intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thể chế phi chính thức và sự phát triển của tín dụng công nghệ tài chính

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

8
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế "Thể chế phi chính thức và sự phát triển của tín dụng công nghệ tài chính" được nghiên cứu với mục tiêu: Tập trung phân tích tác động của các đặc điểm thể chế phi chính thức, đại diện bởi các khía cạnh văn hóa quốc gia, đến sự phát triển tín dụng công nghệ tài chính, đồng thời đánh giá ảnh hưởng của việc ban hành các quy định pháp lý điều tiết cụ thể đến mối quan hệ này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thể chế phi chính thức và sự phát triển của tín dụng công nghệ tài chính

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ DIỄM KIỀU THỂ CHẾ PHI CHÍNH THỨC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TÍN DỤNG CÔNG NGHỆ TÀI CHÍNH Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng Mã số: 9340201 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh - Năm 2023
  2. Công trình được hoàn thành tại: Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo TS. Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh Phản biện 1: ........................................................................................ .............................................................................................................. Phản biện 2:......................................................................................... .............................................................................................................. Phản biện 3:......................................................................................... .............................................................................................................. Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường họp tại .......................................................................................................... .............................................................................................................. Vào …… giờ …… ngày …… tháng …… năm …… Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: ................................................... ..............................................................................................................
  3. 1 CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU 1.1. Động cơ nghiên cứu Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, các đổi mới công nghệ đã và đang trở thành trọng tâm của các thay đổi mang tính chất cách mạng trong lĩnh vực tài chính. Dù chỉ thực sự phát triển sau khủng hoảng tài chính thế giới 2008, tuy nhiên, sự bùng nổ nhanh chóng của tín dụng công nghệ tài chính (CNTC) trong những năm gần đây đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách (Berg và cộng sự, 2022). Trong giai đoạn đầu hình thành và phát triển, việc xác định các nhân tố tác động đến tín dụng CNTC là đặc biệt cần thiết, cung cấp các thông tin tham khảo hữu ích nhằm hỗ trợ các nhà quản lý, và các nhà hoạch định chính sách trong quá trình điều hành và giám sát hoạt động tín dụng còn mới mẻ này. Tuy nhiên, với các giới hạn về dữ liệu, các nghiên cứu giải thích sự không đồng nhất trong mức độ phát triển tín dụng CNTC ở mức độ quốc gia còn hạn chế (Cornelli và cộng sự, 2021). Thể chế phi chính thức đề cập đến các quy ước, giá trị, chuẩn mực hành vi, thường là bất thành văn, được cùng chia sẻ và truyền tải lâu dài trong xã hội (North, 1990). So với thể chế chính thức, thể chế phi chính thức có xu hướng cắm rễ rất sâu, và do đó có khả năng thâm nhập, tác động đến hàng loạt các hoạt động kinh tế - xã hội (Williamson, 2000). Khả năng tác động sâu sắc của thể chế phi chính thức đến các hoạt động mang tính chất đổi mới, như tín dụng CNTC trong giai đoạn hiện tại, đã được nhấn mạnh trong một lượng đáng kể các lý thuyết nền tảng, có thể kể đến bao gồm: lý thuyết kinh tế học thể chế mới (North, 1990), lý thuyết thống nhất về chấp nhận và sử dụng công nghệ (Venkatesh và cộng sự, 2003), lý thuyết chi phí giao dịch (Chiles & McMackin, 1996; Williamson, 1975), và lý thuyết hữu
  4. 2 dụng kỳ vọng (von Neumann & Morgenstern, 1947). Tuy nhiên cho đến nay, các nghiên cứu thực nghiệm nhằm đánh giá một cách thận trọng tác động của các đặc điểm thế chế phi chính thức đến sự phát triển tín dụng CNTC còn rất hạn chế (Berg và cộng sự, 2022), đặc biệt trong bối cảnh các quy định thể chế chính thức đối với hoạt động tín dụng này đang dần được thiết lập và ban hành. Được xác nhận bởi lý thuyết kinh tế học thể chế mới, thể chế chính thức và phi chính thức không hoạt động độc lập mà đan xen chặt chẽ với nhau, cùng tương tác và ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế - xã hội (North, 1990). Trong một thập kỷ gần đây, bên cạnh các khuôn khổ thể chế chính thức vốn có trong nền kinh tế, các quy định pháp lý điều tiết trực tiếp hoạt động tín dụng CNTC đã và đang dần được thiết lập (Ziegler và cộng sự, 2021). Những thay đổi này không những tác động trực tiếp đến sự phát triển tín dụng CNTC, mà còn có khả năng ảnh hưởng mạnh mẽ đến mối quan hệ giữa các đặc điểm thể chế phi chính thức và hoạt động tín dụng đầy mới mẻ này, như được đề xuất bởi lý thuyết về sự thay đổi thể chế (North, 1990). Tuy nhiên, cho đến nay, trong hiểu biết tốt nhất của tác giả, các nghiên cứu thực nghiệm nhằm xác nhận khả năng, và chiều hướng tác động của việc ban hành các quy định điều tiết đến mối quan hệ giữa thể chế phi chính thức và sự phát triển tín dụng CNTC còn bỏ ngỏ. Những động lực này thôi thúc nghiên cứu sinh thực hiện luận án nhằm đánh giá một cách thận trọng tác động của các đặc điểm thể chế phi chính thức đến sự phát triển tín dụng CNTC, đặc biệt đào sâu phân tích trong bối cảnh có xem xét đến tác động của việc các quy định pháp lý điều tiết hoạt động tín dụng này đang dần được thiết lập và ban hành. Trên cơ sở đó đóng góp các thông tin tham khảo hữu ích đến các nhà điều hành nhằm điều tiết, và phát huy lợi thế của hoạt động tín dụng còn rất mới mẻ nhưng đầy tiềm năng này.
  5. 3 1.2. Mục tiêu nghiên cứu Luận án tập trung phân tích tác động của các đặc điểm thể chế phi chính thức, đại diện bởi các khía cạnh văn hóa quốc gia, đến sự phát triển tín dụng công nghệ tài chính, đồng thời đánh giá ảnh hưởng của việc ban hành các quy định pháp lý điều tiết cụ thể đến mối quan hệ này. Các mục tiêu nghiên cứu cụ thể được xác định bao gồm: (a) Phân tích tác động của các đặc thể chế phi chính thức, đại diện bởi các khía cạnh văn hóa quốc gia (mức độ e ngại sự không chắc chắn, khoảng cách quyền lực, chủ nghĩa cá nhân, định hướng nam tính, định hướng dài hạn, định hướng tận hưởng), đến sự phát triển tín dụng công nghệ tài chính. (b) Đánh giá tác động của việc ban hành các quy định pháp lý cụ thể điều tiết hoạt động tín dụng công nghệ tài chính đến mối quan hệ giữa các đặc điểm thể chế phi chính thức, đại diện bởi các khía cạnh văn hóa quốc gia, và sự phát triển của loại hình tín dụng này. 1.3. Phạm vi nghiên cứu Trong không khổ luận án, các đặc điểm thể chế phi chính thức được xem xét trong phạm vi giới hạn từ các khía cạnh văn hóa quốc gia theo mô hình văn hóa đa chiều được đề xuất bởi Hofstede và cộng sự (Hofstede, 1980; Hofstede và cộng sự, 2010), bao gồm: mức độ e ngại sự không chắc chắn, khoảng cách quyền lực, chủ nghĩa cá nhân, định hướng nam tính, định hướng dài hạn, và định hướng tận hưởng. Các phân tích thực nghiệm của luận án được tiến hành trên phạm vi mẫu nghiên cứu gồm 68 nền kinh tế trong giai đoạn 2013 - 2019. Trong đó, 2013 được đánh giá là năm khởi đầu cho chuỗi tăng trưởng bùng nổ của tín dụng CNTC kéo dài cho đến hiện nay (Bollaert và cộng sự, 2021). Năm kết thúc khung thời gian nghiên cứu và số lượng các nền kinh tế trong mẫu được lựa chọn dựa trên mức độ sẵn có của dữ liệu tại thời điểm luận án được thực hiện.
  6. 4 1.4. Tính mới và các đóng góp của luận án Đầu tiên, trong khi các nghiên cứu gần nhất xem xét tác động của các đặc điểm thể thế phi chính thức đến hoạt động tín dụng CNTC một cách rời rạc trong các mô hình hồi quy riêng biệt, bỏ qua tính cấu trúc đan xen chặt chẽ giữa thể chế chính thức - phi chính thức, hoặc giữa chính các khía cạnh thể chế phi chính thức với nhau. Luận án thực hiện đánh giá một cách thận trọng tác động của các đặc điểm thể chế phi chính thức đến sự phát triển của hình thức tín dụng mới mẻ này, đặt trong khuôn khổ phân tích được xây dựng cẩn trọng, bao gồm đồng thời cả các đặc điểm thể chế chính thức và phi chính thức, đảm bảo tính cấu trúc đan xen chặt chẽ cùng tạo nên một môi trường thể chế thống nhất của hai hình thức thể chế này. Kết quả cho thầy những khác biết đáng kể: trong khi các ước lượng riêng lẻ trong các nghiên cứu trước đây nhận thấy hầu hết các khía cạnh văn hóa quốc gia theo mô hình Hofstede, đại diện cho các đặc điểm thể chế phi chính thức, đều có tác động đáng kể đến sự phát triển tín dụng CNTC. Trong luận án, sau các kiểm soát chặt chẽ, kết quả nghiên cứu xác định ba khía cạnh trọng tâm thể hiện tác động có ý nghĩa thống kê nhất đến sự phát triển hoạt động tín dụng CNTC tổng thể, bao gồm: mức độ e ngại sự không chắc chắn, khoảng cách quyền lực, và định hướng dài hạn trong văn hóa quốc gia. Kết quả nghiên cứu được duy trì ổn định sau hàng loạt các kiểm định tính vững như thay đổi đo lường biến, hay thay đổi phương pháp ước lượng. Thứ hai, nhờ các cơ sở dữ liệu chi tiết và có độ tin cậy cao được công bố, cho phép luận án thực hiện các phân tích chuyên sâu về tác động của các đặc điểm thế chế phi chính thức đến từng hình thức tín dụng CNTC quan trọng, bao gồm: tín dụng ngang hàng thông qua các nền tảng (P2P / marketplace lending), tín dụng do chính các nền tảng cung cấp (balance sheet lending), và tín dụng từ các công ty công nghệ lớn (bigtech credit). Trong đó, các đánh giá chuyên sâu đối với tín
  7. 5 dụng ngang hàng thông qua nền tảng, và tín dụng do chính các nền tảng cung cấp lần đầu tiên được thực hiện, trong hiểu biết tốt nhất của tác giả. Thứ ba, trong hiểu biết tốt nhất của tác giả, luận án lần đầu tiên xem xét tác động của việc ban hành các quy định pháp lý cụ thể điều tiết hoạt động tín dụng CNTC đến mối quan hệ giữa các đặc điểm thể chế phi chính thức và sự phát triển của loại hình tín dụng này. Đồng thời, thứ tư, bên cạnh việc ban hành các quy định điều tiết, luận án lần đầu tiên đánh giá tác động của mức độ rõ ràng trong các quy định được ban hành đến mối quan hệ giữa các đặc điểm thể chế phi chính thức và sự phát triển tín dụng CNTC. Kết quả nghiên cứu nhấn mạnh vai trò cấp thiết của việc xây dựng, ban hành và liên tục nghiên cứu cải thiện các khuôn khổ thể chế chính thức điều hành hoạt động tín dụng CNTC, vốn còn rất thưa thớt hiện nay lập (Ziegler và cộng sự, 2021). Qua đó, giảm thiểu các tác động bất lợi có thể từ môi trường thể chế phi chính thức, thúc đẩy sự phát triển và tăng cường giám sát đối với của loại hình tín dụng còn rất mới mẻ nhưng đầy tiềm năng này. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, luận án bổ sung bằng chứng thực nghiệm về khả năng tác động mạnh mẽ của thể chế phi chính thức đến các đổi mới công nghệ trong lĩnh vực tài chính. Trên cơ sở đó, cho thấy sự cần thiết của việc mở rộng các nghiên cứu liên quan đến vai trò của thể chế phi chính thức trong lĩnh vực kinh tế - tài chính, vốn còn nhiều hạn chế cho đến nay (Goodell, 2019).
  8. 6 CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN 2.1. Tín dụng công nghệ tài chính 2.1.1. Khung khái niệm và đặc điểm Là hình thức tín dụng mới, chỉ được hình thành và phát triển trong hơn một thập kỷ gần đây, hiện chưa có định nghĩa thống nhất quốc tế về tín dụng CNTC. Định nghĩa được chấp nhận rộng rãi nhất cho đến nay được đề xuất bởi BIS-FSB (2017) và Claessens và cộng sự (2018). Theo đó, tín dụng công nghệ tài chính bao gồm tất cả các hoạt động tín dụng được hỗ trợ bởi các nền tảng điện tử (trực tuyến), không do các ngân hàng thương mại vận hành. Về bản chất, hoạt động tín dụng được cung cấp bởi các công ty công nghệ lớn (bigtech credit) cũng là một thành phần được bao gồm trong tín dụng CNTC. Berg và cộng sự (2022) và Claessens và cộng sự (2018) nhấn mạnh ba đặc điểm quan trọng của tín dụng CNTC bao gồm: - Chủ thể thực hiện cho vay: ngoài hệ thống ngân hàng. - Tương tác giữa người đi vay và cho vay: thực hiện hoàn toàn trực tuyến, dựa trên các nền tảng hoặc các ứng dụng. - Sàng lọc và giám sát: các tiến bộ công nghệ được sử dụng để mở rộng tập hợp thông tin và thay đổi phương pháp đánh giá, sàng lọc người đi vay và giám sát các khoản vay. Với các đặc trưng quan trọng trong quá trình tương tác, sàng lọc và giám sát các khoản vay, tín dụng CNTC được kỳ vọng mở rộng khả năng tiếp cận tín dụng của các đối tượng kém được phục vụ bởi hệ thống ngân hàng truyền thống. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng CNTC trong giai đoạn hiện tại được đánh giá vẫn hàm chứa nhiều rủi ro, đối với cả các nhà đầu tư và những người đi vay (Berg và cộng sự, 2022).
  9. 7 2.1.2. Phân loại các hình thức tín dụng công nghệ tài chính Tượng tự BIS-FSB (2017), Claessens và cộng sự (2018) tín dụng CNTC trong luận án được sử dụng với định nghĩa rộng, bao gồm cả hai hình thức: (1) tín dụng được giao dịch, cung cấp thông qua các nền tảng CNTC (fintech platforms' credit - FPCredit) và (2) tín dụng được các công ty công nghệ lớn cung cấp đến các khách hàng hiện hữu của công ty (bigtech credit). Trong đó, FPCredit tiếp tục được phân loại thành bốn hình thức chính: - Cho vay ngang hàng / cho vay thị trường (P2P lending / marketplace lending): Người đi vay và cho vay được kết nối và thực hiện giao dịch thông qua các nền tảng. - Cho vay dựa trên bảng cân đối kế toán (balance sheet lending): hoạt động tín dụng được cung cấp trực tiếp bởi chính các nền tảng đến những người đi vay. - Giao dịch hóa đơn (invoice trading): các doanh nghiệp thực hiện bán các hóa đơn/ khoản phải thu với một mức chiết khấu nhất định thông qua các nền tảng. - Chứng khoán nợ (debt-based securities): các doanh nghiệp bán các chứng khoán nợ với lãi suất cố định thông qua các nền tảng. 2.2. Thể chế phi chính thức 2.2.1. Khung khái niệm và đặc điểm Thể chế phi chính thức là các quy ước, giá trị, chuẩn mực hành vi, thường là bất thành văn, được cùng chia sẻ và truyền tải lâu dài giữa các thành viên trong xã hội (Helmke & Levitsky, 2004; North, 1990). Pejovich (1999, p. 166) cụ thể: “Các quy tắc không chính thức là các truyền thống, phong tục, giá trị đạo đức, niềm tin và tất cả các chuẩn mực hành vi khác đã vượt qua thử thách của thời gian”. Thể chế phi chính thức “thể hiện nhận thức phổ biến của cộng đồng về thế giới”
  10. 8 (Pejovich, 1999, p. 166) và “cấu thành phần lớn của những gì được gọi là văn hóa trong một xã hội” (North, 1989, p. 239). Thể chế phi chính thức có xu hướng cắm rễ rất sâu, và chỉ có thể được điều chỉnh rất chậm, khi được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác (Williamson, 2000). Thể chế chính thức và phi chính thức không hoạt động độc lập mà đan xen chặt chẽ với nhau, cùng tương tác tạo nên môi trường thể chế tổng thể và ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế - xã hội (North, 1990; Williamson, 2000). Do đó nên được xem xét đồng thời khi phân tích các tác động đến các hoạt động kinh tế - xã hội (Helmke & Levitsky, 2004). Việc xem xét riêng lẻ tác động của từng khía cạnh thể chế, mà không đặt trong bối cảnh tổng thể, có thể gây ra sự thiên lệch đáng kể. Như được nhấn mạnh bởi North (1990, p. 53): “Sự kết hợp phức tạp giữa các quy tắc chính thức, các ràng buộc không chính thức, và các đặc điểm thực thi của chúng cùng nhau xác định các tập hợp lựa chọn và các kết quả có thể đạt được. Việc chỉ nhìn vào từng quy tắc mang đến những đánh giá không đầy đủ, và thường xuyên thiên lệch về mối quan hệ giữa các quy tắc này và các tác động có thể xảy ra”. 2.2.2. Đo lường thể chế phi chính thức Với vai trò là hệ thống các quy ước, giá trị, chuẩn mực hành vi, thường là bất thành văn, được cùng chia sẻ và truyền tải lâu dài trong xã hội, thể chế phi chính thức bao gồm rất nhiều khía cạnh, có thể kể đến bao gồm: văn hóa, phong tục, truyền thống, các giá trị đạo đức, tôn giáo… (North, 1990; Williamson, 2000). Tuy nhiên, nhằm đảm bảo tính đại diện cao và khả năng đo lường, hai đại diện đo lường phổ biến của thể chế phi chính thức được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu hiện có, đặc biệt là các nghiên cứu thực nghiệm, bao gồm: niềm tin xã hội (Cruz-García & Peiró-Palomino, 2019; Kafouros và cộng sự, 2022; Méon & Sekkat, 2015), và văn hóa quốc gia (Block và cộng
  11. 9 sự, 2018; Brinkerink & Rondi, 2020; Di Pietro & Butticè, 2020; Fuentelsaz và cộng sự, 2020; Holmes và cộng sự, 2013). Đầu tiên, mặc dù không phải là một khía cạnh thể chế, tuy nhiên niềm tin xã hội thường được sử dụng bởi các nhà nghiên cứu mong muốn tìm kiếm một đo lường tổng hợp của thể chế phi chính thức, dựa trên lập luận cho rằng niềm tin xã hội là kết quả quan trọng nhất mà thông qua đó thể chế phi chính thức tác động đến các vấn đề kinh tế - xã hội (Voigt, 2018). Tuy nhiên, một lượng lớn nghiên cứu đã tìm thấy những bằng chứng mạnh mẽ về việc các đặc điểm thể chế chính thức hiệu quả có thể đóng góp đáng kể vào việc xây dựng và tăng cường niềm tin xã hội (Farrell, 2005; Gvelesiani, 2020; Putnam và cộng sự, 1993). Do đó, việc sử dụng niềm tin xã hội đại diện cho thể chế phi chính thức có thể gây ra những lo ngại đáng kể, đặc biệt trong việc đánh giá tác động chính xác của thể chế phi chính thức đến các hoạt động kinh tế - xã hội. Những khó khăn trong việc tìm kiếm một đại diện đo lường tổng hợp đối với thể chế phi chính thức đã thúc đẩy xu hướng thứ hai của các học giả trong việc tập trung vào các đặc điểm thể chế phi chính thức cụ thể. Trong đó, các khía cạnh văn hóa quốc gia là đại diện được lựa chọn sử dụng phổ biến nhất cho đến nay (Brinkerink & Rondi, 2020; Sahasranamam và cộng sự, 2021). Văn hoá, một cách tổng quát, được xem là tập hợp các giá trị, niềm tin và chuẩn mực cùng được chia sẻ để phân biệt các thành viên của một cộng đồng / một nhóm người với những cộng đồng khác (Hofstede, 1980). Từ khía cạnh cùng đại diện cho các giá trị được chia sẻ, các chuẩn mực và quy ước bền vững lâu dài, có thể nhận thấy sự tương đồng sâu sắc giữa thể chế phi chính thức và văn hóa (Alesina & Giuliano, 2015; Andriani & Luca Bruno, 2022). Như được xác nhận bởi North (1989, p. 239): “Chúng (các ràng buộc phi chính thức) cấu thành phần lớn của những gì được gọi là văn hóa trong một xã hội”. Do đó, nhằm đánh giá thận trọng tác động của
  12. 10 thể chế phi chính thức đến sự phát triển tín dụng CNTC, luận án sử dụng các khía cạnh văn hóa quốc gia làm đại diện chính cho các đặc điểm thể chế phi chính thức trong xuyên suốt các phân tích tiếp theo. Mặc dù là một khái niệm khó định lượng, các nhà nghiên cứu đã nỗ lực thực hiện các đo lường và đánh giá thích hợp liên quan đến các khía cạnh khác nhau trong văn hóa quốc gia. Hai mô hình nổi bật về các khía cạnh văn hóa có thể kể đến bao gồm: Hofstede (Hofstede, 1980; Hofstede và cộng sự, 2010) và GLOBE (House và cộng sự, 2004). Trong đó, công trình nghiên cứu của Hofstede (1980) đã thành công đưa phân tích đa văn hóa trở thành một trong những trọng điểm được chú trọng trong nghiên cứu kinh doanh quốc tế và trong nhiều lĩnh vực liên quan (Tung & Verbeke, 2010). Đồng thời, mô hình Hofstede về văn hóa quốc gia trở thành khuôn khổ phân tích được công nhận và sử dụng rộng rãi nhất trong các nghiên cứu hiện nay liên quan đến văn hóa quốc gia hay thể chế phi chính thức (Beugelsdijk và cộng sự, 2017; Shi & Wang, 2011; Taras và cộng sự, 2012) Tương tự Block và cộng sự (2018), Brinkerink và Rondi (2020), Di Pietro và Butticè (2020), Gimenez-Jimenez và cộng sự (2020), Holmes và cộng sự (2013), Kaufmann và cộng sự (2018); Sacristán- Navarro và cộng sự (2021)… luận án sử dụng sáu khía cạnh văn hóa quốc gia theo Mô hình Hofstede được đề xuất bởi Hofstede (1980) và Hofstede và cộng sự (2010) làm đại diện chính cho các đặc điểm thể chế phi chính thức, và thực hiện các bước nghiên cứu tiếp theo dựa trên các khía cạnh văn hóa này. Các chiều văn hóa trong khuôn khổ phân tích của Hofstede bao gồm: - Mức độ e ngại sự không chắc chắn (uncertainty avoidance), - Khoảng cách quyền lực (power distance), - Chủ nghĩa cá nhân so với chủ nghĩa tập thể (individualism versus collectivism),
  13. 11 - Định hướng nam tính so với định hướng nữ tính (masculinity versus femininity), - Định hướng dài hạn so với định hướng chuẩn mực ngắn hạn (long-term orientation versus short-term normative orientation), - Tận hưởng so với kiềm chế (indulgence versus restraint). 2.3. Cơ sở lý thuyết về khả năng tác động của thể chế phi chính thức đến sự phát triển tín dụng công nghệ tài chính Với vị trí là hình thức tín dụng mới, chỉ được hình thành trong hơn một thập kỷ gần đây, và chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ một thập kỷ gần đây, các nghiên cứu lý thuyết trực tiếp đối với tín dụng CNTC còn hạn chế, đặc biệt từ khía cạnh xã hội - thể chế (Berg và cộng sự, 2022). Tuy nhiên, về bản chất, tín dụng CNTC là hoạt động tài chính dựa trên nền tảng các đổi mới công nghệ. Do đó, cơ sở lý thuyết về khả năng tác động của thể chế phi chính thức đến sự phát triển hoạt động tín dụng này có thể được thể hiện thông qua các tác động trung gian đối với các đổi mới công nghệ, và đối với các hoạt động kinh tế - tài chính liên quan. Theo đó, các lý thuyết nền tảng chính luận giải cho khả năng tác động của thể chế phi chính thức đến sự phát triển tín dụng CNTC có thể kể đến bao gồm: lý thuyết kinh tế học thể chế mới (North, 1990), lý thuyết thống nhất về chấp nhận và sử dụng công nghệ (Venkatesh và cộng sự, 2003), lý thuyết chi phí giao dịch (Chiles & McMackin, 1996; Williamson, 1975), và lý thuyết hữu dụng kỳ vọng (von Neumann & Morgenstern, 1947). 2.3.1. Lý thuyết kinh tế học thể chế mới Lý thuyết kinh tế học thể chế mới (North, 1990) đặt thể chế phi chính thức ở cấp độ cao nhất trong bốn cấp độ phân tích của mình, bao gồm: (1) thể chế phi chính thức ở cấp độ cao nhất, (2) môi trường thể chế chính thức, (3) cấp độ quản trị, quan tâm đến việc sắp xếp các cấu
  14. 12 trúc quản trị của giao dịch, và (4) phân bổ nguồn lực và việc làm. Các cấp độ cao hơn có khả năng tác động trực tiếp đến các cấp độ thấp hơn, trong khi các cấp độ thấp hơn kết nối với các cấp cao hơn thông qua các tín hiệu phản hồi (Williamson, 2000, p. 596). Theo đó, thể chế phi chính thức có khả năng tác động sâu rộng đến mọi hoạt động kinh tế - xã hội (North, 1990), bao gồm hoạt động tín dụng CNTC trong trường hợp của luận án. Một cách tổng quát, cơ chế tác động của thể chế phi chính thức đến các hoạt động kinh tế - xã hội được thực hiện thông qua cách tâm trí tiếp nhân, xử lý thông tin, và phản ứng lại bằng các lựa chọn hành vi (North, 1990, p. 42). Mỗi cá nhân đều mang trong mình những khuôn mẫu suy nghĩ, cảm giác và hành động tiềm năng được hình thành trong suốt cuộc đời của họ. Phần lớn trong số đó đã được hình thành một cách tự nhiên từ thời thơ ấu thông qua bắt chước, giáo dục từ gia đình và cộng đồng (Hofstede và cộng sự, 2010). Thể chế phi chính thức, với vai trò là các truyền thống, giá trị, chuẩn mực hành vi được chia sẻ lâu dài trong xã hội, theo đó trở thành một trong những bộ lọc quan trọng trong tâm trí, góp phần quyết định cách các cá nhân tiếp nhận, xử lý thông tin và định hình mọi hành vi trong cuộc sống (Lauth, 2000), bao gồm các hoạt động liên quan đến tín dụng CNTC. 2.3.2. Lý thuyết thống nhất về chấp nhận và sử dụng công nghệ Các ứng dụng đổi mới khoa học công nghệ trong tài chính là một trong những cốt lõi tạo ra sự phát triển mạnh mẽ và các đặc trưng cơ bản của tín dụng CNTC. Do đó, để tín dụng CNTC phát triển, trước hết đòi hỏi sự sẵn sàng của các nhà cho vay và đi vay trong việc sử dụng các dữ liệu phi truyền thống, các mô hình, và công nghệ mới. Lý thuyết thống nhất về chấp nhận và sử dụng công nghệ (Unified theory of acceptance and use of technology - UTAUT) để xuất bởi Venkatesh và cộng sự (2003) xác định bốn nhân tố chính xác
  15. 13 động đến ý định hành vi và hành vi sử dụng công nghệ mới của người tham gia, bao gồm: (1) hiệu quả kỳ vọng, (2) nỗ lực kỳ vọng, (3) ảnh hưởng xã hội, và (4) các điều kiện thuận lợi. Trong đó, ảnh hưởng xã hội đại diện cho các yếu tố mang tính chất xã hội tác động trực tiếp đến ý định sử dụng công nghệ. Các yếu tố xã hội này có thể kể đến bao gồm: các chuẩn mực, niềm tin, hay văn hóa (Thompson và cộng sự, 1991; Venkatesh và cộng sự, 2003) - những đại diện tiêu biểu của thế chế phi chính thức (North, 1990). Hay nói cách khác, thông qua tác động đến ý định hành vi, thể chế phi chính thức tác động đến hành vi chấp nhận và sử dụng công nghệ của những người tham gia (Hinings và cộng sự, 2018), qua đó tác động đến sự phát triển của các sản phẩm và dịch vụ liên quan, như tín dụng CNTC trong trường hợp luận án. 2.3.3. Lý thuyết chi phí giao dịch Tương tự các giao dịch khác trong nền kinh tế, hoạt động tín dụng CNTC chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các chi phí giao dịch (Bollaert và cộng sự, 2021). Lý thuyết chi phí giao dịch (Chiles & McMackin, 1996; Williamson, 1975) xác định ba nhóm nhân tố chính tác động đến chi phí giao dịch, bao gồm: (1) Nhóm các thuộc tính của giao dịch (đặc điểm tài sản, sự không chắc chắn, tần suất giao dịch), (2) nhóm nhân con người (tính hợp lý có giới hạn, chủ nghĩa cơ hội), và (3) nhóm tác nhân xã hội (niềm tin). Trong đó, ảnh hưởng của thể chế phi chính thức đến chi phí giao dịch dễ dàng được nhận thấy thông qua tác động trung gian đến hành vi hợp lý có giới hạn, chủ nghĩa cơ hội và niềm tin của các chủ thể tham gia (Hofstede, 1980; North, 1990). Với vai trò là các chuẩn mực hành vi được chia sẻ lâu dài trong xã hội, thể chế phi chính thức thông qua bắt chước và giáo dục, sớm đã trở thành một trong những bộ lọc quan trọng trong tâm trí, góp phần quyết định cách các cá nhân tiếp nhận, xử lý thông tin (Lauth, 2000). Theo đó, thể chế phi chính thức
  16. 14 ảnh hưởng trực tiếp đến tính hợp lý có giới hạn và xu hướng thực hiện các hành vi cơ hội của các chủ thể (North, 1990). Đồng thời góp phần quan trọng ảnh hướng đến mức độ niềm tin xã hội được xây dựng giữa các thành viên trong cộng đồng (Van-Lange, 2015). Thông qua các tác động đối với hành vi hợp lý có giới hạn, chủ nghĩa cơ hội và niềm tin, thể chế phi chính thức tiếp tục thể hiện vai trò đáng kể đối với mọi giao dịch trong nền kinh tế, đặc biệt với các giao dịch có mức độ bất cân xứng thông tin cao hơn (Fukuyama, 1996; North, 1990), như tín dụng CNTC trong giai đoạn hiện tại. 2.3.4. Lý thuyết hữu dụng kỳ vọng Dù đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ và được kỳ vọng cao, tuy nhiên, hoạt động tín dụng công nghệ tài chính trong giai đoạn hiện tại được đánh giá có khả năng hàm chứa nhiều rủi ro hơn so với các hoạt động tín dụng ngân hàng, đối với cả người đi vay và cho vay (Wang và cộng sự, 2021). Do đó, thái độ đối với rủi ro của những người tham gia có khả năng ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của loại hình tín dụng mới mẻ này (Kowalewski và cộng sự, 2021). Lý thuyết hữu dụng kỳ vọng (von Neumann & Morgenstern, 1947) là một trong những lý thuyết kinh điển nhằm nỗ lực mô tả cách con người hợp lý ra quyết định khi đối mặt với rủi ro, dựa trên mức độ hữu dụng kỳ vọng và thái độ đối với rủi ro từng chủ thể. Trong đó, thái độ đối với rủi ro bao gồm ba xu hướng chính: (1) e ngại rủi ro, (2) trung lập đối với rủi ro, và (3) ưa thích rủi ro. Mức độ ưa thích đối với rủi ro càng cao, các chủ thể càng dễ dàng tham gia vào các hoạt động có mức độ rủi ro cao hơn (Chiles & McMackin, 1996) như tín dụng CNTC trong trường hợp của luận án. Đến lượt mình, thái độ đối với rủi ro của các chủ thể lại chịu tác động mạnh mẽ của các yếu tố xã hội, bao gồm các đặc điểm thể chế phi chính thức (Douglas & Wildavsky, 1983; Sitkin & Pablo, 1992).
  17. 15 2.4. Cơ sở lý thuyết về tác động của việc ban hành các quy định điều tiết đến mối quan hệ giữa thể chế phi chính thức và tín dụng CNTC Thể chế chính thức và phi chính thức không hoạt động độc lập mà đan xen chặt chẽ với nhau, cùng tương tác và ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế - xã hội. Các tương tác phức tạp giữa các quy tắc chính thức, các ràng buộc không chính thức, và các đặc điểm thực thi của chúng cùng nhau xác định các tập hợp lựa chọn và các kết quả có thể đạt được (Helmke & Levitsky, 2004; North, 1990). Lý thuyết về sự thay đổi thể chế (North, 1990) xác nhận sự xuất hiện của các quy định chính thức giúp thu hẹp các cấu trúc tương tác mà những người tham gia có thể lựa chọn, giảm thiểu sự không chắc chắn chung cho toàn bộ quá trình giao dịch. Do đó, khi các quy định điều tiết chính thức mới ban hành, nếu được thực thi hiệu quả, vừa có khả năng bổ sung các tác động tích cực, vừa có khả năng điều chỉnh (hay làm suy yếu) các tác động không mong muốn từ thể chế phi chính thức đến sự phát triển tín dụng CNTC. Như được xác nhận bởi North (1990, pp. 46-47): “Các quy tắc chính thức có thể bổ sung và gia tăng hiệu quả của các ràng buộc không chính thức. […]. Các quy tắc chính thức cũng có thể được thiết lập nhằm điều chỉnh hoặc sửa đổi các tác động của các ràng buộc không chính thức”. Dựa trên lý thuyết về sự thay đổi thể chế, khả năng bổ sung của các quy định chính thức đối với tác động của thể chế phi chính thức có thể được kỳ vọng khi có sự tương thích trong hướng tác động của hai hình thức thể chế này, đối với hoạt động kinh tế - xã hội mục tiêu (tín dụng CNTC trong trường hợp luận án). Ngược lại, hướng tác động điều chỉnh được tìm thấy khi thể chế chính thức (được thực thi hiệu quả) và thể chế phi chính thức có hướng tác động kỳ vọng đối lập (Lauth, 2000; McAdams, 1997; North, 1990; Pejovich, 1999).
  18. 16 CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Phương pháp nghiên cứu Quan tâm đến việc nắm bắt tác động của sự khác biệt thể chế phi chính thức đến sự phát triển tín dụng công nghệ tài chính giữa các quốc gia, khuôn khổ thực nghiệm của luận án được xây dựng trên mô hình hồi quy với dữ liệu bảng trên nhiều quốc gia theo thời gian. Hai mô hình thực nghiệm nhằm kiểm định các nhóm giả thuyết nghiên cứu liên quan đến từng mục tiêu nghiên cứu cụ thể bao gồm: 𝐹𝑇𝐶!,# = 𝛽$ + 𝛽!!%&# 𝑖𝑖𝑛𝑠𝑡! + 𝛽'() 𝑅𝑒𝑔𝑇𝑒𝑐ℎ!,#*+ + 𝛽,!%&# 𝐹𝑜𝑟𝐼𝑛𝑠𝑡!,# + 𝛽- 𝑐𝑜𝑛𝑡𝑟!,# + 𝜇! + 𝜀!,# (1) 𝐹𝑇𝐶!,# = 𝛽$ + 𝛽!!%&# 𝑖𝑖𝑛𝑠𝑡! + 𝛽'() 𝑅𝑒𝑔𝑇𝑒𝑐ℎ!,#*+ + 𝛽!!%'() 𝑖𝑖𝑛𝑠𝑡! 𝑅𝑒𝑔𝑇𝑒𝑐ℎ!,#*+ + 𝛽,!%&# 𝐹𝑜𝑟𝐼𝑛𝑠𝑡!,# + 𝛽- 𝑐𝑜𝑛𝑡𝑟!,# + 𝜇! + 𝜀!,# (2) Trong đó, - 𝐹𝑇𝐶!,# đo lường mức độ phát triển tín dụng CNTC tại nền kinh tế i trong năm t: logarit tổng tín dụng CNTC trên GDP; - 𝑖𝑖𝑛𝑠𝑡! là tập hợp biến đại diện cho các đặc điểm thể chế phi chính thức tại nền kinh tế i: sáu khía cạnh văn hóa quốc gia theo mô hình Hofstede (mức độ e ngại sự không chắc chắn, khoảng cách quyền lực, chủ nghĩa cá nhân, định hướng nam tính, định hướng dài hạn, và định hướng tận hưởng); - 𝑅𝑒𝑔𝑇𝑒𝑐ℎ!,#$% : biến giả đại diện cho việc quốc gia i đã ban hành các quy định cụ thể điều tiết hoạt động tín dụng CNTC trong năm t-1. Biến 𝑅𝑒𝑔𝑇𝑒𝑐ℎ!,#$% được sử dụng với độ trễ một kỳ liền trước nhằm nắm bắt các tác động có độ trễ của các quy định điều tiết mới được ban hành (Kshetri, 2018, 2023).
  19. 17 - 𝐹𝑜𝑟𝐼𝑛𝑠𝑡!,# đo lường chất lượng thể chế chính thức tại quốc gia i trong năm t: trung bình các khía cạnh thuộc Chỉ số Quản trị toàn cầu (Worldwide Governance Indicators) của World Bank; - 𝑐𝑜𝑛𝑡𝑟!,# là tập hợp các biến kiểm soát khác ở mức độ quốc gia được xác định có tác động đáng kể đến mức độ phát triển tín dụng CNTC trong các nghiên cứu trước đây (Buchak và cộng sự, 2018; Claessens và cộng sự, 2018; Cornelli và cộng sự, 2021; Jagtiani & Lemieux, 2019), bao gồm: phát triển công nghệ (tỷ lệ dân số sử dụng internet), phát triển kinh tế (logarit GDP thực bình quân đầu người), mật độ chi nhánh ngân hàng (số lượng chi nhánh ngân hàng /100.000 dân), độ phủ tín dụng ngân hàng (tín dụng ngân hàng dành cho khu vực tư nhân trên GDP), mức độ cạnh tranh của khu vực ngân hàng (tỷ lệ tập trung tài sản của ba ngân hàng lớn nhất) - 𝜇! thể hiện các tác động quốc gia riêng biệt không quan sát được; 𝜀!,# là phần dư. Ngoài ra, các biến giả theo năm cũng được bao gồm để nắm bắt các tác động thời gian cố định không quan sát được. Tại phương trình (1), tác động của các đặc điểm thể chế phi chính thức đến sự phát triển tín dụng CNTC được đánh giá một cách độc lập trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, nhằm kiểm định các giả thuyết nghiên cứu liên mục tiêu nghiên cứu đầu tiên. Trong phương trình (2), ảnh hưởng của việc ban hành các quy định điều tiết đến mối quan hệ giữa các đặc điểm thể chế phi chính thức và sự phát triển tín dụng CNTC (mục tiêu nghiên cứu cụ thể thứ hai) được kiểm định thông qua các thành phần tương tác 𝑖𝑖𝑛𝑠𝑡! 𝑅𝑒𝑔𝑇𝑒𝑐ℎ!,#$% . Hệ số ước lượng của các thành phần tương tác này (𝛽!!&'() ) thể hiện khả năng và chiều hướng tác động của việc ban hành các quy định điều tiết cụ thể đến mối quan hệ giữa các đặc điểm thể chế phi chính thức và sự phát triển của hình thức tín dụng đầy mới mẻ này.
  20. 18 Phương pháp ước lượng: Với mục tiêu đánh giá sự khác biệt thể chế phi chính thức giữa các nền kinh tế tác động như thế nào đến sự phát triển tín dụng CNTC, cùng đặc thù các biến đại diện cho các đặc điểm thể chế phi chính thức không thay đổi trong suốt khung thời gian nghiên cứu đối với mỗi nền kinh tế, hai phương pháp ước lượng chính được lựa chọn bao gồm: (1) ước lượng bình phương nhỏ nhất có trọng số tác động giữa các quốc gia (WLS BE), và (2) ước lượng bình phương nhỏ nhất tổng quát tác động ngẫu nhiên (GLS RE). Việc lựa chọn các phương pháp ước lượng WLS và GLS thay thế cho ước lượng OLS thông thường nhằm khắc phục hiện tượng phương sai không đồng nhất (xác định từ kiểm định Breusch-Pagan) và tự tương quan (xác định từ kiểm định Wooldridge) xảy ra trong mô hình. Kiểm định tính vững: Để đảm bảo tính vững của kết quả ước lượng, hai kiểm định tính vững quan trọng được thực hiện, bao gồm: - Thay đổi đo lường đối với các biến chính: Biến Đo lường chính Đo lường thay thế Sự phát triển tín Logarit tổng tín dụng Logarit tổng tín dụng CNTC dụng CNTC CNTC trên GDP bình quân đầu người Các đặc điểm Các chỉ số văn hóa Các chỉ số văn hóa theo mô thể chế phi quốc gia theo mô hình hình Hofstede được điều chỉnh chính thức Hofstede bởi Tang và Koveos (2008). - Kiểm soát các vấn đề nội sinh có thể xảy ra với phương pháp ước lượng GMM hệ thống hai giai đoạn, có hiệu chỉnh sai số chuẩn. Phân tích mở rộng: Hai phân tích mở rộng được thực hiện tương ứng với hai mục tiêu nghiên cứu cụ thể bao gồm: - Phân tích tác động của các đặc điểm thể chế phi chính thức đến sự phát triển của các hình thức tín dụng CNTC chủ đạo, bao gồm: tín dụng từ các nền tảng CNTC (với hai thành phần chính: tín dụng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2