intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Chế độ Varna trong thư tịch cổ Ấn Độ

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

59
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thông qua một số thư tịch cổ, luận án tìm hiểu và làm rõ những nội dung cụ thể của chế độ Varna được phản ánh trong những văn bản đó. Từ đó, đánh giá về chế độ Varna trong thư tịch cổ và tác động trên nhiều mặt của chế độ này đối với xã hội Ấn Độ cổ đại. Qua những nội dung trên để hiểu về một phần hiện thực xã hội Ấn Độ cổ đại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Chế độ Varna trong thư tịch cổ Ấn Độ

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI ------------------ TỐNG THỊ QUỲNH HƢƠNG CHẾ ĐỘ VARNA TRONG THƢ TỊCH CỔ ẤN ĐỘ Chuyên ngành: Lịch sử Thế giới Mã số: 62.22.03.11 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2016
  2. CÔNG TRÌNH ĐƢỢC HOÀN THÀNH TẠI KHOA LỊCH SỬ, TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đinh Ngọc Bảo Phản biện 1: PGS.TS Nguyễn Phú Lợi – Học Viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh Phản biện 2: PGS.TS Võ Kim Cƣơng – Viện Sử học Phản biện 3: TS Nguyễn Quốc Tuấn – Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ họp tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội Vào hồi…………ngày……..tháng……..năm Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện trường Đại học Sư phạm Hà Nội
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ấn Độ được coi là một trong những nền văn minh đi tiên phong, mở đầu cho kỉ nguyên văn minh của nhân loại, đã để lại cho thế giới rất nhiều thành tựu to lớn, ghi dấu ấn đậm nét của một dân tộc giàu trí tuệ và đầy bản sắc. Bởi vậy, vị trí quan trọng của Ấn Độ trong dòng chảy lịch sử thế giới là điều đã được khẳng định qua vô vàn trang sách nghiên cứu về vùng đất thần thánh này. Hơn nữa, trong suốt chiều dài lịch sử của mình, nền văn hóa truyền thống Ấn Độ còn có sức lan tỏa vô cùng rộng lớn, nhất là đối với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Cho nên, tìm hiểu về Ấn Độ giúp chúng ta hiểu thêm về phương Đông và là cơ sở để nắm bắt lịch sử Đông Nam Á. Cội nguồn nảy sinh bản sắc văn hóa Ấn Độ chính là xã hội truyền thống Ấn Độ. Đó là một xã hội mang những nét điển hình của một xã hội phương Đông đồng thời có nhiều nét riêng biệt, mang đậm tinh thần Ấn Độ. Một trong những nét riêng biệt đó là sự tồn tại lâu dài của những chế độ đẳng cấp rất đặc biệt chi phối quá trình phát triển của xã hội Ấn Độ trong suốt hàng ngàn năm. Trong đó, chế độ Varna là chế độ phân chia đẳng cấp xuất hiện đầu tiên ở Ấn Độ. Varna là “chiếc chìa khóa” để mở ra bức tranh xã hội truyền thống Ấn Độ đầy phức tạp về chủng tộc, tôn giáo. Do đó, muốn khám phá “thế giới Ấn Độ”, không thể không tìm hiểu về chế độ Varna, bởi nó là cốt lõi căn bản và là một trong những đặc điểm nổi bật nhất của xã hội Ấn Độ cổ đại. Sự phân biệt đẳng cấp đã từng xuất hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới nhưng có lẽ không ở đâu sự bất bình đẳng giữa các đẳng cấp lại khắc nghiệt và dai dẳng như ở Ấn Độ. Sự tồn tại đồng thời của một Ấn Độ hiện đại với những trung tâm công nghệ hàng đầu thế giới bên cạnh một Ấn Độ truyền thống đậm nét trong phong tục, tập quán, lễ nghi với chế độ đẳng cấp còn hiện hữu trong tư tưởng luôn khiến những người yêu thích lịch sử tìm cách lý giải cho hiện tượng thú vị này. Khi nghiên cứu về Ấn Độ cổ đại thì thư tịch cổ Ấn Độ được coi là một trong những nguồn tư liệu quan trọng nhất. Bởi sự chi phối mạnh mẽ của tôn giáo đến đời sống xã hội, văn hóa, phong tục tập quán... đã khiến cho các thư tịch cổ đặc biệt là thư tịch Hinđu giáo như kinh, kệ, văn học, thần thoại của tôn giáo này trở thành nguồn thông tin chính phản ánh về xã hội Ấn Độ. Vì thế, chế độ Varna đã được đề cập tới trong nhiều thư tịch cổ, trong đó có luật Manu, luật Narada, kinh Vêđa, Upanishad, sử thi Mahabharata, Ramayana, tác phẩm Arthashastra.... thư tịch cổ có ưu thế vượt trội trong việc phản ánh về chế độ Varna vì sự đồ sộ, phong phú, đa dạng trong loại hình tư liệu mà lại chi tiết, cụ thể trong nội dung về Varna. Do đó, việc nghiên cứu chế độ Varna
  4. 2 trong các thư tịch cổ Ấn Độ sẽ có cái nhìn đầy đủ, toàn diện, sâu sắc, từ đó có thể hiểu về một phần hiện thực xã hội đương thời. Trong những công trình nghiên cứu về Ấn Độ ở Việt Nam, hầu hết đều nhắc đến chế độ Varna hay chế độ đẳng cấp. Nhưng một vấn đề dường như rất quen thuộc trong các cuốn sách về Ấn Độ lại chưa có một công trình chuyên khảo nào và cũng chưa được nghiên cứu chuyên sâu ở Việt Nam. Đặc biệt, chế độ Varna trong các thư tịch cổ vẫn còn là một khoảng trống trong cả những nghiên cứu trong và ngoài nước. Do đó, nghiên cứu vấn đề chế độ Varna trong các thư tịch cổ Ấn Độ là một việc làm cần thiết. Hơn nữa, việc tìm hiểu một vấn đề cơ bản và quan trọng như chế độ Varna thông qua khảo cứu các thư tịch cổ của Ấn Độ sẽ là một hướng nghiên cứu cần thiết trong bối cảnh nguồn tư liệu gốc dùng trong giảng dạy còn chưa được khai thác nhiều. Nghiên cứu thành công vấn đề này sẽ góp phần cung cấp, bổ sung thêm nguồn tư liệu chuyên sâu về Ấn Độ thời kì cổ trung đại. Xuất phát từ những lí do trên, có thể thấy việc nghiên cứu về “Chế độ Varna trong thư tịch cổ Ấn Độ” là một vấn đề cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Bởi vậy, tôi đã lựa chọn đề tài này làm hướng nghiên cứu cho luận án của mình. 2. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu - Chế độ Varna trong thư tịch cổ Ấn Độ. 2.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: đất nước Ấn Độ thời cổ đại bao gồm chủ yếu miền Bắc Ấn và một phần miền Trung và Nam Ấn. - Về thời gian: khoảng từ 1500 TCN đến thế kỉ IV CN là khoảng thời gian chủ yếu mà các thư tịch cổ phản ánh về chế độ Varna. - Về nội dung: Chế độ Varna được phản ánh trong một số thư tịch cổ ở Ấn Độ cổ đại. Trong đó chỉ tập trung vào các vấn đề cơ bản là nguồn gốc của chế độ Varna, sự phân biệt giữa các đẳng cấp của chế độ Varna trên những lĩnh vực cơ bản như kinh tế, chính trị, pháp luật, tôn giáo, hôn nhân gia đình.... 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Thông qua một số thư tịch cổ, luận án tìm hiểu và làm rõ những nội dung cụ thể của chế độ Varna được phản ánh trong những văn bản đó. Từ đó, đánh giá về chế độ Varna trong thư tịch cổ và tác động trên nhiều mặt của chế độ này đối với xã hội Ấn Độ cổ đại. Qua những nội dung trên để hiểu về một phần hiện thực xã hội Ấn Độ cổ đại.
