Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quá trình phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2020
lượt xem 4
download
Mục đích nghiên cứu của tóm tắt luận án "Quá trình phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2020" là phục dựng lại được quá trình phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2020 qua các giai đoạn, đánh giá những thành tựu, hạn chế, rút ra các đặc điểm, tác động của quá trình phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quá trình phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2020
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI BÙI THỊ BÍCH THUẬN QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1993 ĐẾN NĂM 2020 Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 9.22.90.13 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ HÀ NỘI – 2024
- Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Hoàng Hải Hà 2. PGS.TS. Đào Tuấn Thành Phản biện 1: PGS.TS. Đinh Quang Hải Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hà Phản biện 3: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào hồi …..giờ … ngày … tháng… năm… Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Thư viện Quốc Gia, Hà Nội hoặc Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nguồn nhân lực là năng lực nội sinh chi phối các nguồn lực khác, là “yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững”. Đại hội lần thứ XI, XII và XIII của Đảng chủ trương, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, là một trong ba đột phá chiến lược của đất nước. Cuối thế kỷ XX, đầu thề kỷ XXI, nền kinh tế thế giới bước sang thời kỳ phát triển mới. Trên cơ sở những thành tựu có tính đột phá về khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức ra đời, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế trở thành xu thế tất yếu của các quốc gia. Cách mạng công nghiệp lần thứ ba và lần thứ tư có tác động mạnh mẽ đến tất cả các nước. Thành tựu nổi bật nhất của khoa học - công nghệ trong giai đoạn này là công nghệ thông tin (CNTT). CNTT trở thành dòng chủ lưu mạnh trong xu thế toàn cầu hóa, tạo nên một động lực lớn trong công cuộc phát triển kinh tế, xã hội. Không một nền kinh tế phát triển nào trên thế giới mà không sở hữu một nền tảng CNTT vững chắc. Cuộc cạnh tranh về CNTT và nguồn nhân lực CNTT giữa các nước diễn ra vô cùng nhanh chóng. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã ý thức được sự cần thiết phải phát triển CNTT. Năm 1993, Việt Nam có chủ trương phát triển CNTT nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế. Năm 1997, Việt Nam chính thức mở cổng quốc gia với mạng thông tin toàn cầu (Internet) và sau đó cung cấp cho người dân sử dụng. Năm 2000, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đẩy mạnh ứng dụng CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Đây là những sự kiện có tính chất tạo bước đột phá trong phát triển CNTT ở Việt Nam. Từ năm 1993 đến năm 2020, trải qua gần 30 năm xây dựng và phát triển, CNTT có bước phát triển ngoạn mục, là một trong những lĩnh vực phát triển nhanh nhất ở Việt Nam. Năm 1993, công nghiệp CNTT bắt đầu được xây dựng. Từ một ngành kinh tế nhỏ bé, chỉ đóng góp khoảng 0,5% GDP vào năm 2000 đã trở thành một trong những ngành kinh tế có mức tăng trưởng, năng suất lao động cao nhất, giá trị xuất khẩu lớn nhất, là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước và có tốc độ phát triển nhanh trong khu vực. Sự phát triển này ghi nhận những nỗ lực không ngừng của Đảng, Nhà nước, các tổ chức, cá nhân khi cùng chung tay, góp sức phát triển một lĩnh vực khoa học, công nghệ, một ngành kinh tế mới ở Việt Nam, trong đó nguồn nhân lực CNTT giữ vai trò quan trọng nhất. Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin là yếu tố then chốt, có ý nghĩa quyết định đối với việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin”. CNTT không chỉ là một lĩnh vực khoa học, công nghệ, một ngành kinh tế, mà còn là hạ tầng của hạ tầng, thúc đẩy sự phát triển các ngành kinh tế, xã hội khác. Vì vậy, phát triển
- 2 nguồn nhân lực CNTT còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, xuất phát điểm từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, nền tảng khoa học, công nghệ thấp kém nên những điều kiện cho sự phát triển CNTT ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Một trong những hạn chế lớn nhất là nguồn nhân lực CNTT vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát trển kinh tế, xã hội trong nước, chưa tạo được sự cạnh tranh mạnh mẽ trên trường quốc tế. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực CNTT vẫn còn nhiều bất cập, từ quy hoạch, đào tạo, thu hút, đãi ngộ, sử dụng, đến số lượng, chất lượng, cơ cấu. Vấn đề phát triển nguồn nhân lực CNTT tiếp tục là bài toán lớn đối với đất nước trong giai đoạn thực hiện công cuộc chuyển đổi số hiện nay. Thực trạng đó đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu đa chiều về quá trình phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam làm cơ sở cho các nhà hoạch định chính sách trong nghiên cứu, xây dựng và ban hành chủ trương, chính sách, để nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam phát triển hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Việc phục dựng lại bức tranh đa chiều về phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2020, làm rõ quá trình phát triển, rút ra những thành tựu, hạn chế, đặc điểm, tác động là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Tuy nhiên, cho đến nay, vấn đề này chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và chưa được tiếp cận dưới góc độ của khoa học Lịch sử. Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề “Quá trình phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2020” làm đề tài nghiên cứu của luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là quá trình phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2020. 2.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Luận án nghiên cứu nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam, tuy nhiên tập trung chủ yếu các cơ quan trung ương (bộ, ngang bộ), các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các doanh nghiệp CNTT. Bên cạnh đó, để làm rõ hơn bối cảnh tác động, các hoạt động triển khai và đánh giá, nhận xét về quá trình phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam, luận án có đề cập phạm vi không gian của một số quốc gia khác như các quốc gia ở Đông Nam Á, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc... - Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu từ năm 1993 đến năm 2020. Năm 1993, Nghị quyết số 49/CP ngày 04/08/1993 của Chính phủ về "Phát triển CNTT ở Việt Nam trong những năm 90" là sự kiện quan trọng, đánh dấu bước ngoặt trong phát triển nguồn nhân lực CNTT của Việt Nam. Nghị quyết chủ trương xây dựng các Khoa CNTT đầu tiên tại các trường đại học trọng điểm của cả nước, cùng nhiều chính sách quan trọng khác, mở đầu cho quá trình xây dựng, phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
