Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Xác định quy mô đất tối ưu trong sản xuất nông nghiệp của người dân đồng bằng sông Cửu Long
lượt xem 2
download
Luận án phân tích ảnh hưởng của quy mô đến hiệu quả hoạt động sản xuất lúa của nông hộ đồng bằng sông Cửu Long; đề xuất giải pháp giúp sử dụng quy mô đất hợp lý góp phần gia tăng hiệu quả hoạt động sản xuất lúa cho nông hộ đồng bằng sông Cửu Long.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Xác định quy mô đất tối ưu trong sản xuất nông nghiệp của người dân đồng bằng sông Cửu Long
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ ---o0o--- NGUYỄN LAN DUYÊN XÁC ĐỊNH QUY MÔ ĐẤT TỐI ƯU TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA NGƯỜI DÂN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH KINH TẾ NÔNG NGHIỆP MÃ NGÀNH: 9 62 01 15 Cần Thơ, 07/2020
- Công trình hoàn thành tại Trường Đại học Cần Thơ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Tri Khiêm Phản biện 1: ...................................................................................................... Phản biện 2: ...................................................................................................... Phản biện 3: ...................................................................................................... Luận án sẽ được bảo vệ trước hội đồng bảo vệ luận án cấp Trường tại: .......................................................................................................................... Vào lúc:…….. giờ……… ngày……. tháng……..năm………. Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: - Trung tâm học liệu – Trường Đại học Cần Thơ - Thư viện Quốc Gia Việt Nam i
- DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ 1. Nguyễn Lan Duyên và Nguyễn Tri Khiêm (2018). Ảnh hưởng của quy mô đến hiệu quả kinh tế của hộ trồng lúa đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, 2(477), trang 58 – 67. 2. Nguyễn Lan Duyên và Nguyễn Tri Khiêm (2018). Mối quan hệ giữa quy mô và năng suất đất của nông hộ trồng lúa đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 61(4), trang 57 – 66. 3. Nguyễn Lan Duyên và Nguyễn Tri Khiêm (2019). Ảnh hưởng của quy mô đất và quy mô lao động đến năng suất lao động của nông hộ trồng lúa đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 14(1), trang 68 – 78. 4. Nguyễn Lan Duyên và Nguyễn Tri Khiêm (2019). Ảnh hưởng của quy mô đất đến năng suất nhân tố tổng hợp của nông hộ trồng lúa đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 265, trang 82 – 92. 5. Nguyễn Lan Duyên và Nguyễn Tri Khiêm (2019). Ảnh hưởng của quy mô đến tỷ suất lợi nhuận của hộ trồng lúa vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, Tập 55, Số chuyên đề: Kinh tế (2019), trang 42 – 50. ii
- CHƯƠNG 1. MỞ ĐẦU Chương này giới thiệu khái quát về lý do nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận án. 1.1 Lý do nghiên cứu Diện tích đất nông nghiệp của Châu Á chiếm 20% tổng diện tích đất nông nghiệp của thế giới nhưng diện tích nông hộ sở hữu rất nhỏ (từ 1 – 2 ha/hộ) so với mức trung bình của thế giới (3,7 ha/hộ) và xu hướng sở hữu quy mô đất nhỏ ngày càng gia tăng (Pookpakdi, 1992). Diện tích đất nông nghiệp của Việt Nam là 0,12 ha/người, chỉ bằng một phần sáu mức trung bình của thế giới, tương đương Bỉ và Hà Lan, cao hơn Philippines và Ấn Độ, nhưng thấp hơn Trung Quốc và Indonesia (OECD, 2015). Do quá trình công nghiệp hóa làm chuyển đổi các nguồn tài nguyên nông nghiệp (đất đai và lao động) sang ngành công nghiệp đã để lại nguồn tài nguyên này ít hơn cho sản xuất nông nghiệp (Dinh Bao, 2014). Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, công nghiệp hay dịch vụ thì nhà sản xuất đều quan tâm đến rất nhiều yếu tố, từ khâu đầu vào cho đến đầu ra. Một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công trong sản xuất đó chính là hiệu quả hoạt động sản xuất (HQHĐSX), do đó họ luôn tìm mọi giải pháp để sử dụng tối ưu các nguồn lực nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất. Đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đất là yếu tố khan hiếm (Hoque, 1988), là yếu tố sản xuất quan trọng (Adamopoulos và Restuccia, 2014) và là một tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế (Phạm Vân Đình và Đỗ Kim Chung, 2004) do đó nhà sản xuất cần xác định ngưỡng quy mô đất tối ưu để đầu tư nhằm tối đa hóa hiệu quả hoạt động sản xuất. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn khác nhau của nền kinh tế thì quy mô đất sản xuất của nông hộ khác nhau. Những năm 1960 thì quy mô nhỏ là tốt và hiệu quả vì tận dụng nguồn lực gia đình (lao động, đất đai, công cụ sản xuất, ...) nhưng những năm 1970 – 1980 do quá trình đô thị hoá và đặc biệt là công nghiệp hoá nên thu hút nhiều lao động nông thôn làm cho hoạt động sản xuất hiệu quả hơn với quy mô lớn (Fan và Chan-Kang, 2005). Cũng theo các nhà nghiên cứu này, sang những năm 1990 bằng việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất đã gia tăng cường độ sử dụng đất, do đó làm ảnh hưởng không tốt đến tài nguyên đất và môi trường dẫn đến sản xuất không hiệu quả so với trước. Giả thuyết về mối quan hệ ngược (Inverse Relationship – IR) giữa quy mô và hiệu quả hoạt động sản xuất nông nghiệp, hàm ý những hộ sản xuất với quy mô nhỏ sẽ đạt hiệu quả cao hơn hộ có quy mô sản xuất lớn, được thảo luận ở những nước có nền nông nghiệp phát triển trong những thế kỷ gần đây, đầu tiên ở Nga (Chayanov, 1926), sau đó đến Ấn Độ, những nghiên cứu chính được thực hiện ở Châu Phi, Châu 1
- Á, Châu Âu, Mỹ Latinh và ngay cả những quốc gia có nền nông nghiệp đang phát triển đều ủng hộ mối quan hệ này. Kết quả những phát hiện về mối quan hệ ngược là một khám phá thực nghiệm được hoan nghênh đến mức những người ủng hộ nền nông nghiệp quy mô nhỏ đã đề xuất các chiến lược nông nghiệp ưu tiên phát triển sản xuất quy mô nhỏ (Nkonde và cộng sự, 2015). Tuy nhiên, cũng có không ít những nghiên cứu không đồng tình với giả thuyết trên và dựa trên bằng chứng thực nghiệm đã đưa ra nhận định ngược lại, đó là những hộ sản xuất với quy mô lớn sẽ đạt hiệu quả hơn những hộ sản xuất với quy mô nhỏ hay mối quan hệ thuận (Positive relationship – PR) giữa quy mô và hiệu quả hoạt động sản xuất. Điều này được thể hiện trong những chính sách nông nghiệp ủng hộ sản xuất với quy mô lớn (Srivastava và cộng sự, 1973; Khan, 1979; Khan và Maki, 1979; Kevane, 1996; Adesina và Djato, 1996; Tadesse và Krishnamoorthy, 1997; Dorward, 1999). Như vậy, quy mô đất có thể có tác động đến hiệu quả hoạt động sản xuất nông nghiệp theo hai chiều, thể hiện tính kinh tế theo quy mô và tính phi kinh tế theo quy mô (Hoque, 1988; Byiringiro và Reardon, 1996; Heltberg, 1998b; Dorward, 1999; Helfand và Levine, 2004; Barrett và cộng sự, 2010; Henderson, 2015; Wickramaarachchi và Weerahewa, 2018). Trên lập trường nhà sản xuất thì nông hộ không thể quyết định nên tăng hay giảm quy mô đất khi không chắc chắn quy mô canh tác hiện tại đang ở giai đoạn kinh tế hay phi kinh tế, bởi chỉ một quyết định sai lầm sẽ phải gánh chịu hậu quả nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến sinh kế gia đình. Trải qua nhiều giai đoạn khác nhau của nền kinh tế, đa số các nhà nghiên cứu đều đo lường hay định nghĩa về HQHĐSX bằng năng suất đất khi phân tích mối quan hệ giữa quy mô và HQHĐSX, và cũng có một vài nghiên cứu khác thay thế thước đo năng suất đất bằng hiệu quả kỹ thuật hoặc hiệu quả kinh tế. Ở Việt Nam nói chung và đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng, vấn đề này cũng được một số nhà kinh tế nghiên cứu nhưng chủ yếu kế thừa một trong hai cách đo lường (năng suất đất hoặc hiệu quả kỹ thuật hay hiệu quả kinh tế). Những năm gần đây, Li và cộng sự (2013), Nkonde và cộng sự (2015), Wickramaarachchi và Weerahewa (2018) kết hợp cách đo lường truyền thống (năng suất đất hoặc hiệu quả kỹ thuật) với những cách đo lường tổng hợp (năng suất lao động, hiệu quả đồng vốn và năng suất nhân tố tổng hợp) để đánh giá một cách toàn diện hiệu quả hoạt động sản xuất của nông hộ. Những nhà hoạch định chính sách nông nghiệp phải đối mặt với những quyết định khó khăn trong việc lựa chọn cơ cấu nông nghiệp phải đảm bảo đạt được 2 mục tiêu là tăng trưởng và công bằng (Khan và Maki, 1979) đồng thời góp phần tạo động lực tăng trưởng nông thôn và xóa đói giảm nghèo (Lipton, 1993). Trên cơ sở đó, Chính phủ Việt Nam đã ban hành luật đất đai mới vào năm 2013, nâng diện tích đất sản xuất nông nghiệp lên 03 ha/hộ khu vực đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất không quá 30 ha/hộ với hy vọng gia tăng 2
- HQHĐSX góp phần cải thiện thu nhập nông hộ. Nhưng thực tế có tác động hai chiều, có nghĩa là ở quy mô nhất định nào đó khi gia tăng quy mô sẽ tăng hiệu quả hoặc có khi giảm hiệu quả hoạt động sản xuất và ngược lại. Trên cơ sở đó, luận án “Xác định quy mô đất tối ưu trong sản xuất nông nghiệp của người dân đồng bằng sông Cửu Long” đi sâu phân tích ảnh hưởng của quy mô đất đến hiệu quả hoạt động sản xuất thông qua các thước đo khác nhau (thước đo về đất, lao động, vốn, hiệu quả kinh tế, kỹ thuật quản lý và cải tiến công nghệ) để xác định ngưỡng quy mô đất tối ưu nhằm tối đa hóa hiệu quả hoạt động sản xuất. Đồng thời, kết quả này làm cơ sở khoa học vững chắc giúp Nhà nước khẳng định hay nhận định tính hợp lý của chính sách giao đất trong Luật đất đai 2013 và góp phần hữu ích vào việc điều chỉnh chính sách đất đai hợp lý hơn trong tương lai, nhất là giúp nông hộ sử dụng hợp lý quy mô đất nhằm gia tăng hiệu quả hoạt động sản xuất, cải thiện sinh kế và góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu Để đạt được mục tiêu chung của nghiên cứu là xác định quy mô đất tối ưu trong sản xuất lúa của nông hộ ĐBSCL, với các mục tiêu cụ thể sau: (1) Phân tích thực trạng sản xuất và sử dụng đất trong sản xuất lúa của nông hộ đồng bằng sông Cửu Long. (2) Phân tích ảnh hưởng của quy mô đến hiệu quả hoạt động sản xuất lúa của nông hộ đồng bằng sông Cửu Long. (3) Xác định quy mô đất tối ưu trong sản xuất lúa của nông hộ đồng bằng sông Cửu Long. (4) Đề xuất giải pháp giúp sử dụng quy mô đất hợp lý góp phần gia tăng hiệu quả hoạt động sản xuất lúa cho nông hộ đồng bằng sông Cửu Long. 1.3 Phạm vi nghiên cứu 1.3.1 Đối tượng Đối tượng nghiên cứu chính là xác định quy mô đất tối ưu trong sản xuất lúa của nông hộ ĐBSCL. Chủ thể nghiên cứu là những nông hộ trồng lúa và những nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách, chính quyền địa phương, cán bộ địa phương, ... có liên quan đến quy mô đất trong sản xuất lúa ở ĐBSCL. 1.3.2 Nội dung Luận án tập trung phân tích hoạt động trồng trọt với cây trồng chủ lực là cây lúa bởi lúa là sản phẩm chủ lực của nông hộ ĐBSCL và chỉ phân tích mô hình canh tác thuần lúa (tức canh tác 3 vụ lúa/năm). Luận án tập trung phân tích ảnh hưởng của quy mô đất đến hiệu quả hoạt động sản xuất lúa thông qua các đo lường khác nhau để tìm ra quy mô đất tối ưu. 1.3.3 Không gian 3
- Luận án muốn tìm hiểu về những khác biệt trong sản xuất lúa giữa các tỉnh thuộc một vùng sinh thái cụ thể để làm cơ sở hình thành các nghiên cứu tiếp theo cho 2 vùng còn lại cũng như nghiên cứu đan xen giữa các tỉnh của mỗi vùng. Do đó, luận án tập trung ở 3 Tỉnh (An Giang, Đồng Tháp và Cần Thơ) bởi theo ý kiến của một số chuyên gia thì việc phân vùng sinh thái trong sản xuất lúa ở ĐBSCL được phân chia theo vùng ngập lũ hàng năm (An Giang và Đồng Tháp) và vùng phù sa nước ngọt (Cần Thơ). Bên cạnh đó, 3 Tỉnh này có những đặc trưng tương đồng về sinh thái, quy mô, tập quán canh tác lúa, là những tỉnh thuộc vùng sản xuất lúa trọng điểm và có sản lượng sản xuất lúa cao nên việc chọn các địa bàn này làm điểm khảo sát thì nghiên cứu sẽ mang tính đại diện cao cho vùng phù sa, nước ngọt. 1.3.4 Thời gian Dữ liệu thu thập từ 498 nông hộ trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long trong ba vụ thu đông 2016, đông xuân 2017 và vụ hè thu 2017. Thời gian thu thập dữ liệu sơ cấp từ tháng 09/2017 – 12/2017. Thời gian phân tích dữ liệu thứ cấp từ năm 2010 – 2017. Thời gian phân tích dữ liệu và thực hiện luận án từ tháng 01/2018 đến 12/2018. 4
- CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Chương này trình bày cơ sở lý luận về các thước đo HQHĐSX, cơ sở lý luận về ảnh hưởng của quy mô đất đến HQHĐSX được đo lường dựa trên các khía cạnh khác nhau, cơ sở lý luận về quy mô đất tối ưu; đề xuất khung nghiên cứu, mô hình nghiên cứu và phương pháp phân tích. 2.1 Cơ sở lý luận 2.1.1 Cơ sở lý luận về các thước đo hiệu quả hoạt động sản xuất HQHĐSX nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói riêng được đo lường một cách toàn diện được thể hiện thông qua hai khía cạnh chính đó là: năng suất sản xuất (gồm năng suất đất, năng suất lao động, hiệu quả đồng vốn và năng suất nhân tố tổng hợp) và hiệu quả sản xuất (gồm hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả phân phối, hiệu quả quy mô và hiệu quả kinh tế). Li và cộng sự (2013) cho rằng HQHĐSX nông nghiệp là một khái niệm đa chiều trong quá trình sản xuất, ít nhất gồm: năng suất đất, năng suất lao động, hiệu quả đồng vốn, hiệu quả kỹ thuật và năng suất nhân tố tổng hợp. Theo Coelli và cộng sự (2005), năng suất là chỉ số đầu ra trên chỉ số đầu vào (như đất, lao động và vốn), theo đó hình thành năng suất đất, năng suất lao động và hiệu quả đồng vốn. Tuy nhiên, Li và cộng sự (2013) cho rằng mỗi thước đo về đất, lao động và vốn chỉ là một chỉ tiêu thể hiện một yếu tố sản xuất đơn nên nó không thể phản ánh toàn diện quá trình sản xuất nông nghiệp. Năng suất đất được nghiên cứu từ rất sớm theo hai cách đo lường bằng hiện vật và giá trị bằng tiền. Luận án sử dụng cách đo lường năng suất đất bằng tiền (Khan, 1977; Khan, 1979; Mahmood và Nadeem-ul-haque, 1981; Cornia, 1985; Newel và cộng sự, 1997; Heltberg, 1998b) được khái quát hóa qua chỉ tiêu giá trị tổng sản phẩm sản xuất ra trên quy mô (NSDAT). Chỉ tiêu này thể hiện hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của nông hộ trồng lúa và là mục tiêu quan trọng nhất đối với nhiều quốc gia đang phát triển an ninh lương thực. Tương tự, năng suất lao động có thể được đo lường bằng nhiều cách khác nhau. Từ đó, nghiên cứu sử dụng cách đo lường năng suất lao động (NSLD) bằng sản lượng sản xuất trên số lao động gia đình tham gia sản xuất của Shafi (1984), Li và cộng sự (2013), Wickramaarachchi và Weerahewa (2018). Freeman (2008) cho rằng, năng suất lao động quan trọng trong phân tích kinh tế và thống kê của một quốc gia. Theo đó, hiệu quả đồng vốn cũng được đo lường theo nhiều cách khác nhau và nghiên cứu này sử dụng cách đo lường bằng tỷ lệ phần trăm của lợi nhuận trên chi phí sản xuất (Schultz, 1964; Li và cộng sự, 2013) bởi đây là 1 chỉ tiêu đánh giá hiệu quả về lợi nhuận của chi phí đầu tư trên đất. Tiến xa hơn trong việc đo lường HQHĐSX thông qua thước đo hiệu quả sản xuất. Theo Farrell (1957), hiệu quả là khả năng sản xuất một lượng sản phẩm đầu ra 5
- cho trước ứng với chi phí đầu vào thấp nhất. Do vậy, hiệu quả kinh tế (EE) là mục tiêu cơ bản của nhà sản xuất và là thước đo mức độ thành công của nhà sản xuất trong việc lựa chọn yếu tố đầu vào và đầu ra tối ưu. Hiệu quả kinh tế là tích số giữa hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ. Như vậy, để đạt được hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp nói chung hay trong trồng lúa nói riêng nông hộ cần phải đạt được cả hiệu quả kỹ thuật lẫn hiệu quả phân bổ (Farrell, 1957; Dhungana và cộng sự, 2004). Hiện tại có hai phương pháp được sử dụng phổ biến nhất trong hầu hết các nghiên cứu đó là phương pháp ước lượng phi tham số (DEA) và phương pháp ước lượng tham số (SFA). Nghiên cứu sử dụng phương pháp ước lượng tham số thông qua mô hình phân tích biên ngẫu nhiên (SFA) để ước lượng hiệu quả kinh tế của nông hộ sản xuất lúa bởi ưu điểm của nó là có thể tách phần phi hiệu quả và phần nhiễu ra khỏi các sai số trong mô hình ước lượng nhưng phương pháp ước lượng này đòi hỏi phải xác định được hình dạng của hàm số và các sai số. Theo đó, EE được ước lượng thông qua hàm lợi nhuận biên ngẫu nhiên (Ali và Flinn, 1989; Ali và cộng sự, 1994; Rahman, 2003; Nwachukwu và Onyenweaku, 2007; Thong, 1998; Phạm Lê Thông, 2011a&b; Phạm Lê Thông và cộng sự, 2011) có dạng: 𝜋 = 𝑓 (𝑃 , 𝑍 , 𝛼 )𝑒 (2.1) Do đó, hiệu quả kinh tế của hộ sản xuất lúa trong khái niệm hàm lợi nhuận biên ngẫu nhiên được tính như sau: 𝐸𝐸 = 𝐸 𝑒 ( ) 𝜀 (2.2) Nhìn chung, EE được xem là chỉ tiêu tốt hơn so với ba chỉ tiêu trên bởi nó đo lường cả kỹ thuật sản xuất và cách lựa chọn yếu tố đầu vào. Tuy nhiên, đây vẫn chưa phải chỉ tiêu hoàn hảo để đo lường HQHĐSX do bị ràng buộc bởi giá cả thị trường. Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) được Tinberger (1942) định nghĩa và hình thành rất sớm trong nghiên cứu thực nghiệm ở Đức. Tuy nhiên, TFP được phổ biến rộng và được nhiều nhà kinh tế sử dụng từ định nghĩa của Solow (1957), theo Solow thì TFP là trình độ công nghệ hay tiến bộ công nghệ thông qua công thức: 𝑌 = 𝐴(𝑡) × 𝐹 (𝐿, 𝐾 ) (2.3) Theo Farrel (1957) nguồn gốc của tăng trưởng TFP là do sự thay đổi hiệu quả kỹ thuật và sự tiến bộ trong công nghệ (Nishimizu và Page, 1992; Coelli và cộng sự, 2005). Sigit (2004) cho rằng, TFP chính là chỉ tiêu đo lường năng suất của tất cả các yếu tố đầu vào. Đây chính là sự thay đổi về chất (như kỹ năng, phương pháp quản lý, công nghệ). TFP được hiểu như sự tăng trưởng thông qua đổi mới công nghệ, hiệu quả đạt được từ nâng cao trình độ lao động và quản lý vốn. Theo Li và cộng sự (2013) TFP là chỉ tiêu phản ảnh toàn diện hiệu quả của toàn bộ quá trình sản xuất. Do đó, Li và cộng sự (2013), Nkonde và cộng sự (2015) đã sử dụng hàm sản xuất 6
- Cobb-Douglas để tính TFP phỏng theo Fan (1991) và Zhang và Carter (1997) hình thành công thức: 𝑆𝐿𝑈𝑂𝑁𝐺 = 𝐴 𝑒 𝐾 𝐿 𝐹𝑆 exp(𝜀) (2.4) Trong đó: SLUONG là sản lượng lúa được nông hộ sản xuất ra; K, L và FS thể hiện giá trị của vốn (tất cả chi phí sản xuất trừ chi phí lao động gia đình), tổng số ngày công lao động (bao gồm lao động gia đình và thuê mướn) và đầu vào đất (quy mô đất) tương ứng; αK, αL và αFS thể hiện hệ số co giãn của vốn, lao động và đất đai tương ứng; i chỉ nông hộ thứ i và j chỉ mùa vụ canh tác thứ j; t là xu hướng thời gian và η là tỷ lệ tiến bộ kỹ thuật. Sử dụng hàm logarit để ước tính công thức (2.4) như sau: 𝑙𝑛𝑆𝐿𝑈𝑂𝑁𝐺 = (𝑙𝑛𝐴 + ηt) + 𝛼 𝑙𝑛𝐾 + 𝛼 𝑙𝑛𝐿 + 𝛼 𝑙𝑛𝐹𝑆 + 𝜀 (2.5) Hàm sản xuất này được ước tính với dữ liệu cắt ngang, biến xu hướng thời gian với t = 1 thì lnA0 + ηt trở thành hằng số. Để có được TFP, trước hết tính hiệu suất không đổi theo quy mô (𝑅𝑇𝑆 = 𝛼 + 𝛼 + 𝛼 ), tiếp theo chuẩn hóa hệ số co giãn của các yếu tố đầu vào và tìm được 𝛼′ = , 𝛼′ = , 𝛼′ = và tính TFP như sau: 𝑆𝐿𝑈𝑂𝑁𝐺 𝑇𝐹𝑃 = (2.6) 𝐾 𝐿 𝐹𝑆 Trên cơ sở lý luận về TFP nhận thấy, đây chính là chỉ tiêu có thể phản ánh toàn diện hiệu quả của toàn bộ quá trình sản xuất nông nghiệp bởi nó bao hàm cả việc sử dụng những kỹ thuật quản lý cùng với trình độ công nghệ có liên quan (Li và cộng sự, 2013) và đây cũng là chỉ tiêu không chịu sự tác động của giá cả các yếu tố đầu vào cũng như giá sản phẩm đầu ra. Do đó, luận án sử dụng chỉ tiêu TFP để xác định ngưỡng quy mô tối ưu nhằm tối đa hóa HQHĐSX, đồng thời luận án vẫn phân tích bốn chỉ tiêu kia để làm cơ sở minh chứng cho nhận định “mỗi chỉ tiêu đó chưa phải là chỉ tiêu tốt nhất đo lường HQHĐSX”. 2.1.2 Cơ sở lý luận về ảnh hưởng của quy mô đất đến HQHĐSX Wickramaarachchi và Weerahewa (2018) năng suất được định nghĩa là khả năng của một đơn vị đầu vào để tạo ra một đơn vị đầu ra nhất định. Năng suất nông nghiệp cho thấy mức độ hiệu quả của nông hộ trong việc sử dụng một đầu vào cụ thể với trình độ công nghệ nhất định. Mối quan hệ nghịch đảo giữa quy mô và HQHĐSX giữ vai trò quan trọng ở nhiều vùng trong các thời điểm khác nhau và mối quan hệ này được phát hiện đầu tiên trong sản xuất nông nghiệp ở Nga bởi Chayanov (1926), sau đó được kế thừa và phát triển rộng rãi trong những năm 1960 và 1970 (Sen, 1962; Bardhan, 1973). Sen (1962) các trang trại ở Ấn Độ có quy mô càng nhỏ sẽ có HQHĐSX càng cao do áp dụng nhiều đầu vào (đặc biệt là lao động gia đình). Berry và Cline (1979) cũng chứng minh được mối quan hệ tương tự như Sen ở các nước đang phát triển khác và 7
- Deolalikar (1981) cho rằng mối quan hệ chỉ đúng trong nền nông nghiệp truyền thống. Mối quan hệ này trở thành chủ đề tranh luận sôi nổi giữa các nhà kinh tế nông nghiệp và nhà kinh tế phát triển (Carter, 1984; Feder, 1985; Benjamin, 1995). Sự không hoàn hảo trong thị trường các yếu tố đầu vào cũng góp phần hình thành mối quan hệ nghịch đảo mạnh giữa quy mô và HQHĐSX. Đầu tiên, việc phân tích dữ liệu từ mười lăm quốc gia đang phát triển, Cornia (1985) cho thấy sản lượng trên một đơn vị đất nông nghiệp giảm một cách có hệ thống khi quy mô tăng lên bởi lao động là dồi dào hơn và rẻ hơn cho nông dân có quy mô sản xuất nhỏ. Kiến thức của chủ hộ về đất đai và điều kiện khí hậu địa phương được tích lũy qua nhiều thế hệ góp phần gia tăng lợi thế so với thuê mướn lao động (Rosenzweign và Wolpin, 1985). Lợi thế về giám sát và kiến thức của nông hộ có quy mô nhỏ sẽ bù đắp cho những khó khăn trong việc tiếp cận vốn và bảo hiệm chính thức ở thị trường nông thôn (Feder, 1985). Một mối quan hệ ngược giữa quy mô và HQHĐSX xảy ra do sự không hoàn hảo của thị trường tín dụng và lao động khi kết hợp với yếu tố chi phí cố định trong sản xuất (Eswaran và Kotwal, 1986). Đất đai và bảo hiểm không hoàn hảo thúc đẩy những hộ sản xuất nhỏ sử dụng nhiều lao động gia đình hơn nhằm giảm tác động bất lợi tiềm tàng của biến động giá cả (Barrett, 1996). Assuncao và Ghatak (2003) đã chứng minh được mối quan hệ ngược sau khi kiểm soát sự không đồng nhất các kỹ năng của nông dân. Thapa (2007) cũng phát hiện ra mối quan hệ này ở Nepal do sử dụng nhiều lao động và tiền mặt hơn so với các trang trại lớn. Ansoms và cộng sự (2008) đã tìm thấy mối quan hệ nghịch đảo mạnh giữa quy mô và HQHĐSX ở Rwanda do sự khan hiếm đất đai buộc nông hộ phải khai thác quá mức nguồn tài nguyên này trong trường hợp thu nhập chính từ sản xuất nông nghiệp. Nghiên cứu cũng cho thấy sự gia tăng tiền lương trong lĩnh vực phi nông nghiệp và sự tiến bộ công nghệ sẽ ảnh hưởng đến tỷ giá, khả năng quản lý, sự hiện diện và mức độ không hoàn hảo của thị trường. Chính những yếu tố này sẽ hình thành mối quan hệ ngược giữa quy mô và HQHĐSX (Otsuka, 2013). Và mối quan hệ ngược giữa quy mô và HQHĐSX do bỏ sót những yếu tố khác có ảnh hưởng đến HQHĐSX như kiến thức và sự hiểu biết về kỹ thuật cũng như những vấn đề môi trường kinh tế xã hội trong đó nông dân phải ra quyết định (Kalirajan, 1990) và trên nền tảng những nghiên cứu trước đó đã lựa chọn hai chỉ tiêu (đó là giáo dục và thu nhập khác ngoài nông nghiệp) trong số các chỉ tiêu môi trường kinh tế xã hội để đo lường mối quan hệ giữa quy mô với HQHĐSX (Bravo– Ureta và Pinheiro, 1997), sự khác nhau giữa các hộ (Assuncao và Ghatak, 2003), sự manh mún đất (Wu và cộng sự, 2005), sự khác biệt trong chất lượng đất (Benjamin, 1992; Lamb, 2003; Assuncao và Braido, 2007), các đặc điểm của đất và hàm lượng cát (Barrett và cộng sự, 2010) cùng với những yếu tố khác, đồng thời bỏ sót các cách định nghĩa khác nhau thể hiện HQHĐSX. Do đó, Li và cộng sự (2013), Wickramaarach và Weerahewa (2018) đã bổ sung các biến ngoại sinh để kiểm soát 8
- ảnh hưởng của những yếu tố trên đến hiệu quả hoạt động sản xuất lúa của nông hộ. Tuy nhiên, mức độ tác động của mối quan hệ ngược giữa quy mô và HQHĐSX có xu hướng suy giảm theo thời gian (Deininger và Byerlee, 2012; Deininger và cộng sự, 2015) do sự xuất hiện thị trường lao động không hoàn hảo và sự thay đổi công nghệ. Ngược lại, một vài nghiên cứu chứng minh mối quan hệ thuận giữa quy mô và HQHĐSX, ngụ ý những hộ sản xuất với quy mô lớn sẽ đạt hiệu quả cao hơn những hộ có quy mô sản xuất nhỏ. Sự xuất hiện cuộc cách mạng xanh làm gia tăng vai trò của vốn và kiến thức, điều này làm xuất hiện những nông dân sản xuất với quy mô lớn đạt HQHĐSX cao hơn ở các huyện phù hợp với công nghệ mới (Deolalikar, 1981). Những đổi mới gần đây trong nhân giống cây trồng, làm đất và công nghệ thông tin giúp giám sát lao động dễ dàng hơn, do đó gia tăng HQHĐSX trong nông nghiệp truyền thống ở Đông Âu và Nam Mỹ (Helfand và Levine, 2004; Lissitsa và Odening, 2005). Và mối quan hệ thuận này cũng được phát hiện ở Nigeria do đầu vào chất lượng cao được sử dụng bởi những hộ quy mô lớn (Obasi, 2007), ở Nhật Bản các thị trường yếu tố hoạt động tương đối tốt (Kawasaki, 2010) và Trung Quốc do sự phát triển công nghệ và sự chuyển đổi công nghệ (Chen và cộng sự, 2011). Kết quả hỗn hợp thu được bởi Rahman và Rahman (2009) cho rằng, mối quan hệ thuận giữa HQHĐSX và quy mô xảy ra trong khu vực công nghệ tiên tiến và mối quan hệ nghịch đảo vẫn tồn tại ở các khu vực đang phát triển. Tamel (2011) trong ngành nông nghiệp Hoa Kỳ với kết quả cho thấy ở một số khu vực thì quy mô và HQHĐSX là thuận chiều nhưng ở một số khu vực khác thì nghịch chiều. HQHĐSX có thể có mối quan hệ thuận chiều (Kawasaki, 2010; Ali và Deininger, 2015; Lu và cộng sự, 2018) hay ngược chiều (Paul và Githinji, 2017) với quy mô tùy thuộc vào quá trình phân mảnh. Do đó, mối quan hệ nghịch đảo là một hiện tượng địa phương hơn là một quy luật tất yếu trong sản xuất. Các nghiên cứu không những dừng lại ở mối quan hệ đơn thuần (quan hệ cùng chiều hay ngược chiều) mà còn biểu hiện mối quan hệ phi tuyến (dạng U hoặc Ungược ̴ ∩) giữa quy mô và HQHĐSX. Đầu tiên, Mahmood và Nadeem-ul-haque (1981) đã chứng minh được mối quan hệ phi tuyến dạng U giữa quy mô và HQHĐSX khi ước lượng yếu tố đầu vào (quy mô, quy mô bình phương) với đầu ra. Kế thừa thành quả đó, các nhà nghiên cứu Byiringiro và Reardon (1996), Heltberg (1998b), Helfand và Levine (2004), và Ali và Deininger (2015) đã bổ sung thêm các biến chỉ đặc điểm của đất và vùng miền. Tuy nhiên, Dorward (1999), Kimhi (2006), Barrett và cộng sự (2010), Ali và Deininger (2015), Nkonde và cộng sự (2015), Henderson (2015), Anseeuw và cộng sự (2016), Wickramaarachchi và Weerahewa (2018) cho rằng giữa quy mô và HQHĐSX có mối quan hệ phi tuyến dạng ∩ thông qua các mô hình khác nhau từ đơn giản (chỉ có biến quy mô và quy mô bình phương) cho đến mô hình hoàn chỉnh 9
- các biến thể hiện thông tin và đặc điểm chủ hộ, đặc điểm và chất lượng đất, khả năng quản lý và chăm sóc ruộng lúa, ... đều thể hiện mối quan hệ này. 2.1.3 Cơ sở lý luận về quy mô tối ưu Theo lý thuyết kinh tế học và lý thuyết kinh tế sản xuất nông nghiệp, Debertin (2002) cũng xác định được ngưỡng đầu vào tối ưu để tối đa hóa đầu ra thông qua phương pháp tính đạo hàm bậc nhất theo yếu tố đầu vào cụ thể. Theo Greene (2003) việc xác định x để f(x) đạt giá trị tối đa hay tối thiểu. Bởi vì f’(x) là độ dốc của hàm f(x) do đó để tối đa hóa xảy ra khi 𝑓 (𝑥 ) = 0. Mặt khác, hàm số sẽ tiếp tục tăng hoặc giảm tại x. Điều này ngụ ý điều kiện bậc nhất hoặc điều kiện cần để tối đa hóa hoặc tối thiểu hóa là = 0. Do đó, để tối đa hóa hoặc tối ( ) thiểu hóa một hàm số của một biến số phải thỏa điều kiện bậc nhất là = 0. Theo lý thuyết kinh tế vi mô, khi quy mô càng nhỏ thì chi phí trung bình sẽ tăng, khi quy mô càng mở rộng thì chi phí trung bình sẽ càng giảm, cho đến một quy mô nhất định nào đó (hay quy mô tối ưu) thì chi phí trung bình sẽ thấp nhất (cực tiểu) và nếu vượt quy mô tối ưu này thì chi phí trung bình sẽ tăng nếu càng mở rộng quy mô, điều này cho kết quả ngược lại đối với hàm sản xuất tức nhận được năng suất trung bình lớn nhất ứng với quy mô tối ưu. Theo Wickramaarachchi và Weerahewa (2018), quy mô tối ưu là quy mô mà tại đó HQHĐSX tối đa. Bởi vì khi quy mô còn nhỏ, nếu tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất thì hiệu quả đạt được sẽ ngày càng gia tăng và đạt hiệu quả cao nhất tại ngưỡng quy mô tối ưu. Tại ngưỡng quy mô này nếu tiếp tục mở rộng quy mô canh tác thì hiệu quả ngày càng sụt giảm và ngưỡng quy mô tối ưu được xác định bằng . 2.2 Tổng quan tài liệu tham khảo 2.2.1 Các nghiên cứu ảnh hưởng của quy mô đất đến HQHĐSX 2.2.1.1 Ảnh hưởng của quy mô đến năng suất đất Mối quan hệ ngược được thảo luận và phát hiện thông qua lý luận và thực nghiệm ở nhiều quốc gia trên thế giới (Mazumdar, 1965; Bharadwaj, 1974; Khan, 1977; Chaddha, 1978; Berry và Cline, 1979; Carter, 1984; Cornia, 1985; Feder, 1985; Bhalla và Roy, 1988; Chattopadhyay và Sengupta, 1997; Heltberg, 1998a&b; Assuncao và Ghatak, 2003; Fan và Chan-Kang, 2005; Barrett và cộng sự, 2010; Chen và cộng sự, 2011; Sial và cộng sự, 2012; Carletto và cộng sự, 2013; Holden và Fisher, 2013; Ali và Deininger, 2015; Desiere và Jolliffe, 2017) nhưng trọng tâm ở Ấn Độ (Sen, 1962; Bardhan, 1973; Ghose, 1979; Newell và cộng sự, 1997; Assuncao và Braido, 2007; Gaurav và Mishra, 2015). Tuy nhiên, cũng có không ít những nghiên cứu không đồng tình với giả thuyết trên và dựa trên bằng chứng thực nghiệm đã đưa ra nhận định ngược lại, đó là những 10
- hộ sản xuất với quy mô lớn sẽ đạt hiệu quả hơn những hộ có quy mô sản xuất nhỏ (Rao, 1966; Srivastave và cộng sự, 1973; Heltberg, 1998a&b; Khan, 1979; Khan và Maki, 1979; Rao và Chotigeat, 1981; Kevane, 1996; Akram-Lodhi, 2001; Van Hung và cộng sự, 2007; Trương Hồng Võ Tuấn Kiệt và Hứa Tuấn Tài, 2013; Akudugu, 2016). Như vậy, quy mô đất có thể có tác động đến năng suất đất theo hai chiều, thể hiện tính kinh tế theo quy mô và tính phi kinh tế theo quy mô. Những nghiên cứu (Mahmood và Nadeem-ul-haque, 1981; Byiringiro và Reardon, 1996; Heltberg, 1998b; Ali và Deininger, 2015) đã chứng minh được mối quan hệ phi tuyến dạng U giữa quy mô và năng suất đất. Tuy nhiên, Dorward (1999), Barrett và cộng sự (2010), Ali và Deininger (2015), Nkonde và cộng sự (2015), Henderson (2015), Anseeuw và cộng sự (2016), Wickramaarachchi và Weerahewa, 2018 cho rằng giữa quy mô và năng suất đất có mối quan hệ phi tuyến dạng ∩. 2.2.1.2 Ảnh hưởng của quy mô đến năng suất lao động Hiệu quả hoạt động sản xuất được đo lường thông qua năng suất lao động không được nghiên cứu phổ biến như năng suất đất nhưng vẫn được nghiên cứu trong những năm gần đây và cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa quy mô và năng suất lao động (Lamb, 2003; Li và cộng sự, 2013; Adamopoulos và Restuccia, 2014). Các nhà nghiên cứu Byiringiro và Reardon (1996), Nkonde và cộng sự (2015), Wickramaarachchi và Weerahewa (2018) cũng tìm thấy mối quan hệ phi tuyến có dạng ∩ giữa quy mô và năng suất lao động dựa trên cách ước lượng năng suất lao động với các biến giải thích khác nhau như quy mô, quy mô bình phương, các biến thể hiện đặc điểm của chủ hộ, đặc điểm của đất, sự khác biệt địa bàn cư trú. 2.2.1.3 Ảnh hưởng của quy mô đến hiệu quả đồng vốn Tuy có rất ít nghiên cứu về mối quan hệ này nhưng vẫn cho thấy mối quan hệ rõ rệt như các thước đo HQHĐSX khác. Đầu tiên, Li và cộng sự (2013), Wickramaarachchi và Weerahewa (2018) đã sử dụng thước đo hiệu quả đồng vốn để đo lường HQHĐSX và cho thấy mối quan hệ thuận giữa quy mô và hiệu quả đồng vốn. Tuy nhiên, Nkonde và cộng sự (2015) lại đo lường hiệu quả sử dụng đồng vốn thông qua hiệu quả chi phí và tìm được mối quan hệ phi tuyến có dạng ∩ giữa quy mô và hiệu quả đồng vốn trong cả ba trường hợp giản đơn, bán hoàn chỉnh và hoàn chỉnh các biến. 2.2.1.4 Ảnh hưởng của quy mô đến hiệu quả kinh tế Nhiều nghiên cứu đã chứng minh được mối quan hệ ngược giữa quy mô và hiệu quả kinh tế (Lau và Yotopoulos, 1971; Tadesse và Krishnamoorthy, 1997; Bagi, 1982; Townsend và cộng sự, 1998; Xu và Jeffrey, 1998; Gorton và Davidova, 2004; Manjunatha và cộng sự, 2013). Ngược lại, Hall và Leveen (1978), Lund và Hill 11
- (1979), Hoque (1988), Kalaitzandonakes và cộng sự (1992), Sharma và cộng sự (1999), Alvarez và Arias (2004), Rios và Shively (2005), Tipi và cộng sự (2009), Nguyễn Hữu Đặng (2012 chứng minh được mối quan hệ cùng chiều giữa quy mô và hiệu quả sản xuất. Các nhà nghiên cứu không những dừng lại trong mối quan hệ tuyến tính giữa quy mô và hiệu quả sản xuất mà còn nghiên cứu và đưa ra nhận định về sự tồn tại mối quan hệ phi tuyến giữa quy mô với hiệu quả sản xuất. Mối quan hệ có dạng U giữa quy mô và hiệu quả sản xuất được thể hiện thông qua nghiên cứu của (Helfand và Levine, 2004). Ngược lại, Hoque (1988), Nguyễn Tiến Dũng và Lê Khương Ninh (2015), Nguyễn Tiến Dũng (2015) đã chứng minh được mối quan hệ phi tuyến có dạng Ungược giữa quy mô và hiệu quả sản xuất 2.2.1.5 Ảnh hưởng của quy mô đến năng suất nhân tố tổng hợp Mối quan hệ giữa quy mô và TFP tuy không được quan tâm sâu sắc như mối quan hệ giữa quy mô và năng suất đất. Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn cho thấy giữa quy mô và TFP có thể có mối quan hệ tuyến tính (ngược chiều, cùng chiều) hay phi tuyến thông qua một số nghiên cứu thực nghiệm. Đầu tiên, Van Zyl và cộng sự (1996), Li và cộng sự (2013), Gautam và Ahmed (2018) đã tìm thấy mối quan hệ ngược chiều giữa quy mô và TFP. Ngược lại, những nghiên cứu khác cũng tìm thấy mối quan hệ cùng chiều giữa quy mô và TFP qua thực nghiệm ở Czech Republic (Hughes, 1998), ở Slovakia (Hughes, 2000), ở Việt Nam (Dinh Bao, 2014) và ở Úc (Sheng và Chacellor, 2018). Nghiên cứu cũng đã tìm thấy mối quan hệ phi tuyến giữa quy mô và TFP dưới hai dạng khác nhau. Mối quan hệ phi tuyến có dạng U giữa quy mô và TFP qua nghiên cứu của Nkonde và cộng sự (2015) đã chứng minh được mối quan hệ phi tuyến có dạng ∩ giữa quy mô và TFP. 2.2.1.6 Ảnh hưởng của quy mô đến hiệu quả hoạt động sản xuất Như vừa trình bày, đa phần các nghiên cứu chỉ sử dụng một thước đo duy nhất về hiệu quả hoạt động sản xuất, trong đó năng suất đất được sử dụng phổ biến trong nhiều nghiên cứu để khám phá mối quan hệ giữa quy mô và HQHĐSX. Các cách đo lường HQHĐSX khác như năng suất lao động, hiệu quả đồng vốn, hiệu quả kỹ thuật và TFP thường ít được sử dụng. Những năm gần đây để đo lường toàn diện HQHĐSX thông qua các khía cạnh đo lường khác nhau (3 – 5 thước đo) được thực hiện bởi Li và cộng sự (2013), Nkonde và cộng sự (2015), Wickramaarachchi và Weerahewa (2018) đã chứng minh được mối quan hệ khác nhau (tuyến tính như cùng chiều hay ngược chiều, phi tuyến có dạng U hay ∩) giữa quy mô và HQHĐSX tùy thuộc vào cách đo lường hiệu quả hoạt động sản xuất cụ thể. 2.2.2 Các nghiên cứu về quy mô tối ưu Nhiều nghiên cứu đã chứng minh ngưỡng quy mô đất tối ưu để tối đa hóa 12
- HQHĐSX theo nhiều cách đo lường khác nhau trong cùng một bộ dữ liệu (3 – 5 thước đo) hoặc khác bộ dữ liệu (nghiên cứu đơn lẻ một thước đo HQHĐSX). Trên cơ sở tính đạo hàm bậc nhất hay dựa trên kết quả ước lượng của mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến HQHĐSX (Hoque, 1988; Hassanpour, 2013; Nguyễn Tiến Dũng, 2015; Nkonde và cộng sự, 2015; Wickramaarachchi và Weerahewa, 2018) 2.3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.3.1 Khung nghiên cứu Quy mô tối ưu Năng suất đất theo NSDAT Năng suất Quy mô tối ưu lao động theo NSLD Giải pháp Hiệu quả sử đồng vốn Quy mô tối ưu theo HQĐV dụng (HQĐV) hiệu quả Hiệu quả Hàm lợi nhuận biên quy Quy mô tối ưu kinh tế (EE) ngẫu nhiên (SFA) mô theo EE Năng suất nhân tố tổng hợp Hàm sản xuất Quy mô tối ưu (TFP) theo TFP Nguồn: Nghiên cứu và thiết kế Hình 2.1 Khung nghiên cứu đề xuất 2.3.2 Thu thập số liệu Chọn 03 tỉnh trong ĐBSCL có cùng đặc điểm của đất với quy mô trồng lúa lớn là An Giang, Đồng Tháp và Cần Thơ. Chọn ngẫu nhiên 498 hộ sản xuất thuần lúa trong vụ Thu đông 2016, Đông xuân 2017 và Hè thu 2017, trong đó An Giang (225 hộ), Cần Thơ (90 hộ) và Đồng Tháp (183 hộ). 2.3.3 Phân tích số liệu Mục tiêu 1: nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê mô tả Mục tiêu 2: nghiên cứu sử dụng 2 cách: - Phương pháp ước lượng 2 bước đối với bốn cách đo lường HQHĐSX gồm năng suất đất, năng suất lao động, hiệu quả đồng vốn và TFP. - Phương pháp ước lượng 1 bước đối với thước đo về hiệu quả kinh tế. Mục tiêu 3: sử dụng điều kiện cần và công thức tính của Greene (2003), Wickramaarachchi và Weerahewa (2018): 13
- 𝜕𝐻𝑄𝐻Đ𝑆𝑋(𝑄𝑀𝐷𝐴𝑇) 𝛽 = 0 => 𝑄𝑀𝐷𝐴𝑇 = (2.7) 𝜕𝑄𝑀𝐷𝐴𝑇 2𝛽 Mục tiêu 4: dựa vào kết quả đạt được để đề xuất các giải pháp hiệu quả nhất 2.4 Mô hình thực nghiệm ảnh hưởng của quy mô đất đến HQHĐSX lúa Mô hình tổng quát đo lường ảnh hưởng của quy mô đất đến hiệu quả hoạt động sản xuất thông qua các khía cạnh khác nhau như sau: 𝐻𝑄𝐻Đ𝑆𝑋 = 𝛽 + 𝛽 𝑄𝑀𝐷𝐴𝑇 + 𝛽 𝑄𝑀𝐷𝐴𝑇𝑆𝑄 + 𝛽 𝑄𝑀𝐿𝐷 + 𝛽 𝑁𝑈𝐶𝐻 + 𝛽 𝑇𝐷𝐻𝑉𝐶𝐻 + 𝛽 𝑇𝑁𝐾𝐻𝐴𝐶 + 𝛽 𝑆𝑂𝑀𝐴𝑁𝐻 + 𝛽 𝐿𝐷𝑇𝐻𝑈𝐸 + 𝛽 𝐿𝐷𝐺𝐷 + 𝛽 𝐴𝑁𝐺𝐼𝐴𝑁𝐺 + 𝛽 𝐷𝑂𝑁𝐺𝑇𝐻𝐴𝑃 + 𝛽 𝑇𝑉𝑂𝑁 + 𝛽 𝑇𝐻𝐴𝑀𝑁𝐼𝐸𝑁 + 𝛽 𝐾𝐶𝑅𝑈𝑂𝑁𝐺 + 𝛽 𝑇𝐴𝑃𝐻𝑈𝐴𝑁 + 𝜀 (2.8) Trong đó: HQHĐSXk là hiệu quả hoạt động sản xuất được đo lường thông qua k khía cạnh khác nhau, QMDAT là quy mô đất trồng lúa trên mảnh ruộng lớn nhất (ha), QMDATSQ là bình phương quy mô đất trồng lúa của hộ, QMLD là số thành viên trong độ tuổi lao động của gia đình tham gia sản xuất lúa (số lao động), NUCH là biến giả thể hiện giới tính của chủ hộ (=1 nếu chủ hộ là nữ và =0 nếu ngược lại), TDHVCH là trình độ học vấn của chủ hộ (số lớp học), TNKHAC là thu nhập ngoài làm lúa của hộ (triệu đồng/năm), SOMANH là số mảnh đất trồng lúa của hộ (số mảnh), LDTHUE là tổng số ngày công lao động thuê làm việc trên ruộng lúa (ngày/ha), LDGD là tổng số ngày công lao động gia đình làm việc trên ruộng lúa (ngày/vụ), ANGIANG (=1 nếu nông hộ sống ở An Giang và =0 nếu ở tỉnh khác), và DONGTHAP (=1 nếu nông hộ sống ở Đồng Tháp và =0 nếu ở tỉnh khác), TVON là tổng chi phí cho các yếu tố đầu vào (bao gồm lao động gia đình) (triệu đồng/vụ), THAMNIEN là số năm kinh nghiệm trồng lúa của chủ hộ (năm), KCRUONG là khoảng cách từ nơi sinh sống của hộ đến mảnh ruộng lớn nhất (km), TAPHUAN (=1 nếu chủ hộ có tham gia các lớp tập huấn trong 3 năm gần nhất và =0 nếu ngược lại), i chỉ nông hộ trồng lúa thứ i và j thể hiện số vụ trồng lúa thứ j. 14
- CHƯƠNG 3. TỔNG QUAN ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU Chương này trình bày tổng quan về đồng bằng sông Cửu Long cũng như của các tỉnh khảo sát chủ yếu có liên quan đến quy mô đất. 3.1 Tài nguyên đất vùng đồng bằng sông Cửu Long Diện tích đất trong vùng khảo sát tập trung trên nền đất phù sa. Nhóm đất này có độ phì cao và cân đối, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, đặc biệt là cây lúa, dừa, mía, dứa và cây ăn quả. 3.2 Hiện trạng sản xuất lúa 3.2.1 Quy mô đất ở đồng bằng sông Cửu Long * Quy mô đất sản xuất nông nghiệp Số hộ sản xuất nông nghiệp vùng ĐBSCL nói chung và 3 tỉnh nghiên cứu nói riêng tập trung chủ yếu ở quy mô từ 0,5 – 2 ha chiếm 40,36%, kế đến là quy mô từ 0,2 – 0,5 ha chiếm 25,13% và còn lại phân bổ ở các quy mô khác. Bảng 3.1 Số hộ sử dụng đất nông nghiệp ở ĐBSCL phân theo quy mô Đơn vị tính: Hộ Địa bàn < 0,2 ha 0,2 – 0,5 ha 0,5 – 2 ha > 2 ha Tổng số An Giang 37.887 36.339 68.427 27.395 170.048 Cần Thơ 20.942 26.850 43.264 11.151 102.207 Đồng Tháp 49.341 53.713 89.269 24.086 216.409 ĐBSCL 509.795 598.932 961.914 312.455 2.383.335 Nguồn:Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản Việt Nam năm 2016 * Quy mô đất trồng lúa phân theo địa phương 5000 4000 ĐBSCL 3000 Đồng Tháp 2000 An Giang 1000 0 Cần Thơ 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Nguồn:Tổng cục thống kê 2017 Hình 3.1 Quy mô đất trồng lúa ở ĐBSCL phân theo địa phương Quy mô đất trồng lúa tập trung nhiều ở An Giang, kế đến là Đồng Tháp và ít nhất là Cần Thơ. Kết quả này hình thành số hộ được khảo sát ở các tỉnh trên địa bàn nghiên cứu. 15
- * Quy mô đất trồng lúa phân theo quy mô 60.00 An Giang 40.00 Cần Thơ 20.00 Đồng Tháp ĐBSCL 0.00 < 0.2 ha 0.2 - 0.5 ha 0.5 - 2 ha > 2 ha Nguồn:Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản Việt Nam năm 2016 Hình 3.2 Cơ cấu hộ sử dụng đất trồng lúa ở ĐBSCL phân theo quy mô Tổng số hộ trồng lúa của ĐBSCL chiếm 19,12% tổng số hộ trồng lúa cả nước và tập trung ở quy mô từ 0,5 – 2 ha. Số hộ trồng lúa ở Đồng Tháp cao hơn so với 2 tỉnh còn lại và khi phân chia theo quy mô canh tác thì quy mô canh tác của người dân 3 tỉnh An Giang, Cần Thơ và Đồng Tháp vẫn có kết quả tương tự như nông hộ vùng ĐBSCL, có nghĩa là đa phần người dân canh tác ở quy mô từ 0,5 – 2 ha chiếm khoảng 40%, quy mô từ 0,2 – 0,5 ha chiếm khoảng 25%, quy mô dưới 0,5 ha chiếm khoảng 22% và quy mô trên 2 ha chiếm khoảng 13%. Điều này hàm ý, người dân trong vùng khảo sát đang canh tác ở quy mô nhỏ lẻ và manh mún do đó chưa thật sự mang lại hiệu quả hoạt động sản xuất tối ưu. 3.2.2 Kết quả sản xuất lúa trên địa bàn nghiên cứu Đồng Tháp An Giang Cần Thơ 6,000.00 4,000.00 2,000.00 0.00 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 Sơ bộ 2017 Nguồn: Tổng cục thống kê 2017 Hình 3.3 Sản lượng sản xuất lúa ở ĐBSCL 2010 – 2017 Sản lượng lúa ở ba tỉnh An Giang, Đồng Tháp và Cần Thơ đều theo xu hướng tăng dần theo thời gian cho cả giai đoạn nhưng bắt đầu giảm nhẹ ở năm 2016, trong đó sản lượng An Giang cao nhất và Cần Thơ là thấp nhất. Cần Thơ có sản lượng thấp nhất nhưng tốc độ tăng sản lượng khá lớn nếu so sánh hai năm 2010 và 2017 vào khoảng gần 16%, đạt sản lượng cao nhất lên đến 1,408 triệu tấn vào năm 2015. Đối với An Giang và Đồng Tháp với sản lượng lớn nên xu hướng giảm ở các năm sau thấy rõ hơn mặc dù sản lượng tăng trong suốt giai đoạn khoảng hơn 6% và 14% cho từng tỉnh. Tóm lại, sản lượng các tỉnh có tăng nhưng bắt đầu giảm nhẹ ở các năm sau và chậm hơn so với diện tích nên các tỉnh có năng suất giảm dần ở các năm sau. 16
- CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN Chương này trình bày và thảo luận kết quả của từng nội dung nghiên cứu. Từ đó, đề xuất giải pháp sử dụng hiệu quả quy mô góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, cải thiện thu nhập và nâng cao mức sống của nông hộ ĐBSCL. 4.1 Thực trạng sản xuất lúa của nông hộ ĐBSCL 4.1.1 Đất đai Bảng 4.1 Thực trạng đất canh tác của nông hộ Nông hộ (m2/hộ) Đầu người (m2/người) Loại đất Bình quân Tỷ lệ (%) Bình quân Tỷ lệ (%) Thổ cư 755,63 3,93 172,52 3,93 Nông nghiệp 18.401,43 95,82 4.201,24 95,82 Nuôi thủy sản 47,39 0,25 10,82 0,25 Tổng cộng 19.204,45 100,00 4.384,58 100,00 Nguồn:Kết quả tổng hợp số liệu tự khảo sát năm 2017 Đất đai là tài sản quý báu của nông hộ bởi đây là yếu tố đầu vào không thể thiếu trong sản xuất nông nghiệp – đặc biệt là lúa – và cũng là nguồn tài sản thừa kế cho con cháu trong tương lai. Tuy nhiên, dưới tác động của quá trình đô thị hóa và sự kế thừa của con cái đã làm giảm dần quy mô canh tác do đất bị thu hồi để xây dựng các công trình phúc lợi công cộng, tách hộ, bán đất. 4.1.2 Kết quả sản xuất lúa của nông hộ ĐBSCL * Năng suất Tấn/ha 10.00 8.33 7.72 6.80 6.78 6.68 6.67 7.07 6.14 6.16 Đồng Tháp 5.00 An Giang Cần Thơ 0.00 Thu đông Đông xuân Hè thu Nguồn: Kết quả tổng hợp số liệu tự khảo sát năm 2017 Hình 4.1. Năng suất sản xuất lúa phân theo mùa vụ Nhìn chung, năng suất lúa giữa các tỉnh có sự chênh lệch không nhiều. Mùa vụ có năng suất cao hơn so với hai vụ còn lại ở 3 tỉnh đều là vụ đông xuân bởi đây là vụ có những thuận lợi về thời tiết, khí hậu và môi trường phát triển của lúa. * Kết quả sản xuất Tỷ suất lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận ròng bình quân của các nông hộ khá thấp và tương đối như nhau khoảng 0,5 lần và 0,3 lần (tương ứng vụ thu đông và hè thu), nhưng khá cao ở vụ đông xuân tương ứng là 0,77 lần và 0,58 lần (Bảng 4.2). 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 183 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030
27 p | 210 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 269 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ: Nghiên cứu tối ưu các thông số hệ thống treo ô tô khách sử dụng tại Việt Nam
24 p | 252 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 181 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 149 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 199 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 136 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 17 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn