intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Hội truyền bá Quốc ngữ và tác động của nó đến xã hội Việt Nam (1938-1945)

Chia sẻ: Phan Phan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:19

86
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án "Hội truyền bá Quốc ngữ và tác động của nó đến xã hội Việt Nam (1938-1945)" trình bày về các nội dung: sự ra đời của Hội Truyền bá Quốc ngữ, quá trình hoạt động của Hội Truyền bá Quốc ngữ, những ảnh hưởng của Hội Truyền bá Quốc ngữ đến xã hội Việt Nam. Để biết rõ hơn về nội dung chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Hội truyền bá Quốc ngữ và tác động của nó đến xã hội Việt Nam (1938-1945)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XàHỘI VÀ NHÂN VĂN  LÊ VĂN PHONG H Ộ I TRUY Ề N BÁ QU Ố C NG Ữ  VÀ TÁC Đ Ộ NG C Ủ A NÓ  Đ Ế N XàH Ộ I VI Ệ T NAM (1938­1945)                      Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam cận đại và hiện đại                       Mã số: 62.22.54.05 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ 1
  2. Công trình được hoàn thành tại:  Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn Trường Đại học Quốc gia Hà Nội Người hướng dẫn khoa học:     PGS.TS. Phạm Xanh Phản biện 1:…………………………………………………….. Phản biện 2:…………………………………………………….. Phản biện 3:……………………………………………………. Luận án sẽ được bảo vệ trược Hội đồng cấp cơ sở chấm luận án tiến sĩ họp  tại…………………………………………………… vào hồi    …….. giờ …….ngày ……..tháng……. năm…….. Có thể tìm hiểu luận án tại: ­ Thư viện Quốc gia Việt Nam 2 ­ Trung tâm Thông tin – Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội 
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Trong một thời gian dài nhiều thế kỷ, người Việt sử dụng chữ Hán và chữ  Nôm làm   công cụ biểu đạt tình cảm, tư tưởng, văn hoá Việt Nam. Đến giữa thế kỷ XVII, qua sự tiếp xúc với   người phương Tây, đặc biệt là với giới giáo sĩ truyền bá đạo Thiên chúa đã dẫn đến một bước   ngoặc mới của văn hoá, tư tưởng Việt Nam, đó là sự xuất hiện của chữ Quốc ngữ. Nhưng mục tiêu   ban đầu của các nhà sáng tạo ra chữ Quốc ngữ là tạo ra một công cụ truyền đạo (bằng tiếng Việt)  và phổ biến kinh bổn. Do đó, chữ Quốc ngữ chưa vượt khỏi phạm vi Kitô giáo. Thế  là, phải trải qua một thời gian đấu tranh lâu dài giữa ý thức dân tộc với nhà nước   thực dân, thì chữ  Quốc ngữ  mới dành được vị  trí xứng đáng trong xã hội Việt Nam, trở  thành   một bước ngoặt trong sự phát triển của văn hoá, của tư tưởng người Việt. 1.2. Vào những năm 30 của thế kỷ XX, trước nạn mù chữ của quốc gia dân tộc cùng với  yêu cầu thiết tha, mong mỏi của quần chúng lao động thất học, giới trí thức Việt Nam xuất hiện   ý tưởng phổ biến chữ Quốc ngữ vốn dĩ những nhà Duy tân trong Đông Kinh nghĩa thục đã thực   hiện từ những năm đầu của thế kỷ XX. Nguyễn Văn Tố  cùng Phan Thanh, Bùi Kỷ, Đặng Thai   Mai, Võ Nguyên Giáp. . . ti ến hành th ả o lu ậ n và đi đ ế n quy ế t đị nh xin phép thành lậ p Hộ i  Truy ề n bá Qu ố c ng ữ.  Trong suốt thời gian tồn tại và hoạt động từ năm 1938 đến năm 1945, Hội góp phần xoá nạn  mù chữ, bước đầu xây dựng một nền giáo dục bình dân, bãi bỏ những tệ nạn hủ tục, nâng cao dân   trí, phổ biến chữ Quốc ngữ và đóng góp vào thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng   Tám năm 1945. Những thành tựu mà Hội đạt được là không nhỏ đối với lịch sử dân tộc trong những  năm trước cách mạng tháng Tám 1945. Nhưng cho đến ngày nay chưa có công trình nghiên cứu  một  cách toàn diện và hệ thống về Hội Truyền bá Quốc ngữ, nhất là nghiên cứu về những tác động của   Hội đến xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.   3
  4. 1.3. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ  cộng hoà ra  đời, do Chủ  tịch Hồ  Chí Minh lãnh đạo, đã quyết định dùng chữ  Quốc ngữ  làm chữ  viết chính  thức cho dân tộc Việt Nam. Đồng thời, khẳng định dứt khoát vị trí độc tôn của  chữ Quốc ngữ. Chính phủ quyết định thành lập Nha Bình dân học vụ.  Lúc này Hội Truyền bá Quốc ngữ hết  vai trò lịch sử và trở thành tổ chức tiền thân của Nha Bình dân học vụ. Nghiên cứu về Hội Truyền   bá Quốc ngữ sẽ góp phần bổ cứu thêm những tư liệu cho các thế hệ sau hiểu hơn về sự tồn tại,   hoạt động và đóng góp của Hội đối với lịch sử dân tộc. Đồng thời, biết được những cống hiến, hy   sinh vô cùng to lớn của các nhân sĩ, trí thức trong những năm 30, 40 của thế kỷ XX.  1.4. Hiện nay, một bộ phận người Việt Nam, đặc biệt là thế  hệ trẻ  do chịu sự tác động  của lối sống thực dụng nên có nhiều biểu hiện xem nhẹ chữ Quốc ngữ và tiếng Việt. Nhiều gia  đình, nhà trường chạy theo lợi ích trước mắt chỉ đề cao và hướng con em, học trò học tiếng nói   và chữ viết của người nước ngoài, nhất là tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Trung… mà   coi nhẹ việc học chữ Quốc ngữ và tiếng Việt. Nên việc nghiên cứu về Hội Truyền bá Quốc ngữ và  những tác động của Hội đến xã hội Việt Nam, góp phần làm thay đổi quan điểm và sự nhìn nhận của  một bộ phận người Việt vẫn có tư tưởng xem nhẹ, coi thường chữ Quốc ngữ.  1.5. Nghiên cứu đề  tài “Hội truyền bá Quốc ngữ  và tác động của nó đến xã hội Việt   Nam (1938 – 1945)”, có ý nghĩa to lớn đối với lịch sử  văn hoá cũng như  lịch sử  dân tộc, giúp  chúng ta hiểu sâu sắc hơn lịch sử dân tộc và làm sáng tỏ những vấn đề lớn trên lĩnh vực văn hoá   trong những năm 1938 ­ 1945. Với tất cả những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn vấn đề: “Hội Truyền bá Quốc ngữ   và tác động của nó đến xã hội Việt Nam (1938 – 1945)” làm đề tài luận án tiến sĩ lịch sử. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Vấn đề về Hội Truyền bá Quốc ngữ đã có những công trình, những bài viết đề cập đến một   số khía cạnh, nhưng nhìn chung còn hết sức khiêm tốn và sơ lư ợc. Nhất là, chưa nghiên cứu sâu sắc  về các vấn đề như: ­ Lịch sử hình thành và phát triển của chữ Quốc ngữ. ­ Các phong trào Truyền bá Quốc ngữ trước thời Hội Truyền bá Quốc ngữ. ­ Bối cảnh lịch sử trong nước cần thiết phải thành lập Hội Truyền bá Quốc ngữ. ­ Các giai đoạn hoạt động của Hội Truyền bá Quốc ngữ và xác định kết quả  hoạt động  của từng giai đoạn. ­ Các chi hội của Hội Truyền bá Quốc ngữ hoạt động trên khắp cả nước. ­ Những thuận lợi và khó khăn mà Hội Truyền bá Quốc ngữ phải đương đầu.  ­ Những tác động của Hội Truyền bá Quốc ngữ đến xã hội Việt Nam. ­ Các yếu tố ảnh hưởng, tác động dẫn đến sự thành công của Hội.  4
  5. Cho nên việc nghiên cứu toàn diện, khách quan và hệ thống về Hội Truyền bá Quốc ngữ,   cũng như những tác động của Hội đến xã hội Việt Nam vẫn còn là đề tài mới mẻ. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là “Hội Truyền bá Quốc ngữ và tác động của nó đến xã hội   Việt Nam (1938 – 1945)”. 3.2.   Phạm vi nghiên cứu  Phạm vi nội dung, nghiên cứu về các giai đoạn hoạt động của Hội Truyền bá Quốc ngữ;  những  ảnh hưởng của Hội đến xã hội Việt Nam từ  năm 1938 đến năm 1945, nhưng chỉ  tập   trung vào những nội dung: xóa nạn mù chữ, bãi bỏ  những hủ  tục lạc hậu, phổ biến chữ  Quốc   ngữ, để lại cơ sở, tiền đề cho Bình dân học và tác động đến phong trào cách mạng 1939 – 1945. Về  mặt thời gian, tập trung nghiên cứu bối cảnh ra đời và các giai đoạn hoạt động của  Hội Truyền bá Quốc ngữ  từ  năm 1938 đến 1945. Nhưng, trong khi nghiên cứu đề  tài, luận án   còn mở rộng phạm vi nghiên cứu về lịch sử chữ Quốc ngữ từ thế kỷ XVII cho đến thế  kỷ XX,  để làm rõ sự ra đời và hoàn thiện của thứ chữ viết này.          Về  mặt không gian, quá trình hoạt động của Hội Truyền bá Quốc ngữ  trên trên phạm vi   toàn quốc. 4.Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nguồn tài liệu Nguồn tài liệu gốc  gồm những tài liệu, nghị  định, điều lệ, nội lệ  liên quan đến Hội   Truyền bá Quốc ngữ ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam.  Các báo, tạp chí như; Đông Pháp, Tràng An, Tin Tức, Tri Tân, Thanh Nghị. ..đã cập nhật  liên tục những hoạt động của Hội thời bấy giờ mà chúng tôi tiếp cận được trong quá trình sưu   tầm tài liệu. Nguồn tài liệu tham khảo chủ yếu là các công trình nghiên cứu, bài viết, hồi ký có đề  cập  đến một số nội dung của Hội Truyền bá Quốc ngữ.  4.2. Phương pháp nghiên cứu Để  giải quyết những nhiệm vụ  khoa học đặt ra, chúng tôi sử  dụng hai phương pháp  chuyên ngành cơ bản: Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic.  5.Bố cục của luận án Ngoài  phần mở   đầ u, kết luận, ph ụ  l ục  và tài  liệu  tham khảo, lu ận  án gồ m có 3  chươ ng.          Chương 1. Sự ra đời của Hội Truyền bá Quốc ngữ            Chương 2. Quá trình hoạt động của Hội Truyền bá Quốc ngữ 5
  6.           Chương 3. Những ảnh hưởng của Hội Truyền bá Quốc ngữ đến xã hội Việt Nam 6. Đóng góp của luận án           Luận án có những đóng góp sau:           Trình bày quá trình ra đời và hoạt động của Hội Truyền bá Quốc ngữ  từ  năm 1938 đến  năm 1945; dựng lại bức tranh toàn cảnh, sinh động từ  hoàn cảnh ra đời, tồn tại, hoạt động và  những tác động của Hội đến xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.           Phân tích những tác động của Hội Truyền bá Quốc ngữ  đến xã hội Việt Nam như: xóa   nạn mù chữ, phổ  biến chữ  Quốc ngữ, xóa bỏ  những hủ  tục lạc hậu; tác động đến phong trào  cách mạng 1939 – 1945, trực tiếp nhất là phong trào cứu đói  ở  miền Bắc và cuộc tổng khởi   nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc. Đồng thời, phân tích những nguyên nhân đưa đến sự  thành công của Hội, trong bối cảnh bị kìm kẹp của chính quyền cai trị.            Trong phạm vi nghiên cứu, luận án đề cập đến quá trình ra đời và phát triển của chữ Quốc  ngữ, góp phần làm rõ hơn về lịch sử của thứ chữ viết này.  Cuối cùng, nội dung và tư liệu của luận án có thể sử dụng phục vụ cho công tác nghiên   cứu và giảng dạy lịch sử  văn hoá, lịch sử  dân tộc giai đoạn trước cách mạng tháng Tám năm   1945, đồng thời phục vụ những bạn đọc quan tâm đến Hội Truyền bá Quốc ngữ. 6