- 3 Năm 2020 là năm kết thúc giai đoạn thực hiện của nhiều chủ trương, chính sách về phát triển CNTT và nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam theo các văn bản như: “Phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực CNTT đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020”; Phê duyệt Đề án “Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về CNTT và truyền thông” của Thủ tướng Chính phủ… Luận án cũng mở rộng phạm vi thời gian nghiên cứu trước năm 1993, nhằm làm rõ thực trạng CNTT, nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam trước năm 1993 và tính tất yếu cần phát triển nguồn nhân lực CNTT của đất nước trong những năm 90 của thế kỷ XX. Từ năm 1993 đến năm 2020, luận án chia làm hai giai đoạn: 1993 - 2005 và 2006 - 2020. Năm 2006, Luật Công nghệ thông tin ra đời đã chính thức luật hoá các hoạt động ứng dụng và phát triển CNTT, phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam. Đây cũng là năm đầu tiên Nhà nước có chủ trương phát triển mạnh các cơ sở ngoài công lập, chấp nhận cơ chế thị trường trong đào tạo đại học thuộc các ngành kỹ thuật - công nghệ và dạy nghề, nhờ đó, hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực CNTT có những bước phát triển cả về lượng và chất. - Về nội dung: Phạm vi nguồn nhân lực CNTT theo Quyết định số 05/2007/QĐ-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông, ngày 26/10/2007 về “Phê duyệt Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực CNTT Việt Nam đến năm 2020” và Quyết định số 698/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 01/06/2009 về “Phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực CNTT đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020” bao gồm nhân lực làm công tác đào tạo về CNTT, điện tử, viễn thông; nhân lực chuyên nghiệp về CNTT, điện tử, viễn thông làm trong các doanh nghiệp và công nghiệp; nhân lực cho ứng dụng CNTT của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp; cán bộ, viên chức và mọi người dân sử dụng, ứng dụng CNTT [157]. Phạm vi nguồn nhân lực CNTT được đề cập ở trên rất rộng, trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi tập trung nghiên cứu bao gồm: (1) Nhân lực CNTT, điện tử, viễn thông được đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp; (2) Nhân lực chuyên nghiệp về CNTT, điện tử, viễn thông trong các doanh nghiệp và công nghiệp CNTT; (3) Nhân lực chuyên trách về CNTT trong các cơ quan hành chính nhà nước. Trên cơ sở đó, luận án nghiên cứu về quá trình phát triển nguồn nhân lực CNTT là tổng thể các hoạt động nhằm xây dựng, phát triển nguồn nhân lực CNTT (số lượng và chất lượng), đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam thông qua công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, chính sách thu hút, đãi ngộ và hợp tác quốc tế. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận án là phục dựng lại được quá trình phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2020 qua các giai đoạn, đánh giá những thành tựu, hạn chế, rút ra các đặc điểm, tác động của quá trình phát triển nguồn nhân lực CNTT đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- 4 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận án nhằm giải quyết các nhiệm vụ sau: Thứ nhất, từ tổng quan tình hình nghiên cứu chỉ ra khoảng trống trong nghiên cứu và những vấn đề cần tập trung giải quyết. Thứ hai, phân tích các yếu tố tác động đến quá trình phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2020, như bối cảnh thế giới và Việt Nam; chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; thực trạng phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam trước năm 1993. Thứ ba, làm rõ quá trình phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2020 trên các khía cạnh: quy hoạch; đào tạo, bồi dưỡng; thu hút, sử dụng, đãi ngộ và hợp tác quốc tế. Thứ tư, phân tích đặc điểm, đánh giá tác động của việc phát triển nguồn nhân lực CNTT từ năm 1993 đến năm 2020 đến tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh của Việt Nam. 4. Nguồn tài liệu Trong quá trình nghiên cứu đề tài luận án, tác giả khai thác, sử dụng các nguồn tài liệu khác nhau: - Thứ nhất, nguồn tài liệu sơ cấp: Tác giả đã khai thác, sử dụng nguồn tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, gồm các hồ sơ liên quan tới quá trình ban hành, ra quyết định phê duyệt các chương trình, dự án phát triển CNTT và nguồn nhân lực CNTT của Thủ tướng Chính phủ. Bên cạnh đó là các báo cáo của Ban Chỉ đạo Chương trình Quốc gia về CNTT, của Văn phòng Chính phủ và các bộ, ngành về tình hình triển khai CNTT và phát triển nguồn nhân lực CNTT trong giai đoạn 1993 - 2007. Luận án còn sử dụng số lượng khá lớn tài liệu là các Nghị quyết, Quyết định, Chỉ thị của Bộ Chính trị, Chính phủ, Bộ Bưu chính, Viễn thông (trước năm 2007), Bộ Thông tin và Truyền thông (từ năm 2007 đến năm 2020), Bộ Giáo dục và Đào tạo… Một số bộ luật, đặc biệt Luật Công nghệ thông tin năm 2006. - Thứ hai, nguồn tài liệu thứ cấp: Bao gồm các tài liệu thống kê (luận án sử dụng nhiều số liệu từ “Niên giám CNTT-TT Việt Nam” của Hội Tin học thành phố Hồ Chí Minh; “Sách trắng CNTT và Truyền thông Việt Nam”, “Báo cáo chỉ số sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng CNTT và Truyền thông Việt Nam (Vietnam ICT index)” của Bộ Thông tin và Truyền thông; các số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê…) bên cạnh đó là các báo cáo, công trình, đề tài nghiên cứu, sách, luận án, luận văn, các bài viết trên các tạp chí, hội thảo, Internet… đây là những tài liệu tham khảo đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau về phát triển nguồn nhân lực CNTT, giúp luận án nghiên cứu tổng thể và chuyên sâu. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử và chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- 5 Luận án được thực hiện thông qua việc sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu đặc trưng của khoa học Lịch sử, trong đó phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic là hai phương pháp nghiên cứu chủ đạo. Luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: tổng hợp, thống kê, phân tích, điều tra xã hội học, phỏng vấn sâu, so sánh đối chiếu, phương pháp chuyên gia… nhằm giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu của luận án. Phương pháp lịch sử được sử dụng để phục dựng lại bức tranh toàn cảnh theo tiến trình lịch sử về các yếu tố tác động, các hoạt động triển khai về quá trình phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2020, dựa trên cơ sở thu thập, khảo cứu tài liệu từ các nguồn khác nhau. Phương pháp logic là được sử dụng để nghiên cứu quá trình phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam trong hình thức tổng quát, từ đó tìm ra bản