intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quá trình hình thành, phát triển và giao lưu của gốm sứ Hizen

Chia sẻ: Phan Phan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

54
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án tập trung tìm hiểu về quá trình hình thành, phát triển, xuất khẩu ra thế giới của gốm sứ Hizen, chủ yếu tập trung vào thế kỷ XVII. Để biết rõ hơn về nội dung chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quá trình hình thành, phát triển và giao lưu của gốm sứ Hizen

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG Đ Công trình đ ẠI HỌC KHOA H ược hoàn thành tại:  ỌC XàHỘI VÀ NHÂN  Trường Đại học Khoa h VĂNọc Xã hội và Nhân Văn Trường Đại học Qu ốc gia Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Kim NGUYỄN THỊ LAN ANH PGS.TS. Hoàng Anh Tu ấn Phản biệQÚA TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRI n 1:…………………………………………………….. ỂN VÀ GIAO LƯU CỦA GỐM SỨ HIZEN Phản biện 2:…………………………………………………….. Phản biện 3:……………………………………………………. Lu ận án sẽ được bảo vệ trược H                      Chuyên ngành: L ộử ịch s ồế i đ th ng cấi c  giớ p cậơn đ  sởạ ch ấm lu i và hi ận  ện  đạiến sĩ họp  án ti tại……………………………………………………                       Mã số: 62 22 50 05 vào hồi    …….. giờ …….ngày ……..tháng……. năm…….. TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ Có thể tìm hiểu luận án tại: ­ Thư viện Quốc gia Việt Nam ­ Trung tâm Thông tin – Thư viện, Đại học Quốc gia Hà  Nội  1
  2. 2
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài  ­ Thứ nhất, sản xuất gốm sứ không chỉ là ngành sản xuất thủ công  nghiệp đơn thuần, mà còn là một ngành kinh tế quan trọng ở Nhật  Bản nói riêng và ở nhiều quốc gia trên thế giới nói chung. ­ Thứ  hai, với những đặc trưng về  loại hình, kiểu dáng, hoa văn,   gốm sứ  là biểu tượng văn hóa được dùng để  định danh các thời  đại lịch sử. ­ Thứ ba, đến thế kỷ thứ XVI­XVIII, gốm sứ Hizen là  một hiện tượng phát triển của Nhật Bản, đồng thời là sản phẩm   thủ  công được sử  dụng rộng rãi trong nước và đáp  ứng nhu cầu   xuất khẩu. ­ Thứ tư, lợi nhuận thu được từ xuất khẩu gốm sứ đã khẳng định   sức mạnh kinh tế, phạm vi ảnh hưởng văn hóa rộng lớn của Nhật  Bản đối với các nước trên thế giới.  ­  Thứ  năm, con đường mở  rộng xuất khẩu gốm sứ  ra bên ngoài   của Nhật Bản khá đặc biệt, chủ  yếu là qua thương nhân Trung   Quốc và Hà Lan. 2. Lịch sử nghiên cứu 2.1. Tình hình nghiên cứu gốm sứ Hizen ở Việt Nam ­ “Xã hội Việt Nam thế  kỷ XVI – XVIII và quan hệ  giao lưu gốm   sứ Việt Nam – Nhật Bản (Nguyễn Văn Kim) ­ “Gốm sứ  Đàng Ngoài xuất khẩu ra Đông Nam Á thế  kỷ  XVII”  (Hoàng Anh Tuấn) ­ “Các thương cảng vùng Trung bộ  Việt Nam và con đường gốm   sứ   ở  vùng Tây nam Thái Bình Dương trong thời đại Đại thương   mại – thế kỷ XVI­XVIII”(Trần Đức Anh Sơn) ­  Gốm sứ  Trung Quốc và gốm sứ  Nhật Bản phát hiện trong các   mộ Mường” (Phạm Quốc Quân và Bùi Minh Trí) ­  “Gốm sứ  nước ngoài phát hiện được trong khu Hoàng thành   Thăng Long”(Bùi Minh Trí) ­ “Gốm sứ  Nhật Bản trong Hoàng thành Thăng Long” (Bùi Minh  Trí)  1
  4. ­  “Thêm một  vài thông tin về  gốm Hizen trong bối cảnh ngoại   thương Việt – Nhật thế kỷ XVI – XVII” (Trịnh Cao Tưởng)  ­  “Vấn đề  bảo tồn và phát triển Nghề  thủ  công truyền thống  ở   Nhật Bản”(Hồ Hoàng Hoa) ­ Luận văn Thạc sĩ với đề tài “Vai trò của gốm sứ Nhật Bản trong   văn hóa đời sống”  ­  “Gốm sứ  Nhật Bản và gốm sứ  Việt Nam ” (Tạp chí nghiên cứu  Đông Bắc Á)  ­ “Nét độc đáo của ẩm thực Nhật Bản thông qua các đồ đựng gốm   sứ” (Tạp chí khoa học Ngoại ngữ) 2.2. Tình hình nghiên cứu gốm sứ Hizen ở Nhật Bản ­ “Tổng quan về xuất khẩu gốm sứ Hizen ra thế giới”;  “Gốm sứ   Hizen xuất khẩu ra các nước Đông Nam