intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt luận án Tiến sĩ Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam: Hoạt động của tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở Miền Nam từ năm 1966 đến năm 1973

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:28

18
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận án làm rõ sự lãnh đạo và hoạt động các tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn từ năm 1966 đến năm 1973. Đúc kết những kinh nghiệm cho công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng vũ trang trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt luận án Tiến sĩ Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam: Hoạt động của tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở Miền Nam từ năm 1966 đến năm 1973

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN TUẤN SƠN HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG CÁC TRẠI GIAM TÙ BINH CỦA MỸ VÀ CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN Ở MIỀN NAM TỪ NĂM 1966 ĐẾN NĂM 1973 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Mã số: 62 22 03 15 HÀ NỘI, NĂM 2017
  2. Công trình được hoàn thành tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học: 1. GS. TS Mạch Quang Thắng 2. TS Nguyễn Bình Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh vào hồi giờ ngày tháng năm 2017 Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Thư viện Quốc gia, Thư viện Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, thư viện Viện Lịch sử Đảng
  3. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA NGHIÊN CỨU SINH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1. Trần Tuấn Sơn 2013), "Quyết tâm chiến lược của Đảng trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968". Tạp chí Lịch sử Đảng, (5), tr 7-11. 2. Trần Tuấn Sơn (2014), "Đại thắng mùa xuân năm 1975 - sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng". Tạp chí Mặt trận, (4), tr. 7-11. 3. Trần Tuấn Sơn (2014), "Vài nét về hệ thống nhà tù trại giam của Mỹ, chính quyền Sài Gòn ở miền Nam (1954-1975)". Tạp chí Lịch sử Đảng, (7), tr. 74-77. 4. Trần Tuấn Sơn - Đỗ Văn Phương (2015), "Hình thức đấu tranh vượt ngục của các chiến sĩ cách mạng trong các nhà tù, trại giam của địch khu vực miền Trung - Tây Nguyên (1954-1975)". Tạp chí Lịch sử Đảng, (1), tr. 66-71. 5. Trần Tuấn Sơn - Đinh Thị Bích Ngọc (2016), "Biến nhà tù thành trường học cách mạng của các chiến sĩ cách mạng trong một số trại giam tù binh của địch ở miền Nam (1966- 1973)". Tạp chí Lịch sử Đảng, (4), tr. 17-22. 6. Trần Tuấn Sơn (2016), "Cuộc đấu tranh tiêu biểu trên mặt trận văn hóa văn nghệ ở trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn (1966-1973)". Tạp chí Lịch sử Đảng, (9), tr. 78- 81. 7. Trần Tuấn Sơn (2017), "Xây dựng tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền Việt Nam cộng hòa (1966-1973)". Tạp chí Lịch sử Đảng, (4), tr. 86-92. 8. Trần Tuấn Sơn (2017), "Về một số trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền Việt Nam cộng hòa từ năm 1966 đến năm 1973". Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số, (6), tr. 57-67.
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong đó, công tác xây dựng Đảng, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nguồn gốc, nguyên nhân thắng lợi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Ngày nay, nó là nguồn gốc, yếu tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới xây dựng đất nước. Công tác xây dựng đảng và hoạt động của tổ chức Đảng vừa tuân thủ nguyên lý chung của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng cũng vừa căn cứ vào tình hình thực tế của cách mạng Việt Nam. Trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào, kể cả trong nhà tù, trại giam của địch, người đảng viên vẫn tiến hành công tác xây dựng đảng, đảm bảo sự lãnh đạo và hoạt động tổ chức Đảng. Nhờ việc khẳng định vai trò lãnh đạo của đảng trong các giai đoạn, hoàn cảnh mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam, có rất nhiều chiến sĩ, đảng viên trong quá trình chiến đấu trên các chiến trường bị sa vào tay giặc, bị giam cầm tại các trại giam tù binh. Trong các trại giam tù binh, Mỹ và chính quyền Sài Gòn thực hiện chế lao tù khắc nghiệt để giam cầm cán bộ, chiến sĩ: huỷ hoại về thể xác, khủng bố về tinh thần, vô hiệu hoá các chiến sĩ cách mạng để khi trở về họ không thể tham gia chiến đấu hoặc hoạt động cách mạng... Vượt lên những khó khăn, thử thách để đáp ứng yêu cầu bức thiết của tình hình, cần có tổ chức để đấu tranh bảo vệ tù binh. Trong hoàn cảnh đặc biệt đó, mặc dù không nhận được sự chỉ đạo của tổ chức Đảng bên ngoài, nhưng với ý thức trách nhiệm của người đảng viên cộng sản, được trang bị lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin, tinh thần quyết tâm, kiên định lý tưởng của Đảng, cùng với sự chủ động, sáng tạo, những người đảng viên và chiến sỹ cách mạng trung kiên đã tìm ra nhiều hình thức phù hợp để tập hợp đảng viên, thành lập các tổ chức Đảng trong trại giam tù binh. Tại các trại giam, tù binh đã xây dựng được hàng trăm tổ chức Đảng. Tổ chức Đảng giữ vai trò lãnh đạo các hoạt động đấu tranh của tù binh chống chế độ lao tù dã man, tàn bạo, đấu tranh giữ vững khí tiết cách mạng, bảo vệ người tù cho đến ngày chiến thắng trở