chất, quy luật vận động của quá trình này. Phương pháp logic kết hợp với phương pháp lịch sử được sử dụng để nhằm mô tả quá trình phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2020, đồng thời tìm ra bản chất, quy luật phát triển, đánh giá kết quả, đặc điểm và tác động của quá trình đó. Phương pháp tổng hợp, thống kê để tổng hợp dữ liệu, số liệu hoạt động quy hoạch, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, tiền lương, mức ưu đãi và những kết quả đạt được về phát triển nguồn nhân lực CNTT. Phương pháp phân tích nhằm làm rõ quá trình phát triển nguồn nhân lực CNTT, làm rõ các số liệu được tổng hợp trong luận án. Phương pháp so sánh được sử dụng trong luận án nhằm so sánh kết quả của quá trình nhận thức, hoạt động triển khai giữa các năm, giai đoạn và giữa Việt Nam với một số quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á. Phương pháp chuyên gia được luận án sử dụng để khai thác các ý kiến đóng góp của các chuyên gia công nghệ thông tin, nhằm làm rõ một số khái niệm, thuật ngữ mang tính chuyên sâu về CNTT, về tác động của nguồn nhân lực CNTT. Luận án cũng sử dụng phương pháp khảo sát thực tế bằng phiếu điều tra và phỏng vấn sâu để bổ sung, thẩm định, đối chiếu tư liệu, làm rõ hơn tình hình phát triển nguồn nhân lực CNTT. Tác giả luận án tiến hành khảo sát online 264 sinh viên ngành CNTT của một số trường đại học và cao đẳng trên địa bàn Hà Nội (Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (nay là Đại học Bách khoa Hà Nội), Trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Đại học Dân lập Phương Đông và Trường Cao đẳng Công nghệ Bách khoa Hà Nội). Đối tượng khảo sát là những sinh viên từ năm thứ ba đến năm thứ năm, nhập học từ năm 2020 trở về trước. Trong đó có 118 sinh viên năm thứ ba (chiếm 44,7%), 119 sinh viên năm thứ tư (chiếm 45%) và 27 sinh viên năm thứ năm (chiếm 10,3%). Số lượng sinh viên năm thứ năm ít hơn là do số trường đại học, cao đẳng được khảo sát đào tạo hệ kỹ sư 5 năm không nhiều. Thời gian khảo sát từ tháng 9 đến tháng 11/2022. Bên cạnh đó, tác giả luận án tiến hành phỏng vấn sâu 11 người, bao gồm 01 đại diện Bộ Thông tin và Truyền thông, 01 đại diện Trung tâm CNTT (Bộ Khoa học và Công nghệ),
- 6 02 cán bộ chuyên trách CNTT, 02 giảng viên CNTT và 02 lao động CNTT trong doanh nghiệp, 03 cán bộ quản lý trong doanh nghiệp CNTT. Thời gian phỏng vấn được thực hiện từ tháng 9 đến tháng 10 năm 2022 và tháng 6 đến tháng 7 năm 2023. 6. Đóng góp của luận án - Luận án là công trình nghiên cứu có tính chuyên sâu, phục dựng một cách khách quan, khoa học bức tranh đa chiều về quá trình phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2020. Những kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp hệ thống tri thức lịch sử về quá trình phát triển nguồn nhân lực CNTT nói riêng, góp phần làm rõ quá trình xây dựng, phát triển, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế của Việt Nam nói chung. - Qua việc nghiên cứu hệ thống các khái niệm về nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực, CNTT, công nghệ thông tin và truyền thông, phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin, luận án có ý nghĩa lý luận đối với các nhà nghiên cứu. - Về mặt tư liệu, luận án đã tập hợp, hệ thống hóa các nguồn tài liệu liên quan đến quá trình phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam, tổng quan được tình hình nghiên cứu về CNTT và nguồn nhân lực CNTT của các tác giả trong và ngoài nước, những tư liệu này góp phần thúc đẩy hoạt động nghiên cứu về CNTT nói chung và nguồn nhân lực CNTT nói riêng. - Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ đặc điểm của quá trình phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2020 và tác động của quá trình đó đến tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. - Luận án chỉ ra những thuận lợi, khó khăn, thành tựu, hạn chế của nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam. Đó là nguồn tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách trong nghiên cứu, xây dựng và triển khai hoạt động để phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam trong thời gian tới. - Các kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy Lịch sử Việt Nam hiện đại nói chung, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng. 7. Bố cục của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận án được chia làm 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án Chương 2: Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở Việt Nam giai đoạn 1993 - 2005 Chương 3: Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020 Chương 4: Nhận xét về quá trình phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2020
- 7 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Một số khái niệm liên quan Trên cơ sở tình hình nghiên cứu của các tác giả, tổ chức trong và ngoài nước, tác giả luận án đề cập đến một số khái niệm nhằm làm rõ thêm cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài luận án, bao gồm: - Khái niệm nguồn nhân lực - Khái niệm phát triển nguồn nhân lực - Khái niệm công nghệ thông tin - Khái niệm công nghệ thông tin và truyền thông - Khái niệm nguồn nhân lực CNTT và phát triển nguồn nhân lực CNTT 1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 1.2.1. Những nghiên cứu về công nghệ thông tin và nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở nước ngoài Nghiên cứu về CNTT và nguồn nhân lực CNTT ở nước ngoài đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến, có giá trị tham khảo cho luận án, tiêu biểu như: “Information Technology: History, Practice and Implications for Development” (Công nghệ thông tin: Lịch sử, thực tiễn và ý nghĩa đối với sự phát triển) của Eichen, Kyle; “Information Technology - An Introduction for Today’s Digital World” (Công nghệ thông tin - Giới thiệu về thế giới kỹ thuật số ngày nay) của Richard Fox; “Human Resource Development for Information Technology” (Phát triển nguồn nhân lực cho công nghệ thông tin), của Ủy ban Kinh tế và Xã hội châu Á - Thái Bình Dương; “Human Resource Development for Information Technology” (Phát triển nguồn nhân lực cho ngành CNTT) của Catherine M. Sleezer và cộng sự… Các tài liệu trên là nguồn tham khảo có giá trị, đồng thời là cơ sở dữ liệu để so sánh, đối chiếu với sự phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam và rút ra các bài học kinh nghiệm trong xây dựng quy mô, chương trình đào tạo, bồi dưỡng, thống kê dự báo, xây dựng chính sách thu hút nguồn nhân lực CNTT, xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử. 1.2.2. Những nghiên cứu về công nghệ thông tin và phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở Việt Nam - Những nghiên cứu về CNTT ở Việt Nam chủ yếu tập trung về quá trình phát triển CNTT và vai trò của CNTT đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Các công trình nghiên cứu đều khẳng định CNTT ở Việt Nam tuy là một ngành kinh tế còn rất trẻ song dần trở thành nhân tố thiết yếu, có khả năng thâm nhập sâu vào tất cả các lĩnh vực và là cầu nối trao đổi giữa các thành phần của xã hội toàn cầu. CNTT cùng với các ngành công nghệ cao khác đã làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, thậm chí đã và đang tạo ra một cuộc cách mạng thật sự trong đời sống con người. - Về phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam, các công trình chủ yếu tập trung nghiên cứu về thực trạng phát triển, dự báo, đào tạo và nghiên cứu về thu hút, đãi ngộ, sử dụng
