và có xuất khẩu hàng hóa hay không.   Đối với doanh nghiệp FDI và có xuất khẩu hàng hóa nếu như ở ngành thâm dụng lao động   các doanh nghiệp này cần tăng quy mô sản xuất thì ngược lại  ở  các doanh nghiệp này  ở  ngành thâm dụng vốn lại nên nên thu hẹp quy mô sản xuất. Mức độ  vốn hóa cần thu hẹp   đối với các doanh nghiệp này  ở  ngành thâm dụng lao động tuy nhiên cần gia tăng  ở  ngành  thâm dụng vốn. Đối với doanh nghiệp không phải là doanh nghiệp FDI nhưng vẫn tiến hành  xuất khẩu  ở  cả  2 ngành nên giảm quy mô hoặc tăng mức độ  vốn hóa nếu muốn gia tăng   năng suất lao động. Và cuối cùng đối với các doanh nghiệp không phải là doanh nghiệp FDI   và chỉ sản xuất cho thị trường nội địa, muốn gia tăng năng suất lao động thì hoặc tăng quy   mô doanh nghiệp hoặc tăng mức độ vốn hóa trên mỗi lao động dù thuộc ngành nào.
  15. 15 Chất lượng lao động có tác động dương đối với cả ngành thâm dụng vốn và thâm dụng  lao động. Điều này là hợp lý, vì đây chính là một yếu tố  đầu vào quan trọng đóng góp vào   kết quả sản xuất của doanh nghiệp và cũng thông qua nâng cao chất lượng lao động sẽ góp   phần tạo nên các hiệu  ứng khuếch tán tích cực cho doanh nghiệp như  người lao động có   trình độ giáo dục cao hơn sẽ làm cho hiệu quả của việc phân bổ các yếu tố đầu vào tốt hơn;  người lao động có kiến thức hơn sẽ  có cách tối đa hóa sản phẩm làm tăng giá trị  NS cận  biên của họ  hơn so với cùng một quy trình sản xuất mà sử  dụng người lao động có kiến  thức thấp hơn hay người lao động có trình độ giáo dục cao sẽ có khả năng nghiên cứu sáng  tạo phát triển và chính nghiên cứu phát triển lại là một yếu tố đầu vào ảnh hưởng trực tiếp  đến năng suất lao động.  Tương tự  với chất lượng lao động, Doanh nghiệp có nằm trong khu công nghiệp hay  không, không  ảnh hưởng đến năng suất lao động của doanh nghiệp  ở cả  ngành thâm dụng  vốn và ngành thâm dụng lao động. Điều này gợi ý rằng hiện nay các khu công nghiệp, chế  xuất tại Việt Nam chưa làm tốt được nhiệm vụ  là nơi phát huy các hiệu  ứng lan tỏa giữa   các doanh nghiệp đặc biệt hiệu ứng lan tỏa công nghệ của FDI và hiệu ứng học hỏi từ xuất   khẩu cũng như các chính sách ưu đãi riêng dành cho các khu và cụm công nghiệp, chế xuất. CHUƠNG 4 MỨC ĐỘ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CHẾ ĐỘ PHÚC LỢI NGOÀI LƯƠNG ĐẾN  NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG 4.1 Giới thiệu chung 4.2 Dữ liệu nghiên cứu Nguồn dữ liệu được sử dụng cho nghiên cứu là dữ liệu bảng được trích gộp từ  3 bộ dữ  liệu Điều tra các Doanh nghiệp vừa và nhỏ SMEs từ năm 2011­2015.  Đặc trưng của bộ dữ liệu này là số liệu điều tra DNNVV bao gồm cả doanh nghiệp hộ  gia đình có và không đăng ký (không chính thức) thuộc lĩnh vực chế biến chế tạo  ở 10 tỉnh   và thành trên cả  nước. Do vậy, số  liệu điều tra này không chỉ  bao gồm các doanh nghiệp  hoạt động chính thức mà còn cả các doanh nghiệp hoạt động không chính thức. Đây chính là  điểm nổi bật của bộ số liệu thích hợp để nghiên cứu sử  dụng nhằm đánh giá tác động của   các chính sách phúc lợi ngoài lương của doanh nghiệp áp dụng đối với người lao động bởi  vì trong trường hợp ở Việt Nam có một số chính sách phúc lợi như chính sách bảo hiểm xã   hội đối với người lao động là chính sách bắt buộc mà tất cả  các doanh nghiệp phải thực   hiện nếu doanh nghiệp hoạt động trong khu vực chính thức. 4.3 Phương pháp nghiên cứu Luận án  ứng dụng kỹ  thuật  ước lượng mô hình năng suất lao động theo phương pháp   của Colombo và Stanca (2008). Kỹ thuật  ước lượng mô hình năng suất lao động theo dạng   hàm Cobb – Douglas được tiến hành nhằm đánh giá tác động của các chính sách phúc lợi   ngoài lương đến năng suất lao động như sau:    (1) Ta có thể  có năng suất lao động cho các loại lao động khác nhau (vd khác nhau về  giới   tính hoặc nghề nghiệp). Giả sử có 2 đầu vào lao động khác nhau: L = Nu + γ 1γ 2(2) Vì vậy hàm năng suất có thể viết lại dưới dạng sau:
  16. 16 Y= A[Nu + γ 1γ 2]αKβ  = A[ 1+( γ 1­1)  +( γ 2­1) ]αNα Kβ(3) Và cũng như trên, áp dụng lợi thế theo quy mô, chuyển về dạng hàm log và xấp xỉ bằng   1 ta có:  log   = log (A) + α  (γ 1 − 1)  + α  (γ 2 − 1) + β  log () (4) Tổng quát, với M lao động đầu vào: log  = log (A) + α (γ k − 1)  ]+ β  log ()   (5) Quay lại với nghiên cứu thực nghiệm cụ thể, chúng ta ước tính phương trình cơ bản số (5)   với phương trình đặc điểm đa yếu tố (5) cho phép sự khác biệt về chất lượng lao động (ví  ̣ ư  giám đốc điều hành, nhân viên hay người lao động phổ  thông) trong khi kiểm soát  du nh một số yếu tố khác ảnh hưởng đến năng suất, phần nằm trong A như đổi mới, hoạt động   xuất khẩu và một số đặc tính khác của doanh nghiệp như: kích thước doanh nghiệp, ngành,  vùng, độ  tuổi, loại hình doanh nghiệp và một vài đặc tính khác. Phương trình kết quả   ước   lượng có thể được mô tả như sau:  Yit = β Xit + γ Zi + ε it (6) Với biến Y là log của năng suất lao động, X là vector của các biến biến đổi của các chế  độ  phúc lợi ngoài lương doanh nghiệp dành cho người lao động và Z là vector đại diện các   biến đặc trưng của doanh nghiệp bất biến theo thời gian. 4.4 Mô tả biến và giả thuyết nghiên cứu Bảng 4: Bảng tổng hợp định nghĩa các biến số trong mô hình 2 Tên biến Định nghĩa biến Bảo hiểm xã hội Giá trị =1 nếu doanh nghiệp có đóng BHXH cho người lao động (BHXH) Giá trị  =0 nếu doanh nghiệp không  đóng BHXH cho người lao   động. Bảo hiểm y tế Giá trị =1 nếu doanh nghiệp có đóng BHYT cho người lao động (BHYT) Giá  trị   =0  nếu doanh  nghiệp  không  đóng  BHYT  cho  người  lao  động Bảo   hiểm   thất  Giá trị =1 nếu doanh nghiệp có đóng BHTN cho người lao động nghiệp (BHTN) Giá  trị   =0  nếu doanh  nghiệp  không  đóng  BHTN   cho  người  lao  động Chế   độ   bồi  Giá trị  =1 nếu doanh nghiệp có chế  độ  bồi thường cho người lao   thường   tai   nạn,  động bị tai nạn, bệnh nghề nghiệp. bệnh   nghề  Giá trị  =0 nếu doanh nghiệp có chế  độ  bồi thường cho người lao   nghiệp (TN) động bị tai nạn, bệnh nghề nghiệp. Trợ cấp đau ốm Giá trị  =1 nếu doanh nghiệp có trợ  cấp đau  ốm cho người lao   (Dauom) động. Giá trị  =0 nếu doanh nghiệp không có trợ  cấp đau  ốm cho người  lao động. Quyền được nghỉ  Giá trị  =1 nếu doanh nghiệp có phép người lao động được nghỉ  và   có   trả   lương  sinh và có trả lương trong thời gian sinh đẻ. khi   sinh   đẻ  Giá trị =0 nếu doanh nghiệp không cho phép người lao động được   (Sinhde_pay) nghỉ sinh và có trả lương trong thời gian sinh đẻ. Quyền được nghỉ  Giá trị  =1 nếu doanh nghiệp cho phép người lao động được nghỉ  và   không   được  sinh và không trả lương trong thời gian sinh đẻ. trả   lương   khi  Giá trị =0 nếu doanh nghiệp không cho phép người lao động được   sinh đẻ nghỉ sinh và không trả lương trong thời gian sinh đẻ (Sinhde)
  17. 17 Nghỉ   phép   được  Giá trị  =1 nếu DN cho phép người lao động nghỉ  phép được trả  trả   tiền  tiền. (Nghiphep) Giá trị =0 nếu DN không cho phép người lao động nghỉ phép được  trả tiền. Lương   hưu   trả  Giá trị  =1 nếu doanh nghiệp cho phép người lao động được nghỉ  một lần (Huutri) hưu với số tiền lương hưu được trả 1 lần. Giá trị =0 nếu doanh nghiệp không có chế độ người lao động được  nghỉ hưu với số tiền lương hưu được trả 1 lần. Trợ cấp tử tuất Giá trị  =1 nếu doanh nghiệp cung cấp cho gia đình của người lao   (Tutuat) động một khoản tiền trợ cấp sau khi người lao động ốm mất . Giá  trị   =0  nếu doanh  nghiệp  không cung  cấp cho  gia  đình  của  người lao động một khoản tiền trợ cấp sau khi người lao động ốm  mất .  FDI Giá trị =1: Nếu doanh nghiệp có nhận vốn FDI Giá trị = 0: Nếu doanh nghiệp không nhận vốn FDI Xuất khẩu Giá trị =1: Nếu doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu (X) Giá trị =0: Nếu doanh nghiệp không tiến hành xuất khẩu Quy mô Log cơ  số e số  lượng lao động toàn thời gian của doanh nghiệp i  (Quymo) giai đoạn t. Log(Lit). Đơn vị của Quy mô là số người Vốn hóa Log cơ số e giá trị tài sản cố định trên mỗi lao động Log(). Đơn vị  Ln(K/L) đo của K/L là triệu đồng/người Nghiên cứu Doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu phát triển nhận giá trị là 1 (Nghiencuu) Doanh nghiệp không tiến hành nghiên cứu phát triển nhận giá trị là  0 Đào tạo Doanh nghiệp có bồi dưỡng cho nhân viên nhận giá trị là 1 (Daotao) Doanh nghiệp không bồi dưỡng cho nhân viên nhận giá trị là 0 Chỉ   số   độc  Chỉ  số   Herfindahl cho thấy mức độ  tập trung (hay mức độ  cạnh  quyền tranh) (0 
  18. 18 Công đoàn Giá trị =1: Doanh nghiệp có tổ chức công đoàn Giá trị =0: Doanh nghiệp không có tổ chức công đoàn Miền trung Giá trị =1: Doanh nghiệp đặt ở miền trung (mientrung) Giá trị =0: Doanh nghiệp đặt ở miền bắc Miền nam Giá trị =1: Doanh nghiệp đặt ở miền nam (mientrung) Giá trị =0: Doanh nghiệp đặt ở miền bắc Cao nguyên Giá trị =1: Doanh nghiệp đặt ở miền cao nguyen (Caonguyen) Giá trị =0: Doanh nghiệp đặt ở miền bắc Giả thuyết nghiên cứu: Giả thuyết H1: Các chính sách thực thi phúc lợi nhân viên của các doanh nghiệp nhỏ và   vừa được kỳ vọng tác động tốt đến năng suất lao động. Giả thuyết H2: Cường độ vốn trên mỗi người lao động K/L của mỗi doanh nghiệp càng   cao thì năng suất lao động của doanh nghiệp chế biến chế tạo càng tăng. Giả thuyết H3: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngành chế biến chế tạo có mức độ vốn hóa   càng cao được kỳ vọng có năng suất lao động cao hơn. Giả thuyết H4: Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành chế biến chế tạo có thực hiện chính   sách đào tạo cho nhân viên  được kỳ vọng có năng suất lao động cao hơn. Giả  thuyết H5: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ  ngành chế  biến chế  tạo có đầu tư  vào   nghiên cứu và phát triển  được kỳ vọng có năng suất lao động cao hơn. Giả thuyết H6: Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành chế biến chế tạo ở trong các ngành   có sức mạnh độc quyền càng cao được kỳ vọng có năng suất  càng cao. Giả  thuyết H7: Các doanh nghiệp nhỏ  và vừa ngành chế  biến chế  tạo nhận vốn FDI   được kỳ vọng có năng suất lao động cao hơn các doanh nghiệp không nhận vốn FDI. Và, Giả thuyết H8: Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành chế biến chế tạo nhận có xuất khẩu   hàng hóa ra nước ngoài được kỳ vọng có năng suất lao động cao hơn các doanh nghiệp chỉ   cung cấp hàng hóa dịch vụ cho thị trường trong nước. Giả thuyết H9: Các doanh nghiệp của ngành chế biến chế tạo được kỳ vọng có quy mô   lớn sẽ có năng suất  cao hơn so với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Giả  thuyết H10: Năng suất lao động của các doanh nghiệp nhỏ  và vừa ngành chế  biến   chế tạo sở hữu hình thức doanh nghiệp khác nhau được kỳ vọng khác nhau. Giả  thuyết H11: Năng suất lao động của các doanh nghiệp nhỏ  và vừa ngành chế  biến   chế  tạo có công đoàn có năng suất lao động cao hơn các doanh nghiệp không có tổ  chức   này. 4.5 Khung phân tích và mô hình
  19. 19 Hình 4 : Khung phân tích mục tiêu 2 Ln(yit)= β0+ β1BHXHit+ β2BHYTit+ β3BHTNit+ β4TNit+ β5Đau_omit +β6Sinhde_payit +  β7Sinhdeit + β8Nghiphepit+ β9Huutriit+ β10Tutuatit+ β11FDIit+ β12Xit+ β13Quymoit+ β14Ln(K/L)it   +β15Nghiencuuit+ β17Đaotaoit+ β18DNTNit +β19Hopdanhit+ β20HTXit + β21TNHHit  +β22Cophannhanuocit + β23Cophankhongnhanuocit+ β24Liendoanhnuocngoaiit +β25Đocquyenit +  β26Mientrungit +β27Caonguyenit + β28Miennamit + εit(11) 4.6 Kết quả nghiên cứu 4.6.1 Mô tả dữ liệu nghiên cứu 4.6.2 Thống kê mô tả các biến chính trong mô hình nghiên cứu 4.6.3 Kết quả ước lượng mô hình nghiên cứu đánh giá mức độ tác động  của phúc lợi đến năng suất lao động Vì mô hình bị nội sinh nên đầu tiên, luận án ước tính Pr(phúc lợi)ij, là xác suất mà một  doanh nghiệp i cung cấp (thực hiện) chính sách phúc lợi j cho người lao động của mình,  được ước tính trong mô hình (11): Logit= = β0 +β1Gioitinhi+ β2Ln(L)it+β3Ln(K/L)it  +β4FDIit  +β5Xuatkhauit+β6Nghiencuuit+ β7Đaotaoit+ β8DNTN +β9Hopdanh+ β10HTX+ β11TNHH  +β12Cophannhanuoc+  β13Cophankhongnhanuoc+ β14Liendoanhnuocngoai +β15Đocquyen+  β16Mientrung +β17Caonguyen+ β18Miennam + εit Ở bước thứ 2, luận án ước tính xác suất thực hiện phúc lợi và đưa vào phương trình để  ước lượng năng suất lao động của doanh nghiệp. Thêm vào đó, luận án cũng muốn kiểm tra   đồng thời mối quan hệ của việc thực thi các chính sách với quy mô của doanh nghiệp nhằm   xem xét tác động đồng thời khi quy mô doanh nghiệp khác nhau liệu rằng  ảnh hưởng của  các chính sách phúc lợi đến NSLĐ có khác nhau hay không Bảng 5: Kết quả mô hình tác động của 3 biến chính sách phúc lợi chính  
  20. 20 Tương tự với 6 biến phúc lợi thành phần, kết quả mô hình được trình bày ở bảng 6: Bảng 6 Kết quả ước lượng của 6 biến chính sách phúc lợi thành phần Từ kết quả của 9 phương trình nghiên cứu trên dành cho các chính sách phúc lợi, luận án  rút ra được một số kết quả chính như sau:  Đầu tiên, có thể  khẳng định rằng việc thực thi các chính sách phúc lợi tại các DNNVV  thực sự có tác động đến năng suất lao động của doanh nghiệp. Việc các chính sách phúc lợi   tác động tích cực hay tiêu cực đến năng suất lao động có thể  bị   ảnh hưởng bởi 2 nguyên  nhân chính đó là vấn đề  thông tin bất đối xứng giữa việc nhân viên nhận thức được chính  xác phúc lợi mà họ được nhận như thế nào để họ có thể  phản ánh được lợi ích nhận được   vào năng suất lao động và chi phí của các chính sách phúc lợi mà doanh nghiệp phải gánh  chịu. Nếu như các chính sách phúc lợi mang lại lợi ích cho người lao động được nhìn thấy  rõ ràng và trực tiếp như trường hợp trợ cấp đau ốm, nghỉ  phép năm vẫn được nhận lương  hay được nhận lương hưu 1 lần thì việc người lao động phản ánh những lợi ích mà họ nhận   được vào năng suất lao động là tích cực và dễ dàng nhìn thấy được. Tuy nhiên, trong trường  hợp nghỉ thai sản thì việc người lao động phản ảnh lợi ích mà họ nhận được vào năng suất  lao động có thể bị che khuất do gánh nặng chi phí từ việc các doanh nghiệp phải trả lương  trong thời gian mà người lao động nghỉ sinh. Do đó, có thể người lao động có năng suất lao  động cao hơn sau khi nghỉ  sinh nhưng về  phía doanh nghiệp vì chi phí cho việc trả  lương   lớn hơn việc gia tăng năng suất lao động mà doanh nghiệp nhận được từ  người lao động   nên khi tính chung lại chính sách phúc lợi này lại tạo ra tác động tiêu cực của doanh nghiệp.   Bằng chứng là kết quả  mô hình chính sách nghỉ  sinh không nhận lương và chính sách nghỉ  sinh vẫn được nhận lương có kết quả  tác động đến năng suất lao đông ngược nhau. Việc   luận án tính chỉ số năng suất lao động theo năm và tính tổng trên toàn bộ lực lượng lao động  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2