  5. về... Nghiên cứu hoạt động của tổ chức Đảng trong trại giam tù binh góp phần làm sáng tỏ đặc điểm công tác xây dựng đảng trong nhà tù, hoạt động của tổ chức Đảng trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, nguy hiểm. Qua đó, khẳng định những đóng góp to lớn của tổ chức Đảng và tôn vinh những người đảng viên, tù binh, dù bị tù đày, tra tấn bằng nhiều hình thức tàn bạo, dã man, luôn phải đứng giữa cái sống và cái chết, nhưng tuyệt đại đa số họ vẫn giữ vững khí tiết cách mạng, kiên trung với đảng. Không những vậy, các chiến sĩ cách mạng còn biến nhà tù thành trường học cách mạng, không ngừng học tập, vươn lên chờ ngày chiến thắng trở về để tiếp tục đóng góp cho cách mạng, cho đất nước. Hiện thực lịch sử đấu tranh lâu dài, phong phú của cán bộ, chiến sĩ bị giam giữ trong các trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn còn hàm chứa nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác xây dựng Đảng trong một môi trường đặc biệt – môi trường nhà tù, một hiện thực hiếm thấy trong lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, rất cần được nghiên cứu và làm sáng rõ. Tuy nhiên, đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về hoạt động tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh của địch ở miền Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (từ năm 1966 đến năm 1973). Vì vậy, nghiên cứu hoạt động tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh góp phần "lấp đầy" những "khoảng trống" trong nghiên cứu lịch sử công tác xây dựng đảng trong hoàn cảnh đặc biệt tù đày, từ đó, đúc kết những kinh nghiệm về công tác xây dựng đảng, đặc biệt là công tác chính trị, tư tưởng cho đảng viên, góp phần vào công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới hiện nay. Với ý nghĩa đó, nghiên cứu sinh chọn đề tài: "Hoạt động của tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam từ năm 1966 đến năm 1973", làm đề tài Luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu - Làm rõ sự lãnh đạo và hoạt động các tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn từ năm 1966 đến năm 1973. Đúc kết những kinh nghiệm cho công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng vũ trang trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
  6. - Làm rõ yêu cầu khách quan và quá trình hình thành các tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh. - Phân tích, luận giải, làm rõ quá trình lãnh đạo và hoạt động của tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh từ năm 1966 đến năm 1973. - Đánh giá thành công và hạn chế hoạt động của tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh - Đúc kết những kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn từ hoạt động lãnh đạo đấu tranh của các tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh của địch. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu quá trình hình thành, chủ trương chỉ đạo và hoạt động các tổ chức Đảng trong trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam từ năm 1966 đến năm 1973. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Nghiên cứu sự ra đời, tổ chức lãnh đạo và hoạt động của các tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh trên các mặt: đấu tranh bảo vệ lý tưởng, bảo vệ khí tiết người cộng sản, chống cưỡng ép, chiêu hồi; đấu tranh bảo vệ tù binh, chống chế độ lao tù khắc nghiệt; đấu tranh biến nhà tù thành trường học cách mạng; đấu tranh vượt ngục tìm đường trở về với cách mạng. - Về thời gian: Nghiên cứu hoạt động của các tổ chức Đảng trong trại giam tù binh từ năm 1966 đến năm 1973. - Về không gian: Trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở cấp Trung ương và Vùng chiến thuật gồm 6 trại giam: Trại giam tù binh Hố Nai (Biên Hòa), Trại giam tù binh Pleiku (Gia Lai), Trại giam tù binh Non Nước (Đà Nẵng), Trại giam tù binh Phú Quốc (Kiên Giang), Trại giam tù binh Trà Nóc (Cần Thơ) và Trại giam tù binh nữ Phú Tài (Quy Nhơn). Luận án tập trung đi sâu nghiên cứu 2 trại giam tù binh chính mang tính điển hình là Trại giam tù binh Phú Quốc và Trại giam tù binh nữ Phú Tài. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận - Dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về công tác xây dựng Đảng. 4.2. Phương pháp nghiên cứu
  7. - Phương pháp lịch sử, lôgíc là chủ yếu và kết hợp với các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm. - Các phương pháp sử liệu học trong nghiên cứu lịch sử Đảng, đặc biệt là phương pháp phân loại sử liệu, phê phán sử liệu. - Khảo sát thực tế tại các trại giam tù binh và địa phương có các trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. - Phương pháp phỏng vấn nhân chứng. 5. Nguồn tài liệu - Các tài liệu về các văn kiện của đảng được in ấn, xuất bản, các công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và hệ thống trại giam của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam. - Tài liệu lưu trữ ở Văn phòng Trung ương Đảng, Cục An ninh, Trung tâm lưu trữ Quốc gia II... - Tập hợp các bài viết, các bài hồi ký của các chiến sĩ cách mạng từng bị bắt và tù đày trong các trại giam tù bình của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam. - Luận án cũng kế thừa những kết quả khoa học từ các công trình nghiên cứu của đề tài “Tổng kết công tác xây dựng Đảng và lãnh đạo đấu tranh trong các nhà tù trại giam của địch ở miền Nam (1954-1975)” do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì. 6. Đóng góp của luận án 6.1. Ý nghĩa khoa học - Làm rõ hoạt động của tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh - Bước đầu dựng lại một cách tương đối đầy đủ hoạt động của tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh. - Bước đầu nêu nên những nhận xét về tính chất, đặc điểm, thành công, hạn chế hoạt động của tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh - Đúc rút kinh nghiệm từ hoạt động của chức đảng trong các trại giam tù binh của địch, từ đó có những đóng góp vào công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng vũ trang. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu, giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung, và công tác xây dựng Đảng trong môi trường hoàn cảnh đặc biệt và công tác xây dựng đảng trong giai đoạn hiện nay.
  8. 7. Bố cục luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo. Luận án gồm 4 chương. Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1 TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1.1. Các bài viết, nghiên cứu của học giả trong và nước ngoài viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam từ 1954 đến 1975 Trước hết, là các công trình nghiên cứu của Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam viết về Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, xuất bản từ năm 1996 đến năm 2012, gồm 9 tập. Các công trình nghiên cứu của Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: Thắng lợi và bài học, Nxb CTQG, 1995; Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975: Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. Các công trình nghiên cứu của học giả nước ngoài quan như: Sự lừa dối hào nhoáng, tập 1, 2, của N.Sheehan Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1990; Những bí mật về chiến tranh Việt Nam (Hồi ức về Việt Nam và hồ sơ Lầu Năm Góc), của Daniel Ellsberg, Nxb Công an nhân dân, 2006; Hồ sơ chiến tranh Việt Nam tiết lộ lịch sử bí mật của chiến lược thời Nixon của Jeffrey Kimball, Nxb Công an nhân dân, 2007; Đội quân bí mật cuộc chiến bí mật của Sedgwick Tourson Nxb Công an nhân dân, 1996; Gi.A. Amtơ (1985), Lời phán quyết về Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân; Cuộc chiến tranh dài ngày nhất nước Mỹ, của G.C Herring, Nxb CTQG, Hà Nội, 1998; Việt Nam - cuộc chiến tranh mười nghìn ngày. Các cuốn sách mà tác giả từng là quan chức cấp cao trong Chính phủ Mỹ và quân đội Mỹ những năm Mỹ dính líu đến Việt Nam. Cụ thể như: Tấn thảm kịch và Những bài học về Việt Nam, Nxb CTQG, 1995 của Bộ trưởng quốc phòng Mỹ R Macnamana; Hồi ký của Linđơn Giônxơn, Nxb Việt Nam thông tấn xã, 1972 của Tổng thống Mỹ Linđơn Giônxơn; cuốn Hồi ký Richard Nixon, Nxb Công an nhân dân, 2004 của Tổng thống Mỹ Richard Nixon; cuốn Tường trình của một quân nhân, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1998 của Đại tướng William.
  9. C. Westmoreland, người trực tiếp chỉ huy quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam. Các công trình trên cung cấp một phông kiến thức chung để về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Chính sách của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đối với tù chính trị, tù binh ở miền Nam và phần nào phản ánh các cuộc đấu tranh của tù nhân tại miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu về nhà tù, trại giam của Mỹ và chính quyền Sài Gòn Trại giam tù binh Phú Quốc thời kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2012 của Ban Liên lạc tù binh Việt Nam và cuốn Trại giam tù binh Phú Quốc, những trang sử đẫm máu 1967-1973, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Trần Văn Khiêm; Cuốn sách Đây, các nhà tù Mỹ - ngụy, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995 của tác giả Trần Thanh Phương; Sách Những ngày tù ngục, Sở Văn hóa - Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh, 1995 do Tổ sử phụ nữ Nam Bộ chủ biên, Hàn Song Thanh ghi; Cuốn Lịch sử đấu tranh yêu nước và cách mạng tại nhà lao Quảng Trị (1930-1972), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009 do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Trị chủ biên; Cuốn Lịch sử đấu tranh cách mạng ở nhà lao Hội An (1947-1975), Quảng Nam, 2004 của tác giả Nguyễn Nhã Tiên; Cuốn Ghi chép nữ tù binh trong hoả ngục Phú Tài do Ban Liên lạc nữ tù thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1992; Cuốn Những cuộc vượt ngục lịch sử ở các nhà tù Việt Nam trong kháng chiến chống xâm lược, Nxb Lao động Xã hội, 2014 của tác giả Lê Hồng Hải. Các bài viết trong Kỷ yếu Hội thảo Di tích lịch sử nhà tù Phú Quốc, tháng 3-1995. Các bài nghiên cứu, bài tham luận tại 4 cuộc Hội thảo khoa học về "Tổng kết công tác xây dựng Đảng và lãnh đạo đấu tranh trong các nhà tù, trại giam của địch thời kỳ 1954-1975" do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Ban Liên lạc tù binh, tù chính trị Việt Nam tổ chức tại Hà Nội năm 2012, Đà Nẵng ngày 5-8-2013; tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2014; tại Cần Thơ năm 2014. Các công trình nghiên cứu về tội ác của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đối với tù nhân như: Tội ác khủng bố, tra tấn, tù đày của đế quốc Mỹ và tay sai đối với nhân dân miền nam Việt Nam: Cuốn sách thứ 5 tố cáo tội ác, Nxb Sự Thật, 1968; Toàn thế giới lên án đế quốc
  10. Mỹ can thiệp vào miền Nam Việt Nam. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1961; cuốn Người bị CIA cưa chân sáu lần, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2006 của tác giả Mã Thiện Đồng; sách Tù chính trị tại miền Nam Việt Nam sau Hiệp định Pari tập 1, xuất bản năm 1973, của Ban Vận động cải thiện chế độ lao tù miền Nam Việt Nam. Các công trình nghiên cứu về nhà tù, trại giam của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, trình bày khái quát quá trình hình thành và chế độ lao tù của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, chế độ cai trị hà khắc, thủ đoạn thâm độc của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đối với tù binh. 1.1.3. Các công trình nghiên cứu của Ban Tuyên giáo và Hội Tù yêu nước các tỉnh, thành về các cuộc đấu tranh của các chiến sĩ cách mạng trong nhà tù, trại giam của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Tập hợp các bài viết, các công trình nghiên cứu của Hội Tù yêu nước Thừa Thiên Huế; Hội Tù yêu nước Thành phố Đà Nẵng; Hội Tù yêu nước tỉnh Quảng Nam; Ban Liên lạc tù chính trị yêu nước Quảng Ngãi; Hội Cựu tù chính trị cách mạng tỉnh Bình Định; Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Yên, Hội Tù chính trị yêu nước tỉnh Phú Yên; Hội cựu tù chính trị Bình Thuận; Ban Liên lạc tù chính trị yêu nước tỉnh Gia Lai; Ban Liên lạc tù chính trị tỉnh Kon Tum; Ban Liên lạc tù chính trị tỉnh Khánh Hòa; Ban Liên lạc cựu tù chính trị, tù binh tỉnh Kiên Giang; Ban Liên lạc cựu tù chính trị, tù binh tỉnh An Giang; Ban Tuyên giáo-Ban liên lạc các chiến sĩ cách mạng bị địch bắt và tù đày đang sinh hoạt tại Hà Nội. Các công trình khái quát hệ thống nhà tù, trại giam của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trên toàn miền Nam từ cấp Trung ương đến địa phương. Các tác giả cũng miêu tả một cách khách quan và chân thực những gì mà các tác giả phải trải trong khi bị giam giữ trong các nhà tù, trại giam tù binh của địch. Các bài viết đó lên án, tố cáo tội ác dã man, phi nhân tính của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trong việc đối xử với tù nhân, tù binh, không tôn trọng Công ước Giơnevơ năm 1949 về việc đối xử với tù binh. 1.1.4. Một số luận văn, luận án có liên quan đến đề tài Luận văn Vấn đề cải huấn tại Việt Nam, tại Học viện Quốc gia Hành chánh Sài Gòn năm 1969 của tác giả Nguyến Tiến Thịnh, Luận văn Chế độ cải huấn tại trung tâm cải huấn Chí Hòa của tác giả Lạc Thái Hiền và Luận văn Trại giam nữ tội phạm, Luận văn Đốc sự hành chánh, Học viện Hành chính Sài Gòn năm 1971 của tác giả
  11. Thái Công Thú; Bản luận án Tiến sĩ y khoa Nhận xét về bệnh lý tại một nhà lao (năm 1972) của Nguyễn Minh Triết; Luận án tiến sĩ lịch sử của Nguyễn Đình Thống Đấu tranh chính trị của các chiến sĩ cách mạng trong nhà tù Côn Đảo (1955-1975), bảo vệ tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 1994; Luận án tiến sĩ lịch sử Phong trào đấu tranh của nữ tù chính trị tại các nhà tù của Mỹ - Ngụy ở miền Nam (1954-1975), của tác giả Nguyễn Thị Hiển Linh, bảo vệ tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2004. 1.1.5. Các bài nghiên cứu trên các tạp chí Trước năm 1975, ngay dưới chế độ của chính quyền Sài Gòn đã có nhiều công trình nghiên cứu trên báo chí, xuất hiện một chuyên đề phản ảnh tình hình chính trị, đời sống xã hội của người tù ở miền Nam, đăng trên nhiều tạp chí, nội san thông tin: Tạp chí lao tù của Ủy ban đòi quyền sống. Sau năm 1975, các nhà nghiên cứu tiếp tục đi sâu nghiên cứu về chế độ lao tù của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, tiêu biểu như: Nguyễn Xuân Minh, Biến trại giam của đế quốc thành nơi rèn luyện tinh thần, ý chí cách mạng của các chiến sĩ cộng sản, Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng 6-1996; Phùng Đức Thắng, Phú Quốc - Những chặng đường đấu tranh cách mạng 1930 - 1975), Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng 2-2001; Trần Tiến Hoạt, "Chuồng cọp kẽm gam trại giam tù binh cộng sản ở Phú Quốc, Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng 12- 2001; Trần Minh Sơn, Đường dây Côn Đảo - Trung ương Cục, một thành công của công tác an ninh trong nhà tù thời Mỹ - nguỵ. Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng 2-1996; Ngô Đình Trí, Bản di chúc của Bác Hồ ở nhà lao Hội An trong những năm 1969 - 1975. Tạp chí Lịch sử Đảng, Số 11 - 2004 Những bài viết trên đã trình bày khái quát hoặc đề cập một số khía cạnh về hệ thống nhà tù của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Âm mưu thủ đoạn đàn áp và các hình thức tra tấn tù binh của địch. Đồng thời các bài viết cũng đề cập phần nào hoạt động của các tổ chức Đảng trong nhà tù, trại giam của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. 1.1.5. Sách, báo nước ngoài viết về nhà tù Jean Pierre Debris, Andre Menras, Thoát khỏi ngục tù Sài Gòn, chúng tôi tố cáo (Dịch: Nguyễn Vĩnh, Thu Hà), Nxb.Trẻ, 2004; cuốn Những con tin chiến tranh - các tù chính trị ở Sài Gòn, tác giả Holmes Bown và Don Luce.
  12. Một số tuần báo nước ngoài cũng góp sức lên án chế độ nhà tù của chính quyền Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam như: Life Asia, Times vào các năm 1970-1973. Nội dung các bài báo trên nêu thực trạng các nhà tù, trại giam tù binh, đặc biệt nhà tù Côn Đảo, cảnh bắt bớ những người dân vô tội tại các vùng đất ở miền Nam có quân Mỹ chiếm đóng..., cùng nhiều tư liệu quý rải rác trong thư khố của các trung tâm lưu trữ. Tất cả đều nhất loạt nói lên sự quan tâm, ủng hộ tù nhân của hầu hết người dân Sài Gòn, đồng bào cả nước và bạn bè quốc tế, qua đó, lên án chế độ lao tù nghiệt ngã của chính quyền Sài Gòn. 1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TẬP TRUNG NGHIÊN CỨU - Hệ thống hóa tư liệu, tập hợp tư liệu, tài liệu lịch sử về chế độ giam giữ tại các trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam. - Làm rõ quá trình hình thành các trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam từ năm 1966 đến năm 1973. - Làm rõ yêu cầu khách quan sự ra đời tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh. - Làm rõ những tội ác, sự vi phạm luật pháp quốc tế về tù binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trong việc giam giữ, tra tấn tù binh . - Tái hiện, phân tích, luận giải quá trình lãnh đạo và hoạt động của tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh trong các phong trào đấu tranh để bảo vệ khí tiết người cộng sản, đòi thực hiện công ước Gieneve về tù binh, chống chế độ lao tù khắc nghiệt, đấu tranh được học tập để sau này tiếp tục cống hiến phục sự cho các mạng... - Đánh giá những thành công và hạn chế của hoạt động tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh. - Đúc kết những kinh nghiệm có ý nghĩa lịch sử, lý luận và thực tiễn từ hiện thực hoạt động lãnh đạo của tổ chức Đảng, giam của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
  13. Chương 2 SỰ HÌNH THÀNH TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG CÁC TRẠI GIAM TÙ BINH TỪ NĂM 1966 ĐẾN NĂM 1973 2.1. CHẾ ĐỘ GIAM CẦM VÀ CÁC HÌNH THỨC GIAM CẦM, TRA TẤN CỦA MỸ VÀ CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN TRONG CÁC TRẠI GIAM TÙ BINH 2.1.1 Quá trình hình thành các trại giam tù binh Từ ngày 1-5-1966 đến ngày 18-9-1967, Mỹ và chính quyền Sài Gòn lần lượt xây dựng và đưa vào sử dụng các trại giam tù binh tại các vùng chiến thuật: Trại giam tù binh Phú Quốc (Kiên Giang), Trại giam tù binh Phú Tài (Bình Định), Trại giam tù binh Hố Nai (Biên Hòa), Trại giam tù binh Pleiku (Gia Lai), Trại giam tù binh Non Nước (Đà Nẵng); Trại giam tù binh Trà Nóc (Cần Thơ). Về cơ bản, các trại giam này tồn tại cho đến năm 1973, khi đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn buộc phải thực hiện việc trao trả tù binh theo quy định của Hiệp định Pari. 2.1.2. Chế độ giam cầm và các hình thức giam cầm trong các trại giam tù binh Âm mưu xuyên suốt nhất quán đối với tù binh là: Hủy diệt tinh thần lẫn thể xác, dùng mọi thủ đoạn vô hiệu hóa người tù binh cộng sản, tù đày tra tấn tàn phế, bôi lem về chính trị, nếu còn sống trở về không thể tiếp tục hoạt động cách ma ̣ng, không còn tín nhiệm với Đảng với dân, là xác không hồn gánh nặng cho gia đình và xã hội. Vì vậy, Mỹ và chính quyền Sài Gòn sử dụng các hình thức giam cầm, tra tấn vô cùng tàn bạo và khắc nghiệt Một số hình thức giam cầm tù binh điển hình: "Chuồng cọp"; giam tù bằng thùng “cát xô” sắt; giam nhiều người ở cùng một phòng; tách biệt từng người, từng phòng, từng trại; cấm cố, biệt giam... 2.1.3 Các hình thức tra tấn của chính quyền Sài Gòn đối với tù binh Trong các trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn áp dụng nhiều hình thức tra tấn cực kỳ dã man, từ những hình thức tra tấn hiện đại đến những hình thức tra tấn kiểu trung cổ: nhốt vào chuồng cọp, lộn vỉ sắt, đánh bằng chày vồ, đánh bằng gậy và dùi cui, đánh bằng roi cá đuối, gõ thùng, treo lên trần nhà, trấn nước, đục răng và bẻ răng, lấy móng tay, móng chân, chiếu đèn cho mù mắt,
  14. ném người vào chảo nước sôi, dội nước sôi lên người; nướng người tù trên lửa, đốt vào mặt người tù cho mù mắt, đổ nước xà phòng sôi vào miệng người tù, đốt miệng và đốt cháy bộ hạ người tù, chôn sống tù binh... Đối với tù binh nữ, ngoài những đòn tra tấn dã man, chúng tận dụng cả quan niệm về lối sống, đạo đức của dân tộc làm phương tiện để tra tấn tù binh. Chúng gọi đó là những hình thức tra tấn “đặc biệt” dành cho nữ tù binh như: Bắt nữ tù cởi hết quần áo, tra tấn, đánh đập họ trước mặt những người thân chồng, con, cha mẹ; bắt mẹ lìa con... Đặc biệt trầm trọng, chính quyền đã ra lệnh cho lính quân cảnh xả súng giết một lúc hàng loạt tù binh Cộng sản Việt Nam. 2.2. XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG CÁC TRẠI GIAM TÙ BINH 2.2.1 Thành lập các tổ chức Đảng trong trại giam tù binh Trước yêu cầu bức thiết của tình hình, với ý thức trách nhiệm của người đảng viên cộng sản, những chiến sĩ cách mạng kiên trung đứng lên thành lập các tổ chức Đảng trong các trại giam, phòng giam mà không chờ sự hướng dẫn, sự chỉ đạo nào của các tổ chức Đảng cấp trên, và thực tế cũng không thể có sự chỉ đạo từ các tổ chức Đảng bên ngoài đối với việc thành lập tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh. - Thành lập tổ chức Đảng trong Trại giam nữ tù binh Phú Tài: nhân ngày kỷ niệm Cách mạng tháng Tám thành công 19-8- 1968, lấy biệt hiệu là BK1968 (BK có nghĩa là Bất khuất). Đảng bộ gồm 10 chi bộ theo từng huyện, huyện nào không đủ số lượng đảng viên thì lập chi bộ ghép. Mỗi chi bộ khoảng 15-17 đảng viên, bầu ra một Chi ủy để lãnh đạo chi bộ. - Thành lập tổ chức Đảng trong Trại giam tù binh Phú Quốc Trong Trại giam tù binh Phú Quốc, mỗi phân khu thành lập 1 Đảng bộ. Để bảo đảm bí mật, Đảng bộ được gọi là Liên chi, dưới là chi bộ, tổ đảng. Ban Chấp hành Liên chi gồm 5 đồng chí: 1 Bí thư, 1 Phó Bí thư và 3 ủy viên. Do điều kiện hoạt động bí mật nên phải áp dụng hình thức gần như đơn tuyến. Các tổ chức Đảng ở trại giam tù binh Phú Quốc đều sinh hoạt độc lập trong từng phân khu giam và từng phòng giam. Sự liên kết giữa các liên chi bộ và tập hợp thành cấp cao hơn là Đảng ủy cũng có thể liên kết với nhau. Khi địch chuyển từ trại này sang trại khác, các
  15. tổ chức Đảng bị xáo trộn, tổ chức Đảng phải mất thời gian móc nối lại. Bộ phận nào còn ít thì gia nhập vào một tổ chức khác. - Thành lập tổ chức Đảng trong Trại giam tù binh Pleiku: Ngày 3-2-1967, tại nhà bếp (phòng số 1), Chi bộ trại giam tù binh Pleiku được thành lập, mang tên chi bộ "Ba tháng Hai". Đến cuối tháng 9-1967, Trại giam Pleiku có 5 chi bộ và 4 chi đoàn gồm: Chi bộ "Ba tháng Hai", Chi bộ phòng Y tá, Chi bộ phòng chuyên nghiệp, Chi bộ phòng thương binh và Chi bộ đại đội hai. - Thành lập tổ chức Đảng trong Trại giam tù binh Non Nước (Đà Nẵng). Từ năm 1967, ở Trại giam Non Nước đã có tổ chức Đảng, đến ngày 14-2-1969, thành lập Đảng bộ chung của toàn trại với bí số là 1402. Đảng bộ gồm 6 chi bộ: Chi bộ miền Bắc, Chi bộ Quảng Trị, Chi bộ Thừa Thiên, Chi bộ Quảng Đà, Chi bộ Quảng Tín và Chi bộ Quảng Ngãi. - Thành lập tổ chức Đảng trong trại giam tù binh Hố Nai (Biên Hòa). Tại nhà tù Hố Nai (Biên Hòa), các tù binh lợi dụng được đi chung một khu vệ sinh, nên đã bí mật móc nối với nhau, tuy bị an ninh theo dõi rất chặt chẽ. Tổ chức Đảng “Khu nan y tàn phế” đã được hình thành từ trước, với nguyên tắc bảo đảm bí mật. Toàn khu hình thành một Ban Chấp hành Đảng bộ. Hoạt động của các tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh đều căn cứ Điều lệ Đảng, tổ chức Đảng trong trại giam cũng tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ với nội dung chính là cá nhân phục tùng tổ chức, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng bộ phục tùng Đảng ủy của phân khu. 2.2.2 Tập hợp đảng viên và phát triển đảng viên trong các tổ chức Đảng Tất cả các đảng viên được tập hợp vào tổ chức Đảng, đều phải trải qua một thời gian bí mật tìm hiểu, xác minh lai lịch. Việc xác minh rất thật thận trọng, người nào đạt được các quy định ấy mới được tập hợp vào tổ chức Đảng, tránh trường hợp kẻ địch gài người vào phá hoại cơ sở các mạng. Trong quá trình đấu tranh trong trại giam, các chi bộ, Đảng ủy phát hiện ra những tù binh trung kiên, có tinh thần đoàn kết, gương mẫu trong đấu tranh, lý lịch rõ ràng, trường hợp bị bắt, bị thẩm vấn và thái độ đối với địch trong trại giam không có vấn đề gì. Sau đó, chi bộ cử người kèm cặp, giúp đỡ, thử thách và cho học một lớp theo chương trình dành cho đối tượng Đảng. Khi các mặt đã đạt, hai
  16. người giới thiệu báo cáo với chi bộ, chi ủy thông qua và đề nghị Đảng ủy ra quyết định kết nạp vào Đảng. Thời gian dự bị tính theo Điều lệ Đảng. Tiểu kết: Dưới chế độ lao tù hết sức tàn bạo, với những âm mưu, thủ đoạn chống phá tổ chức liên tục và tinh vi, vượt lên những khó khăn, thử thách để đáp ứng yêu cầu bức thiết của đòi hỏi tình hình, tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh được thành lập. Tù binh đã xây dựng được hàng trăm tổ chức Đảng, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong các hoạt động đấu tranh chống chế độ lao tù dã man, tàn bạo, giữ vững khí tiết cách mạng, bảo vệ người tù cho đến ngày chiến thắng trở về là thắng lợi to lớn. Kẻ địch không thể lường được, ngay trong vòng vây của những hàng rào thép gai dày đặc, sự kiểm soát gắt gao của bộ máy cai ngục với đủ loại công cụ tra tấn dã man, tàn bạo nhất, các tổ chức Đảng của cán bộ, chiến sĩ đã hình thành, ngày càng được củng cố và hoạt động lãnh đạo đấu tranh chống lại chế độ lao tù tàn bạo của chúng. Chương 3 TỔ CHỨC ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH TRONG CÁC TRẠI GIAM TÙ BINH TỪ NĂM 1966 ĐẾN NĂM 1973 3.1. LÃNH ĐẠO TÙ BINH ĐẤU TRANH BẢO VỆ LÝ TƯỞNG, BẢO VỆ KHÍ TIẾT NGƯỜI CỘNG SẢN, CHỐNG CƯỠNG ÉP, CHIÊU HỒI 3.1.1. Đấu tranh bảo vệ lý tưởng, bảo vệ khí tiết, chống cưỡng ép chiêu hồi. Trong Trại giam tù binh, một trong những hoạt động đấu tranh đầu tiên là phản đối cách gọi miệt thị, xúc phạm cán bộ, chiến sĩ bị bắt làm tù binh như: “phiến cộng", “quân đột nhập” hay “Trại giam tù binh phiến cộng Trung ương”. Cuộc đấu tranh đó là vì danh dự của người chiến sĩ cách mạng, vì quyền lợi về mặt chính trị của tù binh theo Công ước quốc tế. Các tổ chức Đảng trong các phòng giam, các phân khu đã vận động, giải thích ý nghĩa sâu sắc đó của cuộc đấu tranh, nên thu hút sự tham gia ngày càng đông đảo của tù binh buộc địch phải công nhận họ là tù binh và đối xử theo công ước Quốc tế về tù binh năm 1949. Cuộc đấu tranh chống cưỡng ép, chiêu hồi diễn ra vô cùng ác liệt, địch dùng mọi thủ đọan để cưỡng ép tù binh vào khu "Tân sinh
  17. hoạt", dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, tù binh liên tục đấu tranh nhiều cuộc đấu tranh thắng lợi, nhưng bên cạnh đó, nhiều tù binh chấp nhận vào khu Tân sinh hoạt. Số này phần đông là dân thường đang làm ăn bị địch càn quét, bắt bớ, một số người mới tham gia du kích, tham gia giúp đỡ cách mạng chưa có rèn luyện, không chịu được gian khổ và số ít là cán bộ, chiến sĩ đầu hàng. Trại giam tù binh Phú Quốc ước tính có gần 10.000 người vào khu tân sinh hoạt. 3.1.3 Đấu tranh được để tang Chủ tịch Hồ Chí Minh Gắn liền với cuộc đấu tranh bảo vệ lý tưởng cộng sản, bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng là cuộc đấu tranh bảo vệ thanh danh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nội dung đấu tranh này xuất hiện trong trại giam tù binh và được coi như một thước đo về lòng kiên trung cách mạng. Cuộc đấu tranh này mang tính tự giác rất cao, được thực hiện không chỉ trong bộ phận đảng viên mà cả trong những quần chúng ưu tú. Cuộc đấu tranh bảo vệ thanh danh Bác Hồ còn được thể hiện trong các nhà tù, trại giam trong việc để tang, tổ chức truy điệu Người vào tháng 9-1969. Trước sự đàn áp, khủng bố của địch, nhưng với bản lĩnh, khí phách và tình cảm của những chiến sĩ cách mạng đối với vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc không gì lay chuyển nổi, buộc địch phải chấp nhận để các chiến sỹ được để tang Chủ tịch Hồ Chí Minh. 3.2. ĐẤU TRANH BẢO VỆ TÙ BINH, CHỐNG CHẾ ĐỘ LAO TÙ KHẮC NGHIỆT 3.2.1 Đấu tranh đòi thực hiện công ước về tù binh, đòi dân sinh, dân chủ, cải thiện chế độ lao tù, chống tra tấn, đánh đập tù binh Đấu tranh đòi thực hiện công ước về tù binh và cải thiện dân sinh, đòi quyền dân chủ gồm nhiều nội dung: yêu cầu chính quyền Sài Gòn công nhận là tù binh, yêu cầu cấp phát quần áo đầy đủ, chỗ ở thoáng mát, được chữa bệnh có đủ thuốc men, được ăn cơm no, thêm chất rau tươi, chống đánh đập, biệt giam, chống cai ngục bắt đi lao động nặng nhọc, chống việc làm “khổ sai”, tạp dịch như đi đào đắp công sự, rào kẽm gai, giúp việc cho gia đình giám thị và lãnh đạo trại giam... Ở hầu hết trại giam tù binh, tù binh đều chống lại hình thức này, ít thì trốn tránh, lãn công, khi có điều kiện thì tuyên bố chống đi làm những việc đó. Họ cũng chống lại cả những việc có tính nô dịch hạ thấp nhân phẩm như bổ củi, gánh nước làm việc sai vặt cho gia đình chỉ huy trại giam hoặc cai ngục… Nhiều phong trào đấu tranh gây được tiếng vang, ảnh hưởng rộng về mặt chính trị, góp
  18. phần tố cáo tội ác chính quyền Sài Gòn rất có hiệu quả. Các cuộc đấu tranh mang nội dung này diễn ra liên tục hằng ngày, hằng giờ ở khắp các hệ thống trại giam tù binh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. 3.2.2 Diệt mật báo và trật tự ác ôn bảo vệ tổ chức Đảng, bảo vệ tù binh Để ngăn chặn mật báo và trật tự, tổ chức Đảng trong các trại giam ra nghị quyết trừng trị những tên phản bội đó. Tùy theo tội ác của chúng mà tổ chức Đảng có kế hoạch đối phó: nếu tội còn nhẹ thì cảnh cáo răn đe và giáo dục, mở đường cho họ trở về phía tù binh; những trường hợp phá hoại gây tổn thất lớn cho tù binh thì có kế hoạch tiêu diệt; những tên trật tự đi lẻ mà giám thị cài vào, tù binh theo dõi, phát hiện sẽ đánh đuổi chúng ra khỏi phân khu và tuyên bố thẳng không cho ở chung cùng tù binh, còn nếu cứ vào thì không đảm bảo tính mạng cho chúng. Trong đấu tranh, thái độ của tù binh rất kiên quyết nên đã làm giám thị sợ trách nhiệm nếu có án mạng xảy ra, mật vụ cũng sợ bị giết nên không dám ở trong trại, buộc giám thị phải chuyển những tên này đi nơi khác. Đối với trật tự, nhất là ở những nơi chúng đã tập hợp thành đội, việc đối phó với chúng khó khăn hơn, nhiều lúc phải dùng đến bạo lực, chấp nhận đổ máu và không phải tất cả các cuộc đấu tranh đều thu được thắng lợi trọn vẹn. 3.3. ĐẤU TRANH BIẾN NHÀ TÙ THÀNH TRƯỜNG HỌC CÁCH MẠNG 3.3.1 Học tập văn hóa trong tù Biến nhà tù thành trường học cách mạng, học tập để tự nâng cao trình độ học lực và chuyên môn là một cuộc đấu tranh một mất, một còn như các cuộc đấu tranh sinh tồn khác. Dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng trong nhà lao, cuộc đấu tranh này đã góp phần quan trọng, như chất keo đặc biệt bó kết các chiến sĩ bị địch bắt tù đày lại với nhau, giúp nhau nâng cao hiểu biết, không sa ngã, cùng nhau giữ vững khí tiết và niềm tin cho đến ngày chiến thắng. Nhưng để tổ chức được việc học tập trong tù là việc làm không đơn giản. Địch tìm mọi cách để phá hoại phong trào học tập văn hóa trong tù. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, trong các trại giam tù binh, phong trào học tập vẫn diễn ra sôi nổi, được đông đảo tù binh tham gia. 3.3.2 Hoạt động văn nghệ trong tù
  19. Trong các trại giam tù binh, hoạt động văn hóa, văn nghệ của các chiến sĩ cách mạng luôn bị kiểm soát nghiêm ngặt. Những người tham gia các hoạt động này là cái cớ để kẻ thù tra tấn dã man như: xé mồm, rạch miệng… Mặc dù vậy, hoạt động văn hóa, văn nghệ vẫn được tổ chức Đảng trong các trại giam đưa vào thành nghị quyết, trở thành phong trào hoạt động sôi nổi như phong trào học tập. Tổ chức Đảng trong các trại giam tù binh chủ trương tập hợp các đồng chí văn nghệ sỹ; chỉ đạo tổ chức sưu tầm và phổ biến thơ, ca cách mạng; động viên tù binh sáng tác thơ, kịch, tấu, hài để biểu diễn... Tù binh vừa là người sáng tác kịch bản, vừa là đạo diễn, diễn viên và khán giả, giúp tù binh giải trí, lạc quan yêu đời, tin tưởng hơn vào thắng lợi của cách mạng. 3.4. ĐẤU TRANH VỚI ĐỊCH ĐỂ TRỞ VỀ VỚI CÁCH MẠNG 3.4.1 Tổ chức cho tù binh vượt ngục trở về với cách mạng Vượt ngục tự giải thoát là hình thức đấu tranh mạo hiểm, quyết liệt, có khi bị địch bắt lại hoặc bắn chết ngang đường, kể cả khi những người trốn thoát được, người còn trong trại giam bị khủng bố, trả thù rất dã man. Song, đấu tranh tự giải thoát vượt ngục bằng nhiều hình thưc vẫn được thực hiện với quyết tâm rất cao, hành động rất quả cảm, giành được thắng lợi, nhưng cũng chịu tổn thất lớn. Những cuộc đi lẻ, tự phát bị tổn thất, những cuộc có chuẩn bị, có lãnh đạo giảm được thiệt hại hơn. Tại Phú Tài, từ năm 1967 đến năm 1972 có 5 cuộc vượt ngục. Từ năm 1967 đến tháng 4-1972, tù binh tại Trại giam tù binh Phú Quốc đã tổ chức hơn 40 cuộc vượt ngục, có khoảng 400 người vượt ngục, nhưng số vượt ngục thắng lợi, về tới được căn cứ 239 người. Số còn lại bị địch bắt hoặc hy sinh trên đường vượt ngục. Trong 42 cuộc vượt ngục, có 17 cuộc đi lẻ, vượt rào có 15 cuộc; đánh quân cảnh cướp súng để vượt ngục có 7 cuộc. 3.4.2. Đấu tranh đòi Mỹ và chính quyền Sài Gòn nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Pari Bên cạnh hình thức vượt ngục, tự giải thoát, tổ chức Đảng, các đảng viên, chiến sĩ yêu nước và cách mạng tại các nhà tù, trại giam đã sử dụng căn cứ pháp lý để đấu tranh với địch, buộc chúng phải trao trả tù nhân. Đó là cuộc đấu tranh đòi địch trao trả theo Hiệp định Pari năm 1973.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2