- 8 nguồn nhân lực CNTT và nghiên cứu kinh nghiệm của các nước để rút ra bài học kinh nghiệm trong phát triển nguồn nhân lực CNTT của Việt Nam. Các công trình tiêu biểu như: bài viết "Đào tạo nhân lực CNTT: suy nghĩ của người trong cuộc" của Nguyễn Thúc Hải (2005), bài viết “Phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp” của Nguyễn Thị Thanh Liên (2010), luận án “Sự thích hợp giữa năng lực của sinh viên tốt nghiệp ngành CNTT với nhu cầu của ngành công nghiệp” của Bùi Ngọc Tuấn (chuyên ngành Quản lí giáo dục năm 2014), luận án “Quản lí quá trình đào tạo nghề CNTT trình độ cao đẳng tiếp cận đảm bảo chất lượng” của Khổng Hữu Lực (chuyên ngành Quản lí giáo, năm 2018), luận án “Quản lý Nhà nước về công nghiệp CNTT tại Việt Nam” của Tô Hồng Nam (chuyên ngành Quản lí công, năm 2019), luận án “Chính sách thu hút và sử dụng nhân lực công nghệ cao trong các doanh nghiệp viễn thông” của Đỗ Văn Quang (chuyên ngành Quản lí Khoa học và Công nghệ, năm 2020). 1.3. Một số nhận xét và những vấn đề luận án cần nghiên cứu 1.3.1. Một số nhận xét về kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố liên quan đến đề tài luận án - Những công trình nghiên cứu về CNTT và nguồn nhân lực CNTT ở nước ngoài đã góp phần làm rõ lịch sử phát triển CNTT của thế giới, vai trò của CNTT đối với sự phát triển kinh tế, xã hội và kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực CNTT của một số quốc gia. - CNTT ở Việt Nam cũng là chủ đề được nghiên cứu trong nhiều công trình khác nhau, đặc biệt là từ năm 2006 đến nay, trong đó, một số công trình đề cập đến lịch sử phát triển CNTT và góp phần làm sáng tỏ quá trình phát triển của nguồn nhân lực CNTT. Đối với quá trình phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu bàn nhiều đến thực trạng và giải pháp, giáo dục và đào tạo, đồng thời, bước đầu chỉ ra những thuận lợi, khó khăn, ưu điểm, hạn chế về phát triển nguồn nhân lực CNTT. Tuy nhiên, các công trình chủ yếu tập trung phân tích thực trạng nguồn nhân lực CNTT trong giai đoạn ngắn, dưới góc độ chuyên ngành quản lý kinh tế, quản trị nhân lực, quản trị kinh doanh, kinh tế chính trị, quản lý giáo dục… chỉ có một vài công trình nghiên cứu dưới góc độ lịch sử, nhưng là nghiên cứu chung về CNTT, chưa tập trung làm rõ về quá trình phát triển nguồn nhân lực CNTT từ năm 1993 đến năm 2020. Hiện nay, chưa có bất kỳ công trình nào nghiên cứu dưới góc độ của khoa học Lịch sử về quá trình phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2020. 1.3.2. Những vấn đề luận án cần nghiên cứu Từ việc phân tích tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án cho thấy, đứng từ góc độ nghiên cứu của khoa học Lịch sử, một số vấn đề hiện chưa được đi sâu nghiên cứu và cần phải được làm sáng tỏ, bao gồm: - Một là, các nhân tố tác động đến quá trình phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2020. - Hai là, quá trình triển khai các hoạt động cụ thể về phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2020 và những kết quả đạt được. - Ba là, đặc điểm của quá trình phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam.
- 9 - Bốn là, tác động của quá trình phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam đến kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Tiểu kết chương 1 CHƯƠNG 2. XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1993 - 2005 2.1. Các yếu tố tác động 2.1.1. Bối cảnh thế giới và trong nước 2.1.1.1. Bối cảnh thế giới Từ những năm 90 của thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI, bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi. Quan niệm về sức mạnh, vị thế quốc gia không còn chủ yếu dựa vào thế mạnh quân sự, mà bằng các tiêu chí tổng hợp, trong đó sức mạnh kinh tế được đặt ở vị trí quan trọng hàng đầu. Cùng với quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức, nền kinh tế thế giới chuyển thành một hệ thống liên kết ngày càng chặt chẽ. Bên cạnh đó, cách mạng khoa học, công nghệ vào cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI đã phát triển như vũ bão. Để bảo đảm thắng lợi trong cạnh tranh, nhiều nước trên thế giới tăng cường đầu tư vào phát triển khoa học, công nghệ và vốn con người. Những công nghệ có tác động lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội trong giai đoạn này chính là các lĩnh vực công nghệ cao, đặc biệt là CNTT. Internet ra đời đã thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển của CNTT trên phạm vi thế giới. Bối cảnh trên đặt ra yêu cầu, động lực, điều kiện phát triển nguồn nhân lực, đòi hỏi người lao động phải học tập không ngừng để nắm vững, nâng cao trình độ mới có thể điều khiển, sử dụng, làm chủ công nghệ. Trong bối cảnh đó, nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa và phát triển con người toàn diện trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội. 2.1.1.2. Bối cảnh trong nước Năm 1986, Việt Nam tiến hành đổi mới toàn diện đất nước. Đường lối đổi mới đúng đắn đã đưa đến những kết quả quan trọng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế. Từ năm 1986 đến năm 2005, kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng với tốc độ tương đối cao. Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện rõ rệt. Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân được nâng lên. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể thao, thông tin đại chúng và nhiều hoạt động xã hội khác có những mặt phát triển và tiến bộ. Trong quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, từ chỗ bị bao vây cấm vận, Việt Nam đã phát triển quan hệ đối ngoại với hầu khắp các nước, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế, khoa học công nghệ, giáo dục, đào tạo… Bên cạnh đó, việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường đã có tác động không nhỏ đến sự phát triển của nguồn nhân lực. Sức lao động đã trở thành một loại hàng hóa đặc biệt, hình thành nên thị trường sức lao động, chịu tác động của nhiều quy luật kinh tế, đặc
- 10 biệt là quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh và quy luật cung - cầu. Người lao động có nhiều cơ hội lựa chọn việc làm theo khả năng của mình song họ cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, thậm chí thất nghiệp. Để sức lao động của mình được trả giá cao, trở thành nhân sự khó có thể thay thế, người lao động cần được đào tạo có trình độ chuyên môn tay nghề giỏi, có sức khoẻ, ngoại ngữ và tác phong làm việc công nghiệp... Trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ngày càng nhận thức rõ hơn về vai trò của CNTT và nguồn nhân lực CNTT. Kết cấu hạ tầng CNTT và Internet được chú trọng phát triển. Cùng với quá trình thay đổi nhận thức về CNTT và đổi mới giáo dục, đào tạo, môn Tin học đã được đưa vào giảng dạy ở các trường phổ thông. Từ năm 1990, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quyết định triển khai dạy Tin học thực nghiệm tại hơn 100 trường Trung học phổ thông. Năm học 1993 - 1994, môn Tin học được giảng dạy ở các trường Trung học phổ thông chuyên ban cho tất cả 3 khối 10, 11, 12. Từ năm 2000 đến năm 2004, môn Tin học ngày càng được nhân rộng hơn trong các trường học bậc phổ thông. Năm học 2004 - 2005, Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định môn Tin học được dạy và học một cách thích hợp và có hiệu quả ở các bậc học, cấp học phổ thông, với tư cách môn học tự chọn ở bậc Tiểu học, cấp Trung học cơ sở và với tư cách môn học bắt buộc ở cấp Trung học phổ thông. Đây là chính sách, biện pháp hết sức quan trọng để chuẩn bị cho thế hệ trẻ tiếp cận với các kiến thức và phương tiện hiện đại của CNTT, tạo cơ sở rộng lớn cho việc chọn lựa, đào tạo một cách nhanh chóng đội ngũ chuyên nghiệp về CNTT. 2.1.2. Thực trạng công nghệ thông tin và phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở Việt Nam trước năm 1993 Việt Nam sớm nhận thức được tầm quan trọng của kỹ thuật điện tử, tin học. Từ năm 1962 đã cử đi đào tạo được một đội ngũ đầu tiên về kỹ thuật điện tử, tin học, sau đó đã đạt được một số kết quả quan trọng trong những năm 60, 70 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, trên thực tế kỹ thuật điện tử, tin học và nguồn nhân lực CNTT chưa thật sự được chú trọng một cách thích đáng. Đến đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, CNTT và nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam trở nên chậm phát triển. Để Việt Nam hội nhập được với khu vực và thế giới trong kỷ nguyên thông tin, bài toán đặt ra là cần khai thác có hiệu quả các yếu tố thông tin và trí tuệ của đất nước, phát huy sức mạnh nguồn nhân lực, đầu tư thích đáng cho công tác phát triển nguồn nhân lực CNTT. 2.1.3. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước giai đoạn 1993 - 2005 Bước vào thời kỳ đổi mới, nhu cầu thông tin và phát triển nền kinh tế thông tin ngày càng trở nên cần thiết ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ngày càng nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn về sự cần thiết phát phát triển CNTT và nguồn nhân lực CNTT. Giai đoạn 1993 - 2005, nhiều chủ trương, chính sách về phát triển nguồn nhân lực CNTT đã được Đảng và Nhà nước ban hành. Tiêu biểu như, Nghị quyết số 49/CP về "Phát triển CNTT ở Việt Nam trong những năm 90" của Chính phủ năm 1993, Quyết định 211/TTg về “Phê duyệt Chương trình quốc gia về CNTT” của Thủ tướng Chính phủ năm 1995, Nghị quyết số 07/2000/NQ-CP về “Xây dựng và phát triển công nghiệp phần mềm giai đoạn 2000 - 2005” của Chính phủ và Chỉ thị số
- 11 58/CTTW “Về đẩy mạnh ứng dụng CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước” của Bộ Chính trị năm 2000, Chỉ thị số 29/2001/CT-BGDĐT về “Tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục giai đoạn 2001-2005” của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2001, Quyết định số 331/QĐ-TTg về “Phê duyệt Chương trình phát triển nguồn nhân lực CNTT từ nay đến năm 2010” của Thủ tướng Chính phủ năm 2004… Vai trò của nguồn nhân lực CNTT được nhận thức đầy đủ hơn, bước đầu được đầu tư phát triển, đặc biệt là hoạt động đào tạo, bồi dưỡng. 2.2. Hoạt động xây dựng, phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin 2.2.1. Quy hoạch Giai đoạn 1993 - 2005, Việt Nam chưa ban hành văn bản chuyên biệt nào về quy hoạch phát triển nguồn nhân lực CNTT, nhưng được lồng ghép trong các chủ trương, chính sách, dự án, đề án về phát triển CNTT của Đảng và Nhà nước. Thể hiện ở bảng sau: Bảng 2.1. Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam giai đoạn 1993 - 2005 Mục tiêu cần đạt được Tiêu chí Đến năm 2000 Đến năm 2005 - Xây dựng và hoàn thiện dần các - Phát triển giáo dục, đào tạo về khoa và bộ môn về CNTT ở các CNTT. trường đại học. - Dạy tiếng Anh và dạy chuyên - Mở hệ đào tạo chuyên nghiệp với ngành CNTT bằng tiếng Anh. chương trình học hai năm để đào tạo - Đào tạo thêm được 50.000 các lập trình viên máy tính và các kỹ chuyên gia về CNTT, trong đó có thuật viên tin học. khoảng 25.000 chuyên gia trình độ - Mở các lớp đào tạo lại để chuyển cao và lập trình viên chuyên Phát triển một số lượng khá lớn các cán bộ, kỹ nghiệp, thông thạo tiếng Anh, chất nguồn nhân sư hoặc sinh viên tốt nghiệp từ các lượng chuyên gia trong lĩnh vực lực CNTT ngành khác (toán, lý, kinh tế, kỹ CNTT ngang với mức bình quân chuyên thuật…) thành chuyên viên tin học. của các nước trong khu vực. nghiệp - Mục tiêu đạt số lượng 20.000 người, - Tranh thủ mọi khả năng hợp tác trong đó hơn một nửa là chuyên viên quốc tế để chuyển giao công nghệ lập trình, khoảng 1/4 là phân tích viên và đào tạo nguồn nhân lực CNTT. hệ thống và 1/4 các loại chuyên viên khác. - Tranh thủ mọi khả năng hợp tác quốc tế để chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực CNTT.
- 12 Phát triển Gửi giảng viên đi học các lớp đào tạo Chuẩn hóa nội dung, chương trình, đội ngũ lại hoặc nâng cao ở nước ngoài. trình độ đội ngũ giảng viên CNTT giảng viên theo khu vực và quốc tế. CNTT Phát triển Đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán Phổ cập các kiến thức và kỹ năng nguồn nhân bộ quản lý để sử dụng các phương sử dụng máy tính và Internet đến lực ứng dụng tiện CNTT như một loại công cụ lao 50% cán bộ, công chức và viên CNTT trong động hiện đại trong hoạt động nghề chức các cơ quan nghiệp của mình. nhà nước - Toàn bộ học sinh từ trung học trở Phổ cập các kiến thức, kỹ năng sử lên được học CNTT và thực tập sử dụng máy tính và Internet đến Phát triển dụng máy tính. 100% sinh viên đại học, cao đẳng; nguồn nhân - Đào tạo ứng dụng CNTT cho sinh 50% học sinh trung học chuyên lực CNTT kế viên học các ngành khoa học, kỹ thuật nghiệp, trung học nghề, trung học cận và trong và kinh tế ngoài ngành Tin học. phổ thông; 30% học sinh trung học cộng đồng - Phổ biến kiến thức, trang bị khả cơ sở và một bộ phận dân cư có năng sử dụng máy tính. nhu cầu. Tuy nhiên, giai đoạn 1993 - 2005, nhiều nội dung trong hoạt động quy hoạch còn mang định tính khó thực thi, chỉ nêu số lượng cần đào tạo nhưng lại không chỉ rõ cấu trúc tổng thể của nó. Chính vì không có cấu trúc định hướng nên các cơ sở giáo dục không có kế hoạch thực hiện phù hợp. 2.2.2. Đào tạo, bồi dưỡng trong nước Từ năm 1993, bảy khoa CNTT của các trường đại học trọng điểm trong cả nước được thành lập, đến năm 1998, các Khoa bắt đầu phát huy được vai trò đầu tàu của mình trong đào tạo, đáp ứng một phần nhu cầu cấp bách nguồn nhân lực CNTT. Trung bình hàng năm, mỗi khoa đào tạo được 100 đến 200 sinh viên mới theo chương trình học 4 năm; đồng thời, hàng năm, đào tạo thêm 200 đến 300 những sinh viên đã có bằng tốt nghiệp đại học các ngành khác. Bên cạnh đó, nhiều trường đại học, cao đẳng khác trong cả nước được tạo mọi điều kiện để thành lập các khoa CNTT hoặc điện tử viễn thông. Từ năm 2000, thực hiện Chỉ thị số 58/CTTW của Bộ Chính trị, các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp được ưu tiên tăng quy mô đào tạo về CNTT, mở ngành, mở khoa CNTT, kết hợp các ngành điện tử - tin học - viễn thông và tin học với các ngành chuyên môn khác. Việc đào tạo nguồn nhân lực CNTT được tiến hành đa dạng hóa nhiều loại hình đào tạo, tăng dần quy mô và chất lượng đào tạo. Năm 2000, cả nước có 42 trường đại học, 36 trường cao đẳng đào tạo về CNTT, chỉ tiêu khoảng 4000 sinh viên. Đến năm 2005, cả nước đã có 70 cơ sở bậc đại học, 85 cơ sở bậc cao đẳng (chưa tính số lượng các trường đại học có đào tạo hệ cao đẳng) đào tạo về CNTT, chỉ tiêu hơn 20.000 sinh viên. Tổng chỉ tiêu tuyển sinh ngành CNTT từ năm 2000 đến năm 2005 là 67.000 sinh viên. Số lượng các trường trung
- 13 học chuyên nghiệp đào tạo về CNTT cũng ngày càng tăng và nhiều trung tâm đào tạo không chính quy được thành lập. Bên cạnh đó, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực công nghệ thông tin trong các doanh nghiệp và trong các cơ quan hành chính Nhà nước bước đầu được quan tâm, đầu tư, đặc biệt là trong các cơ quan hành chính nhà nước. 2.2.3. Thu hút, đãi ngộ Từ năm 1993, nguồn nhân lực CNTT được dành nhiều ưu đãi về giáo dục, đào tạo như cấp học bổng cho sinh viên, giảng viên đi học, thực tập và nghiên cứu ở nước ngoài. Đồng thời, dành một phần quan trọng trong các chương trình viện trợ quốc tế, đặc biệt các chương trình viện trợ ODA cho các dự án về đào tạo, nghiên cứu phát triển và ứng dụng CNTT. Bên cạnh đó, Việt Nam đã tăng cường gửi các cử nhân, kỹ sư CNTT, cán bộ quản lý am hiểu về CNTT ra nước ngoài học tập bằng kinh phí của địa phương. Nhân lực CNTT trong các cơ quan hành chính nhà nước được tính theo bảng lương của cán bộ, công chức, áp dụng từ năm 1993. Mức tiền lương tối thiểu được điều chỉnh qua các năm 1993, 1997, 2000, 2001, 2003. Tuy nhiên, nhìn chung tiền lương trong các cơ quan nhà nước còn thấp, chưa thực sự gắn với mối quan hệ cung cầu lao động trên thị trường. Tiền lương của cán bộ, công chức thấp hơn so với tiền lương và thu nhập trong khu vực sản xuất - kinh doanh. Các doanh nghiệp luôn đề ra những chính sách tối ưu nhằm thu hút lao động CNTT như tiền lương, thưởng và nhiều chính sách đãi ngộ khác. Tuy nhiên, các chính sách đãi ngộ này cũng khác nhau ở những doanh nghiệp khác nhau, trong đó doanh nghiệp vừa và nhỏ thường mất lợi thế hơn so với các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có đầu tư nước ngoài. 2.2.4. Hợp tác quốc tế Từ năm 1993, Việt Nam chủ trương hợp tác quốc tế, tranh thủ nhập những công nghệ mới nhất và hiện đại nhất nhằm rút ngắn khoảng cách quá lớn về CNTT giữa Việt Nam với các nước. Để làm chủ những công nghệ mới đó cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu và hợp tác nghiên cứu với nước ngoài. Đẩy mạnh liên kết nghiên cứu giữa các doanh nghiệp CNTT ở nước ngoài với các trường đại học, viện nghiên cứu. Một trong những dự án quan trọng về thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực CNTT là dự án hợp tác giữa Việt Nam với Canada. Nhiều doanh nhiệp, tổ chức quốc tế đã tham gia đầu tư về đào tạo CNTT tại Việt Nam như chương trình đào tạo sau đại học của Viện Tin học dùng tiếng Pháp (IFI), đào tạo đại học của RMIT, chương trình hợp tác của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội với Trường Đại học Genetic (Singapore), chương trình đào tạo cấp chứng chỉ nghề nghiệp về CNTT của Nhật Bản tại Đại học Quốc gia Hà Nội, chương trình đào tạo của Viện CNTT Quốc gia Ấn Độ và dự án hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho công viên phần mềm Việt Nam bằng nguồn viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Ấn Độ, chương trình đào tạo lập trình viên tại 10 trung tâm đào tạo Aptech, chương trình đào tạo chuyên viên và chuyên gia mạng của Cisco, các chương trình đào tạo, tập huấn của IBM, Microsoft, Intel… Cùng với việc đẩy mạnh đào tạo CNTT ở trong nước, Đảng và Nhà nước chủ trương đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài bằng cách lựa chọn những sinh viên giỏi hoặc những người
- 14 đã tốt nghiệp đại học đang làm việc trong lĩnh vực CNTT và truyền thông có triển vọng phát triển, có đủ điều kiện về trình độ học vấn đưa đi đào tạo ở nước ngoài để trở thành các chuyên gia trong lĩnh vực CNTT. Đồng thời, thực hiện chương trình cử giáo viên đi đào tạo, bồi dưỡng ở ngoài nước để nâng cao trình độ giảng dạy. 2.3. Kết quả 2.3.1. Thành tựu Quá trình xây dựng và phát triển nguồn nhân lực CNTT giai đoạn 1993 - 2005 đã đạt được một số thành tựu quan trọng. Số lượng nguồn nhân lực CNTT tăng nhanh: tăng từ 500 người (năm 1993) lên 138.000 người (năm 2005). Trình độ nguồn nhân lực CNTT được nâng cao, cơ cấu ngày càng đa dạng. 2.3.2. Hạn chế Bên cạnh những thành tựu đạt được, giai đoạn 1993 - 2005, việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực CNTT vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực CNTT chưa đáp ứng được yêu cầu xã hội, còn hạn chế về chuyên môn cũng như về ngoại ngữ. Theo đánh giá của Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU), kỹ năng của nguồn nhân lực CNTT của Việt Nam đứng dưới mức trung bình của thế giới và khu vực. Phần lớn các cơ quan quản lý hành chính nhà nước đều chưa có cán bộ chuyên trách CNTT, chưa có đội ngũ đủ khả năng quản trị tốt mạng máy tính, triển khai các phần mềm ứng dụng và tham mưu cho lãnh đạo về ứng dụng CNTT. Cơ cấu độ tuổi và trình độ chưa hợp lý, phân bố nguồn nhân lực CNTT giữa các vùng miền và địa phương còn bất cập. Tiểu kết chương 2 CHƯƠNG 3. ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 - 2020 3.1. Các yếu tố tác động 3.1.1. Bối cảnh thế giới và trong nước Giai đoạn 2006 - 2020, bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều yếu tố mới tác động đến sự phát triển nguồn nhân lực CNTT ở Việt Nam. 3.1.1.1. Bối cảnh thế giới Cạnh tranh về kinh tế - thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao... giữa các nước gay gắt hơn. Các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường... gia tăng. Cách mạng khoa học và công nghệ diễn ra mạnh mẽ, tác động đến mọi quốc gia, dân tộc. Tốc độ phát minh khoa học ngày càng nhanh, khoảng cách từ khi phát minh đến lúc ứng dụng ngày càng ngắn hơn. Nhiều quốc gia trên thế giới đã tự tìm kiếm cơ hội và tận dụng những thành tựu của các ngành công nghệ cao, trong đó có CNTT nhằm tạo nên sự "chuyển động gia tốc" và phát triển đột biến nền kinh tế của mình.