Á” (Ohashi Koji) ­ “Nhật ký giao thương Hirado – Hà Lan: thiết lập ngoại giao thời   cận thế” (Nagazumi Yoko) ­  “Mậu   dịch   Hà   Lan   thời   cận   thế   và   bế   quan   tỏa   cảng ”(Yao  Keisuke) ­ “Mậu dịch: Xuất khẩu sứ Arita của thuyền buôn Trung Quốc và   Hà Lan”( Yamawaki Tenjiro) ­  “Sứ  Hizen xuất khẩu ra nước ngoài” ? và  “Gốm sứ  Hizen xuất   khẩu qua biển Thái Bình Dương”(Nogami Takenori)  ­ “Gốm sứ Hizen ở Việt Nam” (Kikuchi Seiichi) ­ “Sứ Imari ở Hàn Quốc”(Ieda Junichi) ­ “Sứ  hoa lam Hizen và sứ  trắng Kraak  ở  Goa –  Ấn Độ” (Sasaki  Hanae)  ­ “Đồ  sứ  Nhật Bản xuất khẩu đến Việt Nam và Đông Nam Á thế   kỷ XVII” (Miki Sakuraba)  2.3. Tình hình nghiên cứu gốm sứ Hizen trên thế giới ́ ứ va công ty Đông Ân Ha Lan qua hoa đ ­  “Gôm s ̀ ́ ̀ ́ ơn cua thanh ̉ ̀   ̀ ́ ữ liêu khac  Batavia va cac d ̣ ́ ở  Hirado va Deshima 1602 ~ 1682 ̀ ”  (T.Volker)  2
  5. ̣ ­ “Mâu dich ̣  gôm s ́ ứ Nhât Ban cua công ty Đông Ân Ha Lan sau ̣ ̉ ̉ ́ ̀   năm 1683” ( T.Volker ) ­ “Gốm sứ  Nhật Bản xuất khẩu sang Hà Lan: Ghi chép của Công   ty Đông Ấn Hà Lan” (Vialle Cýthia) ­ “Mậu dịch gốm sứ Nhật Bản” (Oliver Impey)  ­ “Gốm sứ Hizen ở Ma Cao” (Roy, Sit Kai Sin) ­ “Gốm sứ Hizen xuất khẩu sang Manila” (Nida T. Cuevas)  ­ “Gốm sứ Hizen Nhật Bản phát hiện ở thành phố cổ Viên Chăn –   Buôn   bán   sứ   Imari   và   Karatsu   dưới   Vương   triều   Lane   Xang ”  (Simizu Naho) ­  “Nhật   Bản   –  Quần   đảo   Indonesia:   Bằng   chứng  thương   mại ”  (Naniek Harkantiningsih Wibisono)  ­ “Mậu dịch gốm sứ Hizen ở Malacca” (Lu Tai – Kang)  3.  Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ­ Phác thảo một cách khái quát về dòng gốm sứ Hizen. ­ Luận án tập trung tìm hiểu về  quá trình hình thành, phát triển,  xuất khẩu ra thế  giới của gốm sứ  Hizen, chủ yếu tập trung vào   thế kỷ XVII. 4. Nguồn tư liệu  Tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Việt và kết quả điền dã. 5. Phương pháp nghiên cứu Tổng hợp tư liệu, thống kê, so sánh, phân tích những nội dung   tư liệu đã có kết hợp với tư liệu đi thực tế thu thập được để rút ra  những nhận xét, đánh giá chung về  sự  phát triển, quá trình thay   đổi, giao thương với thế giới của gốm sứ Hizen.  6. Các đóng góp  ­ Công trình nghiên cưu co tinh khai quat va co gia tri tham khao vê ́ ́ ́ ́ ́ ̀ ́ ́ ̣ ̉ ̀  quá trình phát triển thăng trầm của gốm sứ Hizen trong khu vực và   trên thế giới.  ­ Mở ra môt h ̣ ướng nghiên cưu m ́ ơi me trong hoat đông nghiên c ́ ̉ ̣ ̣ ưú   ̣ ̉ văn hoa Nhât Ban noi chung và g ́ ́ ốm sứ Nhật Bản nói riêng. 7. Cấu trúc của luận án 3
  6. CHƯƠNG 1 GỐM SỨ HIZEN TRONG DÒNG CHẢY GỐM SỨ NHẬT  BẢN 1.1. Tổng quan về gốm sứ Nhật Bản 1.1.1. Thời cổ đại ­ Thời kỳ  Jomon: Hầu hết các sản phẩm này đều có màu xám  thẫm, hoa văn là những đường cong được bố trí rất nghệ thuật với   hoa  văn  nan chiếu.  Hình  dáng phổ  biến  là   dạng  góc   cạnh,  đáy   nhọn, có tay cầm hình đầu thú. Thời kỳ này, gốm Jomon được làm   bằng tay, sau đó được nung qua lửa ở nhiệt độ thấp. Đến giữa thời   Jomon, hình dáng của gốm Jomon đã có những bước thay đổi. ­ Thời kỳ Yayoi: Gốm thời kì này cũng được nung ở nhiệt độ thấp,  không tráng men. Màu chủ đạo là màu đỏ sẫm, bên cạnh đó còn có   màu đỏ  nhạt. Thời kì này, sản xuất nông nghiệp lúa nước ra đời.  Đồ  đồng, đồ  sắt xuất hiện. Họ  vẫn làm ra các sản phẩm Jomon   giống như thời kì trước. Loại gốm này về cơ bản vẫn dựa trên kỹ  thuật dải cuộn, nhưng tiến bộ hơn một bước là bắt đầu có sự pha  màu và hình dáng cũng được trau chuốt với kỹ thuật cao hơn mặc   dù hoa văn không phong phú như gốm Jomon.  ­ Thế kỷ thứ 5: kỹ thuật gốm từ Triều Tiên du nhập vào Nhật và  loại gốm này hoàn toàn khác với đất nung. Người Nhật biết đến  sự tồn tại của bàn xoay.  1.1.2. Thời Trung đại ­ Đánh dấu một bước chuyển biến rất quan trọng của gốm s ứ  Nhật   Bản,   khi   Kato   Shirozaemon   Kagesama   –   còn   được   gọi   là  Toshiro theo đoàn tùy tùng của Thiền sư Dogen (1200 – 1253) sang   học nghề  gốm  ở  Trung Hoa. Khi về  Nhật Bản, ông đã dựng lò   gốm ở làng Seto gần Nagoya – một trung tâm gốm cổ. Đây là vùng   có loại đất sét phù hợp để  làm gốm và mở  ra thời kì phát triển  thịnh đạt của gốm sứ Nhật Bản với nhiều dòng gốm nổi tiếng.  4
