intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nghiên cứu, ứng dụng mô hình liên kết bốn nhà vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp nông thôn tỉnh Trà Vinh

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:31

101
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận án nhằm hệ thống hóa những luận cứ khoa học và lý luận về liên kết và vai trò của “bốn nhà” trong phát triển kinh tế - xã hội nông nghiệp nông thôn; làm rõ tính tất yếu của mối liên kết giữa nhà nông – nhà nước – nhà doanh nghiệp – nhà khoa học (bốn nhà).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nghiên cứu, ứng dụng mô hình liên kết bốn nhà vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp nông thôn tỉnh Trà Vinh

  1. VIỆN HÀN LÂM   KHOA HỌC XàHỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XàHỘI VIỆN KHOA HỌC XàHỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XàHỘI VÕ HỮU PHƯỚC TRẦN PHƯƠNG ANH NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG MÔ HÌNH “LIÊN  KẾT BỐN NHÀ” VÀO THỰC TIỄN SẢN  XUẤT NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN TỈNH  PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRÀ VINH INH TẾ TRỌNG ĐIỂM BẮC BỘ NƯỚC TA Chuyên ngành : Kinh tế phát triển  Chuyên ngành : Kinh tế phát triển  Mã số  : 62.31.01.05 Mã số  : 62.31.05.01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
  2. TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội                                                     Viện Khoa học xã hội Việt Nam Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Trần  Đình Thiên 2. TSKH. Trần Trọng Khuê Phản biện 1: GS.TSKH. Nguyễn Quang Thái Phản biện 2: PGS. TS. Lê Quốc Hội Phản biện 3: PGS. TS. Nguyễn Xuân Dũng Luận án sẽ  được bảo vệ  trước Hội đồng chấm luận án  cấp   Học   viện,   học   tại   Hội   trường   ….   …………………………………… Học viện Khoa học xã hội, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân,  Hà nội. Vào hồi     giờ, ngày     tháng      năm 2014 Có thể tìm hiểu luận án tại: ­ Thư viện Quốc gia ­Thư viện Học viện Khoa học xã hội
  3. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐàCÔNG BỐ  CÓ LIÊN QUAN CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN Bài tạp chí: ­ Giá trị và triển vọng phát triển các mô hình liên kết kinh tế trong  ngành thủy sản tỉnh Trà Vinh. Tạp chí Khoa học chính trị, Số 5/2009. ­Singapore phát triển từ chính sách rõ ràng, minh bạch. Tạp chí Khoa học chính trị, số 3/2012. ­Định dạng mô hình liên kết trong sản xuất nông nghiệp tỉnh Trà  Vinh. Tạp chí Khoa học Chính trị số 6 năm 2013. Sách: ­Sách Kinh tế  học đại cương, Nhà xuất bản Đại Học quốc gia,   đồng chủ biên, năm 2008. Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TPHCM. ­ Kinh tế  học Phát triển, Nhà xuất bản Chính trị  Quốc Gia, năm   2009, Học viện Chính trih – Hành chính khu vực II. Đề tài nghiên cứu khoa học và Hội thảo khoa học * Liên kết bốn nhà trong sản xuất nông nghiệp  ở tỉnh Đồng Nai –  Những vấn đề đặt ra. Chủ nhiệm Đề tài khoa học cấp cơ sở, năm 2009. * Thực trạng nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghiệp tỉnh Đồng  Nai. Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ, năm 2010.
  4. *  Ảnh hưởng của quá trình CNH, ĐTH đến việc kàn và thu nhập   của nông dân vùng Đông Nam bộ. Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ, năm 2010. * Nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghiệp tỉnh Bình Dương ­   những vấn đề đặt ra. Kỷ yếu đề tài khoa học cấp cơ sở, năm 2011. * Phát triển nguồn nhân lực lĩnh vực công nghiệp tỉnh Bình Dương,   giải pháp phát triển bền vững. Kỷ yếu Hội thảo cấp Học viện, tháng 2/2011. * CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại, bền  vững từ mối liên kết “bốn nhà” trong sản xuất nông nghiệp. Hội   thảo   khoa   học   thuộc   Đề   tài   cấp   Nhà   nước,   tháng  9/2012. * Định hướng và giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ phục vụ  ngành điện tử vùng Đông Nam bộ. Kỷ yếu Đề tài khoa học cấp cơ sở năm 2012. * Kết hợp phát triển kinh tế ­ xã hội với củng cố, tăng cường quốc   phòng – an ninh trong sự nghiệp CNH, HĐH tỉnh Đồng Nai – thực   trạng và giải pháp. Kỷ yếu Đề tài khoa học cấp cơ sở năm 2012. *Xây dựng nông thôn mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại   hóa ở các tỉnh vùng Đông Nam Bộ­thực trạng và giải pháp. Đề tài cấp Bộ tháng 7­ 2013. *Hợp tác kinh tế trong phát triển bền vững và những gợi ý cho tỉnh   Lâm Đồng. Đề tài cấp Tỉnh 2009. *Phát triển nguồn nhân lực lĩnh vực công nghiệp tỉnh Bình Dương   ­ thực trạng và giải pháp. Đề tài cấp Bộ, năm 2009.
  5. Chương 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 1. Tính cấp thiết của đề tài Liên kết là hoạt động cần thiết, tất yếu nhằm phát huy vai   trò, đảm bảo khả  năng phát triển và tính hiệu quả  của các đơn vị  sản xuất, quản lý trong kinh tế thị trường. Quan hệ liên kết về bản  chất là quan hệ phối hợp, hợp tác giữa các chủ thể (doanh nghiệp,  cơ  quan quản lý, ngành, địa phương) nhằm thỏa mãn nhu cầu các  bên liên kết. Quan hệ liên kết có thể được tổ chức với các cấp độ  khác nhau, song phương, đa phương. Trong phát triển kinh tế  xã hội nông nghiệp nông thôn, để  hỗ  trợ  tiêu thụ  sản phẩm và  ổn định thị  trường, thúc đẩy sự  phát   triển của sản xuất nông nghiệp, tạo vị  thế  và nâng cao sức cạnh   tranh cho nông sản trong bối cảnh hội nhập, nâng cao thu nhập,   Thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết định 80/2002/QĐ­TTG về  chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp  đồng. Trong quá trình triển khai quyết định, Bộ  Nông nghiệp và   Phát triển nông thôn cùng Ngân hàng Nhà nước, Hội nông dân Việt   Nam…đã tổ  chức  ký chương trình liên kết “bốn nhà” (nhà nước,  nhà khoa học, doanh nghiệp, nông dân) trong sản xuất – chế biến –   tiêu thụ. Mặc dù, đã đạt được một số kết quả nhưng trong thực tế  qua tổng kết và đánh giá của các cơ  quan chuyên môn, sau hơn 10  năm thực hiện, sự liên kết vẫn rất lỏng lẻo; hiệu quả còn thấp.  Tỉnh   Trà   Vinh   là   tỉnh   nông   nghiệp   và   về   lâu   dài,   nông   nghiệp giữ vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã  hội   của   tỉnh.   Vai   trò   này   được   thể   hiện   trước   hết   ở   mức   sản   lượng, thu nhập, việc làm được tạo ra từ sản xuất khu vực kinh tế  nông nghiệp, nông thôn, ở khả năng phát huy lợi thế so sánh để tạo   ra thế   ổn định trong phát triển. Do vậy, nền kinh tế  nông nghiệp  tỉnh Trà Vinh phải có sự  liên kết   chặt chẽ  giữa “các nhà” trong   sản xuất nông nghiệp. Phát triển nông nghiệp của tỉnh Trà Vinh chỉ  1
  6. dừng lại  ở  sản xuất với quy mô nhỏ, chưa có sự  liên kết hỗ  trợ  của các chủ thể, hoặc là sự liên kết trong sản xuất nông nghiệp rất  lỏng lẻo. Mô hình liên kết trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh   như: tổ hợp tác, hợp tác xã chưa đủ khả năng tự chủ sản xuất kinh   doanh, khả  năng tự  tích lũy, mở  rộng đầu tư  nhằm đảm bảo tồn  tại, phát triển theo yêu cầu.  Ở  tỉnh Trà Vinh, tình trạng vi phạm  trong liên kết là vấn đề thường xuyên xảy ra làm cho các mối quan  hệ  càng thêm lỏng lẻo. Một số  nông dân chưa gạt bỏ   được tư  tưởng hám lợi trước mắt; còn doanh nghiệp chưa tôn trọng các hợp  đồng đã ký hay chưa thực hiện đầy đủ  các cam kết, việc thiếu cơ  chế  rõ ràng khiến vai trò của nhà khoa học  chưa  được  đề  cao.  Những hạn chế  và yếu kém của sự  liên kết trong nông nghiệp có  thể  làm giảm năng lực sản xuất, cạnh tranh, khả  năng thực hiện   mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Do đó, việc tìm mô hình liên  kết trong sản xuất nông nghiệp là rất cần thiết đối với tỉnh hiện  nay nói riêng và trong phát triển toàn ngành nói chung. Hình thức   liên kết “bốn nhà” không chỉ  làm tăng năng lực, vai trò, hiệu quả  sản xuất của các nhà, điều kiện, môi trường sản xuất kinh doanh   thuận lợi, mà sâu xa hơn, sự phát triển kinh tế ­ xã hội của Tỉnh. Trên đây là những vấn đề  nghiên cứu mang tính bức thiết,   chiến lược cho quá trình phát triển mô hình liên kết trong nông  nghiệp, và vấn đề  này cần phải thực hiện nhanh, trước yêu cầu   của đổi mới và sâu rộng như hiện nay ngành nông nghiệp chưa đáp  ứng được. Bên cạnh đó, mô hình liên kết bốn nhà là một mô hình  cần phải có và được nhân rộng trong sản xuất nông nghiệp tỉnh  Trà Vinh, với mong muốn  đóng góp một phần nhỏ  cho sự  phát  triển chung, tôi lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu, ứng dụng mô hình   “liên kết bốn nhà” vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp tỉnh Trà   Vinh”  để làm luận án nghiên cứu sinh có ý nghĩa rất lớn cả lý luận   và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu Nghiên cứu nước ngoài: 2
  7. Trong phát triển kinh tế  xã hội nông nghiệp, liên kết giữa   các chủ thể đã được nghiên cứu qua các công trình sau: Thảo luận về sự phân hóa sở hữu nguồn lực sản xuất, lợi   thế  và bất lợi của các nông trại nhỏ  và lớn, Dhondyal (1990); Sự  hợp tác giữa nông dân thường hoạt động tốt nhất khi nhóm nông   dân được kết nối với thị  trường đầu vào và đầu ra thông qua hợp  đồng   (Jonathan   Coulter   và   cộng   sự.,   1977),  Bingen,   J.   (1999),  Producer Groups: Becoming Full Partners in Agricultural Markets   and Agroenterprises. Guide to Developing Agricultural Markets and  Agro­Enterprises Series, World Bank; Commonwealth Development  Corporation   (CDC)   (1989);  Review   of   Smallholder   Development  Programs,   Vols   1   &   2,   London;   Dillon,   J.L.   and   J.B.   Hardaker  (1993), Farm Management Research for Small Farmer­Development,  Farm   Systems   Management   Series,   Food   and   Agricultural  Organisation, Rome; Irene van Staveren. Social Capital: What is in it   for   feminist   Economics?.  Seminar   Dec.   2002,   Institute   of   Social  Study,   Netherlands;   Kretzmann   J.P.   and   Mc   Knight   J.L.  Building   Communities from the Inside Out. 1993; Paul Mousier.  P.T.G.Tâm;  Đ.T.Anh; V.T.Bình. Efficiency of Farmer Organization in Supplying  Supermarkets with Quality Food in Việt nam. MALICA, 2006; Phil   Simmons.  Overview   of   Smallholders   Contract   Farming   in   Developing Countries, Graduate School of Agricultural and Resource  Economics, University of New England, Armidate, Australia, 2351,  2006;  Nghiên cứu trong nước: Lê Anh,  Khi liên kết bốn nhà thiếu chặt chẽ, báo điện tử  Gia   Lai   ngày   12/4/2011,  http://www.baogialai.vn;  Báo   điện   tử  ĐCSVN:  Mô hình liên kết kinh tế  góp phần phát triển bền vững   vùng mía đường Lam Sơn, ngày 01/02/2011; Lê Văn Bảnh, Đề  án   giải pháp sản xuất và tiêu thụ  lúa gạo thông qua liên kết vùng và   sự tham gia của bốn nhà, tháng 4 năm 2010; Phạm Văn Bích, Nông  nghiệp, nông thôn Việt Nam sau 20 năm đổi mới: quá khứ  và hiện   3
  8. tại, Nhà xuất bản Chính trị  quốc gia, Hà Nội, 2007; Nguyễn Minh  Châu và Đoàn Hữu Tiến,  Tăng cường liên kết bốn nhà để  phát   triển  sản  xuất   trái   cây  hàng  hóa,   góp  phần  hiện  đại   hóa  nông   nghiệp nông thôn ở ĐBSCL, Tham luận tại Hội thảo: Liên kết bốn  nhà ­ giải pháp cơ  bản góp phần xây dựng nông thôn mới  ở  đồng   bằng sông Cửu Long, ngày 26/7/2011; Nguyễn Sinh Cúc,   Một số  vấn đề  về  nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam trong quá   trình đổi mới qua con số  thống kê ­ Thực trạng và giải pháp, in  trong sách Những vấn đề kinh tế xã hội ở nông thôn trong quá trình   CNH,HĐH,  Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2010;  Võ  Huy  Dũng,  Bàn về   vai  trò của  nông  nghiệp và  chính sách  phát   triển,  Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số  7 (398) – 2011;  Vũ Tiến  Dũng, Tăng cường mối quan hệ nông dân ­ doanh nhân ở Việt Nam   hiện nay, Tạp chí Cộng sản số 800 (2009);  Đảng Cộng sản Việt  Nam,  Hội nghị  lần thứ  bảy Ban Chấp hành Trung  ương khóa X   của Đảng Cộng sản Việt Nam “Về  nông nghiệp, nông dân, nông   thôn”, NXB Chính trị  Quốc gia, HN, 2008;  Đảng Cộng Sản Việt  Nam, Nghị  quyết số 26­NQ/TW ngày 05/8/2008 của BCH TW khoá   X về  nông nghiệp, nông dân, nông thôn;  Bích Hà,  Xây dựng vùng   nguyên liệu mía, sắn ­ Gắn kết trách nhiệm của “bốn nhà”, báo  Phú Yên số  ra ngày 3­8­2009; Lê Phong Hải, Liên kết bốn  nhà  ở   đồng bằng sông Cửu Long từ  thực tiễn Bến Tre,   Tham luận tại  Hội thảo: Liên kết bốn nhà ­ giải pháp cơ bản góp phần xây dựng   nông thôn mới ở đồng bằng sông Cửu Long, ngày 26/7/2011; Trần  Văn Hiếu, Liên kết giữa doanh nghiệp nhà nước và hộ nông dân ­   Một số  vấn đề  lý luận và thực tiễn, Tạp chí nông nghiệp và phát  triển nông thôn, tháng 10/2002;  Trần Văn Hiếu,  Xử  lý đúng đắn   vấn đề  lợi ích trong liên kết kinh tế  giữa kinh tế  hộ nông dân và   doanh nghiệp Nhà nước, Tạp chí nông nghiệp và phát triển nông  thôn, tháng 5/2006; Hội thảo "Liên kết bốn nhà ­ Giải pháp cơ bản   để  nâng cao giá trị  trái cây Việt Nam " ngày 22/4/2010, tại Tiền  Giang; Phạm Thị Thu Hồng, Liên kết bốn  nhà trong nuôi cá tra ­   4
  9. Thực trạng và giải pháp, Tạp chí nông nghiệp nông thôn, số2/2009;  Vũ Trọng Khải,  “Liên kết bốn   nhà”: Chủ  trương đúng vẫn tắc,   Thời báo kinh tế Sài Gòn ngày 6/6/2009; Do khuôn khổ  hoặc do mục đích nghiên cứu mà chưa có   công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ  thống về vấn đề  liên kết "bốn nhà", chưa có công trình nào nghiên cứu về  liên kết  “bốn nhà” từ thực tiễn của tỉnh Trà Vinh, có thể chỉ ra một số hạn   chế chủ yếu của các nghiên cứu: ­   Chỉ   nghiên   cứu   vấn   đề   lý   luận   về   mối   liên   kết   song   phương, và đánh giá về vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn; ­ Tổng kết việc thực hiện các chủ  trương, chính sách của  Đảng, Nhà nước về nông nghiệp; ­ Chỉ nghiên cứu mối liên kết dước góc độ kinh tế.    3. Mục tiêu nghiên cứu ­ Hệ thống hóa những luận cứ khoa học và lý luận về  liên  kết và vai trò của “bốn nhà” trong phát triển kinh tế ­ xã hội nông  nghiệp nông thôn;  ­ Làm rõ tính tất yếu của mối liên kết giữa nhà nông – nhà  nước – nhà doanh nghiệp – nhà khoa học (bốn nhà) ­ Thực trạng về  liên kết trong   sản xuất nông nghiệp tỉnh  Trà Vinh; ­ Đề xuất mô hình liên kết “ bốn nhà” và giải pháp nâng  cao hiệu quả các mối liên kết “ giữa các nhà” trong sản xuất nông  nghiệp tỉnh Trà Vinh. 4. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu 1.4.1. Đối tượng nghiên cứu  Vấn đề liên kết bốn nhà trong phát triển nông nghiệp ở  tỉnh Trà Vinh. 1.4.2. Phạm vi nghiên cứu 5
  10. Về mặt nội dung: nghiên cứu tính tất yếu của mối liên kết  giữa nhà nông – nhà nước – nhà doanh nghiệp – nhà khoa học (bốn   nhà); thực trạng của mối liên kết đó trong phát triển nông nghiệp   tỉnh Trà Vinh. Về mặt thời gian: đề  tài giới hạn từ khi nước ta tiến hành  đổi mới đến nay và trong những năm tới. Liên kết “bốn nhà” trong nông nghiệp, nông thôn từ khi có  quyết định 80/2002/QĐ­TTg của Thủ tướng chính phủ trở lại đây.  5. Nội dung nghiên cứu ­ Hệ  thống hóa lý luận về  các mối quan hệ  liên kết trong  sản xuất nông nghiệp. ­ Vai trò của “bốn nhà” trong phát triển kinh tế  ­ xã hội  nông nghiệp, nông thôn ­ Các mô hình liên kết đã được triển khai và những kinh  nghiệm khi thực hiện các mô hình liên kết.  ­ Phân tích hiện trạng liên kết “bốn nhà” trong nông nghiệp  ở tỉnh Trà Vinh  ­ Những nhân tố   ảnh hưởng đến quá trình hình thành liên  kết trong sản xuất nông nghiệp tỉnh Trà Vinh. ­   Những   kiến   nghị   nhằm   phát   huy   sức   mạnh   của   “bốn   nhà”; xây dựng mô hình liên kết bốn nhà trong nông nghiệp có hiệu  quả và phù hợp với sự phát triển kinh tế tỉnh Trà Vinh hiện nay. 6. Phương pháp nghiên cứu Trước hết, đề tài phân tích những quan điểm liên kết trong  sản xuất nông nghiệp và các mô hình liên kết. Đây là nền tảng, là  khuôn khổ chung cho việc phân tích, đánh giá các quan hệ liên kết,  bắt đầu từ việc phân tích các quan hệ  ngược, xuôi trong quá trình  hoạt động  và phát triển của nông nghiệp, nông thôn tỉnh Trà Vinh  để  từ  đó xác định các quan hệ, nội dung, hình thức   liên kết, mô   hình liên kết “bốn nhà” vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp tỉnh  Trà Vinh. Đồng thời, phân tích là cơ sở để   đánh giá mức độ, hiệu  6
  11. quả, triển vọng  phát triển liên kết giữa “bốn nhà” trong sản xuất   nông nghiệp. Ngoài ra, tổng hợp thực tiễn, đối chiếu lý thuyết cũng là  một phương pháp bổ  sung quan trọng để  đánh giá, phân tích  ảnh   hưởng của các mối liên kết trong sản xuất nông nghiệp, nông thôn  và ứng dụng mô hình liên kết vào thực tiễn tỉnh Trà Vinh. Bên cạnh đó, cách tiếp cận so sánh cũng được sử dụng theo  nguyên tắc thực hiện các nội dung so sánh về không gian, thời gian để  thấy rõ được mức độ hiệu quả của các quan hệ liên kết.  Như  vậy, đề  tài tiếp cận và giải quyết vấn đề  theo cách:   Trước hết, đề tài làm rõ những vấn đề xung quanh những cơ sở lý  luận cơ bản về liên kết “bốn nhà”, và những tác động qua lại giữa  “các nhà”. Tiếp theo, đề tài đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng, đề  xuất hệ thống giải pháp để xác lập các mô hình ứng dụng vào thực   tiễn sản xuất nông nghiệp, nông thôn tỉnh Trà Vinh, nhằm phát  triển và nâng cao chất lượng các quan hệ  liên kết, phát huy năng  lực nội sinh trong phát triển kinh tế ­ xã hội nông nghiệp nông thôn  tỉnh Trà Vinh. Bên cạnh đó, cách tiếp cận so sánh cũng được sử  dụng theo nguyên tắc thực hiện các nội dung so sánh về  không  gian, thời gian để  thấy rõ được mức độ  hiệu quả của các quan hệ  liên kết.                             THỰC TRẠNG CÁC          GIẢI PHÁP                                               GIẢI PHÁP LIÊN KẾT ­Hoàn thiện công tác quy    Giải pháp đã thực      LÝ  hoạch. LUẬN  TÁC  ­Tổ chức thực hiện LIÊN  Thực trạng liên kết của  KẾT ĐỘNG  ­Đầu tư cơ sở hạ tầng những sản phẩm chủ  LIÊN  ­Tăng cường năng lực  yếu KẾT các nhà ­Thị trường tiêu thụ sản  Thực trạng chung về  phẩm THỰ liên kết trong sản  C  ­Đối với các nội dung  TIỄN  xuất kinh doanh nông  liên kết LIÊN  nghiệp ­Với Nhà nông, Nhà khoa  KẾT học, Doanh nghiệp   NHU CẦU LIÊN KẾT 7
  12. Chương 2 LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VAI TRÒ, CHỨC NĂNG VÀ QUAN  HỆ LIÊN KẾT BỐN NHÀ 2.1. Những vấn đề lý luận chung Liên kết “bốn nhà” là nền tảng của quá trình công nghiệp hóa, hiện   đại hóa nông nghiệp nông thôn. Nghị  quyết 26 của Trung  ương  Đảng đã nhấn mạnh: mục tiêu trước mắt là tạo chuyển biến mạnh  mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời   sống nhân dân trên cơ  sở  đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, xây  dựng kết cấu hạ tầng kinh tế ­ xã hội nông thôn. 2.1.1. Các khái niệm Liên kết bốn nhà trong nông nghiệp: Theo từ điển ngôn ngữ học (1992) thì “liên kết” là “kết lại  với nhau từ  nhiều thành phần hoặc tổ  chức riêng rẽ”. Trong kinh  tế, “liên kết” được hiểu là hình thức hợp tác và phối hợp thường   xuyên các hoạt động do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành để  cùng đề ra và thực hiện các chủ trương, biện pháp có liên quan đến  công việc sản xuất, kinh doanh của các bên tham gia nhằm thúc  đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển theo hướng có lợi nhất. Trong  liên kết này thì vai trò của các “nhà” được thể hiện như sau: Nhà nước:  Bao gồm các cơ  quan quản lý các cấp (chính  quyền địa phương, Sở, ngành), Nhà nước trong liên kết “bốn nhà”  là các cơ  quan quản lý sản xuất nông nghiệp từ  Trung  ương đến  địa phương, là chính quyền các cấp, các ngành nghề liên quan đến  sản xuất nông nghiệp.    Nhà   Khoa   Học:  Gồm   các   nhà   khoa   học   từ   các   Viện,   Trường và các trạm, trại nghiên cứu địa phương, trung tâm kiểm  định chất lượng sản phẩm; các cán bộ khuyến nông của hệ  thống   khuyến nông nhà nước và tự nguyện...  Nhà nông: là những người trực tiếp làm ra sản phẩm nông  nghiệp (bao gồm hợp tác xã nông nghiệp, tổ, nhóm hợp tác, hộ  8
  13. nông dân, trang trại, đại diện hộ nông dân) liên kết với ba nhà còn   lại.  9
  14. 2.1.2. Bản chất của quan hệ liên kết “bốn nhà” Bản chất của liên kết “bốn nhà” cũng là một kiểu hợp  tác sản xuất kinh doanh. Liên kết “bốn nhà” nếu chặt chẽ thì thành  một tổ  chức, còn nếu chỉ  bằng hợp đồng thì là một cơ  chế, một  mối quan hệ kinh tế được quy định mang tính pháp lý. Liên kết bốn  nhà được hoạt động theo các nguyên tắc cơ bản sau đây: Vận dụng có hiệu quả các quy luật khách quan, đặc biệt là  các quy luật, phạm trù của kinh tế  thị  trường; hiệu quả  kinh tế;   kết hợp hài hoà các lợi ích nhà nước, tập thể, cá nhân người lao   động, trong đó  lợi ích  cá nhân người lao động là động lực trực  tiếp...  Các bên trong liên kết “bốn nhà”:  tự  chủ  đi đôi với tự  chịu trách nhiệm, tuân thủ  pháp luật; thích nghi với thị  trường; tự  nguyện, bình đẳng, dân chủ; coi trọng hiệu quả  kinh doanh; cùng  có lợi. 2.1.3. Vai trò của “các nhà” trong liên kết Vai trò của nhà nông trong quan hệ liên kết “bốn nhà” Nếu xét trong một chỉnh thể  của quá trình sản xuất nông   nghiệp thì có thể  thấy vai trò của “bốn nhà” trong mối liên kết là  tương đồng, tất cả đều xuất phát từ lợi ích nào đó và sự tương tác  với nhau là rất lớn. Tuy nhiên, trong mối liên kết này cần phải xác  định rõ nông dân phải là “nhân”, là “trục” các chủ thể liên kết còn  lại là “vệ tinh” hoạt động theo tôn chỉ hỗ trợ cho sự phát triển của  nông dân, của xã hội nông thôn nhưng trên cơ  sở  lợi ích của họ,  điều này cũng dễ hiểu, khi nông dân giàu hơn, nông thôn phát triển  lợi ích mặc nhiên sẽ đến với các “nhà khác”. Khi xét trong một quy  trình sản xuất trong cơ  chế  thị  trường thì vai trò của nhà nông là  rất quan trọng, nhà nông đem lại lợi ích cho các nhà khác, nhà khoa  học nghiên cứu ra sản phẩm thì ứng dụng vào đâu, đó là sản xuất   nông nghiệp và nông dân là một chủ  thể  sử  dụng sản phẩm của   các nhà khoa học, tương tự các nhà khác cũng có nhu cầu liên kết   10
  15. rất lớn với nông dân, đương nhiên các mối liên kết sẽ đem đến lợi  ích cho các nhà. Vai trò của doanh nghiệp trong quan hệ liên kết “bốn nhà” Trong thời gian qua, nông nghiệp nước ta luôn được Đảng,   Nhà nước và toàn dân quan tâm vì đây là lĩnh vực có ý nghĩa kinh   tế, chính trị ­ xã hội to lớn và sâu sắc, liên quan đến toàn dân, trong  đó trên 70% là nông dân, và việc quản lý nông nghiệp cũng đã có   nhiều thay đổi. Trong bối cảnh đó vai trò tổ  chức sản xuất của   doanh nghiệp là rất quan trọng trong mối liên kết “bốn nhà”, thể  hiện cụ thể như sau: Thứ  nhất, góp phần tiêu thụ  hàng nông sản của nhà nông,  đưa nông sản Việt Nam ra tham gia các thị trường thế giới.  Thứ  hai, doanh nghiệp góp phần đưa tiến bộ  khoa học kỹ  thuật và công nghệ  vào nông nghiệp, thúc đẩy công nghiệp hóa,   hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, qua đó nâng cao trình độ sản  xuất của nhà nông.  Thứ  ba, doanh nghiệp góp phần thay đổi cung cách làm ăn  của nhà nông vốn  tùy tiện, gặp đâu hay chớ  sang cách làm ăn có  bài bản, căn cơ, được ràng buộc bằng hợp đồng.  Thứ  tư, doanh nghiệp có vai trò tập hợp nông dân làm ăn  theo kiểu hợp tác.   Thứ  năm, doanh nghiệp có vai trò hỗ  trợ  nông dân trong  sản xuất và cả trong đời sống kinh tế­xã hội.  Vai trò của nhà khoa học trong mối liên kết bốn nhà Nhà khoa học giữ vai trò rất quan trọng trong quá trình liên  kết. Họ chính là người giúp nông dân ứng dụng các công nghệ, kỹ  thuật tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng, giảm chi phí sản  xuất, tăng giá bán và tăng sức cạnh tranh của hàng hoá. Nhà nông   rất cần nhà khoa học, không chỉ  trong trồng trọt và chăn nuôi mà   còn trong tiêu thụ nông sản. Doanh nghiệp muốn liên kết với nông  dân để  có nguồn cung cấp sản phẩm có chất lượng, sạch và  ổn  định cũng không thể không có sự tham gia của các nhà khoa học. Vì   11
  16. thế, nhà khoa học được coi là cầu nối quan trọng cho mối liên kết   này.  Vai trò của  Nhà nước trong mối liên kết bốn nhà  Vai trò của Nhà nước trong mối liên kết bốn nhà là bảo  đảm hành lang pháp lý thuận lợi thông qua hệ thống chính sách đất  đai, tín dụng, thuế và các chủ trương, chính sách thu hút đầu tư xây   dựng cơ  sở hạ  tầng phục vụ phát triển kinh tế­ xã hội. Nhà nước  còn tham gia vào mối liên kết với vai trò hỗ  trợ, điều phối thông  qua các chính sách quy hoạch vùng nguyên liệu, chuyển giao tiến  bộ khoa học kỹ thuật, xúc tiến thương mại, đồng thời đóng vai trò  “trọng tài” trong việc  kiểm tra, giám sát và bảo đảm tính pháp lý  cho việc thực hiện hợp đồng giữa các bên.  2.1.4. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Trà Vinh trong liên kết  “bốn nhà” Ở Việt Nam có các mô hình sau: Nông trường Sông Hậu;  Tiêu thụ nông sản hàng hóa qua hợp đồng ở tỉnh An Giang; Công ty  cổ phần mía đường Lam Sơn (Thanh Hóa); Công ty sữa Vinamilk  Thế giới: Kinh nghiệm của Trung Quốc; Kinh nghiệm của  Nhật Bản Từ  các mô hình liên kết trên, có thể  rút ra một số  bài  học cho tỉnh Trà Vinh như sau: ­Trước hết, các mô hình liên kết thành công đều xuất phát   từ nhu cầu liên kết thực tế trong quá trình phát triển sản xuất. Nhà  nông cần liên kết với nhau và với nhà kinh doanh hàng nông sản để  có thể tạo ra vùng chuyên canh hàng hóa lớn với chất lượng đồng  đều và đảm bảo theo đúng các yêu cầu kỹ thuật về vệ sinh an toàn  thực phẩm để cung cấp cho thị trường.  ­Hai là, để  thực hiện thành công mối liên kết “bốn nhà”,  phải xác định chức năng, vai trò, trách nhiệm và quyền lợi được  hưởng thụ  cho thật phân minh. Trong thành phần liên kết “bốn  nhà” thì nhà nông và nhà doanh nghiệp phải đóng vai trò chủ  đạo,   liên kết chính. Một phía là người sản xuất ra sản phẩm bảo đảm   12
  17. đủ chất lượng, số lượng một cách ổn định. Còn phía doanh nghiệp  bảo đảm tiêu thụ hết sản phẩm theo đúng hợp đồng, cung cấp các  thông tin về chất lượng sản phẩm cần phải có cho người sản xuất.  Hợp đồng kinh tế phải được ký bằng văn bản, có sự giám sát của   cơ  quan pháp luật. Người sản xuất và nhà doanh nghiệp sẽ  nắm   giữ nguồn lợi liên kết chính của “bốn nhà”, quyền lợi của mỗi bên   đều phụ  thuộc chặt chẽ  với nhau. Vừa kết hợp tính pháp lý, vừa  nâng cao chữ “tín”  ở  thị trường trong và ngoài nước. Mối liên kết   sẽ bền chặt nếu quyền lợi của nông dân và doanh nghiệp gắn kết   với nhau, phụ thuộc vào nhau. ­Ba  là,  Nhà nước là người cầm cân nẩy mực thông qua  việc xây dựng các chính sách thích hợp nhằm khuyến khích và thúc  đẩy liên kết “bốn nhà” phát triển bền vững.  ­Bốn là, để  có những sản phẩm chất lượng tốt, năng suất  cao, doanh nghiệp và cả  nông dân cần gắn kết với các nhà khoa  học với những  cơ  chế  chính sách về  lợi ích kinh tế thích hợp, rõ  ràng.  ­Năm là, Chủ thể sản xuất (nông dân) của các mô hình liên  kết thành công chủ yếu là các hợp tác xã, nhóm hộ nông dân, trang   trại.., là nơi có qui mô sản xuất tương đối lớn hoặc là nơi sản xuất   những loại hàng hóa đặc thù, ít tiêu dùng phổ thông trên thị trường,   sản phẩm đòi hỏi phải đạt được những tiêu chuẩn qui cách nhất   định, người sản xuất khó tiêu thụ  nơi khác nên việc tuân thủ  hợp   đồng tương đối cao. 13
  18. Chương 3 THỰC TRẠNG LIÊN KẾT “BỐN NHÀ” TRONG PHÁT  TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH TRÀ VINH. 3.1. Những yếu tố hình thành liên kết trong sản xuất nông  nghiệp tỉnh Trà Vinh. Trà Vinh là một tỉnh ĐBSCL có địa hình giống như  một  “ngón tay” hướng ra biển, ngón tay này bị  kẹp giữa hai con song   Cổ  Chiên  và  sông Hậu.  Trà  Vinh  nối  với   tỉnh Vĩnh  Long  bằng   Quốc lộ 53. Là tuyến quốc lộ “đối ngoại” duy nhất. tỉnh có hai cửa   sông quan trọng của khu vực nối với biển Đông là cửa Định An và  Cung Hầu. Trà Vinh có địa hình tự nhiên là 221.515 ha. Trà  Vinh có  tới  80%  dân  số   tỉnh sản xuất  và  sinh sống  trong khu vực nông nghiệp, nông thôn. Trình độ sản xuất của nông  dân còn kém, tình trạng đói nghèo còn quá nhiều. Nông nghiệp là ngành kinh tế   chủ  chốt của khu vực kinh   tế  nông thôn và hoạt động sản xuất nông nghiệp Trà Vinh được  thực hiện theo mô hình kinh tế  nông hộ  là chủ  yếu. Do vậy, nông  nghiệp cũng là ngành phát sinh, phát triển các hoạt động liên kết  sớm nhất, có nhu cầu, nội dung, hình thức liên kết phong phú, đa  dạng nhất so với sự phát triển các ngành khác trong hệ thống kinh   tế Trà Vinh.  3.2. Thực trạng liên kết trong sản xuất nông nghiệp tỉnh Trà  Vinh Từ  nghiên cứu thực tế có thể  thấy rằng, nhu cầu liên kết  trong sản xuất nông nghiệp tỉnh Trà Vinh xuất phát từ:   i. Lợi ích   kinh tế của các tác nhân tham gia trong quy trình sản xuất; ii. Do   gặp khó khăn trong quá trình sản xuất, cần có sự  hỗ  trợ  của các   “nhà khác”. Cơ  sở  để  thực hiện liên kết thông qua các cam kết,   hợp đồng song phương, đa phương và trên nguyên tắc đảm bảo lợi  ích của các bên tham gia. 14
  19. 3.2.1. Thực trạng nhu cầu liên kết phát sinh trong tổ chức sản  xuất nông nghiệp tỉnh Trà Vinh. Nhu cầu liên kết phát triển trong các nội dung hoạt động  sản xuất kinh tế  nông nghiệp tỉnh Trà Vinh phong phú, đa dạng  mang tính hệ thống với trọng tâm là hoạt động của các đơn vị kinh  tế  nông hệ  sản xuất nông sản nguyên liệu trồng trọt, chăn nuôi  thủy sản. cơ  sở  hình thành từ  các mối quan hệ  phối hợp, hợp tác  trước sau phát sinh từ hoạt động sản xuất của các đơn vị  kinh tế  nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, dịch vụ trực tiếp thực hiện   các nhu cầu sản xuất trong quy trình sản xuất kinh doanh các sản   phẩm nông nghiệp chủ yếu của tỉnh Trà Vinh. 3.2.2. Quy trình tổ chức sản xuất  kinh doanh sản phẩm trồng  trọt có qua chế biến phát sinh các nhu cầu liên kết  ­ Nhu cầu liên kết để thực hiện qua hệ sau giữa các đơn vị  kinh tế hệ trồng trọt có chức năng sản xuất nông sản nguyên liệu  với các đơn vị  sản xuất giống cây trồng để  thực hiện quan hệ:  Cung ứng giống cây trồng theo nhu cầu sản xuất của các hộ  trồng  trọt. ­ Nhu cầu liên kết để  thực hiện quan hệ  sau giữa các đơn  vị kinh tế hệ trồng trọt với các đơn vị dịch vụ kỹ thuật trong hoạt   động hổ  trợ  kỹ  thuật canh tác chăm sóc, bảo quản sau thu hoạch  trồng trọt. ­ Nhu cầu liên kết thực hiện quan hệ sau giữa các hộ trồng   trọt với các đơn vị  tổ chức, cung  ứng lao động phổ thông, thời vụ  được thực hiện quy trình canh tác, thu hoạch sản phẩm trồng trọt   của các hệ trồng trọt. ­ Nhu cầu liên kết thực hiện quan hệ sau giữa các hộ nông  dân trồng trọt với các đơn vị  tín dụng, ngân hàng trong hoạt động   cung  ứng nguồn vốn đảm bảo nhu cầu vốn đầu tư, nhu cầu vốn  bình ổn sản xuất của các hệ trồng trọt. ­ Nhu cầu liên kết thực hiện quan hệ sau giữa các hộ trồng   trọt với các đơn vị  thông tin, tư vấn trong hoạt động tổ  chức cung  15
  20. cấp thông tin, tư vấn kinh tế ­ kỹ thuật theo nhu cầu thông tin, tư  vấn của các hệ trồng trọt. ­ Nhu cầu liên kết thực hiện quan hệ  trước giữa các hộ  trồng trọt với các cơ sở sơ chế, chế biến nông sản trong hoạt động  cung  ứng nguyên liệu nông sản theo nhu cầu sản xuất, chế  biến   của các doanh nghiệp chế biến nông sản trên địa bàn Trà Vinh. ­ Nhu cầu liên kết thực hiện quan hệ  trước giữa các hộ  trồng  trọt   với   các   đơn   vị   vận  tải   trong  hoạt   động  vận   chuyển  nguyên liệu nông sản từ  nơi sản xuất đến các điểm sơ  chế, chế  biến. ­ Nhu cầu liên kết thực hiện quan hệ trước giữa các đơn vị  kinh tế  hệ  trồng trọt với các nhà phân phối trung gian trong hoạt  động trung chuyển nguyên liệu nông sản từ  nơi sản xuất đến các  cơ sở sơ chế, chế biến. ­ Nhu cầu liên kết thực hiện quan hệ  sau giữa các doanh  nghiệp sơ  chế, chế  biến với các đơn vị  dịch vụ  cung  ứng vật tư,  kỹ thuật công nghiệp chế biến trong hoạt động đảm bảo cung ứng  vật tư kỹ thuật công nghiệp theo nhu cầu sản xuất của các doanh  nghiệp sơ chế, chế biến nông sản. ­ Nhu cầu liên kết thực hiện quan hệ  sau giữa các doanh  nghiệp sơ chế, chế biến với các đơn vị dịch vụ đào tạo, cung ứng   lao động theo nhu cầu tổ chức, lao động của các doanh nghiệp sơ  chế, chế biến. ­ Nhu cầu liên kết thực hiện quan hệ  sau giữa các doanh  nghiệp sơ  chế, chế  biến với các đơn vị  ngân hàng, tín dụng trong  hoạt động cung ứng vốn theo nhu cầu đầu tư và bình ổn sản xuất   của các doanh nghiệp sơ chế, chế biến. ­ Nhu cầu liên kết thực hiện quan hệ trước giữa các đơn vị  sơ  chế, chế  biến với các đơn vị  thương mại trong hoạt động tổ  chức xúc tiến thương mại để tạo lập, ổn định, mở rộng, phát triển   thị  trường, thị  phần tiêu thụ  các sản phẩm, trồng trọt đã qua chế  biến của các doanh nghiệp sơ chế, chế biến. 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2