- 15 Loài người bước vào cuộc cách mạng công nghiệp mới - Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tạo ra một xã hội thông tin dựa trên nền tảng của công nghệ số. Nền tảng của CNTT trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là các yếu tố cốt lõi như: Trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật, Dữ liệu lớn, Điện toán đám mây và Chuỗi khối. CNTT giữ vai trò “đầu tàu” dẫn dắt xuyên suốt quá trình chuyển đổi số. Tốc độ chuyển đổi số càng nhanh, CNTT càng phải đẩy mạnh phát triển với nhiều đột phá, hỗ trợ cho quá trình chuyển đổi số. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của Internet, thế hệ thông tin di động thứ năm (5G) đã ra đời, tạo ra cuộc cách mạng về kết nối. Bên cạnh đó, sự bùng phát của đại dịch Covid-19 càng đẩy nhanh ứng dụng các thành tựu CNTT vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong bối cảnh đó, nguồn nhân lực CNTT cần phải được xây dựng những phẩm chất đạo đức, kỹ năng lao động, thích ứng nhanh với những biến đổi của xã hội và sản xuất. 3.1.1.2. Bối cảnh trong nước Giai đoạn 2006 - 2020, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực. Nền kinh tế Việt Nam đạt nhiều thành tựu quan trọng, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao của khu vực và thế giới. Những thành tựu trong hội nhập quốc tế đã giúp cho môi trường đầu tư của Việt Nam liên tục được cải thiện, thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư cho phát triển. Đặc biệt, Việt Nam thu hút được nhiều dự án từ các tập đoàn công nghiệp điện tử lớn trên thế giới như Intel, Microsoft, Foxconn, Sanyo, Samsung, Sony, Fujitsu, Toshiba, Panasonic… góp phần nâng cao trình độ công nghệ cho ngành công nghiệp CNTT ở Việt Nam, giúp cho nhiều doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Nhờ sự phát triển kinh tế, đời sống của người dân ngày càng nâng cao, Việt Nam có thêm nguồn lực để đầu tư phát triển nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực CNTT nói riêng. Việt Nam ngày càng nhận thức đúng đắn hơn về yêu cầu phát triển CNTT và nguồn nhân lực CNTT. Ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước và các lĩnh vực kinh tế - xã hội được ưu tiên đầu tư, thực hiện. Hạ tầng kỹ thuật CNTT ngày càng được hoàn thiện, theo hướng hiện đại, mạng lưới viễn thông nhanh chóng phủ rộng trên phạm vi cả nước, đến tận các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Đại đa số người dân có cơ hội trang bị được các thiết bị thông tin, điện tử, có thể tiếp cận CNTT nhanh chóng, thuận lợi hơn. Việt Nam là một trong 20 nước có tỉ lệ người dân sử dụng Internet nhiều nhất thế giới. Từ năm 2006, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục; Tăng cường xã hội hóa công tác phổ cập tin học cho toàn xã hội, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực CNTT dưới nhiều hình thức. Đặc biệt, môn Tin học được dạy và học một cách thích hợp, có hiệu quả ở các bậc học, cấp học phổ thông, với tư cách là môn học tự chọn ở bậc tiểu học, trung học cơ sở và với tư cách là môn học bắt buộc ở cấp trung học phổ thông. 3.1.2. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Giai đoạn 2006 - 2020, Đảng và Nhà nước có mục tiêu lớn hơn trong phát triển CNTT và nguồn nhân lực CNTT so với giai đoạn trước, thể hiện rõ trong các chủ trương, chính sách
- 16 của Đảng và Nhà nước nhằm đưa Việt Nam trở thành nước mạnh về CNTT, đồng thời nỗ lực tạo ra bước chuyển đột phá trong phát triển nguồn nhân lực CNTT với mục tiêu không chỉ vươn tầm khu vực mà còn vươn tầm quốc tế. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin giai đoạn 2006 - 2020 được thể hiện thông qua nhiều văn bản, từ Chỉ thị, Nghị quyết, Luật, Nghị định, Quyết định của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và Bộ Thông tin - Truyền thông, Bộ Giáo dục - Đào tạo… đã định hướng, hỗ trợ, có tác động tích cực đối với việc phát triển CNTT và nguồn nhân lực CNTT. Các văn bản đều thể hiện sự tăng cường đầu tư, đẩy mạnh phát triển với mục tiêu phát triển nguồn nhân lực CNTT cả số lượng và chất lượng, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội. 3.2. Hoạt động đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin 3.2.1. Đẩy mạnh công tác quy hoạch Giai đoạn 2006 - 2020, công tác quy hoạch phát triển nguồn nhân lực CNTT được thực hiện toàn diện, đồng bộ hơn. Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành một số quyết định chuyên biệt về quy hoạch phát triển nguồn nhân lực CNTT. Bên cạnh đó, các định hướng, mục tiêu và giải pháp cũng được cập nhật, bổ sung ở nhiều văn bản khác. Hoạt động quy hoạch thể hiện mục tiêu đến năm 2010, 2015 và 2020. Mục tiêu đến năm 2010, hoạt động đào tạo CNTT tại các trường đại học trọng điểm đạt trình độ, chất lượng tiên tiến trong khu vực ASEAN. Cung cấp 100.000 người có chuyên môn về CNTT, trình độ cao đẳng, đại học trở lên, trong đó 20% đạt trình độ khu vực và quốc tế. Nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên CNTT về số lượng và chất lượng, đảm bảo tỉ lệ dưới 15 sinh viên có 01 giảng viên. Phổ cập các kiến thức, kỹ năng sử dụng máy tính và Internet cho 100% cán bộ, công chức, viên chức các cấp. Mục tiêu đến năm 2015, Việt Nam có đủ khả năng tham gia thị trường đào tạo nguồn nhân lực CNTT quốc tế, từng bước cung cấp nguồn nhân lực CNTT chất lượng cao cho khu vực và thế giới, trong đó có 30% sinh viên CNTT tốt nghiệp có khả năng chuyên môn và ngoại ngữ tham gia thị trường lao động quốc tế. Đảm bảo trên 70% giảng viên đại học, 50% giảng viên cao đẳng có trình độ thạc sĩ trở lên, trên 50% giảng viên đại học, 10% giảng viên cao đẳng đạt trình độ tiến sĩ. Đảm bảo đạt mục tiêu 530.000 cán bộ chuyên trách về CNTT trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp có trình độ cao đẳng trở lên Mục tiêu đến năm 2020, đào tạo CNTT tại nhiều trường đại học đạt trình độ, chất lượng quốc tế, trong đó có 90% sinh viên CNTT tốt nghiệp có khả năng chuyên môn và ngoại ngữ tham gia thị trường lao động quốc tế. Đảm bảo trên 90% giảng viên đại học, 70% giảng viên cao đẳng có trình độ thạc sĩ trở lên và trên 75% giảng viên đại học, 20% giảng viên cao đẳng đạt trình độ tiến sĩ trở lên. Đào tạo thêm 11.000 cán bộ chuyên trách ở xã, phường về kỹ năng sử dụng CNTT trong công việc. Tuy nhiên, quá trình triển khai hoạt động quy hoạch phát triển nguồn nhân lực CNTT còn tồn tại một số hạn chế. Trong đó, bất cập và hạn chế lớn nhất là kết quả dự báo còn rất thiếu tin cậy, gây khó khăn lớn cho việc đề xuất giải pháp cũng như hoạch định chính sách phát
- 17 triển nhân lực. Hoạt động quy hoạch vẫn còn có sự chồng chéo trong thực hiện nhiệm vụ của các bên liên quan, còn thiếu sự đồng bộ giữa các cấp các ngành, thiếu cơ chế giám sát và đánh giá; thiếu nguồn lực đầu tư hoặc đầu tư khá hạn chế… 3.2.2. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng trong nước - Đào tạo trong các cơ sở giáo dục Từ năm 2006, Nhà nước có chủ trương mở rộng quy mô đào tạo CNTT, điện tử, viễn thông trên cả nước, đặc biệt tại khu vực các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ; Thu hút đầu tư thành lập trường đại học 100% vốn nước ngoài; liên doanh, liên kết trong nước và nước ngoài để đào tạo nhân lực CNTT, điện tử, viễn thông; Tăng cường năng lực đào tạo CNTT cho các cơ sở đào tạo hiện có và thành lập mới một số cơ sở đào tạo nhân lực CNTT tại các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long. Chính vì vậy, số lượng các trường đại học, cao đẳng và chỉ tiêu tuyển sinh tăng nhanh về số lượng. Bảng 3.1. Số lượng trường đại học, cao đẳng, trung cấp nghề và chỉ tiêu tuyển sinh ngành CNTT giai đoạn 2006 - 20201 Khối đại học, cao đẳng Khối cao đẳng, trung cấp nghề Số lượng Số lượng Năm Chỉ tiêu Chỉ tiêu Số sinh viên Số sinh viên tuyển sinh tuyển sinh trường nhập học trường nhập học (sinh viên) (sinh viên) thực tế thực tế 2006 192 30.350 - - - - 2007 219 39.990 - - - - 2008 271 50.050 - - - - 2009 271 56.406 - - - - 2010 277 60.332 56.338 186 - 33.631 2011 290 64.796 55.197 113 - 32.632 2012 290 65.501 57.917 143 - 25.527 2013 290 67.518 55.000 228 - 24.569 2014 290 67.236 - 265 - 18.199 2015 290 67.397 - 331 - 20.330 2016 250 68.883 53.123 204 18.311 - 2017 131 48.631 39.877 412 67.673 - 2018 149 51.114 41.913 412 67.662 - 2019 158 68.435 56.117 442 52.424 - 1 Trong những năm từ 2017 đến 2020, một số trường cao đẳng đã chuyển từ Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý sang Bộ Lao động Thương binh, Xã hội quản lý nên số liệu có sự thay đổi giữa khối các trường đại học, cao đẳng và khối các trường cao đẳng, trung cấp nghề.
- 18 2020 158 82.085 68.951 442 56.838 - Tỉ lệ sinh viên nhập học ngành CNTT trong các trường đại học, cao đẳng và trung cấp nghề khá cao. Từ năm 2010 đến năm 2020, tỉ lệ sinh viên nhập học trung bình hơn 83%/năm. Năm 2020, tỉ lệ sinh viên nhập học tại các trường đại học, cao đẳng là 84% và các trường cao đẳng, trung cấp nghề là 68,27%. Mặc dù ở Việt Nam, số lượng cơ sở đào tạo CNTT tương đối nhiều nhưng chất lượng không đồng đều. Chưa có nhiều cơ sở đào tạo có đủ năng lực, trang thiết bị, phương pháp đào tạo đạt chuẩn quốc tế. Đào tạo của các trường chưa sát thực tiễn, chưa đáp ứng được tiêu chuẩn của doanh nghiệp, chuẩn đầu ra của các trường còn lệch nhiều so với chuẩn đầu vào của thị trường và nhu cầu của các doanh nghiệp. Phần lớn sinh viên tốt nghiệp chưa thể tham gia ngay vào thị trường lao động quốc tế. Trong đó, kỹ năng mềm và ngoại ngữ vẫn là mặt còn hạn chế của nguồn nhân lực CNTT. - Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực CNTT trong các doanh nghiệp Các doanh nghiệp CNTT cũng đưa ra kế hoạch và biện pháp để đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực ngay trong nội bộ ngành và doanh nghiệp. Phương thức thực hiện chủ yếu là kết hợp giữa sử dụng và đào tạo, đào tạo và sử dụng, vừa sử dụng vừa đào tạo, thường thực hiện với các khóa đào tạo ngắn hạn, đào tạo chuyên đề, đào tạo theo dự án, đào tạo theo đề tài nghiên cứu nhằm phổ biến kiến thức ở các mức trình độ khác nhau. Tuy nhiên, liên kết giữa doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo còn yếu, doanh nghiệp CNTT Việt Nam chưa tích cực tham gia phối hợp với các trường đại học, cao đẳng trong đào tạo CNTT và định hướng nghề nghiệp. - Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên trách CNTT trong các cơ quan hành chính nhà nước Để đảm bảo chuẩn hóa tiêu chuẩn kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách CNTT, các khóa tập huấn, bồi dưỡng, đào tạo được tổ chức thường xuyên nhằm cập nhật công nghệ và các giải pháp phát triển Chính phủ điện tử, chuyển đổi số cho đội ngũ cán bộ chuyên trách CNTT các cấp. Hàng năm, công tác đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực CNTT được Bộ Thông tin và Truyền thông, các Sở Thông tin và Truyền thông phối hợp với các cơ quan nhà nước thực hiện. Trong đó, hình thức phổ biến nhất là tổ chức các đợt đào tạo, bồi dưỡng ngắn ngày để nâng cao năng lực, kỹ năng ứng dụng CNTT; kỹ năng khai thác, sử dụng các hệ thống thông tin, phần mềm dùng chung; tổ chức lớp tập huấn chuyên sâu về kỹ thuật mạng, bảo mật hệ thống mạng cho cán bộ chuyên trách CNTT. Tuy nhiên, hiệu quả của các lớp đào tạo, bồi dưỡng ngắn ngày chưa cao, còn mang tính phong trào, chưa thực sự sát với yêu cầu thực tế tại các đơn vị. 3.2.3. Thu hút, sử dụng, đãi ngộ - Trong các cơ quan hành chính nhà nước Từ năm 2006, chính sách ưu đãi đối với cán bộ chuyên trách CNTT đã được luật hóa. Năm 2007, trong Nghị định 64/2007/NĐ-CP về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước do Chính phủ ban hành quy định cán bộ chuyên trách CNTT trong các cơ quan nhà
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 303 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 288 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 179 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 266 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 222 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 175 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 53 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 198 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 148 | 7
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 135 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 170 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn