intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Sự ưa thích rủi ro, nhận thức, hành vi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và sức khỏe của người trồng lúa ở đồng bằng Sông Cửu Long

Chia sẻ: Bình Bình | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:34

31
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận án này là đo lường sự ưa thích rủi ro, nhận thức của người nông dân về rủi ro khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật; đánh giá mức độ tác động của sự ưa thích rủi ro, nhận thức về rủi ro khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đến lượng thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Sự ưa thích rủi ro, nhận thức, hành vi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và sức khỏe của người trồng lúa ở đồng bằng Sông Cửu Long

  1. Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Trần Tiến Khai 2. TS Lê Thanh Loan Phản biện 1:………………………………………………………... ……………………………………………………………………... Phản biện 2:………………………………………………………... ……………………………………………………………………... Phản biện 3:………………………………………………………... ……………………………………………………………………... Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp  trường họp tại: …………………………………………………………… …………………………………………………………………… Vào hồi……..giờ……ngày…….tháng…….năm…….. Có thể tìm hiểu luận án tại:
  2. 4 1. GIỚI THIỆU 1.1 Bối cảnh nghiên cứu Đồng Bằng  Sông  Cửu Long (ĐBSCL)  là  vựa  lúa  lớn nhất   Việt Nam. Năm 2018, diện tích gieo trồng của ĐBSCL là 4,185  triệu  ha,   chiếm   54,32%   tổng   diện  tích   trồng   lúa   của   cả   nước.  Tổng sản lượng lúa của ĐBSCL năm 2018 là 24.441,9 ngàn tấn,   chiếm 55,6% sản lượng cả nước (TCTK, 2018). Mặc dù diện tích  canh tác lúa trong những năm gần đây đang giảm dần, nhưng tỷ  trọng sản lượng gạo của ĐBSCL vẫn chiếm hơn 55% trong tổng  sản lượng gạo cả nước. ĐBSCL cũng là vùng có sản lượng xuất   khẩu gạo lớn nhất cả  nước. Năm 2017, xuất khẩu gạo của khu   vực ĐBSCL đạt 5,5 triệu tấn, đạt kim ngạch 2,49 tỷ USD, chiếm   hơn 93% trong tổng kim ngạch xuất gạo cả nước (TCTK, 2018).   Các lý do trên khẳng định vị  trí và tầm quan trọng của ĐBSCL  trong nền sản xuất lúa gạo của Việt Nam. Do đó, nghiên cứu về  việc canh tác cây lúa tại ĐBSCL không chỉ có ý nghĩa lý luận, mà  còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Tại ĐBSCL, thuốc BVTV được các nông dân sử  dụng   phổ  biến. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc BVTV tồn tại nhiều vấn đề  bất cập. Nông dân ít sử dụng các thiết bị  bảo hộ khi phun thuốc,   chủ yếu đeo khẩu trang và đội nón mặc dù họ nhận thức được tác  hại của thuốc BVTV. Lý do xuất phát từ việc họ cảm thấy không  thoải  mái   khi   mặc  đồ  bảo  hộ   trong  điều kiện khí  hậu  tại   địa   phương. Điều này có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe của những   người phun thuốc (Huỳnh Việt Khải, 2014).  Về   tính   độc   của   thuốc   BVTV   được   sử   dụng,   nông   dân  ĐBSCL thường sử  dụng các loại thuốc có độ  độc loại II và III   (theo phân loại của WHO). Thuốc BVTV không được sử  dụng  
  3. 5 hợp lý về  tần suất, thời gian, liều lượng và không đảm bảo an  toàn trong việc bảo quản. Ngoài ra, việc chất thải rắn và lỏng từ  quá trình sử  dụng thuốc thường không được quản lý, xử  lý đúng  cách  ở đồng ruộng và ở  nơi cất giữ. Điều này không chỉ  làm ảnh  hưởng đến sức khỏe của người phun thuốc, mà còn  ảnh hưởng  đến môi trường sống và các loại động thực vật có lợi khác (Phan  Văn Toàn, 2013). 1.2 Các nghiên cứu thực nghiệm Các nghiên cứu trên thế  giới và Việt Nam đều cho thấy, sự  ưa thích rủi ro có thể   ảnh hưởng  đến các quyết  định của con  người, kể  cả  trong lĩnh vực nông nghiệp. Sự   ưa thích rủi ro  ảnh   hưởng đến việc quyết định của nông dân về giống cây trồng được  sử dụng (Nguyễn Thành Phú, 2016; Liu, 2013), lượng phân bón sử  dụng (Khor và cộng sự, 2018) hay là lượng thuốc BVTV sử  dụng   (Liu và Huang, 2013). Đối với việc sử  dụng thuốc BVTV, những   người không  ưa thích rủi ro có xu hướng sử  dụng thuốc BVTV   nhiều hơn. Họ cho rằng, nếu không sử  dụng thuốc BVTV sẽ gây  ảnh hưởng đến năng suất cây trồng, ảnh hưởng đến thu nhập của   họ (Liu và Huang, 2013).  Như  vậy, khi biết được sự   ưa thích rủi ro của các hộ  nông  dân, chúng ta có thể  lý giải được hành vi sử  dụng thuốc BVTV  của họ. Đây là yếu tố  quan trọng trong việc nghiên cứu hành vi   của các hộ  nông dân, giúp các nhà quản lý hiểu được tại sao các  hộ  nông dân lại có xu hướng sử  dụng thuốc BVTV nhiều hơn   mức khuyến cáo. Tuy nhiên, nghiên cứu về sự ưa thích rủi ro chủ  yếu là các nghiên cứu ở nước ngoài, tại Việt Nam còn khá ít. Chưa  có nhiều nghiên cứu ảnh hưởng của sự ưa thích rủi ro đến lượng  thuốc BVTV sử dụng tại Việt Nam.
  4. 6 Zhang  và cộng sự  (2016) cho rằng, nhận thức về  rủi ro sức  khỏe của người nông dân  sẽ   ảnh hưởng  đến hành vi  sử  dụng  thuốc BVTV của họ. Các nghiên cứu của Huỳnh Việt Khải (2014),  Jallow et al. (2017), Migheli (2017) cũng cho thấy sự  hiểu biết về  các rủi ro, kiến thức của người nông dân trong quá trình sử  dụng  thuốc BVTV sẽ  tác động đến lượng thuốc BVTV được sử  dụng.  Như vậy, tìm hiểu nhận thức của người nông dân về rủi ro khi sử  dụng thuốc BVTV đóng vai trò quan trọng trong trong việc lý giải  hành vi sử  dụng thuốc BVTV của họ. Bên cạnh đó, chúng ta có  thể tác động nhận thức để  thay đổi hành vi, giúp người nông dân  sử  dụng thuốc BVTV một cách hợp lý và khoa học hơn. Sự   ưa   thích rủi ro là đặc điểm cá nhân của con người, chúng ta không thể  can thiệp để thay đổi nó. Nhưng nhận thức về rủi ro thì có thể tác   động vào để  thay đổi nhận thức bằng nhiều biện pháp. Việc thay  đổi nhận thức về rủi ro và đặc điểm cá nhân đối với sự  ưa thích   rủi ro sẽ tác động làm thay đổi lượng thuốc BVTV sử dụng. Xuất phát từ lý do trên, việc nghiên cứu về sự ưa thích rủi ro   và nhận thức rủi ro khi sử  dụng thuốc BVTV tại các tỉnh Đồng   bằng sông Cửu Long, xem xét tác động của cả hai yếu tố này đến  lượng thuốc BVTV sử  dụng là rất quan trọng và cần thiết. Kết  quả nghiên cứu là cơ sở khoa học để đưa ra những giải pháp thích   hợp, nhằm hạn chế  tối đa tình trạng sử  dụng thuốc BVTV bất   hợp lí, không đảm bảo an toàn tại khu vực này. Thuốc BVTV có tác hại đối với môi trường sống và đối với  sức khỏe của người người phun thuốc. Độc tính của thuốc BVTV  có thể  gây  ảnh hưởng ngay sau khi tiếp xúc, hoặc sau một thời  gian sau khi tiếp xúc. Mức độ tác hại đến sức khỏe phụ thuộc vào   độ độc của thuốc BVTV. Có những loại thuốc BVTV dù tiếp xúc 
  5. 7 một lượng nhỏ cũng có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức  khỏe. Thuốc bảo vệ thực vật không những ảnh hưởng đến hệ hô  hấp, hệ  thần kinh, bề  mặt da, mà còn  ảnh hưởng đến hệ  tuần   hoàn   nếu   nhiễm   phải.   Người   trực   tiếp   phun   thuốc   dễ   bị   ảnh   hưởng sức khỏe nhất do hít thở  phải thuốc BVTV phát tán khi  phun thuốc hoặc do bám dính trên bề  mặt da (Phan Bích Ngân và   Đinh Xuân Thắng, 2006). Người phun thuốc có những biểu hiện   như: nhức đầu, buồn nôn và các vấn đề  về  da, tác động đến hệ  thần kinh, gan và thận (Qiao  và cộng sự, 2012). Việc tiếp xúc với  thuốc BVTV có liên quan mật thiết với các bệnh ung thư như ung  thư phổi, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư trực tràng, ung thư tuyến  tụy (Alavanja và Bonner, 2012).  Như   vậy,   tác  hại   của   thuốc   BVTV   đối   với   sức   khỏe   của   người tiếp xúc (trực tiếp và gián tiếp), môi trường, hệ sinh thái là   rất lớn. Do đó, việc đánh giá tác động của thuốc BVTV tới sức  khỏe của người tiếp xúc với thuốc BVTV là rất cần thiết, giúp  người nông dân sử  dụng thuốc BVTV một cách hợp lý, tránh sử  dụng quá mức và không cần thiết. 1.3. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu Mục tiêu tổng quát: Đo lường, phân tích tác động của sự ưa thích rủi ro của nông  dân, nhận thức về  rủi ro khi sử  dụng thuốc BVTV   của họ  đến  lượng thuốc BVTV sử  dụng, tác động của việc sử  dụng thuốc   BVTV tới sức khỏe của nông dân. Trên cơ  sở  đó đưa ra khuyến   nghị  đối với nông dân và cơ  quan quản lý về  việc quản lý, sử  dụng thuốc bảo vệ thực vật. Mục tiêu cụ thể:
  6. 8 1. Đo lường sự ưa thích rủi ro, nhận thức của người nông dân  về rủi ro khi sử dụng thuốc BVTV. 2.  Đánh giá mức độ  tác động của sự   ưa thích rủi ro, nhận   thức về  rủi ro khi sử dụng thuốc BVTV đến lượng thuốc BVTV   được sử dụng. 3.  Đo   lường,   đánh   giá   mức   độ   tác   động   của   lượng   thuốc  BVTV được sử dụng tới chi phí sức khỏe người nông dân tiếp xúc   với thuốc BVTV tại ĐBSCL. Câu hỏi nghiên cứu 1) Sự   ưa thích rủi ro của nông dân trồng lúa  ở  ĐBSCL như  thế nào? 2) Nhận thức như thế nào về rủi ro khi sử dụng thuốc BVTV  của nông dân trồng lúa ở ĐBSCL như thế nào? 3) Sự ưa thích rủi ro và nhận thức của người nông dân về rủi  ro khi sử  dụng thuốc BVTV có tác động đến lượng thuốc BVTV   sử dụng hay không? 4) Lượng thuốc BVTV được áp dụng tác động đến chi phí  sức khỏe của người tiếp xúc với thuốc BVTV ra sao? 1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu  là việc sử  dụng thuốc BVTV của các hộ  nông dân trồng lúa tại các tỉnh ĐBSCL. Đối tượng khảo sát là các  hộ  nông dân có trồng lúa trong vòng ba năm tính đến ngày phỏng   vấn. Pham vi nghiên cứu: Nghiên cứu 3 tỉnh An Giang, Kiên Giang và  Vĩnh Long trong 3 mùa vụ  năm 2018­2019 với tổng số quan sát là   238 quan sát (An Giang 92, Kiên Giang 71 và Vĩnh Long 75) 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
  7. 9 Lý thuyết hữu dụng kỳ  vọng sẽ  giúp lý giải và tính toán hệ  số sự ưa thích rủi ro của các hộ nông dân. Lý thuyết hành vi người  nông dân sẽ  cho thấy được người nông dân quyết định các loại  đầu vào như thế nào và lượng thuốc bảo vệ thực vật được quyết  định dựa trên những yếu tố nào. Bên cạnh đó lý thuyết nhận thức  hành vi cũng giải thích được nhận thức sẽ tác động đến hành vi sử  dụng thuốc BVTV của các hộ  nông dân như  thể  nào. Cuối cùng  cách tiếp cận chi phí sức khỏe cũng được nghiên cứu để xây dựng  mô hình tác động của thuốc BVTV đến chi phí sức khỏe cùa các   hộ nông dân. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Khung phân tích của nghiên cứu
  8. 10 3.2 Đo lường sự ưa thích rủi ro Trò chơi xổ số được thiết kế  với 10 tình huống và hai phương án   lựa chọn như trong nghiên cứu của Holt và Laury (2002). Bảng 3.1 Phương án trả thưởng trong trò chơi xổ số Phương  E(A) Phương  E(B) án A (1000đ) án B (1000đ) Thứ Nhận  Nhận  Nhận  Nhận  tự được  được  được  được  35.000đ 44.000đ 2.000đ 85.000đ Bốc  Bốc   được  Bốc được  Bốc được  1 35,9 được   số  10,3 số 1­9 số 10 số 10 1­9 Bốc  Bốc   được  Bốc được  Bốc được  2 36,8 được   số  18,6 số 1­8 số 9,10 số 9,10 1­8 Bốc  Bốc   được  Bốc được  Bốc được  3 37,7 được   số  26,9 số 1­7 số 8­10 số 8­10 1­7 Bốc  Bốc   được  Bốc được  Bốc được  4 38,6 được   số  35,2 số 1­6 số 7­10 số 7­10 1­6 Bốc  Bốc   được  Bốc được  Bốc được  5 39,5 được   số  43,5 số 1­5 số 6­10 số 6­10 1­5 6 Bốc   được  Bốc được  40,4 Bốc  Bốc được  51,8 số 1­4 số 5­10 được   số  số 5­10
  9. 11 1­4 Bốc  Bốc   được  Bốc được  Bốc được  7 41,3 được   số  60,1 số 1­3 số 4­10 số 4­10 1­3 Bốc  Bốc   được  Bốc được  Bốc được  8 42,2 được   số  68,4 số 1,2 số 3­10 số 3­10 1,2 Bốc  Bốc   được  Bốc được  Bốc được  9 43,1 được   số  76,7 số 1 số 2­10 số 2­10 1 Bốc được  Bốc được  44 85 số 1­10 số 1­10 Nguồn:   Tác   giả   đưa   ra   trên   thiết   kế   của   Khor   et   al.   (2018), Holt và Laury (2002) Số  tiền trả thưởng cố  định  ở  4 mức, với phương án an toàn  (phương   án   A)   là   35   ngàn   và   44   ngàn,   với   phương   án   rủi   ro  (phương án B) là 2 ngàn và 85 ngàn. Số  tiền thưởng được thanh   toán phải đảm bảo nguyên tắc là mức độ chênh lệch ở phương án  an toàn thấp hơn mức chênh lệch ở phương án rủi ro. Người chơi được phỏng vấn viên giải thích, hướng dân cách  chơi, lấy ví dụ minh họa để người chơi hiểu. Cách thức tiến hành  trò chơi cụ thể như sau Bước   1:   Người   chơi   đọc   kỹ   các   trường   hợp  xảy   ra   trong   bảng phương án trả thưởng, lựa chọn phương án A hoặc B trong   mỗi trường hợp (chỉ  chuyển phương án từ  A sang B và không có  chiều ngược lại)
  10. 12 Bước 2: Người chơi bốc 1 tờ giấy trong số 10 tờ giấy trong   hộp có ghi số được chuẩn bị sẵn. Số được ghi trên tờ giấy sẽ cho  biết thứ  tự  phương án mà người chơi được trả  thưởng. Ví dụ  người chơi bốc trúng số 3 thì phương án trả thưởng sẽ  là ở  dòng  thứ 3. Sau đó bỏ tờ giấy lại vào trong hộp. Bước 3: Người chơi tiếp tục bốc 1 trong 10 tờ giấy trong hộp   để  xác định số  tiền được trả  thưởng theo phương án trả  thưởng   được người chơi bốc trước đó. Vì dụ  người chơi bốc trúng số  4  thì sẽ được nhận 35 ngàn đồng nếu người chơi chọn phương án A  và nhận được 2 ngàn đồng nếu người chơi chọn phương án B (là   phương án trả thưởng ở dòng thứ 3 mà người chơi đã bốc ở bước   2) Dựa vào điểm chuyển từ phương án A sang phương án B để  tính toán khoảng giá trị  của sự   ưa thích rủi ro. Hàm lợi ích của   từng mức thưởng được tính theo công thức 3.1 U(Y) =               (3.1) (Y là mức tiền thưởng, r là hệ  số  đo lường sự   ưa thích rủi   ro). Về  nguyên tắc, người chơi sẽ chọn phương án A khi lợi ích  kỳ vọng của phương án A lớn hơn hoặc bằng lợi ích kỳ vọng của  phương án B (tức UE(A)>= UE(B)).  Với UE(A) = p1.U(A1) + p2.U(A2)           ( 3.2)   UE(B) = p1.U(B1) + p2.U(B2).            (3.3) Ở đây A1, A2 là lượng tiền trả thưởng ở phương án A; B1, B2 là  lượng tiền trả thưởng ở phương án B. Còn p1, p2 là xác suất được  nhận tương ứng với từng lượng tiền của mỗi phương án. Hàm lợi  ích của từng mức thưởng được tính theo công thức:
  11. 13 .   Người   chơi   chỉ   chuyển   sang   chọn   phương   án   B   khi  UE(A)
  12. 14 Bảng 3.3 câu hỏi đo lường nhận thức Câu hỏi đo lường Nguồn 1. Tất cả thuốc BVTV đều độc hại đối với sức khỏe   Wang (2017) con người 2. Thuốc BVTV có thể gây hại với tất cả mọi người,   Jallow (2017) kể cả những người có sức khỏe tốt. 3.  Thuốc   BVTV   gây   ảnh   hưởng   đến   môi   trường  Wang   (2017),  sống cho những người xung quanh. Jallow (2017) 4. Thuốc BVTV có thể  gây hại cho các động vật có  Jallow (2017) ích khác. 5.  Tôi có thể  nhận biết mức độ  độc hại của thuốc   Devi (2009) BVTV dựa trên bao bì sản phẩm 6.  Nôn mửa, tiêu chảy, sùi bọt mép và chuột rút là  Kumari   &  dấu hiệu của ngộ độc thuốc BVTV Sharma (2018) 7. Tiếp xúc với thuốc BVTV có thể gây ra ung thư Kumari   &  Sharma (2018) 8. Thuốc BVTV có thể gây dị ứng, phồng rộp da Kumari   &  Sharma (2018) 9. Tiếp xúc với thuốc BVTV có thể  gây tổn thương  Kumari   &  mắt Sharma (2018) 10. Thuốc BVTV có thể  gây ra nhiều rủi ro cho sức   Kumari   &  khỏe của phụ nữ mang thai và trẻ em Sharma (2018)        Nguồn: Tổng hợp của tác giả 3.4 Đánh giá  ảnh hưởng của sự   ưa thích rủi ro và nhận thức   đến lượng thuốc BVTV sử dụng Mô hình nghiên cứu được xây dựng như sau
  13. 15 Ln(PU) =  β0+ β1RP + β2KU + β3ln(Pp) + β4Tr + β5Edu + β6Yup +  β7Reg              (3.6) Trong đó PU  là lượng thuốc BVTV được sử  dụng được quy đổi  về gam a.i/ha/năm. RP: Là biến đại diện cho sự ưa thích rủi ro cá nhân được đo lường   thông qua trò chơi thực nghiệm. KU: Là biến đại diện cho nhận thức của người nông dân về rủi ro  khi sử dụng thuốc BVTV Pp là giá thuốc BVTV (ngàn đồng/gam a.i) Tr là biến giả tập huấn (bằng 1 nếu có tham gia tập huấn) Edu: là trình độ học vấn của chủ hộ (đo bằng số năm đi học) Yup: là kinh nghiệm trồng lúa (số năm trồng lúa) Reg: là biến giả Tỉnh. Mô hình này sẽ được hồi quy bằng phương pháp bình phương nhỏ  nhất (OLS) trên phần mềm stata. 3.5  Mô hình phân tích tác động của thuốc bảo vệ  thực vật   đến chi phí sức khỏe Đối với mô hình hồi quy tác động của thuốc BVTV đến chi phí   sức khỏe, tác giả  chỉ  hồi quy đối với những cá nhân có tiếp xúc   với thuốc BVTV, tức có pha hoặc phun thuốc. Những hộ  đi thuê  phun hoàn toàn sẽ  không được phân tích trong mô hình hồi quy   này. HCO   =   β0  +   β1PES   +   β2ARE   +   β3NUM   +   β4SMO   +   β5DRI1   +  β6DRI2+ β7AGE + β8IPM + β9PRO + β10REG             (3.9) Trong đó: Chi phí sức khỏe (HCO)  = Tổng tiền thuốc + Tiền khám + Số  ngày năm viện x tiền công bình quân 1 ngày của người bệnh + Số 
  14. 16 ngày có người chăm sóc x Tiền công bình quân 1 ngày của người   chăm sóc + Chi phí đi lại của cả người bệnh và người chăm sóc. PES: là lượng thuốc BVTV sử dụng, biến này được phân thành ba  biến   là   lượng   thuốc   sâu   (PES1),   lượng   thuốc   bệnh   (PES2)   và   lượng thuốc khác (PES3), tính bằng gam ai/ha/vụ ARE: diện tích canh tác NUM: Số vụ canh tác(bằng 1 nếu làm 3 vụ, bằng 0 nếu làm 2 vụ) SMO: Số điếu thuốc hút trung bình/ngày DRI1: Số ml rượu uống trung bình/tuần DRI2: Số ml bia uống trung bình/tuần AGE: tuổi của chủ hộ IPM: Có tham gia IPM hay không (Bằng 1 nếu có tham gia) PRO: Số biện pháp bảo vệ sử dụng REG: Biến giả tỉnh Phương pháp hồi quy mô hình này là hồi quy Tobit và cũng  được thực hiện trên phần mềm stata. Biến phụ thuộc là CPSK của  nông dân tiếp xúc thuốc BVTV có thể  bằng   0  nếu nông dân đó  không phát sinh CPSK trong giai đoạn khảo sát; nghĩa là dữ  liệu  CPSK bị chặn ở giá trị 0. Phương pháp ước lượng OLS có thể cho  kết quả  sai lệch; trong trường hợp này, sử  dụng mô hình hồi quy  Tobit để ước lượng sẽ cho kết quả đáng tin cậy hơn. 4. THỰC TRẠNG SỬ  DỤNG THUỐC BVTV TẠI ĐỊA BÀN  NGHIÊN CỨU Kết quả  điều tra 238 nông dân cho thấy, tất cả  các hộ  đều   phun thuốc BVTV, thậm chí phun nhiều lần. Số  lần phun phổ  biến của các hộ  nông dân là 5 đến 6 lần/vụ. Có một số  hộ  nông  dân phun 7 đến 8 lần, thậm chí có hộ  phun đến 9 lần. Về  lượng 
  15. 17 thuốc sử  dụng theo mùa vụ  phân theo từng loại thuốc được thể  hiện qua bảng 4.11 sau: Bảng 4.11 Lượng thuốc bảo vệ thực vật sử dụng phân  theo loại thuốc Đơn vị tính: gam a.i/ha/vụ Vụ Hè  Vụ Đông  Vụ  Thu 2019 Xuân Thu  2018­2019 Đông  Loại thuốc 2018 Thuốc trừ sâu 342 382 363 Thuốc trừ bệnh 1.133 1.176 1.097 Thuốc khác 1.595 1.548 1.463 ­Thuốc trừ cỏ 708 676 711 ­Thuốc trừ chuột ốc 817 800 669 ­Thuốc   điều   hòa   sinh  17 18 15 trưởng ­Thuốc xử lý hạt giống 53 54 69 Tổng 3.071 3.106 2.923 Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra Các loại thuốc BVTV được hộ  nông dân sử  dụng chủ yếu là  thuốc trừ bệnh. Lượng thuốc trừ bệnh trong vụ Đông Xuân là cao 
  16. 18 nhất,  ở  mức trung bình là 1,176 kg a.i/ha chiếm 31,03% trong vụ.   Lượng   thuốc   trừ   chuột   ốc   được   người   nông  dân  sử   dụng  khá  nhiều, đứng thứ  2 trong các loại thuốc,  ở  mức 817 gam a.i/ha vụ  Hè Thu, 800 gam a.i vụ Đông Xuân và 669 gam a.i vụ Thu Đông. Về độ độc, lượng thuốc BVTV được sử dụng qua ba mùa vụ  thể hiện trong bảng 4.13 Bảng 4.13 Lượng thuốc bảo vệ thực vật sử dụng phân  theo độ độc của WHO Đơn vị tính: gam a.i/ha Vụ Hè  Vụ Đông Xuân  Vụ Thu  Mức độ độc Thu 2019 2018­2019 Đông 2018 I 1 1 0 II 578 572 551 III 904 930 911 IV 1.498 1.519 1.360 Không xác định 90 84 100 Tổng 3.071 3.106 2.923
  17. 19 guồn: Tổng hợp từ  kết quả   điều   tra Lượng thuốc BVTV cực độc mức I được người nông dân sử  dụng ít (chỉ khoảng 1 gam a.i/ha, lượng thuốc có độ độc thấp mức  IV được sử  dụng chiếm tỷ  trọng lớn (gần 60%). Lượng thuốc   BVTV mà các hộ  gia đình sử  dụng qua các mùa vụ  phổ  biến  ở  mức độ độc III, mức tương đối độc hại. Về hành vi sử dụng thuốc BVTV, kết quả khảo sát cho thấy  vẫn có gần 18% hộ  nông dân thừa nhận sử  dụng quá liều lượng  cho phép. Bên cạnh đó, khi họ pha thuốc mà không dùng hết họ sẽ  quay trở lại phun dặm lại cho hết thuốc trong bình, điều này làm  cho lượng thuốc vượt mức cần thiết. Một số hộ nông dân vẫn vứt  bao bì thuốc đã sử dụng ngoài ruộng, kênh mương hay bán ve chai. 5. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 5.1 Kết quả đo lường sự ưa thích rủi ro Bảng 5.1 Giá trị trung bình sự ưa thích rủi ro giữa các  tỉnh Tỉnh Giá trị trung bình An Giang 0,33
  18. 20 Kiên Giang 0,21 Vĩnh Long 0,05 Mức ý nghĩa 10% Nguồn: Tổng hợp từ dữ liệu điều tra Bảng 5.3 thể hiện giá trị trung bình của sự ưa thích rủi ro giữa các  tỉnh. Qua số  liệu cho thấy, giá trị  trung bình của An Giang cao  nhất 0,33, Kiên Giang là 0,21, Vĩnh Long thấp nhất 0,05. Kết quả  kiểm   định   F­test   của   Oneway   ANOVA   cho   thấy   mức   ý   nghĩa  thống kê là 10%. Nghĩa là có sự  khác biệt về  sự   ưa thích rủi ro   giữa các tỉnh trong nghiên cứu với mức ý nghĩa 10%. 5.2 Kết quả đo lường nhận thức Bảng 5.8 Điểm trung bình nhận thức về rủi ro khi sử  dụng thuốc BVTV Tỉnh Giá   trị   trung  bình Trung bình chung 8,94 An Giang 8,62 Kiên Giang 9,23 Vĩnh Long 9,07
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1