Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nghiên cứu vận dụng các mô hình tính giá trong kế toán tài sản cố định tại các doanh nghiệp phi tài chính ở Việt Nam
lượt xem 4
download
Luận án tiến hành nghiên cứu và đề xuất các giải pháp vận dụng mô hình tính giá trong kế toán tài sản cố định tại các doanh nghiệp phi tài chính ở Việt Nam nhằm cung cấp thông tin hữu ích cho các đối tượng sử dụng thông tin.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Nghiên cứu vận dụng các mô hình tính giá trong kế toán tài sản cố định tại các doanh nghiệp phi tài chính ở Việt Nam
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI ------------------------- NGUYỄN HỒNG NGA NGHIÊN CỨU VẬN DỤNG CÁC MÔ HÌNH TÍNH GIÁ TRONG KẾ TOÁN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP PHI TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Kế toán Mã số : 934.03.01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Hà Nội, Năm 2021
- Công trình được hoàn thành tại : Trường Đại học Thương Mại Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Lê Thị Thanh Hải 2. PGS.TS Hà Thị Thuý Vân Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp Trường họp tại …………………………………………………………………………………… Vào hồi……giờ …… ngày..…. tháng ..…. năm …… Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia Thư viện Trường Đại học Thương mại
- 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghiên cứu vận dụng các mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ tại các DN phi tài chính ở VN đảm bảo tính hệ thống và tính mới trong nghiên cứu dưới cả góc độ lý luận và thực tiễn bởi các luận cứ như sau: Thứ nhất, dưới góc độ lý luận: luận án dựa trên cách tiếp cận mới và phân loại vấn đề nghiên cứu. Cụ thể, luận án sẽ nghiên cứu các mô hình tính giá khác ngoài mô hình giá gốc truyền thống, làm rõ và xác định sự khác biệt giữa mô hình tính giá và cơ sở tính giá. Hiện nay, việc nghiên cứu vận dụng mô hình tính giá đang hướng tới hai cách tiếp cận: một là, cung cấp thông tin hữu ích cho người sử dụng theo cách tiếp cận thận trọng; hai là, cung cấp thông tin đầy đủ và thích hợp với người sử dụng. Theo đó, việc đo lường và ghi nhận ban đầu đối với TSCĐ dựa trên cơ sở giá gốc, còn sau ghi nhận ban đầu có thể lựa chọn giá gốc hoặc GTHL. Giá gốc hiện đang là cơ sở tính giá nền tảng, do đó, để vận dụng được các mô hình tính giá, cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu sử dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong đo lường sau ban đầu. Thứ hai, dưới góc độ thực tiễn: nghiên cứu việc vận dụng các mô hình tính giá có ý nghĩa đối với việc ban hành quy phạm pháp luật ở Việt Nam trong mối quan hệ hội tụ với CMKT quốc tế. Để tăng mức độ hòa hợp giữa các quy định của CMKT VN và quốc tế, cần phải áp dụng GTHL cho đo lường sau ban đầu. Tuy nhiên, đến nay các nghiên cứu về cơ sở tính giá theo GTHL ở VN còn khá khiêm tốn, đặc biệt chưa có nghiên cứu đi sâu vào việc áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL cho đo lường sau ban đầu đối với TSCĐ. Vì vậy, luận án này được thiết kế để đánh giá khả năng áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL cho đo lường sau ban đầu trong kế toán TSCĐ để đưa ra những định hướng trong việc vận dụng các mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ. Nghiên cứu việc vận dụng các mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ tại các DN phi tài chính có ý nghĩa đối với việc áp dụng tại các DN ở cấp độ thực tiễn. Bởi lẽ trong chiến lược kế toán, kiểm toán Việt Nam đến năm 2030, Chính phủ đã đặt ra yêu cầu đối với các DN tiếp tục tiếp cận và áp dụng chuẩn mực BCTC quốc tế. Dựa trên lộ trình áp dụng đó, các DN cần lựa chọn vận dụng mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ để vừa phù hợp với đặc điểm hoạt động SXKD của DN, vừa phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá của Việt Nam đồng thời đảm bảo tính kịp thời, thích hợp của thông tin cho các đối tượng quan tâm. Từ những lý do trên, có thể thấy việc nghiên cứu vận dụng mô hình tính giá đối với TSCĐ là vấn đề cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, em đã lựa chọn đề tài “Nghiên cứu vận dụng các mô hình tính giá trong kế toán tài sản cố định tại các doanh nghiệp phi tài chính ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của luận án. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp vận dụng mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ tại các DN phi tài chính ở Việt Nam nhằm cung cấp thông tin hữu ích cho các đối tượng sử dụng thông tin. * Nhiệm vụ nghiên cứu: Hệ thống hoá và làm rõ cơ sở lý luận về các mô hình tính giá và kế toán TSCĐ theo các mô hình tính giá. Phân tích và đánh giá thực trạng vận dụng các mô hình tính giá trong quy định kế toán TSCĐ của VN, khảo sát đánh giá thực trạng vận dụng các mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ tại các DN phi tài chính; đồng thời đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến áp dụng cơ sở tính
- 2 giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ – cơ sở nền tảng để xác định ảnh hưởng của các yếu tố đến khả năng vận dụng các mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ tại các DN phi tài chính ở Việt Nam. Đề xuất giải pháp vận dụng các mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ trong giai đoạn đến năm 2025 và tầm nhìn năm 2030. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu vận dụng mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ, yếu tố ảnh hưởng đến áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ. * Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung nghiên cứu: Việc nghiên cứu vận dụng mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ thuộc phạm vi nghiên cứu dưới góc độ KTTC, không nghiên cứu dưới góc độ KTQT; phục vụ cho trình bày thông tin trên BCTC riêng, không nghiên cứu để phục vụ cho trình bày thông tin trên BCTC hợp nhất; nghiên cứu đối với TSCĐHH và TSCĐVH, không nghiên cứu đối với TSCĐ thuê tài chính, TSCĐ thuê hoạt động, tài sản dài hạn nắm giữ để bán. Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ, bởi đây được coi là thành tố, là mắt xích quan trọng để nhằm vận dụng các mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ. - Về khách thể nghiên cứu: luận án thu thập dữ liệu tại các DN chế biến chế tạo có quy mô vốn lớn (trên 200 tỷ đồng), gồm DN niêm yết và DN chưa niêm yết. - Về thời gian nghiên cứu: luận án thu thập dữ liệu điều tra khảo sát tại các DN chế biến chế tạo ở Việt Nam trong thời gian từ năm 2016-2020 và các gợi ý giải pháp được đề xuất cho giai đoạn đến năm 2025, tầm nhìn năm 2030. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn * Về lý thuyết: nghiên cứu bổ sung các vấn đề lý thuyết về mô hình tính giá trong kế toán, kế toán TSCĐ theo từng mô hình tính giá, nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới và rút ra bài học cho VN về vận dụng mô hình tính giá phù hợp cho kế toán TSCĐ. Đồng thời, luận án cũng xây dựng mô hình nghiên cứu, nghiên cứu điều chỉnh, phát triển và bổ sung thang đo các yếu tố để đo lường mức độ ảnh hưởng đến việc áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ. * Về thực tiễn: Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp gồm phương pháp thu thập dữ liệu và phương pháp phân tích, xử lý dữ liệu để đánh giá thực trạng vận dụng mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ, đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ tại các DN phi tài chính. Luận án đã chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế và xác định được những nguyên nhân chủ quan, khách quan đối với việc vận dụng mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ. Từ đó, luận án đưa ra được những đề xuất, khuyến nghị phù hợp với thực tế và đảm bảo hội tụ với CMKT quốc tế. 5. Kết cấu của luận án: Nội dung luận án được kết cấu thành 5 chương bao gồm Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2: Cơ sở lý thuyết về vận dụng các mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ tại các DN Chương 3: Phương pháp nghiên cứu Chương 4: Thực trạng vận dụng các mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ tại các doanh nghiệp phi tài chính ở Việt Nam Chương 5: Định hướng, quan điểm và đề xuất vận dụng các mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ tại các doanh nghiệp phi tài chính ở Việt Nam
- 3 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1 Nghiên cứu về cơ sở tính giá và mô hình tính giá trong kế toán 1.1.1 Nghiên cứu về các cơ sở tính giá (cơ sở đo lường) trong kế toán Barlev & Haddad (2003) trong nghiên cứu “Fair value accounting and the management of the firm” cho rằng để có thể đo lường trong kế toán cần phải xác định các cơ sở đo lường. Quá trình phát triển của kế toán đã cho thấy có các cơ sở đo lường cơ bản bao gồm: giá gốc, giá theo sức mua chung, giá hiện hành, giá đầu ra và giá trị hợp lý. Theo đó, các cơ sở đo lường được sử dụng hiện nay chỉ còn giá gốc và giá trị hợp lý. Hiện nay, GTHL với những đặc tính hữu ích khi cung cấp thông tin khi cung cấp thông tin đang trở thành cơ sở đo lường mà các quốc gia trên thế giới đang hướng đến để áp dụng cho các đối tượng kế toán khi trình bày thông tin trên BCTC (Nur Barizah Abu Bakar & Julia Mohd Said, 2007). Có thể thấy, các nghiên cứu trên đây là những nghiên cứu lý thuyết về các cơ sở đo lường mà chưa được triển khai trong các nghiên cứu thực nghiệm để có thể khẳng định được sự cần thiết việc áp dụng GTHL trong kế toán. 1.1.2 Nghiên cứu về các mô hình tính giá trong kế toán Cuốn sách “Một số chuyên đề về lý thuyết kế toán” của Mai Ngọc Anh & cộng sự (2014) đã luận giải chi tiết về mô hình tính giá và các thành tố của mô hình tính giá. Đây được coi là công trình có hướng nghiên cứu rất rõ về mô hình tính giá, tuy nhiên còn thiếu những bằng chứng nghiên cứu thực nghiệm vận dụng mô hình tính giá trong thực tế. Trong một nghiên cứu khác về “Nghiên cứu các mô hình đánh giá sau ghi nhận ban đầu đối với các yếu tố của báo cáo tài chính” Mai Ngọc Anh (2011b) cho rằng mô hình đánh giá lại hiện chưa được vận dụng trong hệ thống kế toán Việt Nam và chỉ có thể được áp dụng khi Việt Nam đã có một hệ thống thị trường tài sản hoàn chỉnh, vận hành theo cơ chế thị trường đầy đủ và minh bạch. Tuy nhiên đây là các nghiên cứu lý thuyết của các tác giả, để có thể thực hiện vận dụng được đòi hỏi phải có nghiên cứu thực nghiệm cụ thể. 1.2 Nghiên cứu về quan điểm vận dụng mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ Oyadongha James & Ogoun Stanley (2013) trong nghiên cứu về “Revaluation Accounting and Decision Usefulness of Accounting Ratios” cũng cho rằng để khắc phục những hạn chế của mô hình giá gốc, cần phải vận dụng mô hình đánh giá lại và thực hiện đánh giá lại TSCĐ theo GTHL vì sẽ đảm bảo thông tin thích hợp đồng thời mô tả chính xác giá trị thực của tài sản trong doanh nghiệp. Trong nghiên cứu định tính của Talnagiova Viktoria & Cerna Lubica (2011) về “Measurement of assets in financial statements of an industrial company”, tác giả cho thấy sau khi ghi nhận ban đầu, DN có thể chọn giữa mô hình giá gốc và mô hình đánh giá lại. Tác động của thuế thu nhập doanh nghiệp hoãn lại đối với việc đánh giá lại TSCĐ theo GTHL được ghi nhận theo IAS 12 - Thuế thu nhập. Erlend Kvaal (2005) khi nghiên cứu thực nghiệm về “Topics in accounting for impairment of fixed assets” tại một số quốc gia ở châu Âu đã phân tích một số biến giải thích liên quan đến suy giảm giá trị TSCĐ
- 4 bao gồm: quy mô, lợi nhuận kế toán, bảo thủ kế toán và thay đổi quản lý. Có thể đúc kết những bài viết, công trình nghiên cứu đã rõ hướng nghiên cứu là vận dụng mô hình giá gốc hoặc mô hình đánh giá lại đối với kế toán TSCĐ tại các DN. Bên cạnh đó, còn thiếu những nghiên cứu phân tích cụ thể là nên vận dụng các mô hình tính giá tại Việt Nam hay không, cơ sở nào để vận dụng các mô hình tính giá đó, nếu có vận dụng thì cần những điều kiện nào. Vì vậy, tác giả luận án nhận thấy đây là một khoảng trống nghiên cứu để tác giả tiếp tục nghiên cứu khả năng vận dụng của các mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ ở Việt Nam hiện nay. 1.3 Nghiên cứu liên quan đến khả năng vận dụng các mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ * Nghiên cứu về tình hình áp dụng GTHL trong hệ thống kế toán Việt Nam hiện nay Trong nghiên cứu Lê Hoàng Phúc (2012) về “Thực trạng và định hướng sử dụng GTHL trong hệ thống kế toán VN”, tác giả đã sử dụng nghiên cứu định tính và cho thấy các quy định về GTHL và sử dụng GTHL trong kế toán nằm rải rác trong các CMKT, mang tính chắp vá, thiếu tính hệ thống; chưa có hướng dẫn chính thức và thống nhất về cách thức đo lường, phương pháp xác định GTHL trong kế toán. Tác giả luận án nhận thấy cần kế thừa hướng nghiên cứu này khi nghiên cứu thực trạng vận dụng mô hình tính giá trong quy định kế toán TSCĐ của Việt Nam. * Các nghiên cứu về yếu tố ảnh hưởng đến sự ủng hộ áp dụng GTHL trong kế toán - Về sự ủng hộ áp dụng GTHL trong kế toán tại các DN Nguyễn Ngọc Lan (2017) khi nghiên cứu “Áp dụng GTHL trong kế toán tại các DN Việt Nam”, tác giả tiếp cận dựa trên quan điểm nhận thức ủng hộ áp dụng của nhà quản lý DN. Tác giả luận án cho rằng cần kế thừa hướng nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Lan, để đánh giá khả năng áp dụng GTHL dưới góc độ nhận thức và áp dụng tự nguyện từ phía nhà quản lý DN, giúp cho việc thực thi áp dụng kế toán GTHL một cách hiệu quả, tránh việc thực hiện một cách đối phó. - Nghiên cứu về nhận thức lợi ích khi áp dụng GTHL trong kế toán tại các DN Trong các nghiên cứu định lượng của Muller & cộng sự (2011) về “Mandatory fair value accounting and information asymmetry: Evidence from the European Real Estate Industry”, tác giả cho thấy mức độ ảnh hưởng của nhận thức lợi ích khi áp dụng GTHL ở mức khá cao (hệ số beta là 2,326). Tác giả luận án nhận thấy cần kế thừa công trình nghiên cứu trên để đưa ra kết luận đồng thuận hay bác bỏ quan điểm nêu trên. - Nghiên cứu về nhận thức bất lợi khi áp dụng GTHL trong kế toán tại các DN Trong nghiên cứu định lượng, Laux, C., & Leuz, C. (2009) đã cho kết quả là nhận thức bất lợi khi áp dụng GTHL là tác động thuận chiều với việc áp dụng GTHL (hệ số beta là 1,589). Trái lại, nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Lan (2017) cho kết luận rằng nhận thức bất lợi của GTHL có tác động ngược chiều với biến phụ thuộc, hệ số beta ở mức (-1,032). Tác giả luận án nhận thấy rằng cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn và làm rõ hơn trong nghiên cứu để làm rõ các quan điểm trái chiều trên. - Nghiên cứu về nhận thức áp lực cưỡng chế và tuân thủ quy phạm đối với GTHL