  7. Chương 1 SỰ RA ĐỜI CỦA HỘI TRUYỀN BÁ QUỐC NGỮ 1.1. Tổng quan nghiên cứu Vấn đề về Hội Truyền bá Quốc ngữ đã có những công trình, những bài viết đề cập đến một   số khía cạnh như: Trong tác phẩm “Hội Truyền bá Quốc ngữ một tổ  chức công khai của Đảng   chống nạn mù chữ”  của đồng tác giả  Vương Kiêm Toàn và Vũ Lân, nhà xuất bản Giáo dục  1980, đã nghiên cứu khái quát về  quá trình tồn tại, hoạt động của Hội từ  năm 1938 đến 1945.  Tuy nhiên, công trình nghiên cứu mới dừng lại  ở dạng liệt kê các hoạt động của Hội, mà chưa   nghiên cứu sâu sắc về  hoạt động của các chi hội trong cả  nước, nhất là những tác động,  ảnh  hưởng của Hội đối với xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Tác phẩm   “Hội Truyền bá Quốc ngữ   trong sự nghiệp chống nạn mù chữ”, nhà xuất bản Giáo dục 1988, là tập hợp những bài viết của   các hội viên về  nhiều khía cạnh của Hội, nhưng mang nặng yếu tố hồi ký mang tính chủ  quan  về một thời hoạt động cho Hội và dựng lại ở dạng khái quát, sơ lược. Các bài viết đăng trên các   Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí Xưa & Nay như: “Truyền bá Quốc ngữ  ở ngoại thành Hà   Nội” của tác giả  Tô Hoài, bàn về  vấn đề  mở  lớp dạy chữ  Quốc ngữ cho nhân dân lao động ở  một số vùng lân cận thành phố Hà Nội. “Nguồn gốc của Hội Truyền bá Quốc ngữ” của tác giả  Vũ Đình Hoè, khái quát phong trào Truyền bá Quốc ngữ  từ  thời các nhà  duy tân trong trường   Đông Kinh nghĩa thục. Qua đó khẳng định, Hội Truyền bá Quốc ngữ  bắt nguồn và tiếp tục sự  nghiệp phổ biến chữ Quốc ngữ, xóa nạn mù chữ  mà trường Đông Kinh nghĩa thục để  lại. Hay   bài viết của tác giả  Nguyễn Lân với tựa đề  “Hội Truyền bá Quốc ngữ   ở  Trung Kỳ”   bàn về  những khó khăn của Hội Truyền bá Quốc ngữ Trung kỳ do nhà cầm quyền người Pháp cản trở.   Tác giả  Hoài Thanh với bài viết “Mảnh đất gieo mầm cho một lớp thanh niên thời  ấy”  khẳng  định, chính Hội Truyền bá Quốc ngữ  là tổ  chức thu hút đông đảo tầng lớp thanh niên trí thức   tham gia hoạt động. Tham gia phong trào Truyền bá Quốc ngữ, tầng lớp thanh niên nhanh chóng   trưởng thành về nhiều mặt, hiểu  hơn về đời sống lao khổ của nhân dân nghèo thất học mà hăng   say hoạt động. Nhất là, họ  được giác ngộ  về  lý luận cách mạng, hiểu về  Đảng cộng sản và  nguyện đi theo con đường cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Ngoài ra, còn có một số bài  viết đăng tải trên các trang website có đề cập đến Hội Truyền bá Quốc ngữ. Tất cả những công  trình nghiên cứu trên có đề  cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của Hội Truyền bá Quốc ngữ,   song còn hết sức sơ lược và khái quát. Nhất là, chưa tái hiện được bức tranh toàn cảnh, có hệ  thống, từ  quá trình ra đời, tồn tại, hoạt động của Hội, cũng như  những tác động mạnh mẽ  của  Hội đến xã hội Việt Nam. Hơn nữa, những công trình nghiên cứu trên chưa nghiên cứu sâu sắc  về các vấn đề như: 7
  8. ­ Lịch sử hình thành và phát triển của chữ Quốc ngữ. ­ Các phong trào Truyền bá Quốc ngữ trước thời Hội Truyền bá Quốc ngữ. ­ Bối cảnh lịch sử trong nước cần thiết phải thành lập Hội Truyền bá Quốc ngữ. ­ Các giai đoạn hoạt động của Hội Truyền bá Quốc ngữ và xác định kết quả  hoạt động  của từng giai đoạn. ­ Các chi hội của Hội Truyền bá Quốc ngữ hoạt động trên khắp cả nước. ­ Những thuận lợi và khó khăn mà Hội Truyền bá Quốc ngữ phải đương đầu.  ­ Những tác động của Hội Truyền bá Quốc ngữ đến xã hội Việt Nam. ­ Các yếu tố ảnh hưởng, tác động dẫn đến sự thành công của Hội.  1.2. Quá trình hình thành và phát triển của chữ Quốc ngữ 1.2.1. Quá trình hình thành chữ Quốc ngữ Ở  Việt Nam trước khi xuất hiện chữ  Quốc ngữ đã lưu hành rộng rãi hai thứ  chữ  viết  chính là chữ Nho và chữ Nôm. Chữ  Hán và chữ  Nôm lưu hành nhiều thế  kỷ   ở  nước ta, trở thành công cụ  cho ngườ i   Việt biểu hiện tình cảm, tư duy, tư tưởng. Tuy nhiên, hai văn tự trên còn nhiều hạn chế, khó  học, khó nhớ, dẫn đến nhân dân lao động không có điều kiện theo học, rơi vào tình trạng mù  chữ. Từ đó, người Việt Nam chuyển sang s ử d ụng h ệ th ống ghi âm bằng mẫu tự La tinh, tức   là chữ Quốc ngữ do các cha đạo ngườ i châu Âu cùng sự cộng tác của tầng lớp trí thức ngườ i  Việt sáng chế ra từ thế kỷ XVII.  Chữ Quốc ngữ ra đời trong hoàn cảnh mẫu tự La tinh đã được sử dụng phiên âm một số  ngôn ngữ ở châu Á vào các thế kỷ XVI, XVII. Công cuộc La tinh tiếng Nhật và tiếng Trung Hoa   có tác động nhất định đến việc La tinh hoá tiếng Việt.  Ở  Việt Nam, do sự  phức tạp, khó học   của chữ  Hán, chữ  Nôm cũng là nguyên nhân dẫn đến việc nảy sinh ý tưởng La tinh hoá tiếng  Việt của các nhà truyền giáo người châu Âu. Người châu Âu đầu tiên thông hiểu tiếng Việt và  đặt cơ  sở  cho sự  hình thành chữ  Quốc ngữ  chính là Linh mục Pina, tiếp theo là các cha đạo  Borri, Amaral, Barbosa…và người hoàn thiện hệ thống ghi âm này cũng như cho xuất bản cuốn  sách về chữ Quốc ngữ đầu tiên vào năm 1651, tại Rôma là Alexandre de Rhodes.  1.2.2. Sự phát triển của chữ Quốc ngữ Chữ  Quốc ngữ thế kỷ XVII, qua các tác phẩm của Alexandre de Rhodes như:  “Từ điển   Việt ­ Bồ ­ La”, “Phép giảng tám ngày” so với ngày nay có những chữ hoàn toàn giống, nhưng có  nhiều hình thức chữ viết khác biệt. Một số phụ âm viết khác ngày nay mà tiêu biểu như; chữ “tr” viết thành “bl” (chúa blời,   blang sách), và “tl” (con tlâu, tlứng gà), hay chữ “l” viết thành “ml”, chữ  “nh” viết thành “mnh”   8