  7. ­ Giữa thế kỷ thứ 7: Thợ gốm Nhật Bản bắt đầu học hỏi kỹ thuật  của Trung Quốc và Triều Tiên. Họ  học cách tráng men, nung đất   sét  ở  nhiệt độ  tương đối thấp. Một số  lớp men tráng bằng kỹ  thuật này có màu xanh lục đậm, trong khi các vật dụng gốm Nara   sansai (tam thái) lại nổi trội với ba màu đỏ, vàng và xanh lục. ­ Thời kỳ  Muromachi (1336–1573): đánh dấu sự  phát triển vượt  bậc của gốm Bizen, còn gọi là Imbe yaki. Gốm được làm từ  đất   sét chất lượng tốt của Imbe, khi nung xong, xương gốm đặc biệt  cứng chắc, sản phẩm thường là dụng cụ trà như chai, bình nhỏ. ­ Thời Momoyama (1573­1603): nhiều loại gốm sứ mới ra đời như  dòng gốm Raku, mang đậm ảnh hưởng của Trà đạo ­  Thời  kì  Edo  (1603­1868):  Kỉ  nguyên  vàng của  nghề  thủ  công  truyền thống Nhật Bản với các hoạt động sản xuất diễn ra trên cả  nước.  ­ Thế  kỷ  XVI: Thời điểm đánh dấu một bước ngoặt quan trọng  trong quá trình phát triển đồ  gốm, sứ  Nhật Bản là “cuộc chiến   tranh đồ  sứ” giữa Nhật Bản và Triều Tiên. Đây cũng là dấu mốc   mở ra thời kì phát triển nở rộ của đồ sứ đa sắc cao cấp Nhật Bản.  ­ Trong suốt thế  kỷ  XVII, hoạt động buôn bán đồ  sứ  đã diễn ra  mạnh mẽ giữa Nhật Bản và châu Âu.  1.1.3. Thời Cận đại ­ Từ nửa cuối thế kỷ XIX: Nhật Bản đã bước ra thế giới bên ngoài   bằng các sản phẩm thủ  công truyền thống giàu tính nghệ  thuật  của nền văn hóa tinh túy được tích lũy trong thời gian dài đóng cửa.  1.2. Tổng quan về gốm sứ Hizen ­ Lịch sử  gốm Kyushu  được bắt  đầu với dòng sản phẩm gốm   tráng men Karatsu được sản xuất ở tỉnh Hizen cuối thế kỷ XVI. ­ Hai lần tiến quân xâm lược Triều Tiên (1592 và 1597), Hideyoshi  có vai trò to lớn trong việc đưa kỹ  thuật sản xuất sứ  mới vào  Nhật.  ­ Từ cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, sản phẩm sành sứ Kyushu   đã bắt đầu tiếp nhận kỹ thuật sản xuất của Triều Tiên. 5
  8. ­ Sản phẩm sứ được sản xuất đầu tiên tại Arita, Hizen. Kỹ thuật   sản xuất phát triển nhanh chóng trong suốt thời Edo và càng phát  triển về  sau. Sau này, mọi người quen với cái tên Imari, tên cảng  xuất khẩu sứ Arita. ­ Sản phẩm sứ trong thế kỷ XVII tập trung chủ yếu ở tỉnh Hizen. ­ Ngay khi gốm sứ Nhật Bản bước vào giai đoạn hình thành, các lò  gốm sứ  ở Arita có chiều hướng phát triển tại các vùng đồi núi bỏ  hoang để tiện cho việc khai thác nguyên liệu sản xuất sứ. ­ Bên cạnh việc học hỏi kỹ  thuật chế  tác sứ  từ  Trung Quốc và   Triều Tiên, người Nhật cũng sáng tạo ra những kỹ thuật của riêng   mình. Vào khoảng giữa thế  kỷ  XVII, ngành công nghiệp gốm sứ  của Nhật Bản đã phát triển rất mạnh. Để  đáp  ứng nhu cầu trong   nước và xuất khẩu, rất nhiều lò nung đã xuất hiện tại Arita. ­ Đến thế kỷ XVIII, sứ bắt đầu lan sang các vùng khác như Buzen   (Fukuoka),   Chikuzen   (Fukuoka),   Higo   (Kumamoto),   Satsuma  (Kagoshima). Sau đó kỹ  thuật sản xuất sứ lan sang Bungo (Oita),   Hyugaa (Miyazaki) và Chikugo (Fukuoka). ­ Các dòng tiêu biểu: gốm Karatsu, sứ Hasami, Mikawachi và Arita ­   Quá   trình  phát   triển  của  gốm   sứ   Nhật   Bản  cho  thấy  sự   ảnh   hưởng sâu sắc của Trung Quốc và Triều Tiên, nhưng cũng chính  cảm quan nghệ  thuật và lối sống của người Nhật đã là nền tảng  để  hình thành nên một  nghệ  thuật  độc đáo và một ngành công  nghiệp phát triển. 1.2.1. Nguyên liệu ­ Cao lanh tự  nhiên lấy trong lãnh địa Hizen (núi Izumiyama, núi   Mitsunomata, Ajiroishi và Amakusa) + Cao lanh nguyên sinh: Cao lanh hình thành ngay tại mỏ đá gốc + Cao lanh thứ  sinh: Sản phẩm phong hoá tàn dư  nhưng bị  nước,  băng hà, lũ lụt cuốn đi rồi lắng đọng tại các chỗ trũng, từ đó hình   thành nên các mỏ cao lanh hay đất sét thứ sinh. 1.2.2. Sự biến đổi của gốm sứ Hizen 1.2.2. 1. Cấu trúc lò gốm 6
  9. ­ Thời tiền sử: thợ  gốm thường cho sản phẩm vào đụn rơm hay   một hốc đất và phủ  rơm rạ  để  nung. Lò nhỏ  dùng để  nung gốm   được du nhập từ  lục  địa vào từ  cuối thế  kỷ  XVII   đầu thế  kỷ  XVIII. Lò nung thấp có thể  sử  dụng phù hợp cho tất cả  các sản  phẩm từ không tráng men, tráng men hay phủ men. ­ Giai đoạn sau: do học kỹ  thuật của Triều Tiên nên lò bầu (hay   còn gọi là lò rồng) phổ biến trong các trung tâm sản xuất.  + Waritake (Wari: chia, tách; take: tre): Thợ  gốm vẫn dùng hình  ảnh bẻ  gập của các đốt tre để  mô tả  cho loại lò này. Các bầu  được xây nối tiếp nhau trên sườn núi, tuy nhiên nếu nhìn từ  phía  ngoài không thấy sự tách biệt của các bầu với nhau + Renbo (Ren: liên tiếp; bo: các chuỗi, các chùm): Các khoang hình  bầu tròn như những vỏ sò tạo thành các bầu chồng úp lên nhau tạo   thành một dãy dài. Các khoang trong lò Renbo rộng hơn so với các  khoang trong lò Waritake nên có thể nung sản phẩm có kích cỡ lớn  hơn và số lượng nhiều hơn.              Cả  Waritake và Renbo đều có nguồn gốc từ  Triều Tiên và   được tìm thấy tại tỉnh Saga trong thế  kỷ  XVI­XVII, nhưng hiện   nay hai loại lò này đều được gọi chung với cái tên là Noborigama  (lò leo, lò bầu hay lò rồng).  ­ Ngoài lò bầu, lò phổ  biến cuối thế  kỷ  XVII đầu thế  kỷ  XVIII,  người thợ gốm còn sử dụng một số các loại lò khác như lò đàn, lò   hộp (hay lò đứng), hay lò con thoi (lò gas), lò tuynen (lò hầm, lò  liên tục).. 1.2.2.2. Hình dáng sản phẩm Gốm sứ Hizen đã có nhiều cải tiến không ngừng phát triển để  phù hợp với thị hiếu theo từng giai đoạn + 1610 – 1630: Hầu hết các loại bát đều có hình tròn, hình trụ. Các   họa tiết trang trí ở giữa có một lớp men nền màu xanh lam. Những   chiếc bát hình trụ  được trang trí các họa tiết hoa cỏ  và hoa văn  hình sóng nước ở xung quanh. 7
  10. + 1630 – 1650: Những chiếc bát không tráng men phía dưới đã xuất   hiện trong thời gian này.  + 1650 – 1680: Xuất hiện những chiếc bát lớn với lối vẽ trang trí  hoa văn hình sóng nước  ở  trong lòng bát và hình rồng phượng  ở  phía bên ngoài.  + 1690 – 1740: Các sản phẩm sứ được sản xuất nhiều với các họa  tiết được trang trí trên bề mặt của bát, bình. + 1750 – 1790: Người ta bắt đầu sản xuất những chiếc bát có nắp   với lớp men tráng bên trong màu xanh lam còn bên ngoài có màu   xanh ngọc. Thời kì này các bát nhỏ hình tròn và hình trụ được dùng  cho đồ uống. + 1780 – 1820: Những chiếc chén hình tròn và hình trụ dùng cho đồ  uống được sản xuất với số lượng lớn. + 1820 – 1860: Những chiếc bát có nắp đậy được trang trí các  đường viền bên trong trở nên phổ  biến và các sản phẩm nhỏ  với   lớp men màu xanh lam được sử dụng chính cho các dụng cụ đựng   đồ uống. Cùng với sự phát triển của xã hội, nghề  thủ  công truyền thống  Nhật Bản, đặc biệt là nghề gốm có sự thay đổi lớn trong kỹ thuật   chế  tác, thiết kế  để  đưa ra chủng loại, mẫu mã phù hợp với nhu  cầu cũng như thị hiếu của người tiêu dùng từng thời đại.  8
  11. CHƯƠNG 2 CÁC DÒNG GỐM SỨ HIZEN VÀ SỨ HIZEN XUẤT KHẨU  SANG VIỆT NAM 2.1.  Các dòng gốm sứ Hizen 2.1.1. Gốm Karatsu ­ Khởi nguồn: Cuối thời Muromachi (1336­1573). ­ Đặc trưng sản phẩm Chất liệu: Chủ yếu dùng đất thô không mịn. Men: Men đặc trưng là men tro, men khoáng, ôxít sắt Họa tiết trang trí: Hoa cỏ, cây cối, động vật... Sản phẩm đặc trưng: Mujikaratsu   (Gốm   Karatsu   trơn;   Ekaratsu   (Tranh   g ốm);   Chosen   Karatsu   (Karatsu   Triều   Tiên);   Okugourai;   Madara   Karatsu;   Horikaratsu;   Horiekaratsu   ;   Kobikigaratsu;   Ekobiki;   Mishima  Karatsu 2.1.2. Sứ Hasami ­ Khởi nguồn: Năm Khánh Trường thứ  3 (1598), Omura Yoshiaki,  lãnh chúa vùng Omura, đã đưa thợ gốm Triều Tiên về lãnh địa của   mình và bắt đầu sản xuất sứ vào khoảng 1610. ­ Đặc trưng sản phẩm Chất liệu: Thời gian đầu (thời Edo) dùng nguyên liệu  ở  núi  Mitsunomata. Từ  thời Minh Trị, pha trộn giữa nguyên liệu  ở  núi Mitsunomata với nguyên liệu ở Amakusa. 9
  12. Họa tiết trang trí: Hoa cỏ (hoa đào, hoa mẫu đơn, cây đào...),  chim, hoa văn sóng nước, hình tượng rồng và mây... những họa   tiết gần gũi với cuộc sống thường nhật. Sản   phẩm   đặc   trưng:   Bát   sứ   trắng   Kurawanka,   bình   rượu  Konpura, sứ men ngọc, sứ hoa lam 2.1.3. Sứ Mikawachi ­ Khởi nguồn: Năm 1630 ­ Đặc trưng sản phẩm:   Chất liệu: Thời gian đầu (thời Edo) dùng nguyên liệu  ở  núi  Ajiroishi. Từ  thời Minh Trị, pha trộn giữa nguyên liệu  ở  núi   Ajiroishi với nguyên liệu ở Amakusa. Họa tiết trang trí: Hình búp bê, họa tiết sông núi, hoa lá, động   vật (gà, rồng, chim muông...) Sản phẩm đặc trưng: Dụng cụ  trà đạo (bát, bình hương, bình  đựng nước...), lư hương, dụng cụ kê đũa... + Sứ trắng: Sản phẩm Mikawachi có độ mỏng đến mức được gọi   là vỏ trứng. + Sản phẩm sứ hoa lam + Tranh Karakoe: Sản phẩm làm quà tặng, được trang trí hình ảnh  các cậu bé mặc trang phục truyền thống Trung Quốc.  2.1.4. Sứ Arita ­ Khởi nguồn: Khoảng năm 1610.  ­ Đặc trưng sản phẩm: + Koimari:  Họa tiết trang trí của sản phẩm sứ  Imari được chia  theo các thời kỳ  khác nhau, tuy nhiên chủ  đề  trong thiết kế  tập   trung về động vật, thực vật, thiên nhiên, đồ vật, kiến trúc, chữ… + Kakiemon: 3 kiểu trang trí     * Kiểu trang trí thứ nhất: bút pháp tả chân theo phong cách hội  họa Trung Hoa      *  Kiểu trang trí thứ  hai:  theo phong cách thuần Nhật với   cách  trang trí vay mượn từ Akae của Trung Hoa.    * Kiểu trang trí thứ ba: theo phong cách Hà Lan + Nabeshima: “Gốm sứ quý tộc”. Sản phẩm đặc trưng: Nabeshima  màu, Nabeshima hoa lam và sứ xanh Nabeshima 10
  13. 2.2. Đặc trưng sản phẩm Hizen xuất khẩu sang thị  trường   Việt Nam 2.2.1. Gốm sứ Hizen tìm được trong Hoàng Thành Thăng Long  ­ Bát (bát vẽ  rồng và mây, chim phượng, bát vẽ  chữ Hán, bát vẽ  phong cảnh); Đĩa (Đĩa vẽ  hoa cúc, cánh phù dung, chữ  “Nguyệt”,   đĩa vẽ chim phượng…); Chén; Bình rượu hình “củ tỏi” 2.2.2. Gốm sứ Hizen tìm thấy ở Hội An ­ Bát vẽ hoa văn sóng nước, rồng và mây, bát vẽ hoa cỏ… CHƯƠNG 3 GỐM SỨ HIZEN TRÊN THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI 3.1. Tổng quan về  tình hình xuất khẩu gốm sứ  Hizen thế  kỷ  XVII – XVIII ­ Thế  kỷ  XVI: Trào lưu thưởng thức trà đạo thịnh hành kéo theo  nhu cầu sử  dụng sứ  trong nước tăng lên, trong đó sản phẩm tách  trà của Triều Tiên có mặt nhiều nơi  ở  Nhật Bản thời kì này. Vì  thế, nhiều lãnh chúa  ở  Hizen đã đưa thợ  gốm Triều Tiên về  sản   xuất tại địa phương mình, tuy nhiên tương truyền rằng Hideyoshi   đã cho sản xuất gốm sứ dành riêng cho trà đạo mà không liên quan   đến kỹ thuật của các thợ gốm Triều Tiên.  ­ Năm 1594: Thợ gốm Triều Tiên không có người bảo hộ đã li tán  khắp nơi, vì vậy các lò gốm sứ mọc lên rộng rãi không chỉ ở phía   Nam tỉnh Saga mà còn lan ra khắp đất nước.  ­ Đến năm 1610: Nhiều dụng cụ  dùng trong trà đạo sản xuất tại  Nhật được đưa sang Trung Quốc như  bình đựng nước, chén trà,  đĩa... ­ Năm 1620 – 1640: Gốm sứ  được chính thức đưa vào sử  dụng  rộng rãi trong trà đạo, đánh dấu một giai đoạn hưng thịnh của sản   phẩm sứ Hizen.  11
  14. ­ Do hệ quả của cuộc chiến trong nước, thêm vào đó là thuế trong   nước tăng cao đã làm hạn chế  số  lượng gốm sứ  xuất khẩu của   Trung   Quốc,   Nhật   Bản   hầu  như   không  nhập  được   gốm   sứ   từ  Trung   Quốc   nên  nhu  cầu  sử   dụng   trong   nước   đổ   dồn   về   phía  Hizen. Nhờ nắm bắt được điều kiện thuận lợi, thợ gốm Hizen đã  cố gắng nỗ lực độc chiếm thị trường nội địa đem lại một thay đổi  lớn cho Nhật Bản: từ một nước nhập khẩu đã trở thành một nước   xuất khẩu gốm sứ. ­ Các lò gốm sứ Hizen sử dụng kỹ thuật chế tác Trung Quốc, đặc  biệt là kỹ  thuật của Triều Tiên đã được phát triển  ở  Trung Quốc   để đưa đến Nhật Bản và cho ra đời các sản phẩm mỏng giống với   sản phẩm ở lò Cảnh Đức Trấn.  ­ Cho đến đầu thế  kỷ  XVII: Gốm sứ  Trung Quốc phổ  biến và   được đánh giá cao trên thế  giới chính là nhờ  vào sản phẩm đạt   chất lượng tốt và là một trong những mặt hàng đầu tiên VOC buôn  bán với thị trường châu Á.  ­ Cho đến trước năm 1630, sản phẩm gốm sứ  mà VOC cung cấp  cho thị trường châu Âu chủ yếu là của Trung Quốc.  ­ Năm 1644: Nhà Thanh lật đổ nhà Minh và 20 năm sau đó diễn ra  cuộc nội chiến chống lại các thế  lực phục Minh, đã phá huỷ  nền  thủ  công gốm sứ  Trung Quốc, nhất là trung tâm Cảnh Đức Trấn,  gây ra sự khan hiếm hàng gốm sứ ở Hà Lan và khu vực châu Á. ­ Năm 1647: đồ sứ chất lượng cao Trung Quốc hầu như vắng bóng  trên thị trường quốc tế.  ­ Nắm bắt những điều kiện thuận lợi do bối cảnh khu vực mang   lại, gốm sứ Hizen tham gia vào mạng lưới thương mại khu vực và  thế giới là năm 1647. ­  Trong thế kỷ XVII và XVIII: Thuyền buôn Trung Quốc, Hà Lan   thương thuyền của Ấn Độ, Ả­rập và châu Âu vận chuyển gốm sứ  từ Nagasaki sang thị trường các nước trên thế giới.  ­ Năm 1661: Nhà Thanh ban hành lệnh “hải cấm” tiếp tục gây ra   sự khan hiếm đồ sứ Trung Quốc trên thị trường khu vực. 12
  15. ­ Sự  khan hiếm của đồ  sứ  Trung Quốc do biến động lịch sử  nêu  trên đã tạo ra cơ hội cho đồ sứ Nhật Bản lần đầu tiên trong lịch sử  được xuất khẩu ra thị trường quốc tế.  ­   Năm   1684,  nhà   Thanh   thống   nhất   đất   nước,  mở   cửa   lại   các  thương cảng buôn bán với nước ngoài,  gốm sứ  Trung Quốc đã  nhanh chóng quay trở lại thị trường thế giới, đặc biệt là thị trường   các nước Đông Nam Á. Đó cũng là lí do khiến gốm sứ Hizen mất   đi cơ hội tham gia vào thị trường khu vực.  ­  Nguyên nhân chính cho việc mất chỗ  đứng trên thị  trường thế  giới   là   do  chất   lượng   sản   phẩm  chưa   vượt   qua   được   gốm   sứ  Trung Quốc. Hơn nữa, giá nhập khẩu của Nhật quá cao cũng là rào  cản lớn cho gốm sứ Hizen trong giai đoạn này.  ­ Sau năm 1786, Nhật Bản đã thử xuất khẩu gôm s ́ ứ trở lai nh ̣ ưng   vẫn thất bại. 3.2. Nguồn xuất khẩu gốm sứ Hizen Trong thế  kỷ  XVII­XVIII, gốm sứ  Hizen được xuất khẩu ra  thế giới qua ba con đường chính: Công ty Đông Ấn Hà Lan (1650­ 1757); Tư thương va thuy ̀ ền manh Trung Hoa. Bên c ̀ ạnh đó Hizen   còn được xuất khẩu gián tiếp: tàu của Ả­rập hoặc Ấn Độ, tàu của   người Tây Ban Nha. 3.3. Gốm sứ Hizen trên thị trường thế giới    3.3.1. Bối cảnh chung 3.3.1.1.  Thị trường Đông Á +  Thái Lan­ Campuchia: Thời gian thâm nhập vào Thái Lan của  gốm sứ Hizen được xác định từ khoảng giữa những năm 1650 đến  1670. + Lào: Sản phẩm xuất sang Lào vào khoảng thời gian từ 1650 đến  1680. + Malaysia: Năm 1511, người Bồ Đào Nha đã chiếm được Malacca  va sử  dụng cảng thị  này như  một tuyến đường thương mại qua  vùng Đông Nam Á. 13
  16. +  Manina: Năm 1571, người Tây Ban Nha đã lập nên thành phố  Manina để  quản lý Philipin và mậu dịch Đông Nam Á. Tuy nhiên,  không có đề  cập hay ghi chép gì về  tình hình xuất khẩu đồ  sứ  Hizen. + Macao: Năm 1513, người Bồ  Đào Nha đã đến Macao và   năm 1557, Macao đã trở thành nơi định cư của họ.  +  Đài Loan: Các nhà khảo cổ  học đã tìm thấy một số  mẫu vật  gốm sứ  Hizen  ở  Đài Loan và cho rằng các mẫu vật này là sản  phẩm của thế ky XVII.  ̉ + Việt Nam: 1627 Các phát hiện khảo cổ học cho thấy, thời kì này  khu   vực   miền   Trung   nhập   rất   nhiều   sản   phẩm   gốm   sứ   Trung   Quốc và Nhật Bản. Lí do là thời kỳ  Trịnh – Nguyễn phân tranh,  sản phẩm của các lò miền Bắc ít được vận chuyển tới thị trường   miền Trung. Mặt khác, miền Trung là nơi không có những lò gốm   men như  miền Bắc nên buộc phải nhập  đồ  sứ  Trung Quốc và   Nhật Bản thay thế.  3.3.1.2. Thị trường châu Âu ­ Chủ yếu là thị trường Hà Lan sau đó chuyển  sang các nước khác. 3.3.2.   Tư  liệu xuất khẩu dựa trên sổ  kinh doanh và hóa đơn   của VOC 3.3.2.1. Đài Loan – Phúc Kiến Gốm sứ  Hizen  được xuất khẩu sang  Đài Loan trong khoảng  thời gian từ 1652 – 1660. Năm 1650, số  lượng gốm sứ xuất khẩu  sang Trung Quốc phần lớn là dụng cụ  y tế  như  lọ  và bình đựng   thuốc,   lọ   đựng   dầu.   Trong  tổng   7765  tiêu   bản   xuất   khẩu  sang   Trung Quốc giai đoạn 1653­1665 có 7465 tiêu bản được xuất khẩu  sang Đài Loan, dụng cụ y tế chiếm 6985 tiêu bản, còn lại 480 tiêu   bản đĩa nông, đĩa sâu lòng và đĩa nhỏ. Một số  lượng nhỏ chai, lọ  đừng thuốc khác (120 tiêu bản) cũng được  đưa đến Phúc Kiến  trong năm 1665.  3.3.2.2.Indonesia 14
  17. Giai đoạn từ  năm 1653­1757, có  94.882  tiêu bản gốm sứ  nói  chung được đưa đến Batavia, tuy nhiên không chỉ  rõ số  lượng cụ  thể  các sản phẩm chuyên dụng cho y tế hay sản phẩm gia dụng.   Vì vậy, khó có thể đưa ra một con số chính xác về chủng loại của   sản phẩm xuất khẩu này. Tuy vây, theo dữ liệu ghi chép thì có thể  thấy trong giai đoạn 1702­1741, Batavia chỉ  nhập các sản phẩm  dùng trong y tế như lọ, bình đựng thuốc (22.497 tiêu bản). 3.3.2.3. Xiêm – Malaysia Xiêm là đầu mối buôn bán giữa phương Đông và phương Tây,  tuy nhiên gốm sứ không hẳn là mặt hàng có nhu cầu cao nên thời  gian này gốm sứ  Hizen được xuất khẩu đến Xiêm không nhiều.   Trong khoảng 11 năm (1666­1677), 2.258 tiêu bản được chuyển  đến vùng này, trong đó hoàn toàn là các dụng cụ  dùng trong ăn   uống chứ  không phải các dụng cụ  chuyên dùng trong y tế  như  Indonesia.  3.3.2.4.Ấn Độ Giai đoạn 1658­1714, gốm sứ Hizen được chuyển đến Bengal,  Coromandel, Malabar, Ceylon, Kochi, Surat. Năm 1660 với 57.173  tiêu bản, năm 1662 với 44.520 tiêu bản, năm 1671 với 40.684 tiêu  bản, còn những năm 1665, 1669, 1670 với gần 20.000 tiêu bản.  3.3.2.5. Srilanka   Giai đoạn 1670 – 1714, các sản phẩm gốm sứ  chính như  đĩa  nông, đĩa sâu lòng, bát... được thuyền buôn đưa đến Ceylon, Sri­ lanca. Theo số  có thể  nhận thấy hàng xuất khẩu sang Sri­lanca   được chia thành 3 giai đoạn rõ rệt: giai đoạn 1 từ  1670­1677, giai  đoạn 2 từ 1686­1689, giai đoạn 3 từ 1675­1714. Năm 1677 (2.022   tiêu bản),  tuy nhiên sau hơn 10 năm không nhập khẩu gốm  sứ  Hizen, đến năm 1686 bắt đầu giao dịch lại nhưng con số rất khiêm  tốn chỉ với 300 tiêu bản, số lượng giảm đáng kể so với năm 1677.  Năm cuối của giai đoạn 2 (năm 1689), tổng số nhập khẩu là 5.536  tiêu bản và đến năm 1705 (năm đầu của giai đoạn 3) hàng nhập  15
  18. khẩu chỉ còn 1.232 tiêu bản, ước  tính giảm gần 5 lần so với năm   1689.  3.3.2.6. Iran – Yemen  Giai đoạn 1670­1745, tổng số lượng xuất khẩu sang Ba Tư là   102.055 tiêu bản bao gồm dụng cụ bàn ăn (đĩa nông, đĩa sâu lòng,  bát, bình hoa lam...), dụng cụ trà (chén sứ xanh, tách pha cà phê có  đế…). Trong đó năm 1677 và 1679 có số  lượng nhập khẩu nhiều  nhất là 30.000 tiêu bản.  Từ  năm 1659, 1661 các sản phẩm Hizen   cũng được xuất sang Mocha (Yemen) với tổng số  là 60.567 tiêu   bản.  3.3.2.7. Hà Lan   Giai đoạn 1660 – 1672, số  lượng nhập khẩu gốm sứ  Hizen   tương đối lớn (38.150 tiêu bản), nhưng đến năm 1673 giảm đi 8  lần xuống còn 4.890 tiêu bản.  ́ ư Nhât Ban xuât sang thi tr 3.3.2.8.  Gôm s ́ ̣ ̉ ́ ̣ ương Viêt Nam ̀ ̣ Công ty VOC      Theo ghi chép của VOC, hoạt động buôn bán gốm sứ  của  Nhật Bản giữa cảng Nagasaki và thương điếm Đàng Ngoài diễn ra   trong giai đoạn 1650 – 1679. Trong thời gian này, theo số liệu gốc   của VOC 13.850 tiêu bản, trong đó có 6.000 bát ăn cơm (43%);   4.080 đĩa (30%); 2.200 đĩa trà (16%); 1.321 tiêu bản sứ  nói chung   (10%) và 200 chén (1%) được đưa đến Việt Nam. Mậu dịch của người Hoa Theo   một   số   nghiên   cứu   gần   đây,   người   Hoa   đã   nhập   một  lượng lớn đồ  sứ  Nhật Bản vào Đàng Ngoài. Tổng số  hàng xuất  khẩu qua thuyền mành Trung Hoa là 96.693 tiêu bản, 728 bó rơm  và 2 thùng. (782 bó rơm và “bossen” bao gồm 39.100 tiêu bản đồ  sứ  và tổng số  hàng chở  có thể   ước đoán là khoảng 135.793 tiêu  bản.)  Thông qua mậu dịch thuyền mành Trung Quốc, có 7.000 tiêu  bản sứ  Nhật Bản đã được chở  từ  Đàng Trong đến Batavia. Theo   ghi chép của VOC về  mậu dịch của người Hoa giữa Đàng Ngoài   16
  19. và Nagasaki thì có 96.693 sản phẩm, 72 bó rơm và 2 thùng đồ  sứ  Nhật được chở  từ Nagasaki đến Đàng Ngoài vào các năm 1676 và  1681. Điều này khẳng định rằng các thương cảng của Đàng Trong  cũng như  Đàng Ngoài đã có vai trò trung chuyển trong hoạt động   xuất khẩu của Nhật Bản. 3.3.2.2. Gôm s ́ ư Viêt Nam ́ ̣  ở Nhât Ban ̣ ̉ Các tiêu bản gốm sứ  Việt Nam được phát hiện  ở  101 khu di   tích ở Nhật Bản phân bố từ tỉnh Okinawa trải qua khu vực Kyushu,  khu vực Kansai,  đến khu vực Hokuriku, khu vực Kanto  được  xác  nhận  có  niên  đại là của thế  kỷ  XIV  –  XVIII: Khu vực  Okinawa,  Thanh Sakai ̀ ,  Thanh Osaka ̀ ,  khu vực Shikoku, khu vực Kinki,  khu  vực Hokuriku, khu vực Kanto, thành phố Tokyo, khu vực Kyushu 3. Ảnh hưởng của gốm sứ Hizen đến đời sống văn hóa xã hội 3.1. Đời sống kinh tế ­ Các phường, hội được thành lập, thợ thủ công bắt đầu làm việc  trong các tổ chức này.  ­ Không chỉ  sản xuất dụng cụ  gốm sứ  dành cho người tiêu dùng  trong nước, các lò gốm không ngừng cải tiến, học hỏi kỹ  thuật  của Triều Tiên để đưa ra các sản phẩm tinh túy hơn, đa dạng hơn,  đủ khả năng thâm nhập vào thị trường thế giới.  ­ Không chỉ đơn thuần là mở rộng thị trường mà còn là một bước   chứng minh sức mạnh cũng như  tiềm năng kinh tế của Nhật Bản   với các quốc gia trên thế giới.  ­ Ngoài ra, với số lượng lớn được xuất khẩu trên khắp thế giới đã   giúp Nhật Bản có cơ  hội phát triển đất nước, nâng cao đời sống  của nhân dân.  ­ Tạo ra được một mạng lưới thương mại và thị  trường tiêu thụ  trên thế giới của gốm sứ Hizen. 3.2. Đời sống xã hội ­ Gốm sứ  có vai trò rất đặc biệt trong văn hóa Nhật Bản như  ẩm  thực, trà đạo và nghệ thuật cắm hóa Ikebana. 17
  20. ­ Có vai trò lớn trong trang trí nội thất.  KẾT LUẬN Hàng trăm năm qua, gốm sứ Nhật Bản luôn là một trong những   vật phẩm quý hiếm được giới sưu tập ưa chuộng bởi kiểu dáng và  màu sắc sang trọng, thanh lịch với những nét hoa văn trang trí tinh   tế, quý phái mang giá trị  thẩm mỹ  cao.  Dựa trên cơ  sở  tiếp nối  truyền thống lâu đời của gốm cổ, Nhật Bản đã mạnh dạn tiếp  nhận các kỹ thuật gốm sứ tiên tiến của Triều Tiên và Trung Quốc   để đưa ra các loại sản phẩm phù hợp với xu hướng tiêu dùng trong   nước và thế  giới. Chính vì thế,  cao cấp, sang trọng, tinh tế  và   tuyệt đẹp là những mỹ từ mà bất cứ ai cũng phải thốt lên khi được   chiêm ngưỡng những sản phẩm sứ Nhật Bản.  Trên cơ  sở  cần cù  18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2