  5. 3 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu, luận án xác định những nhiệm vụ nghiên cứu như sau: Thứ nhất, tìm hiểu về hệ thống thư tịch cổ Ấn Độ, đặc biệt là những thư tịch được sử dụng trong luận án. Từ đó, bước đầu chỉ ra được những giá trị của thư tịch cổ trong việc tìm hiểu về chế độ Varna nói riêng và xã hội Ấn Độ cổ đại nói chung. Thứ hai, tìm hiểu chế độ Varna được phản ánh trong thư tịch cổ Ấn Độ về nguồn gốc, sự phân biệt giữa các Varna trên một số lĩnh vực. Thứ ba, rút ra những nhận xét về chế độ Varna trong thư tịch cổ Ấn Độ cũng như vai trò của chế độ này đối với xã hội Ấn Độ thời cổ đại. 4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Nguồn tài liệu Trước hết là tư liệu gốc, đề tài chủ yếu sử dụng các bản dịch tiếng Anh và bản dịch tóm tắt tiếng Việt của các thư tịch cổ Ấn Độ như bộ luật Manu, luật Narada, sử thi Mahabharata, Bhagavadgita, sử thi Ramayana, tác phẩm Arthashastra. Ngoài ra, luận án còn sử dụng thêm một số đoạn trích trong kinh Vêđa, Upanishad và một số thư tịch cổ khác. Thứ hai, bên cạnh các bản dịch của tư liệu gốc, luận án còn tham khảo quan điểm và nội dung các bài viết của C.Mác về Ấn Độ trong thời kì thống trị của thực dân Anh in trong “Mác – Ăng ghen toàn tập” (tập 9). Đề tài cũng sử dụng nhiều tác phẩm chuyên khảo của các tác giả trong và ngoài nước; các giáo trình, tạp chí khoa học chuyên ngành. Đồng thời, luận án sử dụng thêm một số tài liệu, sách báo từ nguồn Internet đã qua chọn lọc. Ngoài ra, trải nghiệm thực địa tại Ấn Độ vào tháng 2 năm 2014 đã giúp tác giả có thêm một số kiến thức mới cho vấn đề nghiên cứu của mình. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành trong quá trình thực hiện đề tài. Trong đó, phương pháp lịch sử và phương pháp logic là hai phương pháp chủ yếu được sử dụng để giải quyết những vấn đề cơ bản mà đề tài đặt ra. 5. Đóng góp của luận án Những kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần: - Nghiên cứu về chế độ Varna trong một số thư tịch cổ một cách hệ thống, chi tiết, cụ thể. Đây cũng sẽ là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu về chế độ Varna trong thư tịch cổ bên cạnh những nghiên cứu khác về lịch sử, văn hóa, triết học, văn học, tư tưởng…Ấn Độ đã có nhắc đến Varna.
  6. 4 - Thông qua tìm hiểu về chế độ Varna trong một số thư tịch cổ hiểu được một phần những quan điểm của Hinđu giáo nói riêng, về xã hội Ấn Độ nói chung. Từ đó, thấy được hệ quả của chế độ này đối với sự phát triển của xã hội Ấn Độ. - Hệ thống hóa, cung cấp thêm một phần tư liệu gốc trong giảng dạy lịch sử Ấn Độ ở các trường đại học và phổ thông. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được chia làm 4 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2. Khái quát về thư tịch cổ Ấn Độ Chương 3. Nguồn gốc và sự phân biệt giữa các Varna trong thư tịch cổ Ấn Độ Chương 4. Một số nhận xét về chế độ Varna trong thư tịch cổ Ấn Độ NỘI DUNG CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 1.1.1. Những nghiên cứu về chế độ Varna 1.1.1.1.Những nghiên cứu của các học giả nước ngoài: Vấn đề chế độ Varna đã được nghiên cứu một cách chuyên sâu trong khá nhiều cuốn sách chuyên khảo về chế độ đẳng cấp Ấn Độ nói chung của các học giả nước ngoài như: “Indian Caste” (Đẳng cấp Ấn Độ) của tác giả John Wilson, gồm 2 tập, 1897; “Hindu Castes and Sects” (Các đẳng cấp và giáo phái Hinđu) của tác giả Jogendra Nath Bhattacharya, 1896; “Caste in India: Their mechanism, genesis and development” (Đẳng cấp ở Ấn Độ: cấu trúc, nguồn gốc và sự phát triển ), 1916 của Dr.B.R.Ambedkar; “Caste in India, the facts and the system” (Đẳng cấp ở Ấn Độ, những yếu tố và hệ thống) do tác giả Emile Senart viết và Sir Edward Denison Ross biên dịch, 1930; “Indian Caste System: A Study” (Một nghiên cứu về hệ thống đẳng cấp Ấn Độ), 1931, của Tác giả C. Hayavadana Rao; “Indian Caste System” (Hệ thống đẳng cấp Ấn Độ) của R.K Pruthi, 2004; “The Caste system of Northern India” (Hệ thống đẳng cấp ở miền Bắc Ấn Độ), 2010, của tác giả E.A.H Blunt…. Bên cạnh những nghiên cứu chuyên sâu, đề cập trực tiếp, chế độ Varna cũng được đề cập tới trong rất nhiều công trình nghiên cứu chung về lịch sử, văn hóa, triết học, xã hội học…Ấn Độ như: “Philosophy of ancient India” (Triết học Ấn Độ cổ đại), 1897 của Richard Garbe; “Hindu Manners, customs and ceremonies” (Những phong tục, tập quán, lễ nghi của Hinđu giáo) của Abbe J A. Dubois; “A History of India” (Lịch sử Ấn Độ), tập 1, 1984, tác giả Romila Thapar; “Phát hiện Ấn Độ” (bản dịch), 3 tập, 1990, của Jawaharlal Nehru; “The Penguin history of early India from the origins to AD 1300”
  7. 5 (Lịch sử Ấn Độ từ nguồn gốc đến năm 1300), 2002, của Romila Thapar; “A History of India” (Lịch sử Ấn Độ), 2004, của hai tác giả Hermann Kulke và Dietmar Rothermund; “India: The ancient past from 7000 BC to AD 1200” (Ấn Độ cổ đại: từ 7000 TCN đến 1200) của Burjor Avari, 2007.... Nhìn chung, có thể nhận thấy trong những nghiên cứu chuyên sâu về chế độ đẳng cấp của các học giả nước ngoài thì chế độ Varna thường được phân tích dưới góc độ là giai đoạn đầu tiên trong sự tồn tại và biến đổi của chế độ đẳng cấp Ấn Độ, những đặc điểm cũng như ảnh hưởng của nó tới xã hội Ấn Độ trong lịch sử. Còn trong những nghiên cứu tổng quát về lịch sử, văn hóa, xã hội, triết học, tôn giáo...thì nội dung về Varna chiếm dung lượng nhỏ hơn nhưng cũng được đề cập như một đặc điểm không tách rời với những vấn đề lớn đó. Các học giả phương Tây và Ấn Độ cũng đưa ra nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm Varna. Tuy nhiên, hầu hết các quan điểm đều cho rằng Varna là khái niệm chỉ “màu da” hay “màu sắc”, chế độ Varna phân chia cư dân Ấn Độ thành các nhóm người khác nhau dựa trên sự khác biệt về màu da và chủng tộc. Varna còn là khái niệm để chỉ chế độ phân chia đẳng cấp. Có người đồng nhất Varna với Caste (đẳng cấp), có người cho rằng Caste bao hàm Varna nhưng đều thống nhất ở quan điểm rằng Varna là khái niệm đầu tiên để chỉ sự phân biệt các tầng lớp dân cư Ấn Độ mà theo đó xã hội Ấn Độ được chia thành nhiều đẳng cấp, trong đó có bốn đẳng cấp lớn. 1.1.1.2. Những nghiên cứu của các học giả Việt Nam Ở Việt Nam, vấn đề chế độ Varna được đề cập rải rác trong các cuốn thông sử hoặc những nghiên cứu tổng quát về lịch sử hay văn hóa, văn học, triết học...Ấn Độ. Có thể kể đến một số tác phẩm như: hai cuốn “Ấn Độ qua các thời đại” và “Tìm hiểu văn hóa Ấn Độ”, cùng xuất bản năm 1986, của tác giả Nguyễn Thừa Hỷ; “Văn hóa Ấn Độ” (1993) và “Tìm hiểu thần thoại Ấn Độ” (2003), của Cao Huy Đỉnh; “Lịch sử Ấn Độ” của các tác giả Vũ Dương Ninh, Phan Văn Ban, Nguyễn Công Khanh, Đinh Trung Kiên, 1995; cuốn “Lịch sử thế giới cổ đại” do Lương Ninh chủ biên, 2001; “Lịch sử tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại”, 2010, tác giả Doãn Chính.... Như vậy, trong những công trình của các học giả Việt Nam, vấn đề chế độ Varna đã được đề cập rải rác trong các cuốn thông sử hoặc những nghiên cứu tổng quát về lịch sử hay văn hóa, văn học, triết học...Ấn Độ. 1.1.2. Những nghiên cứu về thư tịch cổ Ấn Độ Từ lâu việc nghiên cứu các thư tịch cổ của Ấn Độ như bộ luật Manu, Mahabharata, Ramayana, Vêđa, Upanishad,…đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả trong nước và quốc tế với rất nhiều công trình nghiên cứu về các tác phẩm này như: Cuốn The Laws of Manu (luật Manu) của hai tác giả Wendu Doniger và Brian. K. Smith được xuất bản ở Basu Mudran, Kolkata, 1991; Cuốn “The Minor Law Books” (Những
  8. 6 cuốn sách luật nhỏ), của Julius Jolly, nằm trong bộ sách “The Scared Books of the East” (Những cuốn sách huyền bí phương Đông), tập 33 – Narada, xuất bản năm 1889. Arthashastra của Kautilya lần đầu tiên đã được dịch giả R.Shamasastry dịch từ nguyên bản sang tiếng Anh và xuất bản tại Bangalore, Goverment Press, năm 1915. Gần đây, L.N.Rangarajan đã dịch lại tác phẩm kinh điển này lấy tên là “The Arthashastra”, do Penguin Books xuất bản lần đầu tại New Delhi, năm 1992. Hai tác phẩm Mahabharata và Ramayana đã được rất nhiều dịch giả trên khắp thế giới dịch sang tiếng Anh và nhiều thứ tiếng khác. Ngoài các bản dịch, hai tác phẩm này được nghiên cứu khá nhiều trong các cuốn sách chuyên khảo như: cuốn “The Society of the Ramayana” (Xã hội trong Ramayana), của tác giả Ananda Guruge, 1991; cuốn “The Indian epics retold” (Kể lại sử thi Ấn Độ), Penguin Books xuất bản năm 1995, tác giả R.K.Narayan; “Epic India” (Sử thi Ấn Độ) của C.V. Vaidya Asian Educational Services, New Delhi, India, xuất bản năm 2001… Những nghiên cứu của các học giả trong nước có thể kể đến các công trình tiêu biểu như: Các bản dịch Mahabharata và Ramayana của Cao Huy Đỉnh, Phạm Thủy Ba; Cuốn “Kinh văn của các trường phái triết học Ấn Độ”, của Doãn Chính cùng nhóm các tác giả Vũ Quang Hà, Nguyễn Anh Thường, Đinh Hùng Dũng, 2005; cuốn “Bhagavad – Gita nguyên nghĩa” do Trần Kim Thư dịch từ bản tiếng Anh và tiếng Nga của tác phẩm này; đề tài “Luật Manu trong đời sống xã hội Ấn Độ xưa và nay” do PGS.TS Đinh Ngọc Bảo chủ trì.v.v… 1.2. Những vấn đề đã đƣợc giải quyết và vấn đề đặt ra cho luận án Nhìn chung, chế độ Varna được nói tới nhiều và khá cụ thể trong những công trình nghiên cứu về chế độ đẳng cấp nói riêng và lịch sử, văn hóa, xã hội Ấn Độ nói chung của các học giả nước ngoài. Ở Việt Nam, thì nội dung này mới được đề cập một cách khái quát thông qua những cuốn thông sử hoặc công trình nghiên cứu về lịch sử, văn hóa Ấn Độ. Điểm chung là chưa có một nghiên cứu riêng đề cập một cách có hệ thống, đầy đủ đến chế độ Varna ở Ấn Độ thời cổ đại, cũng chưa có một công trình nào tìm hiểu chế độ đẳng cấp này trong hệ thống thư tịch cổ Ấn Độ. Vì vậy, trên cơ sở lựa chọn và kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước, luận án sẽ cần đi sâu làm rõ được những nội dung khoa học sau: - Khái quát về hệ thống thư tịch cổ Ấn Độ và giá trị của thư tịch cổ trong việc tìm hiểu chế độ Varna - Nguồn gốc chế độ Varna qua một số thư tịch cổ - Sự phản ánh của các thư tịch cổ về sự phân biệt giữa các Varna trên các khía cạnh khác nhau.
  9. 7 - Rút ra những nhận xét về chế độ đặc biệt này: từ sự phản ánh của thư tịch cổ về chế độ Varna thấy được bản chất của chế độ này trong các văn bản đó; những tác động của nó đối với xã hội Ấn Độ cổ đại nói riêng và trong suốt chiều dài lịch sử Ấn Độ nói chung; những tính chất đặc biệt của chế độ Varna trong thư tịch cổ. CHƢƠNG 2. KHÁI QUÁT VỀ THƢ TỊCH CỔ ẤN ĐỘ 2.1. Hoàn cảnh ra đời của các thƣ tịch cổ Ấn Độ “Thư tịch” là thuật ngữ gốc Hán nghĩa là sách vở cũ, là những ghi chép lại bằng văn tự trên một hình thức chất liệu nào đó để truyền bá tri thức. Còn “cổ” ở đây chỉ thời gian hình thành các thư tịch đó. Những thư tịch này có thể tồn tại dưới dạng các cuốn sách tổng hợp, hay những ghi chép, các văn bản hoặc tài liệu riêng lẻ hoặc có đôi khi đó là những văn bản được ghi chép trên các tấm bia, lăng mộ hoặc một loại hiện vật hay di tích lịch sử nào đó. Hệ thống thư tịch cổ Ấn Độ rất phong phú và cũng tồn tại dưới nhiều hình thức, có nhiều cách phân chia khác nhau dựa trên đặc trưng của thư tịch.Về đại thể có thể chia làm hai loại cơ bản là những thư tịch Hinđu giáo và những thư tịch không phải Hinđu giáo, nhưng trong đó phần lớn các thư tịch cổ Ấn Độ là thư tịch Hinđu giáo hoặc có liên quan đến Hinđu giáo. Đối với các thư tịch cổ Ấn Độ là thư tịch Hinđu giáo, có thể chia thành hai bộ phận chủ yếu là Kinh và Kệ: Thứ nhất là Kinh (Sruti): bộ kinh cơ bản là Vêđa. Vêđa gồm có Rig Vêđa, Sama Vêđa, Yajur Vêđa và Arthava Vêđa. Mỗi Vêđa gồm có: Mantra, Brahmana, Aranyaka và Upanishad. Thứ hai là Kệ (Smriti): gồm các thành phần chính là Purana (thoại- tức thần thoại, mọi sự tích thần thánh), Sastra (luận- trình bày, giải thích các quan niệm Hinđu giáo về những vấn đề thiết thân của con người như Darmasastra -luận về Đạo pháp, Arthasastra – luận về bổn phận, Kamasastra- luận về lạc thú), Sustra (các quy tắc, gồm có Grihyasustra – quy tắc lễ nghi gia đình và việc tề gia; Kamasustra – quy tắc của lạc thú)…. Ngoài ra, còn có Manusmriti, Naradasmriti là những quy tắc hành động trong xã hội – thường được biết đến là các bộ luật. Bên cạnh đó, hệ thống thư tịch Hinđu giáo về sau còn được bổ sung thêm bởi các tác phẩm văn học Hinđu như Mahabharata, Bhagavad Gita, Ramayana… Đối với các thư tịch cổ không phải là thư tịch Hinđu giáo thì gồm chủ yếu là các chiếu chỉ hay sắc lệnh của nhà vua, các văn bia thời Môrya, các văn bản khắc trên cột sắt, một số tác phẩm mang tính chính luận… Từ khi các thư tịch cổ Ấn Độ ra đời đến lúc trở thành một hệ thống văn bản hoàn chỉnh là một quá trình kéo dài hàng nghìn năm. Đó là những sản phẩm kết tinh tinh hoa trí
  10. 8 tuệ suốt chiều dài lịch sử của người Ấn Độ. Do đó, sự xuất hiện của những thư tịch này đều gắn với những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Các thư tịch cổ Ấn Độ được cho là ra đời sau thời văn minh sông Ấn và được hoàn thiện trong một thời gian rất dài. Bộ kinh sớm nhất được ra đời là Vêđa (khoảng 1500 – 1000 TCN, và được ghi chép lại vào khoảng thế kỉ VII TCN), tiếp đến là Upanishad khoảng thế kỉ VI TCN. Sau đó vào thế kỉ IV TCN, Kautilya đã viết Arthashastra, đây có lẽ cũng là thời gian xuất hiện các Purana (thoại), sastra (luận) và sustra (quy tắc). Hai bộ sử thi Mahabharata và Ramayana có nguồn gốc và nói về những sự kiện từ đầu TNK I TCN nhưng bắt đầu được ghi chép lại vào khoảng vài thế kỉ TCN, có phần thậm chí còn muộn hơn nữa. Những thế kỉ tiếp giáp CN là thời gian phát triển rầm rộ của các văn bản Phạn ngữ khác như Bhagavad Gita, luật Manu (được cho là có nguồn gốc từ thế kỉ II TCN nhưng hoàn thành ở thế kỉ II CN), pháp điển Narada (ra đời khoảng thế kỉ III CN)…. Nhìn chung, trong khoảng từ 1500 TCN đến thế kỉ IV là quá trình hệ thống thư tịch cổ Ấn Độ được hoàn thiện về mặt hình thức và nội dung với sự ra đời của hàng loạt các cuốn sách cổ. Hệ thống thư tịch cổ Ấn Độ rất đồ sộ và phức tạp. Hầu hết các thư tịch cổ này đều nói tới chế độ Varna ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của Luận án, tác giả chỉ sử dụng một số thư tịch cơ bản trong đó có đề cập đến Varna với dung lượng nhiều và phản ánh đa dạng, trong đó chủ yếu là thư tịch Hinđu giáo. 2.2. Một số thƣ tịch cổ đƣợc sử dụng trong luận án Hệ thống thư tịch cổ Ấn Độ được hình thành qua thời gian dài, chúng không những được chỉnh sửa, bổ sung về nội dung, hoàn thiện về hình thức mà số lượng thư tịch cũng không ngừng tăng lên cùng với sự biến đổi của tôn giáo và đời sống Ấn Độ. Từ mục đích và giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận án, tác giả đã lựa chọn và giới thiệu một số thư tịch tiêu biểu sử dụng trong luận án, trong đó những thư tịch được sử dụng chính là: luật Manu, luật Narada, tác phẩm Arthashastra, Mahabharata (và Bhagavad Gita), Ramayana. Các thư tịch cổ Hindu được sử dụng trong luận án được hình thành trong một thời gian rất dài ở Ấn Độ cổ đại, vì vậy sẽ có nhiều văn bản khác nhau. Những thư tịch này lúc đầu được viết bằng các ngôn ngữ cổ Ấn Độ, đó là chữ Phạn (Sanskrit) hoặc Pali, Prakorit. Ví dụ, Rig Vêđa được truyền miệng từ 1500 TCN, hơn 1000 năm sau mới được ghi lại. Hai bộ sử thi Mahabharata và Ramayana, lúc đầu được học thuộc lòng và cũng chỉ được ghi chép lại khi chữ Phạn và ngữ pháp Phạn đã hình thành, từ thế kỉ V TCN. Trong đó, tiếng Phạn được sử dụng phổ biến ở Ấn Độ từ khoảng thế kỉ VI TCN cho đến khoảng thế kỉ X. Từ thế kỷ X trở đi, ở Ấn Độ dần dần xuất hiện nhiều loại chữ viết khác nhau. Mỗi khu vực, mỗi vùng có một thứ chữ viết
  11. 9 riêng. Trong đó, chữ Hinđi được xây dựng trên cơ sở chữ Phạn là thứ chữ phổ biến ở Ấn Độ cho đến nay. Vì vậy, chữ này hiện nay rất ít người đọc được, kể cả ở Ấn Độ hiện nay, người Ấn Độ cũng không thể tiếp cận được với các văn bản thư tịch gốc bằng tiếng Phạn, do thời gian cũng như sự cải biên chữ viết và đặc biệt là việc hoàn thiện các thư tịch này kéo dài hàng nghìn năm. Hơn nữa, những văn bản cổ của các thư tịch cổ này là nguyên bản, tức là bản duy nhất nên hiện nay nếu chúng còn tồn tại thì cũng đã trở thành những bảo vật quốc gia, không phải ai cũng được tiếp cận. Vì vậy, các bản dịch của các thư tịch cổ này đều được dịch từ tiếng Phạn hoặc Hinđi của các văn bản ra đời muộn hơn bản gốc. Từ những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn trên đây, luận án buộc phải sử dụng các văn bản thứ cấp của các thư tịch cổ Ấn Độ, đó là các bản dịch bằng tiếng Anh và Việt của các học giả nổi tiếng Ấn Độ và Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng tác giả cũng đã cố gắng đối chiếu nhiều bản dịch khác nhau đồng thời có phê phán, chọn lọc, phân tích…để thấy mức độ tin cậy của các văn bản. 2.3. Giá trị của các thƣ tịch cổ trong việc tìm hiểu chế độ Varna Chế độ Varna được nói tới trong nhiều thư tịch, mỗi văn bản đó là một mảnh ghép hoàn chỉnh và phản ánh Varna trên các phương diện khác nhau, cũng đồng thời phản ánh sự biến đổi của Varna qua từng giai đoạn của lịch sử. Giá trị của những thư tịch này trong việc tìm hiểu chế độ Varna thể hiện ở một số điểm như sau: Thứ nhất, dù mục đích, nội dung, hình thức của các thư tịch cổ Ấn Độ là khác nhau và cũng ra đời trong những thời kì không giống nhau nhưng điểm chung của hầu hết các văn bản này là đều phản ánh chân thực, phong phú và sống động lịch sử - xã hội- văn hóa Ấn Độ trong khoảng thời gian dài, trong đó có chế độ Varna. Thứ hai, giá trị của thư tịch cổ trong việc tìm hiểu Varna còn thể hiện ở dung lượng nội dung đề cập đến Varna trong những văn bản này. Thứ ba, những thư tịch cổ này còn thể hiện tư duy sớm nhất của người Ấn Độ về vũ trụ, con người và các mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, con người với xã hội, trong đó có Varna. Bởi vậy, có thể coi chế độ Varna đã được văn bản hóa đầu tiên trong những thư tịch này, trở thành những quy định về trật tự xã hội mà mọi người đều phải tuân theo. Thứ tư, thư tịch cổ giải thích nguồn gốc vũ trụ, xã hội và con người, trong đó có nguồn gốc của chế độ Varna. Các thư tịch đồng thời cũng là những văn bản đề cập cụ thể và chi tiết tới những quy định của Varna nói chung dưới khía cạnh luật pháp (Manu, Narada) và kinh sách, văn học (Vêđa, Upanishad, Mahabharata, Ramayana…). Nói cách khác, thư tịch cổ chính là những văn bản để luật pháp hóa và thần thánh hóa chế độ Varna.
  12. 10 Thứ năm, các thư tịch cổ còn có giá trị lâu bền với cuộc sống, giúp chúng ta tìm hiểu ảnh hưởng của Varna với lịch sử Ấn Độ trong thời gian dài. CHƢƠNG 3. NGUỒN GỐC VÀ SỰ PHÂN BIỆT GIỮA CÁC VARNA TRONG THƢ TỊCH CỔ ẤN ĐỘ 3.1. Nguồn gốc của chế độ Varna Khi giải thích sự tạo thành thế giới, tư tưởng Hinđu giáo đã dần khám phá ra rằng trong thế giới những hiện tượng phong phú có một lực lượng tối cao vô hình chi phối. Vì thế, từ sự tạo thành của vũ trụ đã được sắp đặt theo ý Đấng tối cao thì xã hội loài người cũng theo đó mà được hình thành. Sự ra đời và hình thành vũ trụ có liên quan trực tiếp đến sự ra đời của thế giới loài người, trong đó có chế độ Varna: Luật Manu nói rằng sự tồn tại của vũ trụ là dựa vào sự tồn tại của bốn đẳng cấp. Đẳng cấp Brahman được sinh ra từ miệng của thần Brahma, đẳng cấp Kshatriya được sinh ra từ cánh tay, đẳng cấp Vaisya được sinh ra từ bắp đùi và đẳng cấp Sudra được sinh ra từ bàn chân của thần (Manu, điều 31, chương I). Rig-Vêđa chia loài người ra làm hai hạng người: Arya (nghĩa là cao quý, thiện) và dasya (nghĩa là thấp hèn, ác). Sau đó, trong kinh Atharva-Vêđa cũng ghi rằng người ta sinh ra hoặc thuộc thành phần Aryan hoặc thuộc thành phần Sudra. Theo Rig Vêđa thì trong sự tạo thành thế giới nói chung thần tối cao đã tạo ra các Varna, do đó các Varna chính là hóa thân của thần và cũng là những bộ phận không thể tách rời với cơ thể thần. Bhagavad Gita giải thích rằng hệ thống đẳng cấp có liên quan đến một luật lệ thiêng liêng. Theo đó, chế độ Varna được tạo ra theo sự phân chia các Guna và công việc. Bhagavad Gita nhấn mạnh vào các Guna ở trong một trật tự gồm bốn cấp bậc. Mỗi phần trong sự phân chia bốn cấp bậc bao gồm ba Guna, tức Sattva (đức hạnh), Rajas (đam mê), và Tamas (ngu muội). Ba Guna này là những thuộc tính của vũ trụ nên có thế nói Varna cũng được sinh ra từ sự tạo thành vũ trụ và phải phù hợp với các thuộc tính của vũ trụ. Nhìn chung, các thư tịch cổ đều khẳng định nguồn gốc thần thánh của chế độ Varna, sự hình thành hệ thống Varna liên quan đến quá trình tạo thành thế giới của Thần tối cao. Theo đó, cư dân Ấn Độ được phân chia thành nhiều đẳng cấp, trong đó có 4 đẳng cấp chính: Brahman tức là tăng lữ Bàlamôn, Kshatryia gồm tầng lớp quí tộc, vương công và vũ sĩ, Vaisya gồm đại đa số bình dân và Sudra là những người phục dịch. Nhiệm vụ của mỗi Varna đã được qui định bởi chính nguồn gốc của họ. Do đó, mỗi đẳng cấp đều có địa vị, quyền lợi, bổn phận, nghĩa vụ….riêng của nó. 3.2. Sự phân biệt giữa các Varna 3.2.1. Về chính trị và pháp luật
  13. 11 3.2.1.1. Về chính trị Brahman được khẳng định là đẳng cấp có địa vị cao quý nhất, trong sạch nhất. Brahman là đẳng cấp tinh túy, ưu tú nhất trong loài người (Manu, điều 96, chương I). Do đó, Brahman có quyền lực nhất về tinh thần. Vì thế, các Varna phải hết sức tỏ ra cung kính Brahman trong mọi trường hợp, bởi vì mỗi người trong họ là một thần thánh vĩ đại (Manu, điều 319, chương IX). Nếu Brahman được coi là đẳng cấp thống trị về tinh thần thì các thư tịch Ấn Độ cổ đều khẳng định vua là người có quyền hành cao nhất trong việc cai trị đất nước. Theo luật pháp thì vua phải là người xuất thân ở Varna Kshatriya (Manu, điều 84, chương IV). Kshatriya có nghĩa vụ đầu tiên là cai trị đất nước. Đây được coi là bổn phận thiêng liêng của họ đối với thần thánh. Vua còn là người đứng đầu quân đội và được đấng tối cao ủy thác để tiến hành các nghi lễ hiến tế, duy trì, bảo vệ sự ổn định về kinh tế, xã hội cho đất nước. Tuy là người có quyền quyết định đối với mọi vấn đề của đất nước nhưng theo các văn bản Hinđu thì không chỉ địa vị mà quyền lực của Kshatriya vẫn thấp hơn Brahman, bị Brahman chi phối trong việc quản lý đất nước. Vì thế, dù trong hoàn cảnh nào thì vua vẫn luôn phải tỏ lòng kính trọng đối với Brahman. Về Vaisya: Vaisya thuộc về ba đẳng cấp có nguồn gốc cao quý trong xã hội như Brahman và Kshatriya nhưng địa vị của họ thấp nhất trong những “người ra đời hai lần”. Họ có địa vị xã hội của người dân lao động, là đẳng cấp bị trị (Manu, điều 328, chương IX). Vaisya là lực lượng lao động chính sản xuất ra của cải vật chất để cung cấp mọi vật phẩm cho xã hội. Đôi khi họ bị xếp đồng loại với Varna thấp nhất là Sudra (Narada, điều 16, chương 18). Về Sudra: có địa vị thấp kém nhất trong hệ thống đẳng cấp. Họ là những kẻ tôi tớ, chỉ có một bổn phận là phục dịch cho đẳng cấp bên trên một cách vô điều kiện, không được kêu ca, oán thán. Tuy nhiên, Sudra không phải là nô lệ, họ chỉ là tầng lớp thấp nhất trong cư dân tự do và là đẳng cấp bị trị như Vaisya. 3.2.1.2. Về pháp luật Theo sự phản ánh của các thư tịch cổ, nhà vua được khẳng định là người nắm quyền tối cao về pháp luật. Theo đó, quyền xét xử các vụ án thuộc về nhà vua. Nhiệm vụ cao cả nhất về luật pháp của nhà vua là giữ gìn thế giới theo đúng trật tự mà thần tối cao đã tạo ra. Cả Brahman và nhà vua cùng phải bảo vệ loài người thực hiện theo luật thánh (Narada, điều 42, chương 18). Mặc dù, vua phải thực hiện công bằng và bình đẳng cho tất cả mọi người nhưng quyền bình đẳng của mỗi người trước pháp luật cũng nằm trong trật tự đẳng cấp của họ
  14. 12 (Manu, điều 24, chương VIII). Trước pháp luật, chỉ có Brahman mới được hưởng đầy đủ quyền bất khả xâm phạm thân thể, tính mạng cũng như tài sản. Nhìn chung, sự cách biệt giữa các Varna đã thể hiện ở chỗ với cùng một tội lỗi như nhau, tội nhân càng ở Varna cao hơn thì hình phạt càng được giảm nhẹ dần, ở Varna thấp hơn càng bị hình phạt nặng hơn. Ngược lại, nạn nhân càng ở Varna cao hơn, tội nhân càng bị phạt nặng hơn, nạn nhân càng ở Varna thấp hơn, tội nhân càng được xử nhẹ dần. 3.2.2. Về kinh tế 3.2.2.1. Về nghề nghiệp Tương ứng với vị trí của mình trong bậc thang phân cấp, các Varna sẽ có những bổn phận nghề nghiệp khác nhau. Người Brahman được quy định làm các công việc: Dạy (Vêđa); nghiên cứu; hiến tế cho mình; hiến tế cho những người khác; dạy học và nhận (quà biếu) của những người trong sạch (Manu, điều 32, chương I). Các thư tịch cũng quy định rất chặt chẽ việc người Brahman không được phép làm, trong đó đặc biệt là các công việc của đẳng cấp dưới (Narada, điều 57, chương 1). Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt người Brahman vẫn có thể làm những công việc không dành cho đẳng cấp của mình. Ví dụ: người Brahman trong thời kì khốn khó của mình có thể làm các công việc của Kshatriya hoặc Vaisya. Tuy nhiên, trong thời gian làm những công việc đó, người Brahman vẫn phải tuyệt đối tuân thủ những nghĩa vụ của mình và phải quay lại nghề nghiệp của mình khi hết khó khăn (Narada, điều 56, 59, 67, chương 1). Thứ hai, đối với Varna Kshatriya, công việc được quy định là sinh sống bằng hoạt động quân sự và cai trị đất nước (Arthashastra). Trong thời kì khốn khó, Kshatriya cũng có thể làm công việc của đẳng cấp dưới (Vaisya) như công việc canh tác và buôn bán các thứ hàng vốn qui định cho Vaisya nhưng tuyệt đối không được nghĩ tới nghề nghiệp cao hơn mình (Brahman) (Manu, điều 95, chương X). Thứ ba, đối với Varna Vaisya, theo luật pháp Ấn Độ cổ đại, Vaisya được quy định sống bằng hoạt động kinh tế: buôn bán, cho vay lãi, canh tác nông nghiệp, chăn nuôi gia súc (Manu, điều 410, chương VIII). Đến thời Môrya, Vaisya được nói tới gồm chủ yếu là thương nhân, thợ thủ công và nông dân (Arthashastra). Theo thời gian, cùng với sự lớn mạnh của quân đội thời Môrya, Vaisya và Sudra tham gia vào quân đội của Kshatriya ngày càng đông đảo cũng khiến cho cơ cấu nghề nghiệp cũng như địa vị của hai đẳng cấp này có chút ít thay đổi. Tương tự như hai Varna trên, nếu Vaisya không thể sống bằng việc thực hiện nghề nghiệp của mình thì có thể sống lối sống của Sudra, nhưng không được làm những việc bị cấm đối với mình (Manu, điều 98, chương X). Thứ tư, đối với Varna Sudra, nghề nghiệp được quy định cho họ là sinh sống chủ yếu bằng công việc phục vụ các Brahman (Manu, điều 123, chương X). Nhưng để kiếm
  15. 13 kế sinh sống thì Sudra có thể phục vụ Kshatriya hoặc Vaisya giàu có.Trong một số trường hợp đặc biệt Sudra cũng có thể làm công việc khác những công việc được quy định. Sudra còn có một nghề nghiệp đặc biệt là làm nô lệ. 3.2.2.2. Về sở hữu tài sản Các thư tịch cổ đều cho thấy Brahman là người sở hữu nhiều đất đai và tài sản nhất (tư hữu), hơn cả vua. Brahman còn có quyền vô thượng trong việc sở hữu tài sản, coi tất cả của cải trong xã hội là thuộc về họ (Manu, điều 100, chương I). Vì thế, Kshatriya nắm được quyền cai quản xã hội nhưng không có quyền động đến tài sản của Brahman. Bên cạnh đó, Brahman là đẳng cấp được phép nhận tài sản biếu tặng từ các đẳng cấp khác. Những tài sản đã ban cho Brahman cũng là loại tài sản vĩnh viễn, không bị thu hồi (Narada, điều 47, 49, chương 18). Về việc sở hữu tài sản của Kshatriya, các thư tịch cổ đều khẳng định nhà vua (thuộc Varna Kshatriya) trên danh nghĩa là người có quyền sở hữu và quản lý tối cao đối với ruộng đất. Không chỉ có quyền sở hữu tối cao đối với đất đai, vua cũng sở hữu nhiều tài sản giá trị khác từ nhỏ tới lớn như kim loại quý, gia súc lớn, nô lệ, quân đội…kể cả thần dân trong vương quốc cũng thuộc sở hữu của vua. Tuy nhiên, nhà vua không thể sở hữu những người Bàlamôn. Tuy nhà vua là người chủ đất tối cao nhưng thực tế vua chỉ cai quản một phần đất đai, còn đại bộ phận chia cho công xã cày cấy và thu tô thuế (Arthashastra). Vì đất đai được chia nên nhà vua phải xây dựng một bộ máy những người đứng đầu công xã để giúp vua quản lý đất đai tại các địa phương (Manu, điều 116, chương VII). Người nông dân sống trong các làng sẽ phải nộp tô thuế cho nhà nước thông qua những người đứng đầu các công xã đó (điều 119, chương VII, Manu). Ngoài những tài sản được sở hữu theo quy định, Kshatriya cũng có thể sở hữu thêm nhiều tài sản hơn thông qua một số nguồn đặc biệt như các loại thuế, do chiến đấu, tiền phạt có được trong các vụ kiện (Narada, điều 53, chương 1). Về sở hữu của Vaisya, đẳng cấp này được chia một phần ruộng đất và họ phải có trách nhiệm đối với ruộng đất của mình được chia. Trong số những đất đai mà Vaisya được chia thì những đất đai được chuẩn bị tốt để trồng trọt sẽ nhận được nhiều ưu đãi về thuế, còn nếu những ruộng đất không được chuẩn bị tốt cho việc trồng trọt, dẫn đến mất mùa thì có thể bị tịch thu (Arthashastra). Ngoài đất đai được chia thì Vaisya cũng có thể tăng tài sản lên gấp 3 lần nhờ các việc làm đất, chăn nuôi bò và thương mại (Narada, điều 54, chương 1). Trong khi những đẳng cấp khác được sở hữu và bảo vệ tài sản thì Sudra không những không được sở hữu tài sản mà họ còn có thể bị chiếm đoạt tài sản họ có (Manu, điều 417, chương VIII). Sudra cũng không được phép tích lũy tài sản vì đó là mối đe dọa
  16. 14 với các đẳng cấp trên (Manu, điều 129, chương X). Nhưng trong một số trường hợp ngoại lệ, Sudra vẫn có thể có được tài sản riêng nếu thành viên của ba đẳng cấp trên vì nhiều lý do mà bố thí cho họ thì tài sản đó sẽ là sở hữu riêng của Sudra (Narada, điều 54, chương 1). Như vậy, ba đẳng cấp trên theo quy định đều có thể sở hữu tài sản. Bên cạnh đó, họ còn có thể làm cho của cải của mình tăng lên bằng nhiều cách hợp pháp hoặc bất hợp pháp và được tôn giáo thừa nhận. Còn đẳng cấp thứ tư không thể sở hữu bất cứ tài sản nào và nếu có thì là do ba đẳng cấp trên bố thí cho chứ không phải do lao động của họ mà có được. 3.2.2.3. Thừa kế tài sản Chế độ nội hôn theo quy định của Varna là nhân tố quyết định trong việc kế thừa tài sản. Trong số những người con trai được hưởng tài sản thừa kế (của một người cha thuộc đẳng cấp cao) thì tùy vào việc người con trai đó được sinh ra từ người mẹ thuộc đẳng cấp nào thì tỉ lệ tài sản được hưởng sẽ giảm dần theo địa vị xã hội của người mẹ đó (Arthashatra). 3.2.2.4. Thuế khóa và nghĩa vụ lao dịch với nhà nước Bên cạnh việc thực hiện những nghề nghiệp theo quy định và thừa kế tài sản, các Varna còn phải thực hiện nghĩa vụ về thuế khóa và lao dịch đối với Nhà nước. Người đại diện trực tiếp cho nhà nước là vua. Vì vậy, thu thuế được xem như là một trong những chức năng chính của vua. Thư tịch cổ Ấn Độ đề cập đến nhiều loại thuế. Vua đã đặt ra các viên chức tài chính để thực hiện việc thu nhận thuế từ những người đứng đầu các làng và chuyển vào kho cho nhà vua. Vua sẽ là người kiểm duyệt cuối cùng thông qua các văn bản mà người thu thuế chính đã ghi chép lại (Arthashastra). Cũng giống như đối với đất đai và các tài sản khác, vua có thể thu thuế bất cứ ai nhưng trừ người Brahman (Manu, điều 134, chương VII). Đẳng cấp Vaisya là những người phải đóng góp nhiều thuế hơn cả và tùy theo công việc mà họ phải nộp mức thuế khác nhau. Ngoài ra, các Varna dưới còn có nghĩa vụ lao dịch nặng nhọc cho nhà nước như đắp đê, đào kênh, làm đường, những nghĩa vụ trong việc quân sự khi chiến tranh xảy ra hoặc lao dịch theo thời vụ. Tóm lại, những cách biệt về kinh tế giữa các Varna đảm bảo cho Brahman và Kshatryia sống cuộc đời sung sướng trên sức lao động của người nghèo khổ, nhất là Sudra. 3.2.3. Về bổn phận tôn giáo Bổn phận tôn giáo của các Varna được thể hiện trước hết trong việc thực hiện các giai đoạn của cuộc đời. Theo quy định của Hinđu giáo, cuộc đời của một người Brahman được chia thành bốn giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất dành cho tuổi niên thiếu là tu dưỡng, rèn luyện đạo đức lối sống. Giai đoạn thứ hai là giai đoạn “chủ nhà” con người lập gia
  17. 15 đình và tạo dựng sự nghiệp và công danh hưởng thú vui trần tục nhưng vẫn phải tuân theo những quy định, lễ nghi tôn giáo và bổn phận của đẳng cấp mình. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn sống ẩn dật khi đã có tuổi và con cháu. Giai đoạn thứ tư là giai đoạn xuất thế thành những tu sĩ khất thực sống cuộc sống không màng đến danh lợi mong muốn tìm đến sự giải thoát. Nghĩa vụ tôn giáo của các Varna còn được biểu hiện tiêu biểu trong việc phân chia các Varna ra làm “người ra đời hai lần” và “người ra đời một lần”. Do đó, chỉ có người ra đời hai lần mới được hưởng sự phong tặng của tôn giáo, được học kinh Vêđa và được quyền thực hiện các nghi lễ tôn giáo. Từ những quy định chung đó, các Varna cũng có những danh phận khác nhau về tôn giáo: Đối với Brahman: Trước hết, họ có quyền lợi, nghĩa vụ và bổn phận giảng dạy, nghiên cứu kinh Vêđa và thực hiện các nghi lễ tôn giáo. Thứ hai, Brahman phải là những người thông hiểu kinh Vêđa và được coi là đẳng cấp trung gian giữa thần và người (Manu, điều 32, 97, chương I). Đối với Kshatriya: Họ cũng là những người thông hiểu kinh Vêđa và có nghĩa vụ, bổn phận cũng như quyền lợi trong việc thực hành các nghi lễ tôn giáo (Manu, điều 100, chương XII). Tuy Kshatriya không phải là chủ các buổi lễ, nhưng họ là người quyết định tổ chức lễ tế, lựa chọn và mời các chủ lễ và cũng là người quyết định những thành phần sẽ tham gia vào lễ tế chứ không phải là Brahman (Ramayana). Đối với Vaisya: họ là những người “sinh ra hai lần”, có nghĩa vụ học và hiểu biết kinh Vêđa và thực hành các nghi lễ tôn giáo. Vaisya là người chuẩn bị các đồ hiến tế, dâng lễ vật và phục vụ trong những nghi lễ này. Họ cũng chính là thành phần đông đảo nhất tham gia vào các lễ hiến tế hay những nghi lễ tôn giáo. Đối với Sudra: họ bị nghiêm cấm thực hiện các nghi lễ tôn giáo. Sudra không được làm các nghi thức tôn giáo. Sudra không được nhìn người ra đời hai lần thực hành nghi lễ tôn giáo. Họ cũng không được nhìn người ra đời hai lần nấu thức ăn cúng tế. Nhìn chung, qua thư tịch cổ cho thấy nền giáo dục thời Ấn Độ cổ đại là thần học. Bởi vậy, Brahman không những có đặc quyền về tôn giáo mà còn có quyền vô thượng về mặt văn hóa, giáo dục đương thời. Trái lại Sudra bị cấm học kinh Vêđa cũng có nghĩa là họ bị ngăn cấm việc học hành, mất quyền lợi về văn hóa, giáo dục. Các Brahman cho rằng, một Sudra mà nghe kinh Vêđa thì tai sẽ bị điếc, sẽ bị đổ chì vào, nếu tụng kinh Vêđa thì lưỡi sẽ bị cắt đứt, nếu học thuộc lòng thì thân thể sẽ bị chặt làm hai. 3.2.4. Về hôn nhân gia đình Theo những quy định trong thư tịch Hinđu giáo nói chung và luật pháp Ấn Độ cổ đại nói riêng, không chấp nhận chế độ đa thê (poligamy) và hôn nhân không cùng đẳng
  18. 16 cấp, đặc biệt là giữa những đẳng cấp cao (Brahman, Kshatriya) với đẳng cấp thấp (Sudra). Thứ nhất, một quy định chung dành cho tất cả các Varna là: “Khi một người Brahman, Kshatriya, Vaisya hay Sudra lấy vợ, điều tốt nhất cho anh ta là lấy một người thuộc đẳng cấp của mình; và do đó một người đàn ông là thành viên cùng đẳng cấp cũng là người đủ điều kiện làm chồng nhất cho một người phụ nữ” (Narada, điều 4, chương 12). Kể cả đối với hai đẳng cấp trên, việc kết hôn với nhau cũng là điều cấm kị. Đặc biệt đàn ông Kshatriya kết hôn với phụ nữ Brahman là trái với đạo lý và sẽ bị những người Brahman khác coi thường, dù đó là một bậc quân vương, việc một phụ nữ Brahman nếu làm vợ một người Kshatriya cũng bị coi là hành động “hạ mình”. Thứ hai, dù không khuyến khích đa thê nhưng trong những trường hợp đặc biệt thì những người đàn ông thuộc ba đẳng cấp trên vẫn có thể lấy thêm vợ nếu muốn nhưng với điều kiện người vợ đầu tiên (tức vợ cả) phải thuộc cùng đẳng cấp với mình, những người vợ tiếp theo phải là người thuộc đẳng cấp dưới. Tương tự như vậy, mặc dù nghiêm cấm ngặt nghèo việc kết hôn không cùng đẳng cấp nhưng thư tịch Hinđu và luật pháp Ấn Độ cũng có nhiều quy định về các trường hợp cụ thể được chấp nhận kết hôn khác đẳng cấp. Bên cạnh những quy định về việc kết hôn cùng đẳng cấp, các thư tịch cũng chỉ ra hệ quả của sự vi phạm những quy định đó sẽ bị trừng phạt rất nghiêm khắc (ví dụ: bị trục xuất ra khỏi đẳng cấp, giáng đẳng cấp, bị phạt tiền, con cái của họ không được xếp vào đẳng cấp nào, là tầng lớp tận cùng trong xã hội...). 3.2.5. Về các phƣơng diện khác Về việc đặt tên: Đối với người Ấn Độ cổ đại việc đặt tên cho đứa bé khi ra đời là một nghi lễ thiêng liêng và quan trọng. Việc đặt tên phải được tiến hành theo đúng quy định về mặt thời gian, thời điểm. Quan trọng hơn cả là việc lựa chọn tên cũng phải tuân thủ theo đúng quy định và phải phù hợp với đẳng cấp của đứa trẻ. Đứa trẻ thuộc đẳng cấp nào thì phù hợp với tên gọi, từ ngữ của đẳng cấp đó. Ngoài những tên do cha mẹ lựa chọn phù hợp với trật tự đẳng cấp thì con cái của các cuộc hôn nhân không theo đúng trật tự Varna cũng có những tên gọi riêng tùy theo từng trường hợp cụ thể. Về cách ăn, mặc, ở: qua sự phản ánh của các thư tịch cho thấy mỗi đẳng cấp ở Ấn Độ đều có sự khác biệt về cách ăn, mặc và phải phù hợp với đẳng cấp mình. Người Ấn Độ cổ đại rất coi trọng việc ăn uống, điều đó được thể hiện rất rõ bằng một hệ thống những quy định về thức ăn, cách ăn cho các đẳng cấp trong các thư tịch. Đối với những người ra đời hai lần, các thư tịch không chỉ quy định về lượng thức ăn được sử dụng mà còn đưa ra một hệ thống các quy định chung rất nghiêm ngặt những
  19. 17 thực phẩm nào được dùng hoặc không được dùng làm thức ăn. Đặc biệt là những quy tắc dùng thịt và kiêng thịt. Người ra đời hai lần chỉ được dùng thịt làm thức ăn khi cúng tế, cho nên dùng thịt trong các trường hợp khác bị coi là vi phạm quy tắc. Họ nên kiêng tất cả các loại thịt vì đây là một phần trong việc thực hiện các kỳ công khổ hạnh, kiêng thịt được coi là thành quả lớn. CHƢƠNG 4. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CHẾ ĐỘ VARNA TRONG THƢ TỊCH CỔ ẤN ĐỘ 4.1. Chế độ Varna trong thƣ tịch cổ là sự phản ánh thực trạng phân hóa xã hội ở Ấn Độ cổ đại Trước hết, chế độ Varna trong thư tịch cổ Ấn Độ là sự phản ánh thực trạng phân hóa xã hội ở Ấn Độ cổ đại. Tuy nhiên, sự phản ánh đó về địa vị, quyền lợi của các đẳng cấp không hoàn toàn phù hợp với một trật tự xã hội theo thể chế quân chủ. Trong các thư tịch cổ Ấn Độ, chế độ Varna được phản ánh một cách rất chi tiết, phức tạp và có nhiều điểm khác biệt so với những gì đã được đề cập tới trong các công trình nghiên cứu sau này. Nhìn chung, một trong những ưu điểm lớn nhất của thư tịch cổ khi phản ánh chế độ Varna là nó đã đi sâu tới từng “ngõ ngách” của mỗi vấn đề được đề cập. Những vấn đề to lớn luôn được cụ thể hóa, chi tiết hóa, làm cho những triết lý hay luật pháp khô khan trở nên dễ hiểu hơn, gần gũi hơn với người đọc. Hơn nữa, chúng còn luôn được luận giải bằng những lí lẽ rất logic và hợp lí. Thông qua đó, chế độ Varna được tạo ra một cách hoàn chỉnh tới từng chi tiết. Những điểm tương đồng và khác biệt trong sự phản ánh về Varna giữa các thư tịch cũng là sự tương đồng và khác biệt trong tư duy của người Ấn Độ ở những thời điểm khác nhau khi viết và hoàn thiện các thư tịch đó. Đó là cơ sở quan trọng giúp chúng ta nhận thức được một phần thực tại xã hội Ấn Độ cổ đại. 4.2. Chế độ Varna trong thƣ tịch cổ thực chất là quan niệm của Hinđu giáo về sự phân biệt và danh phận giữa các Varna Chế độ Varna là một thực thể đã tồn tại trong xã hội Ấn Độ cổ đại và thực thể đó đã được phản ánh rất chi tiết, cụ thể trong các thư tịch cổ. Tuy nhiên, trong các thư tịch cổ, chế độ Varna không thể tách rời bổn phận tôn giáo của các tín đồ Hinđu. Mọi quy định, phản ánh, ghi chép...về chế độ Varna đều được thực hiện bởi những người viết ra những văn bản này là tầng lớp tăng lữ, do đó có thể coi nó là một sản phẩm của Hinđu giáo. Vì đẳng cấp Brahman cũng là đẳng cấp duy nhất có trí tuệ nên những điều giải thích cho kinh sách nằm trong các thư tịch cổ đều là là những tư duy của Brahman về xã
  20. 18 hội, con người. Các thư tịch cổ họ viết ra cũng đều nhằm mục đích giải thích cho kinh Vêđa. Hơn nữa, chế độ Varna trong thư tịch cổ còn là một xã hội lý tưởng theo quan niệm của Hinđu giáo. Vì qua các thư tịch cổ, chúng ta có thể thấy chế độ Varna vừa là một thực tại xã hội vừa là những quy tắc và cao hơn là những điều luật nhằm điều tiết các quan hệ xã hội, hành vi của các đẳng cấp và của mỗi cá nhân con người theo quan niệm của Hinđu. Các thư tịch cổ Hinđu đều khẳng định nguồn gốc thần thánh của chế độ Varna, cho rằng các Varna có nguồn gốc từ sự phân chia cơ thể của Thần sáng tạo trong quá trình tạo thành thế giới, do đó mỗi Varna có địa vị khác nhau tương ứng với vị trí trên cơ thể thần. Đây là sự lí giải nguồn gốc Varna theo quan điểm của Hinđu giáo vì tư tưởng của tôn giáo này cho rằng Thần tối cao đã sáng tạo ra vạn vật và thần thấm nhuần trong tất cả. Linh hồn con người là một phần của linh hồn vũ trụ, mà linh hồn vũ trụ thì bất biến, cho nên các Varna cũng bất biến. Qua sự phân chia các lĩnh vực phản ánh của thư tịch cổ về chế độ Varna trong chương 3, có thể nhận thấy những quy định của các Varna rất phức tạp, chặt chẽ và thể hiện rất rõ tư tưởng của Hinđu giáo. Đó đều là những Dharma chung hoặc riêng của các đẳng cấp được cụ thể hóa trên từng lĩnh vực. Những Dharma đó là nguyên tắc chi phối toàn bộ đời sống của các đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ, cũng là những tín điều cốt lõi của Hinđu giáo. 4.3. Chế độ Varna trong thƣ tịch cổ là hình thức văn bản hóa quan điểm của giai cấp thống trị về trật tự xã hội Chế độ Varna trong các thư tịch cổ thực chất là một “chế độ Varna trên văn bản” hơn là một thực thể ngoài cuộc sống vì nó thể hiện sâu sắc những quan điểm của giai cấp thống trị về thực trạng xã hội. Varna đã được giải thích bằng những quan niệm của Hinđu giáo qua các thư tịch đồng thời thông qua chế độ này, các tư tưởng Hinđu giáo cũng được truyền bá sâu rộng. Trước hết, giáo lí của Hinđu giáo là một trường phái triết học về bản ngã – con người và xã hội mà thực chất là về chế độ đẳng cấp Varna và các Dharma của mỗi đẳng cấp và mỗi cá thể con người. Vì vậy, với đa số người dân Ấn Độ, chế độ Varna và Dharma trở nên cao siêu và khó tiếp cận. Hệ thống thư tịch cổ trở thành một công cụ hữu hiệu để giải thích, làm sáng tỏ và truyền bá chế độ Varna trong thực tế cuộc sống. Thứ hai, giai cấp thống trị đã mượn thư tịch để truyền bá và luật hóa sự phân tầng xã hội, để bảo vệ quyền lợi của giai cấp mình, đề cao giai cấp thống trị (Brahman và Kshatriya), hạ thấp giai cấp bị trị (đặc biệt là người Dravidian). Có thể dễ dàng nhận thấy tất cả những quy định hay sự phản ánh của thư tịch cổ về chế độ Varna đều dành
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2