  9. (mlầm, mlỡ, mlớn, mnhớn…) “người Bắc kỳ còn có chữ “l” đọc mềm chen vào giữa các phụ âm   khác như  blả, có một vài niềm đọc “b” ra “t”, thí dụ  tlả, người ta còn dùng “l” sau “m”, thí dụ  mlẽ…còn việc dùng l sau t thì rất thông dụng, thí dụ tla, tle” [137; 15]. Qua một số phụ âm trên  có thể  khẳng định, tiếng Việt  ở  giữa thế  kỷ  XVII đã sử  dụng phụ  âm ghép “bl”, “ml”, “tl”,   “mnh”… mà hiện nay chữ Quốc ngữ không dùng nữa. Về một số vần ghép cũng khác ngày nay như; chữ “ung” viết thành  “ũ” (cũ  tức là cùng),  chữ  “ông” viết thành “õu” (sõu tức sống), hay chữ “ong” viết thành “ão” (gião tlỡu tức là going   trống)… Đến thế  kỷ  XVIII, chữ  Quốc ngữ  qua  tài liệu của Phê Bỉnh chưa có nhiều thay đổi  nhiều so với chữ  Quốc ng ữ  trong các tài liệu của Alexandre de Rhodes, nh ư: các chữ  “ấy”,   “tr”, “uc” viết th ống nh ất là “ấy”, “tr”, “uc”, nh ưng các chữ “ong” viết thành “ão”, chữ “ông”  viết thành “õu”, chữ  “oc” viết thành “oac”… Trong cuốn “Từ  điển Việt – Latinh” (1772) của  Pigneau de Béhaine chịu ảnh hưởng của cách phát âm ở miền Nam. Có chữ “lầm” mà không có chữ  “nhầm”, có chữ “lanh” mà không có chữ “nhanh”, có chữ “nhơi” mà không có chữ “nhân”. Hơn nữa   trong cuốn “Từ  điển Việt – Latinh”  không còn xuất hiện các phụ  âm “mnh”, “ml”, “bl”, “tl”, chữ  Quốc ngữ hoàn chỉnh hơn trước.  Sang thế kỷ XIX, chữ Quốc ngữ trong cuốn “Từ điển Annam – Latinh”(1838) của Taberd  cho thấy; cách viết chữ Quốc ngữ của Taberd không khác mấy so với chữ Quốc ngữ ngày nay;  Taberd cải tiến chữ  Quốc ngữ  trong từ  điển của  Pigneau de Béhaine và có thể  thức như  chữ  Quốc ngữ ngày nay. Chính những phát triển của chữ  Quốc ngữ trong cuốn từ điển của Taberd  1838, nên một thời gian dài các sách vỡ viết bằng chữ Quốc ngữ đều thống nhất lấy  “Từ điển   Annam – Latinh”  1838 làm chuẩn. Sự  chỉnh lý chữ  Quốc ngữ  trong cuốn   “Từ  điển Annam –   Latinh” 1838 đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển của chữ Quốc ngữ. Bởi vì, từ  thực tế  cho thấy, chữ  Quốc ngữ  không còn thay đổi nào đáng kể. Sau cuốn từ  điển Annam –  Latinh 1838, có xuất hiện một cuốn từ điển của Huỳnh Tịnh Của là “Đại Nam quấc âm tự vị”,  xuất bản năm 1895 hay những tài liệu chép tay bằng chữ  Quốc ngữ  cũng không thấy sự  khác  biệt nào quá lớn so với từ điển của Taberd 1838.  1.2.3. Các phong trào Truyền bá Quốc ngữ từ đầu thế kỷ XX đến năm 1938 1.2.3.1. Mục đích sử dụng chữ Quốc ngữ của thực dân Pháp Khi đến Việt Nam, người Pháp đã quan tâm đến chữ Quốc ngữ và cuối cùng họ  đã sử  dụng thứ chữ viết này trong công việc hành chính và mục đích thực dân. Nhất là, họ đưa chữ  Quốc ngữ  vào giảng dạy trong trường học. Xét trên phươ ng diện mục đích sử  dụng, chính  quyền cai trị  xem ch ữ  Qu ốc ng ữ là một công cụ  thực hiện trong công việc hành chính, làm   chuyển ngữ để ngườ i Việt sang học chữ Pháp và biến chữ Quốc ngữ trở thành công cụ  đồ ng  9
  10. hoá dân tộc ta. Nhưng nhìn trên phương diện phổ  biến chữ  Quốc ngữ, chính quyền Pháp có  phần tác động tích cực, họ  đã ban hành và thực hiện nhiều nghị  định về  việc sử  dụng chữ  Quốc ngữ  trong công việc hành chính, đưa chữ  Quốc ngữ  ra khỏi phạm vi cộng đồ ng Ki tô   giáo đến với nhân dân lao động. “Với sự hậu thuẫn chính thức của nhà cầm quyền thực dân,  dù muốn hay không thì chữ Quốc ngữ cũng nhanh chóng đi vào mọi ngóc ngách của đời  sống,  mọi tầng lớp trong xã hội” [229; 382]. Việc lợi dụng chữ Quốc ngữ vì mục đích chính trị, người   Pháp vô tình đưa lại cho nhân dân Việt Nam một phương tiện hữu hiệu để đấu tranh chống lại   nền thống trị của Pháp và trở thành phương tiện nâng cao dân trí, hiện đại hoá nền văn hoá của   người Việt Nam. 1.2.3.2. Khuynh hướng sử dụng chữ Quốc ngữ làm vũ khí chống thực dân Pháp      Đầu thế kỷ XX, sau những thất bại liên tiếp của các phong trào chống Pháp, tấm gương  duy tân thành công của Nhật Bản cùng với tư  tưởng dân chủ  tư  sản  ở  châu Âu tràn vào Việt   Nam qua tân thư, tân văn tạo nên một làn “gió mát” làm thức tỉnh tầng lớp nhân sĩ trí thức Nho  học người Việt có tinh thần yêu nước. Họ nhận ra, muốn cứu nước phải chấn hưng dân khí, mở  mang dân trí, đào tạo nhân tài. Tiêu biểu là phong trào Duy Tân  ở  Trung Kỳ  (1906 – 1908) và   Đông Kinh nghĩa thục (1907)  ở  Hà Nội. Họ  tích cực vận động mở  lớp dạy học, dạy chữ, dạy  kiến thức cho nhân dân lao độ ng thất học. Th ứ  ch ữ  họ  c ổ vũ không phả i là chữ  thánh hiề n  (chữ  Hán) mà là chữ  Quốc ng ữ  do các cha đạ o ngườ i châu Âu cùng với mộ t bộ  phận trí   thức ngườ i Việt sáng tạo ra.   Trước hết phải học ngay chữ Quốc ngữ Khỏi đôi đường tiếng chữ khác nhau Chữ ta ta đã thuộc làu Nói ra nên tiếng, viết câu nên bài Sẳn cơ sở để khai dân trí” [222; 517] Đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước có tác động mạnh mẽ và có ý nghĩa to lớn đối với   sự  phát triển của chữ Quốc ngữ  là Đông Kinh nghĩa thục, bùng nổ  ở  Bắc Kỳ  năm 1907. Đông  Kinh Nghĩa Thục nhìn thấy “chữ  Quốc ngữ  là lợi khí thứ  nhất để  khai dân trí” và họ  dấy lên   phong trào học chữ Quốc ngữ, phổ biến chữ Quốc ngữ trong mọi tầng lớp nhân dân.  Chữ Quốc ngữ là hồn trong nước Phải đem ra tính trước dân ta Sách Âu Mỹ, sách China Chữ kia, chữ nọ dịch ra tỏ tường.   Nông, công, cổ trăm đường cũng thế Hợp bầy nhau thì dễ toan lo 10
  11. Á, Âu chung lại một lò Đúc nên tư cách mới cho là người Một người học muôn người đều biết Trí đã khôn trăm việc phải hay. Nối tiếp tinh thần và sự nghiệp của các nhà duy tân đầu thế  kỷ XX, nhân dân Việt Nam  ngay khi được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phong trào dạy và học chữ  Quốc ngữ  đã phát triển mạnh mẽ hơn. Khẩu hiệu “dạy chữ Quốc ngữ”, “tổ chức lớp học chữ Quốc ngữ”   xuất hiện cùng với khẩu hiệu đòi chia lại ruộng đất, chống những hủ  tục lạc hậu trong phong   trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930 – 1931.  1.2.3.3.  Báo chí với sự phát triển của chữ Quốc ngữ đầu thế kỷ XX Tầng lớp trí thức Việt Nam nhận thấy chữ Quốc ngữ có mối quan hệ  chặt chẽ  với văn  hoá và báo chí. Sự  phát triển của chữ Quốc ngữ góp phần phát triển báo chí, văn hoá, văn học,   nghệ  thuật của đất nước. Đồng thời, sự  phát triển của báo chí giúp cho chữ  Quốc ngữ  thêm   uyển chuyển, trơn tru và nhanh chóng được phổ biến trong đời sống của nhân dân. Và họ đã tìm  mọi cách mở  rộng, phát triển báo chí Quốc ngữ, xem báo chí là phương tiện truyền tải chữ  Quốc ngữ đến với nhân dân lao động. Hai tờ báo có nhiều đóng góp vào quá trình phổ biến, hoàn  thiện chữ  Quốc ngữ  là “Đông Dương tạp chí” (1913) và “Nam Phong tạp chí” (1917). “Đông   Dương tạp chí” và “Nam Phong tạp chí” được xuất bản tại Hà Nội, cách viết, cách phát âm có  phần chuẩn hơn các tờ báo ở Nam kỳ và cách viết cũng tương đối thống nhất, dùng từ dễ hiểu,   loại bỏ nhiều phương ngữ. Quan trọng, chữ Quốc ngữ đã được phổ biến ở Hà Nội và Bắc kỳ là   nơi đất học, đất văn minh của người Việt.  1.3. Hội Truyền bá quốc ngữ ra đời 1.3.1. Sự cấp thiết thành lập Hội Truyền bá Quốc ngữ Chính quyền cai trị thực hiện chính sách giáo dục ngu dân, dẫn đến đa số nhân dân Việt  Nam rơi vào tình trạng mù chữ. Theo Phan Trọng Báu, vào năm 1939, cả  nước có 287.037 học  sinh đi học từ bậc tiểu học cho đến cao đẳng và dạy nghề, chiếm khoảng 1,44% dân số. Theo   Vương Kiêm Toàn, Vũ Lân thì 95% dân số  Việt Nam không biết một thứ  chữ  gì. Trong cuốn   “Việt Nam diệt dốt” xuất bản năm 1951, khẳng định: “ở nước ta, dưới hồi Pháp thuộc, cứ trong   100 người dân thì có 3 trẻ em từ 8 tuổi đến 16 tuổi được đi học và 2 người lớn biết chữ, còn 95   người nữa thất học” [23; 5]. Theo Vũ Đình Hòe trong cuốn  “Hồi ký Thanh Nghị” thì “năm 1940,  số trẻ em đến tuổi đi học là 3,5 triệu, số học sinh ở cấp tiểu học cả trường công lẫn trường tư  được 605.000 người, nghĩa là trong 100 đứa trẻ  mới được non 18 đứa đi học. Trong khi đó cả  Chính phủ, các tổ  chức từ  thiện, không ai lo việc học cho người lớn mù chữ. Bởi vậy, có thể  11
  12. khẳng định rằng, trong suốt thời gian Pháp thuộc, từ  95 đến 98% dân số  Việt Nam sống trong   cảnh tối tăm đầu óc” [87; 329]. Trước nạn mù chữ  và những yêu cầu của cách mạng đòi hỏi  phải thành lập một tổ chức xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí cho nhân dân. 1.3.2. Cuộc vận động thành lập Hội Truyền bá Quốc ngữ  Trước vấn nạn mù chữ  của dân tộc, cùng với yêu cầu thiết tha của nhân dân lao động  thất học, các nhân sĩ trí thức nhận thấy cần phải tiếp tục công cuộc Truyền bá Quốc ngữ nhằm   xoá nạn mù chữ, nâng cao dân trí. Ý tưởng của những nhân sĩ trí thức lúc này bắt gặp chủ  trương của Đảng Cộng sản Đông Dương đang tìm mọi biện pháp phổ biến chữ Quốc ngữ, xoá   nạn mù chữ, nâng cao dân trí đáp ứng yêu cầu cách mạng trong thời kỳ mới.  Họ đã họp bàn để  tiến đến thành lập một hội chống nạn mù chữ.  Sau một thời gian đấu tranh khôn khéo của một bộ phận trí thức và các chiến sĩ cộng sản  buộc Thống sứ Bắc kỳ không thể khước từ, chấp nhận ký giấy công nhận sự hoạt động hợp pháp   của Hội vào ngày 29 tháng 7 năm 1938 “Trước sức ép của tình hình và dư luận hồi đó, Thống sứ  Bắc kỳ  không thể  bác bỏ  đơn và ký giấy chính thức cho Hội hoạt động công khai kể  từ  ngày 29   tháng 7 năm 1938” [59; 6]. 1.3.3. Điều lệ hoạt động của Hội Truyền bá Quốc ngữ  Trong cuốn “Điều lệ” hoạt động của Hội do Thống sứ Bắc kỳ ký ngày 29 tháng 7 năm 1938   “Điều lệ Hội Truyền bá Quốc ngữ do Thống Sứ Bắc­Kỳ duyệt­ y ngày 29 Juillet 1938” [212; 1], bao  gồm 33 điều khoản, bao quát các vấn đề sau: Tên Hội và Hội quán.  Hội viên trong Hội.  Vào Hội, ra Hội, xoá tên, đuổi ra khỏi Hội.  Việc quản trị và những điều khoản tạm thời.  Chức vụ các Hội viên trong ban Trị sự  Việc họp ban Trị sự.  Đại Hội đồng.  Tài sản của Hội.  Sửa đổi điều lệ và khi giải tán Hội.  Vấn đề tên Hội và Hội quán.  Các Ban chuyên môn bao gồm: Tiểu kết chương 1 Chương 2 QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI TRUYỀN BÁ QUỐC NGỮ 12
  13. 2.1. Hội Truyền bá Quốc ngữ hoạt động trong phạm vi hẹp (7/1938 ­ 9/1940)   Ngày 25 tháng 5 năm 1938, Hội Truyền bá Quốc ngữ ra mắt nhân dân. Đến ngày 29 tháng   7 năm 1938, Hội chính thức được nhà cầm quyền công nhận và cho phép hoạt động hợp pháp.  Trong giai đoạn đầu, Hội Truyền bá Quốc ngữ mới hoạt động và lớp dạy chữ Quốc ngữ  ở Hà Nội và Kinh thành Huế, tổ chức được 4 khoá học, giúp khoảng 4000 người thoát cảnh mù  chữ, tạo niềm tin trong quần chúng nhân dân, đồng thời tạo nên chất nem hăng say cho mỗi giáo   viên, hội viên của Hội. Các tầng lớp nhân dân tham gia vào Hội ngày càng đông và nhận được  nhiều đóng góp, giúp đỡ về vật chất, tinh thần của các nhà hảo tâm.  2.2. Hội Truyền bá Quốc ngữ  từng bước mở  rộng phạm vi hoạt động  ở  các tỉnh miền   Bắc và miềm Trung (10/1940 ­ 7/1944) Trong thời kỳ  này, Hội Truyền bá Quốc ngữ  mở  lớp và tổ  chức dạy chữ  Quốc ngữ   ở  khắp ba miền Bắc, Trung, Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Phong trào không còn bó  hẹp trong các thành phố lớn như thời kỳ đầu, Hội đã nhanh chóng mở  rộng hoạt động đến với   các làng quê, lớp học đến các bản làng, nhiều chi nhánh của Hội được thành lập và không dừng   lại việc truyền bá Quốc ngữ, xoá nạn mù chữ cho quốc dân đồng bào, còn dạy cho nhân dân thất   học những điều hay, lẽ  phải trong cuộc sống và khơi dậy lòng yêu nư ớc thương nòi, truyền  thống hào hùng của cha ông. 2.3. Hội Truyền bá Quốc ngữ  hoạt động trên phạm vi cả  nước và hoà chung vào phong  trào giải phóng dân tộc (8/1944 ­  8/1945) Trong giai đoạn này, phong trào truyền bá Quốc ngữ phát triển mạnh mẽ trên phạm vi cả  nước. Nhiều chi hội được thành lập và hoạt động có hiệu quả, như: Chi Hội Hải Phòng, Nam  Định, Thái Bình, Hà Đông, Huế, Thanh Hóa, Nghệ An...lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân   tham gia. Hội tổ chức khóa học 13 và 14, có ....học viên tham gia và ... giáo viên giảng dạy. Ngoài ra, Hội truyền bá chữ Quốc ngữ tiếp tục tuyên truyền chủ trương, đường lối cách   mạng của Đảng đến nhân dân. Giáo viên, học viên của Hội trưởng thành về mọi mặt và tích cực  tham gia phong trào cách mạng đấu tranh đòi lại độc lập cho dân tộc, góp phần to lớn vào sự  thành công của cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám 1945. Tiểu kết chương 2 Chương 3 Ả NH H ƯỞ NG C Ủ A H Ộ I TRUY ỀN BÁ QU Ố C NGỮ  Đ Ố I V Ớ I XàHỘ I VI Ệ T NAM 3.1. Những ảnh hưởng 3.1.1. Góp phần vào thắng lợi của  phong trào cách mạng 1939 – 1945 13
  14. Hội Truyền bá Quốc ngữ chính là một sáng kiến của Đảng và được đông đảo nhân dân   hưởng  ứng, nhất là tầng lớp trí thức tiểu tư  sản. Các chiến sĩ cộng sản như: Võ Nguyên Giáp,  Trường Chinh, Đặng Thai Mai...là những hạt nhân đã thu hút những nhân sĩ trí thức lớn, gồm:  Nguyễn Văn Tố, Bùi Kỷ, Hoàng Xuân Hãn, Vũ Đình Hòe... tiêu biểu nhất là Nguyễn Văn Tố,  người đứng ra gánh vác trọng trách nặng nề. Hội hoạt động công khai, hợp pháp từ  miền Bắc   đến miền Nam, gây dựng, tập hợp được một lực lượng quần chúng yêu nước và cách mạng  rộng lớn chuẩn bị  cho cách mạng, tham gia tuyên truyền các chính sách, đường lối cách mạng  của Đảng đến với nhân dân. Nhất là, cùng với nhân dân cả  nước tham gia phong trào cứu đói   1944 – 1945, tham gia cuộc tổng khởi nghĩa dành chính quyền 1945 và tham gia các chức vụ quan   trọng trong Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa.  3.1.2. Góp phần to lớn vào quá trình phổ biến chữ Quốc ngữ Chữ Quốc ngữ xuất hiện từ thế kỷ XVII, được sử dụng trong phạm vi công đồng người   Việt theo đạo Thiên chúa trong suốt hơn 300 năm. Bước sang thế kỷ XX, các nhà sáng lập Đông  Kinh nghĩa thục nhận thấy chữ  Quốc ngữ  hoàn toàn phù hợp với văn hóa và con người Việt   Nam mà đem ra cổ  vũ, phổ  biến rộng khắp đến mọi tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, phải đến   khi Hội Truyền bá Quốc ngữ  ra đời, thì quá trình phổ  biến chữ  Quốc ngữ  mới thực sự  trở  thành một phong trào sâu rộng và mạnh mẽ, để  lại những tác động, ảnh hưởng to lớn đến xã  hội Việt Nam. Đồng thời, Hội để  lại tiền đề, cơ  sở  cho phong trào Bình dân học vụ  tiếp tục   sự  nghiệp khi cách mạng tháng Tám 1945 thành công. Sau cách mạng tháng Tám 1945, nhà   nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định lựa chọn   chữ  Quốc ngữ làm chữ viết chính thức cho dân tộc. Từ đây, chữ  Quốc ngữ  giữ địa vị độc tôn  trong xã hội Việt Nam , với vai trò gìn giữ, xây dựng và quảng bá nền văn hoá, văn minh Việt Nam   trong thời kỳ mới. 3.1.3. Góp phần thu hẹp người mù chữ, nâng cao dân trí và bãi bỏ những hủ tục của xã hội Việt   Nam Trong suốt 7 năm tồn tại và hoạt động, Hội truyền bá Quốc ngữ mở  đ ược 14 khoá học,  giảng dạy gần 8 vạn người thoát nạn mù chữ, biết đọc, biết viết chữ  Quốc ngữ. Tuy nhiên, so   với số người Việt Nam mù chữ  đang cần được đi học, thì gần 8 vạn ng ười thoát khỏi nạn mù  chữ  chưa phải nhiều, chưa thực sự  thoả  mãn với công lao của hàng nghìn hội viên, giáo viên   không quản gian nan, góp công, góp của cho Hội. Nhưng trong hoàn cảnh bị  kìm kẹp bởi nhà   cầm quyền thực dân, nhân dân lại quen với cuộc sống lao khổ không thiết tha với việc học. Hội   đã vượt qua những khó khăn vận động nhân dân tham gia học tập, đấu tranh với nhà cầm quyền   Pháp để  tiếp tục sự  nghiệp xoá nạn mù chữ  cho quốc dân đồng bào.  Nhất là,  Hội truyền bá  Quốc ngữ góp phần đẩy lùi nhiều hủ tục, tệ nạn lạc hậu ở các làng quê Việt Nam.  14
  15. 3.1.4. Để  lại tiền đề, cơ  sở  cho phong trào Bình dân học vụ  tiếp tục thực hiện sự nghiệp xoá   nạn mù chữ sau cách mạng tháng Tám 1945 Hội Truyền bá Quốc ngữ đã để lại cho Bình dân học vụ một di sản quý giá như: Một số các bộ trung kiên, mẫn cán với công cuộc xóa nạn mù. Một phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng. Một dư  luận, tình cảm sâu sắc của quần chúng nhân dân lao động, nhất là gần 8 vạn   người được Hội giúp đỡ thoát cảnh mù chữ. 3.2. Những yếu tố tác động đến sự thành công của Hội Truyền bá Quốc ngữ 3.2.1.Tổ chức  phong trào học tập với sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân Hội Truyền bá Quốc ngữ  có được những thành công to lớn trong sự  nghiệp chống nạn  mù chữ, vì đã tổ chức được một phong trào học tập sôi nổi, rộng khắp trong nhân dân. Hội biết  cách khơi dậy lòng nhiệt huyết của quần chúng, nhất là lòng yêu nước, sự  tự  hào dân tộc về  truyền thống hiếu học vốn đã có trong mỗi con ng ười Việt Nam; khơi dậy truyền thống hiếu   học của nhân dân gắn liền với lòng nhiệt huyết, sự hy sinh của các nhà trí thức. 3.2.2. Ph ẩ m ch ấ t và năng l ự c c ủ a ng ườ i đ ứ ng đ ầ u Trong suốt bẩy năm lãnh đạo Hội, Hội truyền bá Quốc ngữ ví như là một con thuyền trên  dòng sông lớn, trong hành trình không phải lên thác xuống ghềnh, cũng không phải đ ương đầu  với những cơn bão táp. Nhưng không thể nói là luôn luôn thuận buồm xuôi gió. Vì thế, việc điều   khiển công việc hàng ngày đặt lên vai ông Nguyễn Văn Tố. Những tình huống xử lý trong quá  trình lãnh đạo của người Hội trưởng Hội truyền bá Quốc ngữ, không chỉ thể hiện sự tài tình và khéo  léo của người trí thức Hà Thành, mà quan trọng hơn là giúp Hội tiếp tục đứng vững và phát triển ở  khắp ba miền Bắc Kỳ, Trung Kỳ  và Nam Kỳ  góp phần to lớn đến thắng lợi của Hội truyền bá   Quốc ngữ.  3.2.3. Có sự chỉ đạo kịp thời và đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam Một yếu tố  quan trọng, góp phần đưa đến sự  thành công của Hội Truyền bá Quốc ngữ  trong sự nghiệp chống nạn thất học, phổ biến chữ Quốc ngữ là nhờ  có sự  quan tâm, lãnh đạo   đặc biệt của Đảng cộng sản Đông Dương đã giúp cho Hội từng bước mở  rộng phong trào từ  thành thị về đến nông thôn, từ niềm Bắc đến niềm Trung và niềm Nam, tạo nên một phong trào  chống nạn thất học sôi nổi trong cả nước, giúp đỡ gần 8 vạn đồng bào thoát nạn mù chữ. 3.2.4. Phương pháp dạy chữ Quốc ngữ phù hợp với đối tượng Công cuộc chống nạn mù chữ của Hội truyền bá Quốc ngữ có đượ c những thành công  một phần nhờ  vào việc sử  dụng phương pháp mới trong giảng dạy chữ  Quốc ng ữ,  đó là   phương pháp I ­ tờ nổi tiếng 15
  16. Chính vì những ưu điểm của phương pháp dạy học vỡ lòng mới, mà trong khoảng 7 năm   hoạt động (1938 – 1945), Hội truyền bá Quốc ngữ  đã để  lại nhiều thành công to lớn trên con  đường diệt dốt, mang lại ánh sáng cho quần chúng lao động lần than, mù chữ.  Tiểu kết chương 3 KẾT LUẬN Thực hiện đề  tài  "Hội truyền bá Quốc ngữ  và tác động của nó đến xã hội Việt Nam   (1938­ 1945)” theo nội dung đã trình bầy, cho phép chúng tôi rút ra những kết luận sau: 1.  Chữ Quốc ngữ là công trình khoa học tập thể của các nhà truyền giáo người châu Âu   cùng với sự hợp tác của tầng lớp trí thức người Việt, khởi đầu từ thế  kỷ XVI, trong đó nổi bật   lên vai trò của Franesco de Pina (1585 ­ 1625), Gaspar de Amaral (1594 ­ 1646), Antonio Barbosa   (1594 ­ 1647), Alexandre de Rhodes (1591­ 1660). Đây là “một thứ chữ tiện lợi và dễ học hơn tất  cả  các thứ  chữ  của các nước khác trên trái đất” [68; 7], chỉ  cần học vài ba tháng là có thể  đọc   thông, viết thạo. Nhưng, do nhiều nguyên nhân khác nhau đã làm cho thứ chữ thuận tiện, phù hợp   với văn hóa và con người Việt, ra đời từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX vẫn chưa thể vư ợt ra  khỏi phạm vi giáo dân đến với mọi tầng lớp trong xã hội Việt Nam. Đầu thế  kỷ  XX, giới trí thức Việt Nam đã vượt qua tâm lý nghi ngờ, đố  kỵ  của người   dân mất nước, mà nhận ra cái hay, cái tiện và phép “mầu nhiệm” của chữ Quốc ngữ đối với dân   tộc Việt Nam. Họ  bắt đầu công cuộc cổ  vũ, truyền bá thứ  chũ viết này ra khỏi phạm vi công   giáo đến với quần chúng nhân dân lao động, chống lại chính sách “ngu dân” của chính quyền cai   trị.  Mở đầu sự nghiệp phổ biến chữ Quốc ngữ, xóa nạn mù chữ là các nhà cách mạng trong  phong trào Duy Tân, mà tiêu biểu nhất là trường Đông Kinh nghĩa thục (1907). Đông Kinh nghĩa  thục chỉ  tồn tại trong một thời gian ngắn, nhưng để  lại nhiều thành công và bài học trong sự  nghiệp phổ  biến chữ  Quốc ngữ. Mặc dù bị  chính quyền thực dân khủng bố, kìm kẹp, các nhà   Duy tân đã tìm mọi biện pháp tổ  chức mở  hàng trăm lớp dạy chữ  Quốc ngữ  cho hàng nghìn  người, biên soạn hàng chục cuốn sách truyền bá nội dung yêu nư ớc, tư tưởng tiến bộ bằng chữ  Quốc ngữ  như: “Quốc dân tộc bản” (1907), “Nam quốc địa dư”, “Quốc văn tập độc” (1907),  “Phen này cắt tóc đi tu” (Nguyễn Quyền), “Kêu hồn nước” (Phan Châu Trinh), “Thiết tiền ca”  (Nguyễn Phan Lãng) … cùng hàng loạt các cuộc diễn thuyết cổ động cho việc học và phổ biến  chữ  Quốc ngữ. Trường Đông Kinh nghĩa thục trở  thành trung tâm truyền bá tư tưởng tiến bộ  phù hợp với quy luật phát triển của thời đại, đồng thời đổi mới tư duy, hành động của tầng lớp  trí thức Nho học Việt Nam đầu thế kỷ XX. 16
  17.        Cùng thời gian hoạt động với trường Đông Kinh nghĩa thục  ở  Hà Nội, thì trên khắp cả  nước lần lượt xuất hiện nhiều nghĩa thục mở  lớp dạy chữ Quốc ngữ, dạy những điều tiến bộ  có ích cho cuộc sống hàng ngày của nhân dân, nhằm xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí, mở mang  dân khí cho nhân dân. Ở Thanh Hoá, một bộ phận trí thức vận động nhân dân thành lập “Tri Tân  Học Hội”, do Khâm sứ  Trung Kỳ  Levecque cấp giấy phép vào ngày 10 tháng 7 năm 1907, để  dạy chữ Quốc ngữ cho nhân dân trong tỉnh.  Nhất là, vào đầu những năm 30 của thế  kỷ  XX, trong  phong trào Xô Viết Nghệ  Tĩnh  (1930 – 1931), sau khi chính quyền cách mạng được thành lập ở một số địa phương, các Xô viết   tổ chức mở lớp dạy chữ Quốc ngữ cho đồng bào thất học, góp phần vào quá trình phổ biến chữ  Quốc ngữ trong nhân dân, để  lại sự  nghiệp, ý tưởng cũng như những bài học kinh nghiệm quý   báu cho Hội Truyền bá Quốc ngữ sau này tiếp tục. 2. Tiếp tục thực hiện ý tưởng và sự  nghiệp Truyền bá Quốc ngữ, xoá nạn mù chữ,  mang lại ánh sáng cho nhân dân nghèo thất học, đồng thời đáp ứng được yêu cầu của cách mạng  trong thời kỳ mới, ngày 25 tháng 5 năm 1938, sau một thời gian chuẩn bị cẩn thận và chu đáo của   các chiến sĩ cộng sản cùng một bộ  phận trí thức thì Hội truyền bá Quốc ngữ  được thành lập,  chính thức hoạt động hợp pháp vào ngày 29 tháng 7 năm 1938, do nhà cầm quyền Pháp cấp giấy   phép. Hội truyền bá Quốc ngữ  tồn tại, hoạt động trong khoảng 7 năm (từ  năm 1938 đến năm  1945), chia làm 3 giai đoạn, với nhiều hoạt động phong phú. Hội từng bước vượt qua nhiều  thách thức từ sự cản trở, uy hiếp của chính quyền thực dân đến khó khăn về tài chính hoạt động   và ý thức về việc học của nhân dân còn hạn chế để tiếp tục duy trì, mở rộng phong trào truyền   bá Quốc ngữ  trong cả  nướ c.  Phong trào  Truyền bá Quốc  ngữ  phát triển  từ  thành  thị   đến  những làng quê hẻo lánh, từ  miền Bắc lan rộng vào miền Trung, miền Nam  đến Lào và   Cămpuchia, tạo nên một phong trào Truyền bá Quốc ngữ ảnh hưởng sâu rộng trong cả nư ớc,  tác động đến mọi tầng lớp trong xã hội lúc bấy giờ. Trong thời gian 7 năm, Hội đã mở  đ ược  14 khoá học, giúp đượ c gần 8 vạn ngư ời biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ, đồ ng thời để  lạ i  cơ sở, phương pháp và con người cho phong trào Bình dân học vụ sau ngày cách mạng thàng  Tám 1945 tiếp tục sự nghiệp. 3. Hội Truyền bá Quốc ngữ  không chỉ  giúp đỡ  gần 8 vạn nhân dân lao động nghèo khổ  thoát khỏi cảnh tối tăm mù chữ, mà còn đóng góp to lớn trong quá trình xác lập vị trí chủ đạo của  chữ Quốc ngữ, bãi bỏ những hủ tục lạc hậu của xã hội Việt Nam. Đồng thời, với tư cách là một   tổ chức hoạt động hợp pháp, nhiều hội viên, giáo viên của Hội nhanh chóng tham gia vào phong   trào cách mạng, tích cực tuyên truyền chủ  trương, đường lối cách mạng của Đảng, trực tiếp   hoặc gián tiếp tham gia và đóng góp vào sự thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945 vĩ đại.  17
  18. Hội truyền bá Quốc ngữ  đã sáng tạo ra  “Phương pháp I ­ tờ”, có trị  to lớn trong sự  nghiệp dạy chữ Quốc ngữ cho nhân dân lao động mù chữ, tuổi đã lớn, không thiết tha với việc   học. Các ông như  Hoàng Xuân Hãn, Trần Văn Giáp, Vũ Huy Trác thuộc ban Tu thư  của Hội,  đóng góp công sức lớn lao trong quá trình sáng tạo ra phương pháp dạy học mới vẫn còn nổi   tiếng cho đến ngày nay.       Ngoài ra, trong quá trình hoạt động, Hội Truyền bá Quốc ngữ đã vượt qua mục đích ban  đầu là, dạy cho đồng bào nghèo thất học biết đọc, biết viết chữ  Quốc ngữ và phổ  biến những   kiến thức có ý nghĩa phục vụ cho đời sống hàng ngày. Với tư cách là một tổ chức hoạt động hợp  pháp, được chính quyền cai trị  thừa nhận, do các nhân sĩ trí thức lãnh đạo đã trở  thành “vườn  ươm mầm” hun đúc nên những nhân cách lớn, những cán bộ  cốt cán trung kiên cho cách mạng.  Nên, công cuộc mà Hội theo đuổi đã góp phần tạo điều kiện cho các tầng lớp trong được xã hội  tham gia, tìm hiểu và đến với cách mạng, được giác ngộ  lý tưởng cách mạng, nguyện đi theo   con đường cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Từ phong trào Truyền bá Quốc ngữ,   nhân dân Việt Nam biểu hiện lòng yêu nước bằng cách tham gia ủng hộ, đi học chữ Quốc ngữ,   theo họ, đi học là yêu nước, yêu nước thì đi học chữ Quốc ngữ.  TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Lê Văn Phong (2007), “Nguyễn Văn Tố  ­ Người Hội trưởng Hội truyền bá Quốc ngữ  1938 – 1945”, Tạp chí Khoa học xã hội, Trường Đại học Vinh (3B) tr. 83 ­ 86.  2. Lê Văn Phong (2007), “Phong trào Truyền bá Quốc ngữ ở Trung kỳ 1939 – 1945”,  Tạp chí   Khoa học công nghệ Nghệ An (4), tr. 53 – 58. 3. Lê Văn Phong (2008), “Đông Kinh nghĩa thực với phong trào truyền bá quốc ngữ đầu thế  kỷ XX”, Tạp chí Khoa học và công nghệ Nghệ An (2), tr. 49 – 52. 4. Lê Văn Phong (2011), “Lại bàn Về người Hội trưởng Hội truyền bá Quốc ngữ Trung kỳ”,  Tạp chí Huế Xưa và Nay (107), tr. 83 – 86. 18
  19. 5. Lê Văn Phong (2011), “Hội Truyền bá Quốc ngữ  Trung kỳ 1939 – 1945 ”, Tạp chí  Khoa   học xã hội( 4), tr. 53­58. 6. Lê Văn Phong (2012), “Sự  phổ  biến chữ  Quốc ngữ  trên Nam Phong tạp chí và Đông  Dương tạp chí”, Tạp chí  Xưa và nay (413), tr. 14 – 17. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1