- 5 Tác giả Nguyễn Ngọc Lan (2017) cũng kết luận rằng nhận thức của nhà quản lý DN về áp lực cưỡng chế, cơ chế bắt chước và áp lực tuân thủ đối với biến phụ thuộc là các tác động thuận chiều. Tác giả luận án nhận thấy cần kế thừa để tiếp tục nghiên cứu và đưa ra kết luận đồng thuận hay bác bỏ quan điểm nêu trên. - Nghiên cứu về nhận thức về sự phức tạp và tốn kém khi áp dụng GTHL: Lê Vũ Ngọc Thanh (2017) đã rút ra kết luận rằng chi phí đo lường GTHL được cảm nhận là cao nhưng không có tác động việc áp dụng GTHL. Trái lại, kết quả nghiên cứu định lượng của Nguyễn Ngọc Lan (2017) lại cho kết quả ngược lại. Như vậy, do đó tác giả luận án nhận thấy cần phải làm rõ hơn trong nghiên cứu của mình để kết luận đồng thuận hay bác bỏ các quan điểm nêu trên. - Nghiên cứu về thách thức của môi trường khi áp dụng GTHL Trần Văn Tùng & cộng sự (2016) trong nghiên cứu “Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng GTHL trong kế toán tại các DN”. Qua nghiên cứu, nhóm tác giả đã cho thấy các yếu tố đều tác động ngược chiều đến việc áp dụng GTHL trong kế toán tại các DN. Tác giả luận án nhận thấy cần kế thừa công trình nghiên cứu này để nghiên cứu cụ thể và đưa ra kết luận đồng thuận hay bác bỏ quan điểm nêu trên. 1.4 Xác định khoảng trống và câu hỏi nghiên cứu Từ các vấn đề đặt ra ở trên, tác giả luận án nhận thấy vẫn còn tồn tại một số khoảng trống cần phải nghiên cứu như sau: - Nghiên cứu làm rõ sự khác biệt giữa cơ sở tính giá và mô hình tính giá, làm rõ vận dụng mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ trên cơ sở tiếp cận thận trọng và trên cơ sở cung cấp thông tin thích hợp - Nghiên cứu việc vận dụng mô hình tính giá trong quy định kế toán TSCĐ của Việt Nam, từ đó đưa ra được những so sánh việc vận dụng mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ giữa quy định Việt Nam và quốc tế - Tiến hành nghiên cứu thực nghiệm về vận dụng các mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ tại các DN phi tài chính ở VN, nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ, từ đó đánh giá và đưa ra được các đề xuất và kiến nghị cho việc vận dụng mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ. * Câu hỏi nghiên cứu Câu hỏi 1: Sự khác biệt giữa cơ sở tính giá và mô hình tính giá hiện nay là như thế nào. Kế toán TSCĐ theo các mô hình tính giá trong quy định của khuôn mẫu kế toán quốc tế hiện nay như thế nào. Các quốc gia trên thế giới đã thực hiện vận dụng mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ như thế nào, bài học nào rút ra cho VN? Câu hỏi 2: Thực tế hiện nay, vận dụng các mô hình tính giá trong quy định kế toán của Việt Nam và tại các DN phi tài chính ở VN như thế nào. Các yếu tố nào ảnh hưởng đến áp dụng cở sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ? Câu hỏi 3: Việc vận dụng mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ tại các DN phi tài chính ở VN nên được thực hiện dựa trên cơ sở tiếp cận thận trọng hay trên cơ sở cung cấp thông tin thích hợp. Cần có những giải pháp gì để vận dụng các mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ nhằm cung cấp thông tin hữu ích cho các bên liên quan?
- 6 CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ VẬN DỤNG CÁC MÔ HÌNH TÍNH GIÁ TRONG KẾ TOÁN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP 2.1 Khái quát chung về tài sản cố định trong doanh nghiệp 2.1.1 Khái niệm tài sản cố định trong doanh nghiệp Tài sản cố định là những tài sản do DN kiểm soát, có hình thái vật chất hoặc không có hình thái vật chất, có giá trị lớn, được xác định một cách đáng tin cậy, sử dụng trong thời gian dài không phải để bán và chắc chắn đem lại lợi ích kinh tế trong tương lai cho DN. 2.1.2 Phân loại tài sản cố định Theo hình thái biểu hiện, TSCĐ trong DN được chia thành hai loại tài sản cố định hữu hình (TSCĐHH) và tài sản cố định vô hình (TSCĐVH). Theo mục đích sử dụng, TSCĐ bao gồm TSCĐ dùng cho mục đích kinh doanh; TSCĐ dùng cho mục đích phúc lợi, an ninh, quốc phòng; TSCĐ chờ xử lý như TSCĐ đang tranh chấp chờ giải quyết, TSCĐ nhận bảo quản hộ, giữ hộ các đối tượng khác. Theo tình hình sử dụng, TSCĐ bao gồm TSCĐ đang sử dụng; TSCĐ chưa cần dùng; TSCĐ không cần dùng và chờ thanh lý.Theo quyền sở hữu, TSCĐ gồm TSCĐ thuộc quyền sở hữu và TSCĐ thuê ngoài. 2.1.3 Đặc điểm TSCĐ trong DN Thứ nhất, việc theo dõi quản lý về hiện vật và giá trị sẽ giúp tránh hiện tượng mất mát hay không sử dụng được, gây lãng phí dẫn đến giảm LN trong kỳ của DN; Thứ hai, lựa chọn phương pháp khấu hao TSCĐ phù hợp sẽ đánh giá hợp lý mức độ hao mòn để thu hồi giá trị đã đầu tư của DN; Thứ ba, thông tin thay đổi về GTHL của TSCĐ cần được phản ánh để cung cấp thông tin thích hợp với người sử dụng. 2.1.4 Yêu cầu quản lý, yêu cầu cung cấp thông tin TSCĐ * Yêu cầu quản lý tài sản cố định trong doanh nghiệp Thứ nhất, phải tiến hành tổ chức phân loại hợp lý để quản lý và cung cấp thông tin chính xác về tình hình hiện có của TSCĐ trong DN; Thứ hai, phải nắm chắc tình hình sử dụng TSCĐ để phân tích đánh giá năng lực TSCĐ trong quá trình SXKD; Thứ ba, phải xây dựng được phương pháp khấu hao TSCĐ một cách khoa học hợp lý trong quá trình sử dụng TSCĐ; Thứ tư, cần phải theo dõi xác định giá trị TSCĐ trong các giai đoạn sau: giai đoạn hình thành, giai đoạn sử dụng, giai đoạn thanh lý và thải loại. * Yêu cầu cung cấp thông tin TSCĐ cho các đối tượng sử dụng Đối với nhà đầu tư, thông tin phản ánh về TSCĐ trên BCTC là những thông tin quan trọng giúp họ đánh giá được mức độ rủi ro và lợi ích làm căn cứ cho các quyết định đầu tư; Đối với các ngân hàng và tổ chức tín dụng, DN phải chứng minh được năng lực tài chính có khả năng thanh toán các khoản vay khi đến hạn; Đối với các cơ quan quản lý nhà nước, các thông tin kế toán về TSCĐ giúp các cơ quan này kiểm tra kiểm tra DN có tính đúng, tính đủ, tính chính xác các khoản thuế phải nộp hay không.
- 7 2.2 Khái quát chung về các mô hình tính giá trong kế toán 2.2.1 Mô hình tính giá và các yếu tố của mô hình tính giá trong kế toán Mô hình tính giá được đặc trưng bởi các yếu tố bao gồm: Các giả định của mô hình tính giá: Mỗi mô hình tính giá đều dựa trên các giả định cơ bản, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nhất định. Cơ sở tính giá (cơ sở đo lường) trong mô hình tính giá: cơ sở tính giá chính là việc quy định những yếu tố nào được tính vào cấu thành giá trị của đối tượng kế toán Áp dụng cơ sở tính giá để đo lường giá trị các đối tượng tính giá khi ghi nhận ban đầu, sau ghi nhận ban đầu: Việc áp dụng cơ sở tính giá để đo lường giá trị của đối tượng tính giá khi ghi nhận ban đầu và sau ghi nhận ban đầu, cần có các kỹ thuật tính giá một cách phù hợp theo quy trình nhằm tính toán xác định giá trị của các đối tượng trong các trường hợp khác nhau. Ghi nhận ảnh hưởng của việc tính giá trên các BCTC: Đây là khía cạnh biểu hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa phương pháp tính giá với các vấn đề cơ bản của kế toán, đặc biệt liên quan việc ghi nhận doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh. 2.2.2 Nghiên cứu về các mô hình tính giá trong kế toán 2.2.2.1 Mô hình giá gốc Mục tiêu giá gốc là cung cấp thông tin tài chính nhằm giúp các chủ sở hữu/chủ nợ đánh giá trách nhiệm của việc sử dụng các nguồn lực kinh tế. Cơ sở lý luận cho việc sử dụng mô hình giá gốc là lý thuyết về sự dịch chuyển giá trị. Theo đó, giá trị của vật tư, tài sản và lao động chuyển dịch vào giá trị của hàng hóa mới tạo ra. Kế toán theo mô hình giá gốc hướng tới mục tiêu bảo toàn vốn tài chính, nghĩa là khoản thu được sau khi số vốn tiền tệ bỏ ra ban đầu đã được bảo toàn. Mô hình giá gốc được dựa trên hai giả định cơ bản đó là hoạt động liên tục và đồng tiền ổn định. Trong mô hình giá gốc, kế toán sử dụng cơ sở tính giá theo giá gốc để ghi nhận ban đầu và sau ghi nhận ban đầu. Mô hình giá gốc là một mô hình tính giá truyền thống trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của kế toán với ưu điểm là đảm bảo tính khách quan, tính tin cậy của thông tin. Tuy nhiên, kế toán theo mô hình giá gốc dựa trên giả định hoạt động liên tục là không thực tế bởi không có DN nào là hoạt động không xác định trong tương lai, các DN rồi sẽ có lúc đều phải ngừng hoạt động. 2.2.2.2 Mô hình theo mức giá chung Kế toán theo mức giá chung hình thành dựa trên quan điểm bảo toàn vốn tài chính, theo đó số liệu kế toán cần được điều chỉnh đảm bảo sức mua của tiền tệ tại thời điểm lập báo cáo khác nhau được ổn định. Mô hình theo mức giá chung sử dụng cơ sở giá gốc để đo lường và ghi nhận ban đầu. Sau ghi nhận ban đầu, kế toán sử dụng các chỉ số giá như giá tiêu dùng (CPI) hoặc chỉ số giá hàng hoá dịch vụ làm cơ sở cho việc điều chỉnh. Kế toán theo mức giá chung phát triển trong giai đoạn lạm phát gia tăng vào những năm 1960-1970, tuy nhiên cho đến nay, các quy định này đều đã hết hiệu lực. 2.2.2.3 Mô hình giá hiện hành Kế toán theo mô hình giá hiện hành dựa trên cơ sở giả định đơn vị hoạt động liên tục trong tương lai không xác định. Bên cạnh đó, kế toán theo mô hình giá hiện
- 8 hành cũng giúp DN phản ánh một khoản chi phí cơ hội đã tiết kiệm được do đã đầu tư vào tài sản trong quá khứ. Theo mô hình giá hiện hành, tài sản được ghi nhận ban đầu theo giá gốc, sau ghi nhận ban đầu, tài sản của đơn vị được đánh giá theo giá hiện hành. Sự biến động của giá hiện hành được ghi nhận vào lợi nhuận kinh doanh như một yếu tố được trình bày một cách riêng biệt trên BCTC. Trong giai đoạn 1979- 1986, mô hình giá hiện hành đã bộc lộ rõ các hạn chế như việc ghi nhận lợi nhuận do tăng giá trị tài sản nắm giữ để sử dụng bị phê phán là không hợp lý, thiếu khách quan do giao dịch bán chưa xảy ra; mặt khác đối với TS đã qua sử dụng tồn tại trong nhiều lĩnh vực, khi đó sẽ khó tìm được một thị trường hoạt động để xác định giá của chúng. 2.2.2.4 Mô hình giá đầu ra Kế toán theo mô hình giá đầu ra dựa trên cơ sở giả định DN hoạt động liên tục và dựa trên giả thuyết thị trường hiệu quả. Theo mô hình này, giá đầu ra được xác định để đo lường tài sản và nợ phải trả sau ghi nhận ban đầu theo giá thị trường. Các nhà nghiên cứu cho rằng mô hình giá đầu ra có ưu điểm là phản ánh tính khách quan do có thị trường hoạt động cho các tài sản. Đồng thời, việc ghi nhận sự biến động của các tài sản dài hạn đảm bảo tính hiện thực chứ không phải dựa trên các giả định. Tuy nhiên, mô hình giá đầu ra có nhưng hạn chế là quá chú trọng tối đa hóa giá trị có thể thực hiện được của tài sản nên không thích hợp dự báo về khả năng tạo lợi nhuận trong tương lai, chỉ thích hợp nếu DN có ý định thanh lý tài sản. 2.2.2.5 Mô hình giá trị hợp lý Với mục tiêu đáp ứng nhu cầu thông tin thích hợp cho việc ra quyết định, GTHL được cho là phù hợp hơn cả và là cơ sở tính giá tốt nhất trong việc dự báo dòng tiền trong tương lai. Theo mô hình GTHL, kế toán sử dụng GTHL để ghi nhận ban đầu, còn sau ghi nhận ban đầu kế toán phản ánh sự thay đổi của GTHL trên BCTC. Tuy nhiên, mô hình GTHL cũng có một số hạn chế nhất định. Trong trường hợp không có dữ liệu quan sát trực tiếp về giá cả thị trường, thì việc đo lường GTHL sẽ thiếu tin cậy và mang tính chủ quan khi dựa vào cơ sở xét đoán và giả định của các đơn vị báo cáo. Bên cạnh đó, mô hình GTHL chỉ áp dụng phổ biến với hàng tồn kho, bất động sản đầu tư, công cụ tài chính. Trong khi, để phản ánh sự tiêu dùng của TSCĐ như nhà máy, thiết bị, phân xưởng và tài sản vô hình thì cần áp dụng mô hình đánh giá lại. 2.2.2.6 Mô hình đánh giá lại Theo mô hình đánh giá lại, kế toán sử dụng giá gốc để ghi nhận ban đầu, còn sau ghi nhận ban đầu kế toán sử dụng GTHL để đánh giá lại đối với các khoản mục trên BCTC. Về bản chất, mô hình đánh giá lại được xem là sự phát triển của mô hình GTHL nhằm cung cấp thông tin tốt hơn, đầy đủ hơn cho người sử dụng. Khi mô hình GTHL chỉ phản ánh sự thay đổi GTHL tại thời điểm đánh giá lại trên BCTC, mô hình đánh giá lại thể hiện được giá trị hiện hành của hao mòn, và trên hết phản ánh được thông tin thay đổi giá trị TS, thể hiện được sự tiêu dùng đối với TS trong quá trình nắm giữ và sử dụng. Do đó, mô hình đánh giá lại cung cấp thông tin nhiều hơn so với mô hình GTHL, và phản ánh được giá trị thay đổi của tài sản khi sử dụng TS đó.
- 9 2.3 Kế toán TSCĐ trong doanh nghiệp theo các mô hình tính giá 2.3.1 Đo lường và ghi nhận ban đầu đối với TSCĐ Theo quan điểm của hội đồng CMKT quốc tế (IASB), TSCĐ được ghi nhận ban đầu theo giá gốc. Giá gốc của TSCĐ gồm tất cả các chi phí cần thiết để đưa tài sản ở trạng thái sẵn sàng sử dụng (IAS 16, IAS 38). Những chi phí này bao gồm chi phí phải gánh chịu khi mua hoặc xây dựng theo giá quyết toán của hợp đồng xây dựng và các chi phí liên quan trực tiếp khác. 2.3.2 Đo lường và ghi nhận TSCĐ sau ghi nhận ban đầu * Đo lường và ghi nhận TSCĐ sau ghi nhận ban đầu theo mô hình giá gốc - Xác định và ghi nhận giá trị hao mòn của TSCĐ: Về mặt bản chất, khấu hao không phải là đối tượng kế toán được đo lường, nó chỉ được tính toán trong kỳ nhằm phân bổ một cách có hệ thống giá trị của TSCĐ trong suốt thời gian sử dụng hữu ích của tài sản đó. - Xác định và ghi nhận các chi phí phát sinh sau ghi nhận ban đầu TSCĐ: Đối với sửa chữa, bảo dưỡng định kỳ sẽ được ghi nhận vào chi phí SXKD trong kỳ hoặc ghi nhận vào chi phí trả trước và phân bổ dần nếu giá trị lớn. Đối với các chi phí nâng cấp TSCĐ nếu chắc chắn làm tăng lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản thì được ghi tăng nguyên giá của tài sản. - Xác định và ghi nhận khoản lỗ lũy kế do suy giảm giá trị TSCĐ: Dựa theo nguyên tắc thận trọng, khi TSCĐ bị suy giảm giá trị, khoản tổn thất này cần được ghi nhận để trình bày như một khoản điều chỉnh giá trị cho TSCĐ trên BCTC.. Tổn thất tài sản Đối tượng áp dụng Đo lường Ghi nhận TSCĐVH Báo cáo thu không xác Giá trị còn lại TSCĐ nhập (lãi/lỗ) trích định được So sánh giữa khấu hao thời gian sử hằng năm dụng hoặc chưa sẵn sàng NG trừ KH Giá trị có thể thu hồi sử dụng Khi có dấu hiệu Đánh giá tổn thất Cao hơn của tổn thất cuối năm tài chính GTHL trừ chi Giá trị sử phí bán dụng Hình 2.1: Quy trình xác định suy giảm giá trị của tài sản theo IAS 36 (Nguồn: IAS 36) * Đo lường và ghi nhận TSCĐ sau ghi nhận ban đầu theo mô hình đánh giá lại: Sau ghi nhận ban đầu, TSCĐ cần được đánh giá lại theo GTHL. Khoản mục “Thặng dư do đánh giá lại tài sản” có thể được chuyển sang thu nhập giữ lại trong phạm vi chênh lệch giữa mức khấu hao ban đầu và mức khấu hao sau khi đánh giá lại
- 10 của TSCĐ đang sử dụng. Bên cạnh đó, các khoản chênh lệch tạm thời (chênh lệch tạm thời chịu thuế hoặc chênh lệch tạm thời được khấu trừ) sẽ xuất hiện với việc đánh giá lại TS, phản ánh sự biến động của nguyên giá và khấu hao của TSCĐ do đánh giá lại so với giá trị ghi sổ ban đầu. 2.3.3 Dừng ghi nhận đối với tài sản cố định Việc dừng ghi nhận đối với TSCĐ được xác định khi tài sản không còn mang lại lợi ích kinh tế trong tương lai, DN thực hiện thanh lý nhượng bán TSCĐ và chuyển từ TSCĐ đang sử dụng thành BĐS đầu tư. Với việc dừng ghi nhận TSCĐ thì không phân biệt là theo mô hình giá gốc hay mô hình đánh giá lại. Vì dừng ghi nhận đối với TSCĐ thực chất là xóa sổ TSCĐ, DN tiến hành ghi giảm nguyên giá, giảm khấu hao của TSCĐ trong kỳ. 2.3.4 Trình bày thông tin kế toán tài sản cố định trên báo cáo tài chính * Trình bày thông tin kế toán TSCĐ theo mô hình giá gốc Trên báo cáo tình hình tài chính, TSCĐ phải được phản ánh theo nguyên giá trừ giá trị hao mòn luỹ kế trừ khoản lỗ do suy giảm giá trị tài sản (nếu có). Trên Thuyết minh BCTC, DN phải trình bày các nội dung liên quan đến từng loại TSCĐ bao gồm cơ sở xác định giá trị còn lại gộp; phương pháp khấu hao được sử dụng; thời gian sử dụng hữu ích hoặc tỷ lệ khấu hao được sử dụng; giá trị còn lại gộp và khấu hao luỹ kế (cộng với các khoản lỗ luỹ kế do suy giảm giá trị TS) tại ngày đầu kỳ và cuối kỳ, các thêm mới, tài sản mua lại thông qua hợp nhất kinh doanh, khoản lỗ do suy giảm giá trị ghi nhận theo quy định tại IAS 36, các khoản lỗ do suy giảm giá trị được hoàn nhập, chênh lệch tỷ giá hối đoái phát sinh từ chuyển đổi BCTC từ đồng tiền chức năng sang loại tiền tệ báo cáo khác, các thay đổi khác * Trình bày thông tin kế toán TSCĐ theo mô hình đánh giá lại Trên báo cáo tình hình tài chính, TSCĐ phải được phản ánh theo GTHL trừ giá trị HMLK trừ lỗ do suy giảm giá trị TS (nếu có). Trên Thuyết minh BCTC, ngoài các thông tin mô tả về TSCĐ tương tự mô hình giá gốc, DN còn phải trình bày các thông tin về cách thức đo lường: thời điểm đánh giá lại, PP xác định GTHL, phạm vi mà GTHL được xác định bằng cách tham chiếu đến giá thị trường hoặc các kỹ thuật định giá khác. Ngoài ra, DN còn phải trình bày các thông tin như ngày có hiệu lực của việc đánh giá lại, có bên độc lập tham gia đánh giá hay không, thặng dư đánh giá lại. 2.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến vận dụng mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ 2.4.1 Cơ sở lý thuyết nền tảng 2.4.1.1 Lý thuyết tín hiệu (Signalling theory) Lý thuyết tín hiệu nhằm mục tiêu giải thích nhà quản lý sẽ lựa chọn áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ, từ đó cung cấp các thông tin thích hợp và đáng tin cậy hơn cho nhà đầu tư để đảm bảo khả năng huy động vốn của DN. 2.4.1.2 Lý thuyết các bên liên quan (Stakeholder theory) Vận dụng lý thuyết các bên liên quan nhằm mục tiêu giải thích cho hành vi lựa chọn hay không lựa chọn một vấn đề nào đó của nhà quản lý. Các bên liên quan
- 11 có tác động đến hoạt động của một tổ chức và do đó việc áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ có thể thỏa mãn nhu cầu thông tin của các bên liên quan. 2.4.1.3 Lý thuyết thể chế (Institutional theory) Dựa trên cơ chế cưỡng chế, áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ là kết quả mong muốn hợp pháp bởi các bên liên quan khi muốn thông tin TSCĐ được trình bày BCTC phải thích hợp và đáng tin cậy. Dựa trên cơ chế bắt chước, áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ vì muốn bắt chước các tổ chức đã thực hiện thành công. Dựa trên cơ chế quy phạm, áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ là tiêu chuẩn thích hợp trong xu hướng hội nhập quốc tế hiện nay dựa trên các quy tắc được xây dựng bởi các cơ quan chuyên môn về kế toán. 2.4.1.4 Lý thuyết hành vi có kế hoạch (Theory of Planned Behaviour-TPB) Dựa trên thuyết hành vi có kế hoạch, khi nhà quản lý thực hiện hành vi áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ cần có những nhận thức về lợi ích và bất lợi khi áp dụng GTHL (tương ứng với nhận thức đối với hành vi), cần có những nhận thức về áp lực tuân thủ, áp lực cưỡng chế và cơ chế bắt chước (tương ứng với tiêu chuẩn chủ quan) và phải có những nhận thức về tác động của môi trường pháp lý, kinh doanh, văn hoá, xã hội, các vấn đề đào tạo nhằm mục tiêu ra quyết định áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ (tương ứng với nhận thức kiểm soát hành vi). 2.4.2 Khái quát các yếu tố ảnh hưởng đến áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ Nghiên cứu về áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ đã được đề cập trong các công trình tiêu biểu như Laux & Leuz (2009), Muller & cộng sự (2008), Cairn & cộng sự (2011). Theo đó, khi nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ, luận án nhận thấy đây là các yếu tố nhận thức dựa trên góc nhìn của DN. Theo đó, các giả thuyết được đặt ra là: H1: Nhận thức lợi ích nâng cao chất lượng thông tin trình bày trên BCTC có tác động tích cực đến việc áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ. H2: Nhận thức về bất lợi khi áp dụng GTHL có tác động tiêu cực đến việc áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ. H3: Nhận thức về áp lực cưỡng chế từ các tổ chức tín dụng và cho vay có tác động tích cực đến việc áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ. H4: Nhận thức về áp lực tuân thủ qui phạm của các tổ chức chuyên nghiệp kế toán có tác động tích cực đến việc áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ. H5: Nhận thức cơ chế bắt chước có tác động tích cực đến việc áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ. H6: Nhận thức về rào cản khi áp dụng GTHL có tác động tiêu cực đến việc áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ. H7: Nhận thức về tác động của môi trường khi áp dụng GTHL có tác động tiêu cực đến việc áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ.
- 12 2.4.3 Mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ Nhận thức lợi ích nâng cao chất lượng thông tin trình bày trên BCTC Nhận thức về bất lợi khi áp dụng GTHL (H1) Nhận thức về áp lực cưỡng chế (H2) của tổ chức tín dụng và cho vay (H3) Áp dụng cơ sở tính Nhận thức về áp lực tuân thủ giá theo GTHL qui phạm của tổ chức chuyên (H4) trong kế toán TSCĐ nghiệp kế toán (H5) Nhận thức về cơ chế bắt chước (H6) Nhận thức về rào cản khi áp (H7) dụng GTHL Nhận thức về tác động của môi trường khi áp dụng GTHL Hình 2.2: Mô hình nghiên cứu (Nguồn: Tổng hợp của tác giả) 2.5 Nghiên cứu vận dụng các mô hình tính giá trong quy định kế toán TSCĐ tại một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm với Việt Nam Đức và Trung Quốc là các quốc gia có nhiều đặc điểm tương đồng với VN ở góc độ kế toán. Tại Đức, đối với nhà xưởng, máy móc, thiết bị và tài sản vô hình, việc áp dụng GTHL có được sử dụng nhưng ở mức thấp. Tại Trung Quốc, TSCĐ ghi nhận theo mô hình giá gốc. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng nghiêm cấm ghi đảo ngược giá trị TSCĐ đã giảm giá trị nhằm giảm thiểu động cơ điều chỉnh thu nhập. Từ đó, rút ra bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam như sau - Về cơ sở đo lường: Việc đo lường theo GTHL cần phải có lộ trình cụ thể, có những hướng dẫn và điều kiện vận dụng cụ thể. - Về ghi nhận ban đầu và sau ghi nhận ban đầu đối với TSCĐ: Theo kinh nghiệm của các quốc gia chưa phát triển về IFRS, các DN Việt Nam vẫn nên lựa chọn cơ sở giá gốc để ghi nhận ban đầu. Sau ghi nhận ban đầu, TSCĐ được ghi nhận sau ban đầu theo nguyên tắc giá gốc kết hợp với việc phản ánh sự suy giảm giá trị tài sản. - Về trình bày thông tin trên BCTC: Trên thuyết minh BCTC phải trình bày chi tiết về nêu rõ phương pháp xác định GTHL, do DN tự thực hiện hay do đơn vị độc lập khách quan định giá, thông tin từng loại TS bị giảm giá, đơn vị tạo tiền, trình bày chi tiết các ước tính đã sử dụng để xác định giá trị có thể thu hồi đối với TSCĐ
- 13 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Thiết kế nghiên cứu 3.1.1 Quy trình nghiên cứu Để triển khai mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả luận án đã xây dựng quy trình nghiên cứu thực hiện như sau: Hệ thống Dữ liệu sơ cấp Tổng Xác hoá cơ - Phỏng vấn Tổng quan định sở lý sâu hợp, nghiên - Điều tra các Mục vấn đề luận và phân cứu doanh nghiệp đích cần mô hình tích, kết nhằm và nghiên nghiên luận, gợi phát nhiệm cứu cứu, ý các hiện Dữ liệu thứ vụ (câu tổng hợp giải khoảng cấp nghiên hỏi thang - Sách, báo, pháp và trống cứu nghiên đo, xây tạp chí, đưa ra nghiên cứu) dựng CMKT, CĐKT kiến cứu bảng câu - Chứng từ, sổ nghị hỏi sách tại DN Hình 3.1: Quy trình nghiên cứu (Nguồn: Tác giả tự xây dựng) 3.1.2 Thang đo nghiên cứu Luận án kế thừa các biến quan sát đo lường từ các nghiên cứu trước đây kết hợp với việc phỏng vấn lấy ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý về thang đo nghiên cứu, từ đó hình thành các biến quan sát đo lường chính thức cho đề tài. Biến phụ thuộc là “áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ” là biến nhị phân, nhận hai giá trị là 1 (có áp dụng) và 0 (không áp dụng). Các biến quan sát được đo lường theo thang đo Likert 5 mức độ, với mức 1 là “hoàn toàn không đồng ý” cho đến mức 5 là “hoàn toàn đồng ý”. 3.1.3 Xây dựng bảng câu hỏi Bảng câu hỏi được xây dựng để phục vụ cho điều tra, thu thập dữ liệu của luận án. Nội dung của câu hỏi trong các phiếu điều tra chủ yếu để phục vụ cho mục đích về nghiên cứu thực trạng vận dụng các mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ từ những ghi nhận ban đầu, sau ghi nhận ban đầu và trình bày thông tin trên BCTC. Nếu việc vận dụng các mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ tại các DN phi tài chính ở hiện nay chưa đầy đủ, luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu nhu cầu cung cấp thông tin đầy đủ về giá trị thực của TSCĐ trên BCTC cho các đối tượng sử dụng. Ngoài ra, luận án còn đưa ra câu hỏi để xác định ảnh hưởng các yếu tố đến áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ, với câu trả lời được thiết kế dưới dạng thang đo Likert 5 mức độ từ hoàn toàn không đồng ý đến hoàn toàn đồng ý. Câu hỏi khảo sát nhằm xác định mức độ nhận thức của các DN về những lợi ích, bất lợi, áp lực, rào cản, tác động
- 14 của môi trường đến áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ. Nội dung câu hỏi được thiết kế đơn giản, dễ hiểu và đảm bảo được mục tiêu nghiên cứu. 3.2 Phương pháp thu thập dữ liệu 3.2.1 Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp 3.2.1.1 Phương pháp phỏng vấn sâu - Xác định đối tượng phỏng vấn là các chuyên gia có trình độ chuyên môn, am hiểu sâu sắc chuẩn mực, chế độ và thực tiễn kế toán. - Nội dung phỏng vấn xoay quanh việc nghiên cứu hiểu biết của các đối tượng về thực trạng kế toán TSCĐ theo giá gốc và thực trạng đánh giá lại TSCĐ theo GTHL trong CMKT và CĐKT Việt Nam; thực trạng đo lường, ghi nhận và trình bày thông tin về TSCĐ trên BCTC; nghiên cứu nhu cầu, sự cần thiết của việc đánh giá lại TSCĐ theo cách tiếp cận thận trọng hoặc theo mục tiêu cung cấp thông tin đầy đủ và thích hợp với người sử dụng; nghiên cứu khả năng áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, dựa trên ý kiến khảo sát chuyên gia về xác định các yếu tố ảnh hưởng đến áp dụng cơ sở tính giá theo GTHL trong kế toán TSCĐ tại các DN phi tài chính nhằm xác định sự phù hợp mô hình nghiên cứu và độ tin cậy của các thang đo. - Phương thức tiến hành phỏng vấn, các cuộc phỏng vấn được thực hiện thông qua cuộc hẹn gặp trực tiếp hoặc qua điện thoại. Thời gian tiến hành phỏng vấn cho mỗi cuộc hẹn đối với các chuyên gia khoảng 25 – 30 phút. 3.2.1.2 Phương pháp điều tra * Khảo sát sơ bộ Luận án thực hiện nghiên cứu sơ bộ thông qua khảo sát thử trên mẫu là 90 doanh nghiệp. Kết quả thu về 74 phiếu trả lời (tỷ lệ 82,22%), có 16 phiếu không hợp lệ vì có số câu trả lời bỏ trống trên 32% và số câu trả lời giống nhau trên 60%. Thời gian điều tra sơ bộ được thực hiện trong thời gian từ tháng 1/2019 đến tháng 3/2019. Qua kết quả khảo sát sơ bộ cho thấy độ tin cậy thang đo các biến nghiên cứu trong mô hình được đánh giá như sau: Hệ số tương quan biến tổng của LI5 là 0,273; BL4 là 0,278
- 15 người phụ trách về lập BCTC. Thời gian thực hiện phát phiếu và thu thập phiếu được diễn ra từ 4/2019 đến 12/2019. Sau khi tổng hợp, số phiếu phát ra là 500 phiếu, số phiếu thu về là 349, số phiếu hợp lệ là 316 phiếu. 3.2.2 Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp Luận án tiến hành thu thập các nghiên cứu điển hình liên quan đến đề tài như luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, sách tham khảo, bài báo tạp chí, giáo trình chuyên ngành có liên quan, đề tài nghiên cứu khoa học,… để tổng quan nghiên cứu và xác định khoảng trống nghiên cứu. Để phản ánh thực trạng vận dụng các mô hình tính giá trong quy định kế toán TSCĐ của VN, luận án sẽ thu thập các quyết định, thông tư hướng dẫn về kế toán TSCĐ. Ngoài ra, tác giả luận án cũng thu thập hồ sơ tài liệu về kế toán TSCĐ tại các DN nhằm minh hoạ cho các vấn đề nghiên cứu của luận án. 3.3 Phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu - Phương pháp thống kê: Sau khi thu thập được dữ liệu thông qua phiếu phỏng vấn và thu thập tài liệu, tác giả tiến hành tổng hợp các dữ liệu để đánh giá thực trạng vận dụng mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ tại DN phi tài chính ở VN hiện nay. - Phương pháp phân tích, so sánh và tổng hợp: Thông qua nghiên cứu các tài liệu công bố ở trong và ngoài nước, tác giả tiến hành so sánh đối chiếu để bổ sung cho việc xây dựng các giải pháp hoàn thiện luận án. Đồng thời, tác giả phân tích các số liệu báo cáo, các chứng từ sổ sách và thông tin thực tế tại các DN khảo sát để làm cơ sở cho các đánh giá, đề xuất các giải pháp phù hợp. Quy trình xử lý, phân tích dữ liệu trên phần mềm SPSS 20.0 và thực hiện các bước phân tích, bao gồm: + Thống kê mô tả: Thống kê mô tả về tình hình quản lý sử dụng TSCĐ trong DN; thực trạng đo lường, ghi nhận và trình bày thông tin về TSCĐ trên BCTC + Đánh giá độ tin cậy các thang đo: chỉ những biến có hệ số tương quan biến tổng lớn hơn 0.3 và có hệ số Cronbach’s Alpha từ 0.6 trở lên mới được xem là chấp nhận + Phân tích khám phá EFA: EFA được gọi là thích hợp khi 0.50
- 16 CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG CÁC MÔ HÌNH TÍNH GIÁ TRONG KẾ TOÁN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP PHI TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 4.1 Tổng quan về tài sản cố định trong các DN phi tài chính ở Việt Nam 4.1.1 Khái quát về doanh nghiệp phi tài chính ở Việt Nam DN phi tài chính là các DN không hoạt động trong lĩnh vực tài chính, là số còn lại sau khi đã liệt kê các DN tài chính. Có thể tổng quát về DN phi tài chính như sau: DN phi tài chính là các DN không hoạt động trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng và bảo hiểm; có mức độ rủi ro khi đầu tư thấp hơn so với các doanh nghiệp tài chính. Theo báo cáo của Tổng cục thống kê (2019), tính đến 31/12/2018 cả nước có 457.549 DN phi tài chính đang hoạt động có KQSXKD. Trong đó, ngành chế biến chế tạo có số lượng DN chiếm tỷ trọng cao nhất so với các ngành kinh tế khác (18,39%). Xét về giá trị vốn SXKD bình quân của DN phi tài chính là 20.814.021 tỷ đồng, trong đó tỷ trọng vốn cao nhất so với các ngành kinh tế khác thuộc về DN chế biến chế tạo (29,77%). Theo đó, doanh thu thuần và lợi nhuận kế toán trước thuế tạo ra tại các DN chế biến chế tạo cũng tạo ra con số đáng ấn tượng so với các DN thuộc ngành kinh tế khác (chiếm tỷ trọng lần lượt là 40,47% và 55,61%) 4.1.2 Đặc điểm TSCĐ tại các DN phi tài chính ở Việt Nam TSCĐ trong DN phi tài chính có đặc điểm là có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài, phục vụ cho quá trình SXKD của DN và thường xuyên tạo ra sản phẩm sản xuất, do đó việc quản lý theo dõi sự biến động về giá trị của các tài sản này cần phải được nghiên cứu cụ thể. Theo thống kê, tổng giá trị TSCĐ tại các DN phi tài chính đang hoạt động có KQSXKD năm 2018 là 9.830.623 tỷ đồng. Trong đó, ngành chế biến chế tạo đang đóng góp giá trị TSCĐ lớn nhất và nổi bật nhất so với các ngành kinh tế khác, với giá trị 2.953.630 tỷ đồng (tương ứng tỷ trọng 30,05%). 4.2 Thực trạng vận dụng các mô hình tính giá trong quy định kế toán TSCĐ của Việt Nam 4.2.1 Thực trạng vận dụng các mô hình tính giá trong quy định kế toán TSCĐ giai đoạn trước khi ban hành CMKT Việt Nam * Giai đoạn 1 (từ 1970 đến 1988): Trong giai đoạn này, kế toán TSCĐ không có khuôn mẫu riêng mà tuân thủ chế độ tài chính hiện hành. Chế độ tài chính thời kỳ này đưa ra những hướng dẫn tính toán theo giá được giao cho các DN nhà nước, và do đó không có quy định về bảo toàn vốn. Hệ thống kế toán không hướng dẫn hạch toán về đánh giá lại TSCĐ và không tồn tại tài khoản chênh lệch do đánh giá lại TSCĐ. Có thể thấy, hê thống kế toán giai đoạn này vẫn mang nặng tính xử lý tác nghiệp kế toán, chưa mang tính nguyên tắc, chưa gắn với trách nhiệm bảo toàn vốn. Do đó, các thông tin kế toán cung cấp chưa đáp ứng được yêu cầu đầy đủ, rõ ràng của kế toán. * Giai đoạn 2 (từ 1989 đến 1999): CĐKT trong thời kỳ này cũng thể hiện sự thống nhất về nội dung và phương pháp kế toán, các quy định về khấu hao TSCĐ, quy định về quản lý vốn và bảo toàn vốn KD đã có những đổi mới phù hợp với thực tiễn SXKD. Tuy nhiên, CĐKT trong giai đoạn này vẫn bỏ qua rất nhiều nguyên tắc,
- 17 thông lệ chung về kế toán quốc tế, do đó, chưa đáp ứng được đầy đủ thông tin kế toán cho các đối tượng có liên quan như đối tác khách hàng, nhà đầu tư nước ngoài…. 4.2.2 Thực trạng vận dụng các mô hình tính giá trong quy định kế toán TSCĐ giai đoạn sau khi ban hành CMKT Việt Nam Đầu thế kỷ 21, cùng với việc gia nhập thành công các tổ chức AFTA, APEC, WTO….nền kinh tế nước ta đã có sự thay đổi đáng kể. Theo đó, cơ chế quản lý kinh tế cũng diễn ra toàn diện sâu sắc, đặc biệt là giai đoạn phát triển của chế độ kế toán và sự ra đời của CMKT Việt Nam. Trong giai đoạn này, hệ thống kế toán đã bổ sung các quy định hiện hành về xác định giá trị khi ghi nhận ban đầu, xác định giá trị sau ghi nhận ban đầu, dừng ghi nhận và trình bày thông tin trên BCTC. 4.2.3 Đánh giá thực trạng vận dụng các mô hình tính giá trong quy định kế toán TSCĐ của Việt Nam Sang thời kỳ sau khi ban hành CMKT, kế toán Việt nam đã dần hình thành những nguyên tắc kế toán để đo lường và ghi chép đối với kế toán TSCĐ, song vẫn chưa tương đồng với CMKT quốc tế. Hiện nay, quy định của CMKT đối với TSCĐ vẫn thực hiện theo mô hình giá gốc truyền thống, chưa có quy định cụ thể áp dụng đối với mô hình đánh giá lại. Song hành cùng với mô hình giá gốc, các chuyên gia kế toán khuyến nghị nên ban hành những hướng dẫn về ghi chép và cách thức xử lý kế toán theo GTHL đối với TSCĐ sau những ghi nhận ban đầu, nhất là những hướng dẫn xử lý về kế toán suy giảm giá trị TSCĐ và phương pháp kế toán xử lý chênh lệch tạm thời khi đánh giá TSCĐ theo GTHL tại thời điểm lập BCTC. 4.3 Kết quả khảo sát thực trạng vận dụng các mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ tại các DN phi tài chính ở Việt Nam 4.3.1 Về đo lường và ghi nhận ban đầu đối với TSCĐ TSCĐ được hình thành do trao đổi không tương tự, có 86,6% ý kiến đều thống nhất cho rằng nguyên giá TSCĐ được xác định theo giá trị còn lại của TSCĐ đem đi trao đổi cộng các khoản chi phí liên quan trực tiếp khác. Đây là tình hình thực tế tại các DN chưa thực hiện mức độ tuân thủ quy định hiện hành về đo lường ban đầu. 4.3.2 Về đo lường và ghi nhận TSCĐ sau ghi nhận ban đầu Theo kết quả đã thống kê, các DN phần lớn lựa chọn khấu hao theo phương pháp đường thẳng (60,8%), chi phí sửa chữa thường xuyên TSCĐ đa phần được ghi nhận vào chi phí sản phẩm là phổ biến (66,5%). Tại các DN cũng có xảy ra sửa chữa lớn TSCĐ, nhưng phần lớn đều ghi nhận vào chi phí trả trước để phân bổ dần vào chi phí sản phẩm (70,4%). Về suy giảm giá trị đối với TSCĐ, tại DN có một số dấu hiệu sau thường phát sinh đối với máy móc thiết bị đang sử dụng như bị hỏng hóc, lỗi thời không còn sử dụng được, hiệu suất hoạt động đang bị suy giảm so với dự tính (trên 66%). 4.3.3 Về dừng ghi nhận đối với TSCĐ Theo thống kê, có trên 52% DN được khảo sát đều trả lời dừng ghi nhận TSCĐ trong các trường hợp thanh lý, nhượng bán TSCĐ thiếu; TSCĐ mất mát, kiểm kê phát hiện thiếu; điều chuyển TSCĐ sang đơn vị khác; TSCĐ đem góp vốn liên doanh hoặc chuyển TSCĐ thành BĐS đầu tư
- 18 4.3.4 Về trình bày thông tin kế toán TSCĐ trên báo cáo tài chính Theo kết quả khảo sát, 100% các DN đều trả lời rằng TSCĐ được trình bày trên Bảng CĐKT theo NG trừ (-) giá trị HMLK. Đa số các DN đều cho rằng việc ghi nhận kế toán suy giảm TSCĐ là hết sức cần thiết (69,5%), tuy nhiên, các chuyên gia cũng cho rằng hiện nay việc áp dụng kế toán suy giảm TSCĐ tương đối khó khăn vì chưa có CMKT hướng dẫn cụ thể, việc tính toán mức độ suy giảm tương đối phức tạp. Bên cạnh đó, các DN đều chưa biết hoặc chưa hiểu rõ về ghi nhận kế toán suy giảm TSCĐ (hơn 90%), việc tiến hành tính giá TSCĐ dựa trên cơ sở giá gốc truyền thống chưa đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin thận trọng cho các đối tượng sử dụng (trên 54%). Việc đánh giá lại được thực hiện bởi các cơ sở định giá độc lập là chủ yếu (86,4%), theo đó phương pháp mà các đơn vị này sử dụng nhiều nhất để định giá tài sản là phương pháp thu nhập (77,2%). Hiện nay, các DN rất mong muốn đánh giá lại TSCĐ theo GTHL vì các mục tiêu như để phản ánh GTHL của tài sản giúp DN có được số tiền vay cao hơn (58,5%). Tuy nhiên, thực tế chưa có một DN nào tiến hành đánh giá lại TSCĐ trong điều kiện bình thường bởi DN chưa biết hoặc chưa hiểu rõ vấn đề này (hơn 90%). 4.3.5 Đánh giá thực trạng vận dụng mô hình tính giá trong kế toán TSCĐ tại các DN phi tài chính ở VN 4.3.5.1 Những kết quả đạt được Việc ghi nhận ban đầu, sau ghi nhận ban đầu, dừng ghi nhận và trình bày thông tin kế toán TSCĐ được thực hiện tuân thủ theo quy định của CMKT và CĐKT Việt Nam, tức áp dụng dựa trên mô hình giá gốc. 4.3.5.2 Những tồn tại Về đo lường và ghi nhận ban đầu đối với TSCĐ: Qua kết quả nghiên cứu khảo sát cho thấy, DN có thể không tuân thủ triệt để các quy định xác định nguyên giá để ghi nhận ban đầu (vì không phải 100% DN đều nhất trí tuân thủ quy định của CMKT và CĐKT khi đo lường và ghi nhận ban đầu đối với TSCĐ). Về đo lường và ghi nhận sau ban đầu TSCĐ: Việc ghi nhận sau ban đầu TSCĐ tại các DN phi tài chính ở Việt Nam được thực hiện dựa trên giá gốc. Tuy nhiên, TSCĐ tại các DN phi tài chính trong quá trình sử dụng có các dấu hiệu suy giảm giá trị như hỏng hóc, sụt giảm năng suất hoạt động,….nhưng DN không ghi nhận sự suy giảm này. Điều này khiến thông tin kế toán TSCĐ trên BCTC không phản ánh giá trị thực tại thời điểm báo cáo. Về trình bày thông tin TSCĐ trên BCTC: Trên bảng cân đối kế toán, TSCĐ được trình bày theo nguyên giá, hao mòn luỹ kế và giá trị còn lại. Mặc dù tại DN có xuất hiện các dấu hiệu suy giảm giá trị TSCĐ, tuy nhiên DN không ghi nhận sự suy giảm giá trị này dẫn tới giá trị thực của tài sản có thể thấp hơn so với giá trị đang phản ánh, và làm việc tính toán kết quả kinh doanh của DN là thiếu chính xác. 4.3.5.3 Nguyên nhân * Nguyên nhân khách quan: CMKT Việt Nam được ban hành cùng CĐKT và các thông tư hướng dẫn hiện nay còn tồn tại một số quy định chồng chéo, thiếu tính thống nhất và chưa thực sự đồng bộ nên gây khó khăn cho các DN trong quá trình áp
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 306 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 289 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 183 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 269 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 181 | 9
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 149 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 199 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 136 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 17 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn