Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960
lượt xem 3
download
Mục tiêu của luận án là phục dựng quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ trên lĩnh vực chính trị - an ninh và kinh tế giai đoạn 1951 -1960. Từ đó, đánh giá kết quả đạt được, hạn chế và tác động của mối quan hệ này đối với từng nước, khu vực, quốc tế; đồng thời rút ra những đặc điểm của mối quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa hai nước giai đoạn 1951-1960.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH HOÀNG THỊ MAI HƯƠNG QUAN HỆ CHÍNH TRỊ - AN NINH, KINH TẾ GIỮA NHẬT BẢN VÀ MỸ TỪ NĂM 1951 ĐẾN NĂM 1960 Chuyên ngành: Lịch sử Thế giới Mã số: 9229011 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ NGHỆ AN - 2022
- CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. PHẠM NGỌC TÂN 2. PGS.TS. VĂN NGỌC THÀNH Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án tiến sĩ cấp Trường Họp tại trường Đại học Vinh Vào hồi … giờ … ngày … tháng … năm 2023 Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia Hà Nội - Trung tâm Thông tin - Thư viện Nguyễn Thúc Hào, Trường Đại học Vinh
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Quan hệ Nhật Bản và Mỹ có lịch sử lâu dài và trải qua nhiều thăng trầm. Từ giữa thế kỷ XIX, Mỹ đã “mở cửa” Nhật Bản và buộc quốc gia này phải ký kết các hiệp ước bất bình đẳng. Từ đó, Nhật Bản trở thành điểm dừng chân quan trọng của Mỹ ở châu Á. Dưới thời Minh Trị, Nhật Bản từng bước đấu tranh và giành được quyền bình đẳng hơn trong quan hệ với Mỹ. Trong gần 50 năm đầu thế kỷ XX, về cơ bản Nhật Bản và Mỹ trở thành hai đối thủ cạnh tranh trong quá trình tìm kiếm thị trường và mở rộng ảnh hưởng ở châu Á - Thái Bình Dương. Đặc biệt, trong Chiến tranh thế giới thứ hai, hai nước trở thành đối thủ trực tiếp trên chiến trường. Sau khi chiến tranh kết thúc, Nhật Bản là nước bại trận và Mỹ được quyền thay mặt các nước Đồng minh chiếm đóng Nhật Bản. Ngày 8/9/1951, Hiệp ước Hoà bình San Francisco được ký kết, mở ra trang mới trong lịch sử Nhật Bản. Theo đó, kể từ ngày Hiệp ước có hiệu lực, tình trạng chiến tranh giữa Nhật Bản và các nước Đồng minh chấm dứt. Cùng ngày, Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ cũng được ký kết, đánh dấu một bước ngoặt trong quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ. Với hai hiệp ước này, quan hệ hai nước đã chuyển sang giai đoạn mới. Đến ngày 19/1/1960, hai nước tiếp tục ký Hiệp ước hợp tác và an ninh tương hỗ Nhật - Mỹ, đánh dấu sự củng cố của mối quan hệ đồng minh. Quan hệ đồng minh giữa Nhật Bản và Mỹ được hình thành trong bối cảnh cuộc Chiến tranh lạnh bước vào giai đoạn căng thẳng, quan hệ Mỹ - Xô đã trở thành quan hệ đối đầu, tình hình quốc tế và khu vực diễn biến rất phức tạp. Chính vì vậy, mối quan hệ này chịu ảnh hưởng sâu sắc của tình hình quốc tế, đồng thời thể hiện một cách rõ nét sự toan tính lợi ích quốc gia của mỗi nước. Quan hệ Nhật Bản và Mỹ giai đoạn 1951-1960 có vị trí hết sức đặc biệt trong lịch sử quan hệ hai nước. Đây là giai đoạn mở ra một trang mới trong lịch sử Nhật Bản khi quốc gia này chấm dứt số phận bị chiếm đóng và được đối xử bình đẳng trong quan hệ quốc tế. Đây cũng là giai đoạn tình hình quốc tế diễn biến phức tạp, căng thẳng. Bởi vậy, việc Nhật Bản và Mỹ thiết lập quan hệ đồng minh được xem là kết quả tất yếu của sự tác động những nhân tố chủ quan và khách quan. Việc hai nước thiết lập, tăng cường và củng cố quan hệ đồng minh không chỉ nhằm phục vụ cho mục tiêu, lợi ích của mỗi nước, mà còn đặt cơ sở vững chắc cho quan hệ song phương giữa hai nước trong giai đoạn sau. Trong giai đoạn 1951- 1960, quan hệ Nhật Bản và Mỹ được triển khai toàn diện, tuy nhiên quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế là những lĩnh vực nổi bật và quan trọng nhất. Do đó, nghiên cứu, làm sáng rõ quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ trong giai đoạn 1951 - 1960 là việc làm cần thiết, có ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn: Về mặt khoa học: Nghiên cứu quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản
- 2 và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960 sẽ làm sáng rõ những nhân tố tác động, thực trạng mối quan hệ song phương, đánh giá kết quả, hạn chế, tác động và đặc điểm của nó. Qua nghiên cứu vấn đề này, có thể thấy được sự vận động của mối quan hệ giữa hai nước trong bối cảnh cuộc Chiến tranh lạnh và những toan tính của mỗi nước. Nghiên cứu quan hệ Nhật Bản - Mỹ trong giai đoạn 1951 - 1960 sẽ góp phần lý giải sự thành công của Nhật Bản, đồng thời hiểu rõ hơn chiến lược toàn cầu của Mỹ trong bối cảnh quốc tế phức tạp lúc bấy giờ. Về mặt thực tiễn: Trên nền tảng được thiết lập từ năm 1951, quan hệ đồng minh Nhật Bản và Mỹ mặc dù xảy ra không ít khó khăn, thách thức, nhưng về cơ bản luôn được củng cố và phát triển. Đến nay, quan hệ Nhật - Mỹ vẫn là một trong những mối quan hệ đồng minh vững chắc. Hai nước vẫn đóng vai trò quan trọng trong chính sách của nhau và trở thành mối quan hệ điển hình trong quan hệ quốc tế. Với những lý do nêu trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề: “Quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960" làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử thế giới của mình. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960. Phạm vi nghiên cứu Về thời gian: Thời gian mà luận án tập trung nghiên cứu là từ năm 1951 đến năm 1960. Tác giả xác định mốc mở đầu là ngày 8/9/1951 - ngày ký Hiệp ước Hoà bình San Francisco và Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ, tạo ra bước chuyển biến căn bản trong quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ. Mốc kết thúc là ngày 19/1/1960 - ngày ký Hiệp ước hợp tác và an ninh tương hỗ Nhật - Mỹ. Đây là sự kiện thể hiện sự củng cố quan hệ song phương giữa hai nước Nhật, Mỹ. Tuy nhiên, để đảm bảo tính liên tục và hệ thống, luận án còn đề cập khái quát đến quan hệ Nhật Bản - Mỹ thời kỳ trước năm 1951 cũng như có những đánh giá, nhận xét về quan hệ giữa hai nước giai đoạn sau. Về không gian: Không gian nghiên cứu chính của luận án là Nhật Bản và Mỹ. Mặc dù vậy, do quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế giữa hai nước trong giai đoạn 1951 - 1960 diễn ra trong bối cảnh quốc tế hết sức phức tạp, chịu sự tác động lớn của nhiều nhân tố ở khu vực nên luận án có đề cập đến khu vực châu Á - Thái Bình Dương ở những thời điểm khác nhau. Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế song phương giữa Nhật Bản và Mỹ trong giai đoạn 1951 - 1960. Bởi đây là những lĩnh vực quan trọng và nổi bật nhất, thể hiện bản chất của quan hệ hai nước giai đoạn này. Quan hệ chính trị - an ninh chủ yếu xoay quanh vấn đề sự hình thành, triển khai quan hệ đồng minh giữa hai nước. Quan hệ kinh tế tập trung vào lĩnh vực thương mại và đầu
- 3 tư. Luận án không nghiên cứu quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế giữa hai nước trong các diễn đàn đa phương. Trong luận án, diễn đàn đa phương chỉ được tiếp cận dưới góc độ tham chiếu, bổ trợ cho việc làm rõ quan hệ song phương giữa hai nước. Ngoài giới hạn về thời gian, không gian và nội dung nói trên, những vấn đề khác không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu của luận án là phục dựng quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ trên lĩnh vực chính trị - an ninh và kinh tế giai đoạn 1951 -1960. Từ đó, đánh giá kết quả đạt được, hạn chế và tác động của mối quan hệ này đối với từng nước, khu vực, quốc tế; đồng thời rút ra những đặc điểm của mối quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa hai nước giai đoạn 1951-1960. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án được xác định là: - Thứ nhất, phân tích những nhân tố tác động đến quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế Nhật Bản - Mỹ giai đoạn 1951 - 1960. - Thứ hai, phân tích tiến trình và những nội dung chủ yếu trong quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế Nhật Bản - Mỹ giai đoạn 1951 - 1960. - Thứ ba, đánh giá, nhận xét về quan hệ chính trị - an ninh giữa Nhật Bản và Mỹ trong giai đoạn 1951 - 1960. Trong đó tập trung làm rõ những kết quả đạt được, hạn chế; tác động đối với từng nước, khu vực, quốc tế; những đặc điểm của mối quan hệ này. 4. Nguồn tài liệu Tài liệu gốc: Bao gồm các hiệp ước, hiệp định, thoả thuận hợp tác; tuyên bố chung giữa hai nước; các báo cáo thống kê về quan hệ giữa hai nước của Bộ Ngoại giao Nhật Bản và Mỹ; các bài phát biểu, diễn văn của lãnh đạo hai nước được tập hợp trong các tập tư liệu hoặc đăng tải trên báo chí, website chính thống… Tài liệu tham khảo: Bao gồm các sách chuyên khảo, sách tham khảo bằng tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Việt về quan hệ Nhật Bản - Mỹ và các vấn đề liên quan; các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ trong và ngoài nước liên quan đến quan hệ Nhật Bản - Mỹ; các bài báo khoa học bằng tiếng Việt và tiếng Anh được đăng tải đăng trên các tạp chí trong nước và quốc tế; các kỷ yếu hội thảo khoa học có nội dung liên quan đến đề tài; các trang tin của website chính thức của Bộ Ngoại giao Nhật Bản và Mỹ, các bài viết được đăng tải trên các website có độ tin cậy cao trong và ngoài nước… 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài vận dụng và quán triệt quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; vận dụng quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về các vấn đề quan hệ quốc tế để nghiên cứu quan hệ Nhật Bản - Mỹ. 5.2. Phương pháp nghiên cứu
- 4 Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu chuyên ngành là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Phương pháp lịch sử nhằm tái hiện quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế Nhật Bản - Mỹ giai đoạn 1951 - 1960 dưới góc độ lịch sử. Phương pháp logic giúp tác giả có những phân tích, nhìn nhận, đánh giá khách quan về mối quan hệ này. Đối tượng nghiên cứu của luận án thuộc lĩnh vực quan hệ quốc tế, vì vậy, tác giả còn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu chuyên ngành quan hệ quốc tế như tổng hợp, so sánh, phân tích giải thích, phân tích nội dung, phân tích sự kiện… Với các phương pháp này, quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960 được đặt trong bối cảnh quan hệ quốc tế, được tái hiện một cách khách quan và được đánh giá một cách đa chiều, khoa học. Ngoài ra, đối tượng nghiên cứu của luận án cũng thuộc lĩnh vực kinh tế, bởi vậy, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chuyên ngành kinh tế như thống kê, lập bảng so sánh, biểu đồ, định tính, định lượng, diễn dịch, quy nạp…nhằm làm sáng rõ nội dung quan hệ kinh tế giữa hai nước Nhật - Mỹ. 6. Đóng góp của luận án Đây là công trình đầu tiên ở Việt Nam tập trung nghiên cứu quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960. Vì vậy, đóng góp của luận án là: - Phục dựng một cách có hệ thống, chân thực và khách quan quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ trong giai đoạn 1951 - 1960. - Tập trung phân tích, làm sáng rõ những nhân tố tác động (dưới ba cấp độ thế giới, khu vực, quốc gia và cá nhân), tiến trình, nội dung cụ thể trong quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ trên lĩnh vực chính trị - an ninh và kinh tế trong giai đoạn 1951 – 1960. Trên cơ sở đó, rút ra những đánh giá, nhận xét về mối quan hệ quan hệ này. - Quan hệ Nhật Bản - Mỹ nói chung, quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế giữa hai nước giai đoạn 1951- 1960 nói riêng là mối quan hệ điển hình trong quan hệ quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai, gắn với bối cảnh thế giới vô cùng phức tạp. Đến nay, quan hệ đồng minh giữa hai nước không ngừng được củng cố và được xem là một trong những liên minh bền vững nhất thế giới. Nội dung của luận án sẽ góp phần làm rõ bản chất của mối quan hệ này. - Luận án hệ thống hóa và bổ sung tư liệu mới về quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế Nhật Bản - Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960; là tài liệu tham khảo bổ ích cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập lịch sử Nhật Bản, lịch sử Mỹ, quan hệ hai nước và quan hệ quốc tế thời hiện đại. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của luận án bao gồm 4 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu.
- 5 Chương 2. Những nhân tố tác động đến quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960. Chương 3. Thực trạng quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960. Chương 4. Nhận xét về quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trên cơ sở tiếp cận, khảo cứu những công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài và Việt Nam có liên quan đến đề tài luận án, chúng tôi chỉ ra nội dung cụ thể mà các tác phẩm tiêu biểu đã đề cập, từ đó rút ra một số nhận xét sau: - Ở nước ngoài, quan hệ giữa hai nước Nhật Bản và Mỹ đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, phần lớn các công trình đó đều có phạm vi nghiên cứu dài về mặt thời gian, chủ yếu tập trung vào giai đoạn trong và sau Chiến tranh lạnh. Quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ giai đoạn 1951 - 1960 ít được nghiên cứu, hoặc chỉ là một nội dung trong tổng thể công trình của các tác giả. Theo những tài liệu mà tác giả tiếp cận được, có thể khẳng định chưa có công trình chuyên khảo nào nghiên cứu có hệ thống về “Quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960”. - Ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về quan hệ Nhật Bản - Mỹ. Mặc dù vậy, các công trình đó chủ yếu đề cập đến mối quan hệ Nhật Bản - Mỹ một cách khái quát, được lồng ghép trong các công trình viết về quan hệ quốc tế ở khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, cũng có công trình lựa chọn phạm vi thời gian nghiên cứu rất dài, trong suốt vả thời kỳ Chiến tranh lạnh. Có thể khẳng định, đến nay ở Việt Nam chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về mối quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960. - Tổng hợp kết quả nghiên cứu của các học giả nước ngoài và Việt Nam, chúng tôi thấy rằng: phần lớn công trình nghiên cứu quan hệ Nhật Bản và Mỹ có phạm vi thời gian rất dài, chủ yếu nghiên cứu trong suốt cả thời kỳ Chiến tranh lạnh, một số khác nghiên cứu thời kỳ sau Chiến tranh lạnh, số lượng công trình nghiên cứu về giai đoạn 1951 - 1960 không nhiều. Một số công trình tập trung vào từng nội dung cụ thể về chính trị, an ninh hoặc kinh tế mà thiếu những công trình chuyên sâu và hệ thống về quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế giữa hai nước trong giai đoạn 1951 - 1960. Có thể nói rằng, quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960 với tư cách là đối tượng nghiên cứu riêng biệt chưa được nghiên cứu một cách thấu đáo.
- 6 Về mặt nội dung, các công trình đã công bố chưa giải quyết được những vấn đề sau: + Chưa làm sâu sắc và toàn diện những nhân tố tác động đến quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960. Các nhân tố đó chưa được đánh giá đầy đủ ở các cấp độ: thế giới, khu vực; quốc gia và cá nhân. Đồng thời, chưa có phân tích đúng mức về tác động của các sự kiện quan trọng trên thế giới và khu vực diễn ra cùng thời gian. Điều đó ảnh hưởng đến việc nhìn nhận, đánh giá về mối quan hệ Nhật Bản và Mỹ trong phạm vi thời gian mà luận án nghiên cứu. + Chưa làm rõ được thực trạng quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ giai đoạn 1951 - 1960. Bởi vì, giai đoạn này chỉ là một khoảng thời gian ngắn trong phạm vi nghiên cứu của phần lớn các công trình đã công bố. Hơn nữa, hầu như các nhà nghiên cứu chưa thực hiện cách tiếp cận đa chiều (vừa phải làm rõ tiến trình, vừa phải đi sâu vào những vấn đề cụ thể) trong quan hệ song phương Nhật Bản và Mỹ (1951 - 1960). + Những công trình mà chúng tôi tiếp cận được là của các nhà nghiên cứu thuộc nhiều quốc gia khác nhau, được xuất bản trong những thời điểm khác nhau nên đã có những quan điểm, cách nhìn nhận và đánh giá vấn đề không giống nhau. Một số tác giả còn nặng về vấn đề ý thức hệ, một số lại quá nhấn mạnh cách tiếp cận từ góc độ Chiến tranh lạnh, số khác lại thiên về việc nhìn nhận từ phía Nhật Bản hoặc Mỹ… Điều đó dẫn đến những nhận định thiếu khách quan, thiếu tính khoa học. Đặc biệt, chưa xác định rõ bản chất quan hệ giữa hai nước trong giai đoạn lịch sử này. - Những kết quả nghiên cứu ở nước ngoài và Việt Nam về quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng để chúng tôi triển khai luận án. Đồng thời, giúp chúng tôi xây dựng ý tưởng, nội dung và lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp. Về mặt nội dung, đó là cơ sở để phục dựng thực trạng quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ (1951 - 1960). Mặt khác, những kết quả đó góp phần giúp chúng tôi có góc nhìn đa chiều khi đánh giá đối tượng nghiên cứu; giúp chúng tôi đưa ra những nhận định khách quan, khoa học về kết quả đạt được và hạn chế, tác động của quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế Nhật Bản - Mỹ (1951 - 1960) cũng như rút ra những đặc điểm của mối quan hệ này. 1.2. Những vấn đề luận án cần tập trung giải quyết Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước, bổ sung những nguồn tư liệu mới, luận án đặt ra những vấn đề cần tập trung giải quyết như sau: Thứ nhất, trình bày và phân tích sâu sắc, đầy đủ những nhân tố tác động đến mối quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960. Những nhân tố được đề cập trong luận án bao gồm: tình hình quốc tế và khu vực; quan hệ Nhật Bản - Mỹ trước năm 1951; tình hình Nhật Bản và chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Mỹ; tình hình Mỹ và chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Nhật Bản; vai trò của cá nhân các nhà lãnh đạo Nhật Bản và Mỹ.
- 7 Thứ hai, trình bày một cách có hệ thống và toàn diện thực trạng quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960; làm rõ tiến trình cũng như những nội dung cốt lõi của mối quan hệ giữa hai nước trong các lĩnh vực nói trên. Thứ ba, trên cơ sở kết quả nghiên cứu thực trạng mối quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960, rút ra một số nhận xét về mối quan hệ song phương này. Những nhận xét tập trung vào các mặt: kết quả đạt được, hạn chế; tác động đối với từng nước, khu vực và quốc tế; những đặc điểm của mối quan hệ giữa hai nước trên các lĩnh vực nêu trên. Thứ tư, tiếp thu những kết quả nghiên cứu về mối quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ từ năm 1951 đến năm 1960 đã được công bố, luận án sẽ phân tích, đánh giá một cách khách quan để xác định đúng bản chất của mối quan hệ giữa hai nước. Vấn đề khoa học xuyên suốt mà luận án muốn làm rõ là: quan hệ Nhật – Mỹ là mối quan hệ đồng minh chặt chẽ trên cơ sở lợi dụng lẫn nhau, trong đó Mỹ lợi dụng Nhật Bản để thực hiện chiến lược toàn cầu của mình, Nhật Bản lợi dụng Mỹ để tập trung phát triển kinh tế. Chương 2 NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ CHÍNH TRỊ - AN NINH, KINH TẾ GIỮA NHẬT BẢN VÀ MỸ TỪ NĂM 1951 ĐẾN NĂM 1960 2.1. Tình hình quốc tế và khu vực châu Á -Thái Bình Dương 2.1.1. Sự hình thành Trật tự thế giới hai cực và cuộc Chiến tranh lạnh Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, “Trật tự hai cực Yalta” hình thành. Trước bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới, Nhật Bản không thể tránh khỏi những tác động từ bên trong và bên ngoài. Đó là điều kiện để quan hệ Nhật Bản và Mỹ thay đổi nhanh chóng. Năm 1947, Chiến tranh lạnh ra đời và nhanh chóng được đẩy lên cao trào với mức độ đối đầu gia tăng nhanh chóng. Chiến tranh lạnh không những làm cho Mỹ thay đổi chính sách với Nhật Bản, mà nó còn làm thay đổi cả bản chất của mối quan hệ Nhật - Mỹ. Từ quan hệ giữa chiếm đóng và bị chiếm đóng, hai nước nhanh chóng chuyển sang mối quan hệ đồng minh. 2.1.2. Sự phát triển của Liên Xô, hệ thống XHCN và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới Sự phát triển của Liên Xô và sự ra đời, phát triển của hệ thống XHCN thế giới là một trong những nguyên nhân làm cho quan hệ đồng minh Nhật Bản - Mỹ được xác lập và khi CNXH càng phát triển thì càng làm cặp quan hệ này trở nên khăng khít hơn. Sự phát triển của phong trào GPDT trên thế giới làm cho ảnh hưởng của Mỹ nói riêng và hệ thống TBCN nói chung có nguy cơ bị thu hẹp dần. Bởi vậy, Mỹ muốn
- 8 biến Nhật Bản trở thành “tiền đồn” để ngăn chặn CNCS và phong trào GPDT ở châu Á - Thái Bình Dương. 2.1.3. Sự ra đời và phát triển của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Sự ra đời của nước CHND Trung Hoa ngày 1/10/1949, đánh dấu CNXH đã mở rộng từ châu Âu sang châu Á, trở thành hệ thống thế giới. Sự kiện này đã giáng một đòn mạnh mẽ vào chính sách “ngăn chặn” của Mỹ và có ảnh hưởng to lớn đối với quan hệ Nhật Bản - Mỹ. Trong những năm 50, CHND Trung Hoa thực hiện chính sách “Nhất biên đảo”, ngả hẳn về phía Liên Xô để chống Mỹ. Sự ra đời, phát triển của CHND Trung Hoa với vai trò ngày càng quan trọng trên trường quốc tế đã biến nước này thành một thế lực cạnh tranh với Mỹ và tác động trực tiếp đến Nhật Bản. Chính vì thế, Mỹ đã sử dụng Nhật Bản như một công cụ để kiềm chế CHND Trung Hoa. 2.1.4. Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam Trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên, Nhật Bản đã đóng vai trò là một hậu cứ quan trọng của Mỹ, thực sự trở thành pháo đài của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương để trực tiếp ngăn chặn CNCS lan tràn từ Bắc Triều Tiên xuống Nam Triều Tiên. Cuộc chiến tranh này đã làm cho vị trí của Nhật Bản vốn đã quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ càng trở nên quan trọng hơn. Nó cũng là một trong những nguyên nhân thúc đẩy liên minh Nhật Bản - Mỹ sớm ra đời và phát triển. Bên cạnh đó, Chiến tranh Việt Nam cũng là nhân tố tác động đến quan hệ Nhật Bản và Mỹ. Đặc biệt, khi “làn sóng đỏ” lan tràn ở châu Á và nước CHND Trung Hoa ra đời, Việt Nam càng có vị trí đặc biệt trong chính sách ngăn chặn ảnh hưởng của CNCS ở châu Á - Thái Bình Dương mà Mỹ triển khai. 2.2. Quan hệ Nhật Bản - Mỹ trước năm 1951 2.2.1. Quan hệ Nhật Bản - Mỹ trước năm 1945 Quan hệ Nhật Bản - Mỹ trước Chiến tranh thế giới thứ hai trải qua nhiều thăng trầm. Từ chỗ bất bình đẳng cuối thời Tokugawa, chuyển sang giai đoạn cộng tác cùng có lợi thời Minh Trị, sau đó lại chuyển sang quan hệ căng thẳng từ khi Nhật Bản mạnh lên, trở thành cường quốc khu vực, cuối cùng kết thúc bằng quan hệ đối đầu trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Việc Nhật Bản thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã tạo ra bước ngoặt mới trong quan hệ Nhật Bản - Mỹ. Quan hệ giữa hai nước trong giai đoạn này là cơ sở lịch sử cho Nhật Bản, Mỹ thiết lập quan hệ song phương trong giai đoạn tiếp theo. 2.2.2. Quan hệ Nhật Bản - Mỹ từ năm 1945 đến năm 1951 Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hai bên kết thúc quan hệ đối đầu, chiến tranh, thay vào đó là quan hệ chiếm đóng và bị chiếm đóng. Đồng thời với việc chiếm đóng Nhật Bản, trước những chuyển biến của tình hình thế giới và những tính toán về lợi ích, Mỹ đã thay đổi hoàn toàn mục tiêu đối với Nhật Bản, giúp đỡ, ủng hộ Nhật Bản nhiều hơn để Nhật Bản khôi phục và phát triển kinh tế. Sự thay đổi chính sách của Mỹ với Nhật Bản đã làm cho quan hệ Nhật Bản - Mỹ có những chuyển biến nhanh,
- 9 đặt tiền đề cho sự phát triển của quan hệ Nhật - Mỹ ở giai đoạn sau, trước hết là giai đoạn 1951 - 1960. 2.3. Tình hình Nhật Bản và chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Mỹ (1951 - 1960) 2.3.1. Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của Nhật Bản (1951- 1960) Sau khi ký hiệp ước với Mỹ, Nhật Bản có nhiều thay đổi. Về chính trị, chính trường Nhật Bản có nhiều biến động với những lần thay đổi nội các liên tục, chỉ ổn định tương đối vào thời kỳ cầm quyền của Yoshida Shigeru và Kishi Nobusuke. Trong khi đó, các lực lượng chính trị và quần chúng không ngừng đấu tranh, chủ yếu phản đối việc ký kết Hiệp ước An ninh Nhật Bản - Mỹ. Về kinh tế, Nhật Bản đã có bước phát triển rất nhanh chóng, tổng sản phẩm quốc dân tăng cao hơn các nước tư bản phương Tây. Về xã hội, đời sống của nhân dân được nâng cao do tác động của sự phát triển kinh tế. 2.3.2. Chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Mỹ (1951 - 1960) Do tác động sâu sắc của cuộc Chiến tranh lạnh và quan hệ giữa hai nước trong giai đoạn 1945-1951, Nhật Bản đã đứng về phía Mỹ. Lựa chọn và phát triển quan hệ với Mỹ là “phù hợp” nhất với Nhật Bản lúc bấy giờ. Từ năm 1951đến năm 1960, nhìn chung Nhật Bản dựa vào Mỹ, lệ thuộc Mỹ. Chính sách của Nhật Bản đã tác động sâu sắc đến quan hệ toàn diện của hai nước, trong đó có quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế. 2.4. Tình hình Mỹ và chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Nhật Bản (1951 - 1960) 2.4.1. Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Mỹ (1951-1960) Về chính trị, trong giai đoạn 1951-1960 nói riêng, tình hình chính trị Mỹ ít có sự thay đổi so với trước. Ở Mỹ vẫn tồn tại chế độ hai đảng thay nhau cầm quyền. Về kinh tế, Mỹ là siêu cường có tiềm lực lớn nhất thế giới về mọi mặt. Về xã hội, nhìn chung, quyền tự do dân chủ của nhân dân Mỹ bị hạn chế. Đời sống của đông đảo nhân dân lao động Mỹ gặp nhiều khó khăn, phân hoá giàu nghèo trở nên rất trầm trọng. Mâu thuẫn trong lòng xã hội Mỹ gay gắt. 2.4.2. Chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Nhật Bản (1951 - 1960) Trong giai đoạn 1951-1960, chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Nhật Bản là chính sách đồng minh, là một bộ phận trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Để thực thi chính sách đó, Mỹ đã hỗ trợ Nhật Bản phát triển kinh tế. Những chính sách đó có tác động rất lớn đến quan hệ giữa hai nước, là điều kiện quan trọng để quan hệ hai nước trở nên khăng khít hơn. 2.5. Vai trò của các nhà lãnh đạo Nhật Bản và Mỹ 2.5.1. Thủ tướng Nhật Bản Yoshida Shigeru và Kishi Nobusuke Trong thời gian từ ngày 8/9/1951 đến 19/1/1960, các thủ tướng Yoshida Shigeru, Hato Yama Ichino, Ishibashi Tanzan, Kishi Nobusuke thay nhau cầm quyền ở Nhật Bản. Trong các thủ tướng đó, Thủ tướng Yoshida Shigeru và thủ tướng Kishi Nobusuke có vai trò nổi bật trong lãnh đạo đất nước và trong quan hệ Nhật - Mỹ. Yoshida Shigeru (1878-1967) giữ cương vị Thủ tướng Nhật Bản trong hai giai
- 10 đoạn: Từ tháng 5/1946 đến tháng 5/1947 và từ tháng 10/1948 đến tháng 12/1954. Yoshida đã có ảnh hưởng lớn đến quan hệ Nhật Bản - Mỹ trong giai đoạn 1951 - 1960. Sự lãnh đạo của ông đã góp phần tạo nền tảng để đưa Nhật Bản bước vào giai đoạn phát triển “thần kỳ” và đặt cơ sở cho quan hệ Nhật Bản – Mỹ giai đoạn 1951 - 1960. Học thuyết Yoshida do ông đề xướng có giá trị định hướng cho quan hệ Nhật- Mỹ không chỉ trong giai đoạn 1951-1960 và cả các thập kỷ sau đó. Bởi vậy, Yoshida được coi như “một biểu tượng của mối liên minh Mỹ - Nhật” Kishi Nobusuke (1896-1987) giữ cương vị Thủ tướng Nhật Bản từ tháng 2/1957 đến tháng 7/1960. Ông được xem là “người xác lập, củng cố thể chế chính trị hậu chiến mà Thủ tướng Yoshida xây dựng bước đầu” và có ảnh hưởng lớn đến quan hệ Nhật Bản - Mỹ. Trong thời gian hơn 3 năm làm thủ tướng, Kishi luôn nỗ lực để cải thiện quan hệ với Mỹ theo hướng bình đẳng hơn. Ông đã thực thi các chính sách nhằm nâng cao vị thế của Nhật Bản trên trường quốc tế. 2.5.2. Tổng thống Mỹ Harry Truman và Dwight David Eisenhower H. Truman cầm quyền từ năm 1945 đến năm 1953. Điểm nổi bật có tác động sâu sắc đến nước Mỹ và quan hệ Nhật Bản - Mỹ chính là “Học thuyết Truman” dựa trên nền tảng là “Chính sách ngăn chặn”. Truman là người thay đổi chính sách đối với Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai từ “đánh quỵ” sang “phục hồi”, từ kẻ thù thành đồng minh. Trong giai đoạn 1951 - 1953, Tổng thống Truman đã tích cực thúc đẩy việc ký kết Hoà ước San Francisco, Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ. Có thể nói, sự phát triển trong quan hệ giữa hai nước thời gian này mang đậm dấu ấn của Truman. D. D. Eisenhower, cầm quyền từ năm 1953 đến năm 1961. Quan hệ Nhật Bản - Mỹ giai đoạn 1951- 1960 diễn ra gần như trọn vẹn trong thời gian cầm quyền của Eisenhower, bởi thế Eisenhower có ảnh hưởng rất lớn đến thực tiễn cũng như chiều hướng phát triển của mối quan hệ giữa hai bên. Eisenhower đã kế thừa và phát triển chính sách của Mỹ đối với Nhật Bản của Tổng thống Truman. Dưới sự chỉ đạo của ông, Mỹ đã ký với Nhật Bản một loạt hiệp định về an ninh, quốc phòng, hành chính, tài chính, thương mại… Đặc biệt, dưới thời Tổng thống D. Eisenhower, hai nước ký Hiệp ước An ninh năm 1960, đánh dấu sự củng cố và phát triển quan hệ giữa hai nước, đặt nền tảng cho quan hệ song phương tiếp tục phát triển trong giai đoạn sau. Chương 3 THỰC TRẠNG QUAN HỆ CHÍNH TRỊ - AN NINH, KINH TẾ GIỮA NHẬT BẢN VÀ MỸ TỪ NĂM 1951 ĐẾN NĂM 1960 3.1. Quan hệ chính trị - an ninh 3.1.1. Tiến trình phát triển của quan hệ chính trị - an ninh Nhật Bản - Mỹ (1951-1960) Từ đầu thập kỷ 50, tình hình thế giới, nhất là ở châu Á diễn biến rất phức tạp,
- 11 đã làm cho cho quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ có những chuyển biến nhanh chóng. Mỹ muốn biến Nhật Bản thành đồng minh giữ vai trò chủ chốt trong chiến lược toàn cầu của mình ở châu Á - Thái Bình Dương. Để đạt được mục tiêu đó, trước hết, Mỹ chủ trương cùng các nước ký hiệp ước hoà bình với Nhật Bản. Dưới sự thao túng của Mỹ, ngày 8/9/1951, tại Hội nghị San Francisco, 49/52 quốc gia tham dự đã ký kết Hiệp ước San Francisco với Nhật Bản. Hiệp ước quy định: “Tình trạng chiến tranh giữa Nhật Bản và các nước Đồng minh chấm dứt kể từ ngày Hiệp ước này có hiệu lực”. Hiệp ước là cơ sở pháp lý để Mỹ ký kết các hiệp ước song phương tiếp theo với Nhật Bản và biến nước này thành một đồng minh quân sự quan trọng của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương. Chỉ 5 giờ sau khi Hiệp ước San Francisco ra đời, cũng trong ngày 8/9/1951, Mỹ và Nhật Bản ký kết Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ. Điều quan trọng nhất trong Hiệp định này là quy định việc triển khai các lực lượng hải, lục, không quân của Mỹ ở Nhật Bản. Mặc dù vấp phải ý kiến trái chiều, nhưng cả hai hiệp ước này đều được Quốc hội Nhật Bản và Thượng viện Mỹ nhanh chóng phê chuẩn. Hiệp ước San Francisco và Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ đã mở đầu cho mối quan hệ mật thiết giữa Nhật Bản và Mỹ, đánh dấu quan hệ đồng minh giữa hai nước được chính thức thiết lập. Ngày 28/2/1952, tại Tokyo, Nhật Bản ký với Mỹ Hiệp định Hành chính nhằm cụ thể hoá vấn đề điều chỉnh việc đóng quân của lực lượng quân sự Mỹ trên đất Nhật Bản. Để củng cố quan hệ đồng minh, các nhà lãnh đạo hai nước đã thúc đẩy các hoạt động ngoại giao cấp cao. Tháng 11/1954, Thủ tướng Nhật Bản Yoshida Shigeru thăm Mỹ và tiến hành hội đàm với Tổng thống D. Eisenhower. Hai bên ra khẳng định tinh thần hợp tác hữu nghị là đặc trưng cho mối quan hệ giữa Nhật Bản và Mỹ. Tháng 6/1957, Thủ tướng Nhật Bản Kishi Nobusuke thăm Mỹ. Thủ tướng Nhật Bản Kishi Nobusuke và Tổng thống Mỹ D. Eisenhower đã thảo luận nhiều vấn đề quan trọng mà cả hai nước cùng quan tâm, trong đó có vấn đề Hiệp ước An ninh đã ký năm 1951. Tháng 1/1960, phái đoàn cấp cao của Chính phủ Nhật Bản do Thủ tướng Kishi Nobusuke dẫn đầu sang thăm Mỹ. Chuyến thăm này diễn ra trong bối cảnh quốc tế có những thay đổi, tình hình Nhật Bản cũng xuất hiện nhiều vấn đề cần quan tâm, nhất là khi phong trào phản đối Mỹ của nhân dân Nhật Bản đang dâng cao. Hai bên đã dành thời gian để thảo luận về tình hình quốc tế và xem xét về mối quan hệ Nhật Bản và Mỹ, đồng thời tin tưởng rằng mối quan hệ đối tác và hợp tác giữa hai quốc gia tiếp tục được củng cố. Ngày 19/1/1960, tại Washington, hai nước ký Hiệp ước hợp tác và an ninh tương hỗ Nhật - Mỹ (thường gọi là Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ năm 1960). Thực chất Hiệp ước hợp tác và an ninh Nhật - Mỹ năm 1960 là sự điều chỉnh Hiệp ước An
- 12 ninh mà hai nước đã ký năm 1951 để phù hợp với hoàn cảnh mới. Nó chính là kết quả của thực tiễn quan hệ giữa hai nước trong gần một thập kỷ đã qua, cũng là sự điều chỉnh trước làn sóng đấu tranh của nhân dân và các đảng phái chính trị Nhật Bản. Việc ký kết Hiệp ước hợp tác và an ninh Nhật - Mỹ (19/1/1960) thể hiện bước phát triển mới trong quan hệ chính trị, an ninh Nhật Bản - Mỹ. 3.1.2. Quan hệ chính trị - an ninh Nhật Bản - Mỹ trong các vấn đề cụ thể (1951 - 1960) 3.1.2.1. Vấn đề Chiến tranh Triều Tiên Triều Tiên có vị trí đặc biệt quan trọng đối an ninh của Nhật Bản cũng như chính sách của Mỹ ở châu Á. Trong Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), quan hệ giữa hai nước Nhật Bản và Mỹ phát triển mạnh mẽ. Khi chiến tranh bùng nổ, mặc dù giữa hai nước chưa ký hiệp ước an ninh song phương, nhưng Nhật Bản gần như đã trở thành đồng minh và là căn cứ quân sự của Mỹ, nên dù muốn hay không, cũng bị Mỹ lôi kéo vào cuộc chiến tranh, bị cuốn vào mối quan hệ đối đầu Mỹ - Xô và Mỹ - Trung. Nhật Bản trở thành căn cứ quan trọng nhất của Mỹ, là nơi tập kết vũ khí, các lực lượng chiến đấu, hậu cần, nhiên liệu cho quân đội Mỹ và quân đội các nước đồng minh. Mối quan hệ giữa hai nước trong Chiến tranh Triều Tiên trước hết là nhằm thực hiện chính sách toàn cầu của Mỹ, nhưng mặt khác là để đảm bảo an ninh của Nhật Bản. Đối với Nhật Bản, cuộc chiến tranh này có ảnh hưởng rất sâu sắc, được ví như “ngọn gió thần” làm thay đổi rõ nét tình hình kinh tế Nhật Bản. Nó còn là cơ sở để Mỹ thúc đẩy ký kết hiệp ước hoà bình, hiệp ước an ninh song phương với Nhật Bản nhằm tăng cường khả năng phòng thủ cho Nhật Bản, sẵn sàng đối phó với những mối đe dọa tương tự như cuộc Chiến tranh Triều Tiên. 3.1.2.2. Vấn đề căn cứ quân sự Mỹ ở Nhật Bản Xây dựng căn cứ quân sự Mỹ ở Nhật Bản là nội dung trọng tâm trong quan hệ chính trị - an ninh giữa Nhật Bản và Mỹ giai đoạn 1951 - 1960. Đó là vấn đề từng được bàn đến ngay từ khi Mỹ chưa kết thúc chế độ chiếm đóng ở Nhật Bản. Hiệp ước Hoà bình San Francisco, Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ và Hiệp ước Hành chính được hai nước ký kết đã tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc quân Mỹ đồn trú lâu dài ở Nhật Bản. Theo đó, Nhật Bản không được phép duy trì quân đội, còn quân đội Mỹ được quyền có mặt tại Nhật Bản để đảm bảo an ninh cho nước này. Thực tế đây là sự hợp thức hóa sự có mặt của quân đội Mỹ tại Nhật Bản cũng như sự phụ thuộc an ninh hoàn toàn của Nhật Bản vào Mỹ, tạo nên đặc trưng của Nhật Bản - “gã khổng lồ một chân”. Theo các thoả thuận giữa lãnh đạo hai nước, Mỹ được trao 612 căn cứ và khu vực, trong đó có 300 khu vực được sử dụng vô thời hạn, quân Mỹ còn được nhận 18 khu vực khác để tiến hành tập trận và 35 sân bay cùng các hải cảng, xí nghiệp và
- 13 bệnh viện quân sự khác. Những căn cứ quân sự trên đất Nhật Bản có vai trò to lớn trong chính sách của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương. Các căn cứ này không chỉ duy trì sự an toàn của Mỹ ở Nhật Bản mà còn đóng vai trò hỗ trợ cho các căn cứ quân sự khác của Mỹ rải rác khắp các đảo ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. 3.1.2.3. Vấn đề tái vũ trang Nhật Bản Hiến pháp năm 1946 cấm Nhật Bản duy trì các lực lượng vũ trang và phát động chiến tranh. Tuy nhiên, do những tính toán của Mỹ và Nhật Bản, các lực lượng vũ trang Nhật Bản từng bước được tái thành lập. Từ năm 1950, ngay sau khi Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, tướng Mac Arthur đã đề nghị Chính phủ Nhật Bản thành lập Lực lượng Cảnh sát dự bị (Keisatsu yobitai) gồm 75.000 người được trang bị những phương tiện chiến tranh hiện đại như máy bay, xe tăng, chiến hạm… mở đầu cho việc tái vũ trang Nhật Bản. Trên thực tế, mặc dù thiếu cơ sở pháp lý, nhưng bắt đầu từ năm 1950, Nhật Bản đã nhận viện trợ quân sự của Mỹ. Từ năm 1952 đến năm 1954, Mỹ và Nhật Bản đã ký hai hiệp định về cho mượn tàu. Bên cạnh đó, lực lượng hải quân Nhật Bản cũng nhận được một lượng đáng kể các trang thiết bị khác dưới dạng viện trợ không hoàn lại. Năm 1955, Mỹ cũng dành viện trợ quân sự cho lực lượng tự vệ hàng không của Nhật Bản. Có thể thấy sự hỗ trợ về quân sự của Mỹ chủ yếu phục vụ cho việc tái vũ trang Nhật Bản. Về bản chất, sự tái vũ trang Nhật Bản cũng là một cách hữu hiệu để gia tăng sức mạnh của Mỹ và để thắt chặt quan hệ đồng minh Nhật Bản - Mỹ. 3.2. Quan hệ kinh tế 3.2.1. Tiến trình phát triển của quan hệ kinh tế Nhật Bản - Mỹ trong những năm 1951-1960 Với sự hỗ trợ đắc lực của Mỹ trong những năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhất là việc thực hiện cải cách kinh tế, nền kinh tế Nhật Bản đã chuyển mình nhanh chóng. Đặc biệt trong Chiến tranh Triều Tiên, kinh tế Nhật Bản bước vào giai đoạn phát triển “thần kỳ” nhờ những đơn đặt hàng quân sự của Mỹ và các loại dịch vụ đi kèm. Những khoản “thu nhập đặc biệt” từ Mỹ đổ vào Nhật Bản cũng như viện trợ của Mỹ trong những năm Chiến tranh Triều Tiên và những năm sau đó làm cho kinh tế Nhật Bản phát triển nhanh chóng. Trong giai đoạn này, hai nước ký nhiều hiệp định về kinh tế như Hiệp định hợp tác, buôn bán và hàng hải (2/4/1953), Hiệp định về các biện pháp kinh tế (8/3/1954), Hiệp định Bảo lãnh Đầu tư Nhật - Mỹ (8/3/1954)... Lãnh đạo hai nước cũng thường xuyên trao đổi về hợp tác kinh tế song phương, khẳng định ưu tiên phát triển quan hệ kinh tế Nhật Bản - Mỹ… Trong quá trình triển khai quan hệ kinh tế song phương, Mỹ đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế Nhật Bản. Ngoài ra, Mỹ còn hỗ trợ đắc lực cho Nhật Bản gia nhập các tổ chức kinh tế như Hiệp ước chung về
- 14 thuế quan và thương mại, Ngân hàng thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế. Quan hệ kinh tế Nhật Bản - Mỹ trong giai đoạn 1951 - 1960 chịu ảnh hưởng của mối quan hệ đồng minh giữa hai nước. Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ đã tạo cho Nhật Bản “chiếc ô hạt nhân” để bảo vệ an ninh quốc gia, giúp quốc gia này tập trung nguồn lực vào phát triển kinh tế. Đó là một trong những lý do để Nhật Bản đạt được sự phát triển “thần kỳ” về kinh tế trong giai đoạn này. 3.2.2. Các lĩnh vực trong quan hệ kinh tế 3.2.2.1. Quan hệ thương mại Trong giai đoạn 1951 - 1960, quan hệ thương mại Nhật Bản và Mỹ không ngừng phát triển và đạt được nhiều kết quả. Hai nước thường xuyên đưa ra những biện pháp để thúc đẩy xuất nhập khẩu và triển khai các hoạt động xuất nhập khẩu. Trong quan hệ thương mại giữa hai nước, xuất khẩu của Mỹ đến Nhật Bản hàng năm luôn lớn hơn chiều ngược lại và giá trị tăng liên tục: từ 601 triệu USD năm 1951 lên 1.319 triệu USD năm 1957 và 1.447 triệu USD năm 1960. Trong khi đó, ở chiều ngược lại, xuất khẩu từ Nhật Bản giá trị tuy còn khiêm tốn nhưng vẫn tăng liên tục: từ 205 triệu USD năm 1951, lên 718 triệu USD năm 1957 và 1.149 triệu USD năm 1960. Trong quan hệ với Mỹ, Nhật Bản là nước nhập siêu, tuy nhiên cán cân ngày càng nhỏ dần. Trong tương quan thương mại giữa Nhật Bản với các nước, khu vực trên thế giới thì quan hệ thương mại Nhật Bản và Mỹ luôn phát triển nổi trội. Điều này cho thấy sự gắn bó chặt chẽ của nền thương mại giữa hai nước cũng như vai trò quan trọng của Mỹ đối với nền kinh tế Nhật Bản. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển, quan hệ thương mại giữa hai nước cũng bộc lộ nhiều mâu thuẫn với sự nảy sinh xung đột thương mại trong nhiều ngành, nhất là hàng dệt may. 3.2.2.2. Quan hệ đầu tư Ngày 2/4/1953, Mỹ và Nhật Bản ký Hiệp định Hợp tác, Buôn bán và Hàng hải, trong đó quy định những đặc quyền của Mỹ trong việc đầu tư vào Nhật Bản. Chính vì vậy, trong giai đoạn 1951 - 1960, trong khi đầu tư trực tiếp của các nước đến Nhật Bản không nhiều thì đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Nhật Bản vẫn tăng hàng năm. Năm 1950 mới chỉ có 19 triệu USD thì năm 1955 là 129 triệu USD, năm 1960 đạt 254 triệu USD. Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp vào Nhật Bản khá thấp so với tổng nguồn vốn đầu tư của Mỹ ra nước ngoài. Nguyên nhân của tình trạng này là do ngoài đầu tư trực tiếp, Mỹ còn dành cho Nhật Bản một số lượng lớn viện trợ và các đơn hàng đặc biệt khác phục vụ cho hoạt động quân sự của Mỹ tại đây. Trên thực tế, tổng số tiền các khoản mà Mỹ đầu tư cho Nhật Bản là rất lớn. Chỉ tính từ năm 1953 đến năm 1960, tính tất cả các khoản, Mỹ đã đổ hơn 4 tỷ USD vào nền kinh tế Nhật Bản.
- 15 Đầu tư của Mỹ với Nhật Bản trong thời gian này được phân bổ trên nhiều lĩnh vực, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực quan trọng như khai thác mỏ, khai thác dầu, chế tạo, thiết bị kỹ thuật điện tử, nước giải khát, dịch vụ công cộng… Đầu tư trực tiếp và tất cả các khoản tiền của Mỹ bỏ ra ở Nhật Bản vừa có ý nghĩa phục hồi và phát triển kinh tế Nhật Bản, vừa củng cố vai trò của Nhật Bản trong chính sách an ninh của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương. Từ năm 1951, Nhật Bản đã chú ý đến và bắt đầu thực hiện đầu tư ra nước ngoài, tuy nhiên đầu tư của Nhật Bản đến Mỹ trong giai đoạn 1951 - 1960 còn rất khiêm tốn. Bởi vì đây là thời gian Nhật Bản phải tập trung phục hồi kinh tế trong nước nên chưa ưu tiên cho hoạt động đầu tư. Chương 4 NHẬN XÉT VỀ QUAN HỆ CHÍNH TRỊ - AN NINH, KINH TẾ GIỮA NHẬT BẢN VÀ MỸ TỪ NĂM 1951 ĐẾN NĂM 1960 4.1. Kết quả và hạn chế của quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế Nhật Bản - Mỹ giai đoạn 1951 - 1960 4.1.1. Kết quả Quan hệ Nhật Bản và Mỹ trên lĩnh vực chính trị - an ninh và kinh tế giai đoạn 1951 – 1960 diễn ra trong bối cảnh quốc tế, khu vực hết sức phức tạp, nhưng vẫn không ngừng phát triển và đạt được những kết quả to lớn. Chúng ta có thể khái quát như sau: Thứ nhất, hai nước đã thiết lập được quan hệ đồng minh vững chắc về chính trị - an ninh. Nhiều vấn đề chính trị - an ninh giữa hai nước đã được triển khai, thể hiện sự vững chắc của mối quan hệ đồng minh. Tiêu biểu là trong vấn đề Chiến tranh Triều Tiên, vấn đề xây dựng căn cứ quân sự của Mỹ ở Nhật Bản và vấn đề tái vũ trang Nhật Bản. Có thể nói, mặc dù vẫn còn nhiều trở ngại, nhưng quan hệ đồng minh Nhật Bản - Mỹ giai đoạn 1951-1960 là mối quan hệ vững chắc bậc nhất trên thế giới. Thứ hai, quan hệ kinh tế Nhật Bản - Mỹ không ngừng phát triển. Mặc dù không được ưu tiên như lĩnh vực chính trị - an ninh nhưng quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ trong giai đoạn 1951-1960 đạt được nhiều kết quả nổi bật. Trước hết hai nước đã thống nhất ký kết nhiều hiệp định, thoả thuận hợp tác về kinh tế. Đặc biệt, trong giai đoạn 1951-1960, Nhật Bản và Mỹ đã xúc tiến đẩy mạnh quan hệ thương mại và đầu tư. Kết quả của quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ trong giai đoạn 1951-1960 trở thành một trong những động lực để hai nước tiếp tục hợp tác, cùng nhau trở thành những nền kinh tế phát triển bậc nhất thế giới. Nguyên nhân của kết quả: thứ nhất, nước Mỹ nhất quán thực hiện chính sách đối
- 16 với Nhật Bản; thứ hai, Nhật Bản có nhu cầu phát triển quan hệ với Mỹ. Từ năm 1951 đến năm 1960, Nhật Bản đã dựa vào Mỹ để bảo đảm an ninh cho đất nước và tập trung phát triển kinh tế; thứ ba, do những tác động từ những yếu tố khách quan: sự ủng hộ của các nước tư bản, trước hết là các nước đồng minh của Mỹ cả về mặt chính trị - an ninh và kinh tế. 4.1.2. Hạn chế Thứ nhất, quan hệ chính trị - an ninh còn tồn tại nhiều bất cập. Đó là mối quan hệ thiếu bình đẳng, thể hiện sự lệ thuộc quá mức của Nhật Bản đối với Mỹ. Bên cạnh đó, quan hệ Nhật Bản - Mỹ gặp nhiều cản trở, thách thức. Thứ hai, quan hệ kinh tế Nhật - Mỹ (1951 - 1960) phát triển chưa tương xứng với mối quan hệ đồng minh giữa hai nước. Trong đó, quan hệ thương mại tuy có phát triển nhưng quy mô còn nhỏ, còn nhiều thách thức, cán cân nghiêng hẳn về phía Mỹ. Bên cạnh đó, quan hệ đầu tư mang tính một chiều, chủ yếu là đầu tư của Mỹ dành cho Nhật Bản. Nguyên nhân của hạn chế: một là, Mỹ là cường quốc có tiềm lực chính trị, kinh tế mạnh nhất thế giới, có đủ khả năng để chi phối, áp đặt Nhật Bản lệ thuộc vào đường lối của mình vạch ra; hai là, Nhật Bản chưa đủ tiềm lực để thiết lập sự bình đẳng trong quan hệ với Mỹ; ba là, do tác động của những yếu tố bên ngoài: tình hình quốc tế căng thẳng với nét bao trùm là mâu thuẫn Mỹ - Xô và tình hình khu vực có nhiều biến động (sự ra đời, phát triển của CHND Trung Hoa, Chiến tranh Triều Tiên, vấn đề Đài Loan…). 4.2. Tác động của quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ giai đoạn 1951 - 1960 4.2.1. Đối với Nhật Bản Thứ nhất, quan hệ chính trị - an ninh giữa Nhật Bản và Mỹ giúp Nhật Bản đảm bảo được an ninh quốc gia và có điều kiện mở rộng quan hệ đối ngoại. Quan hệ chính trị - an ninh với Mỹ giúp Nhật Bản hoàn toàn yên tâm về an ninh quốc gia. Mỹ sẽ chịu trách nhiệm trước bất kỳ một cuộc tấn công nào từ bên ngoài vào Nhật Bản và cả những cuộc bạo động bên trong Nhật Bản. Nhờ có quan hệ với Mỹ, cho phép Nhật Bản dễ dàng phát triển quan hệ với các nước tư bản phương Tây, trước hết là các nước đồng minh thân cận của Mỹ. Thứ hai, quan hệ chính trị - an ninh giữa Nhật Bản và Mỹ làm cho Nhật Bản phần nào bị mất đi tính độc lập, tự chủ. Sự phụ thuộc quá mức vào Mỹ đã làm cho Nhật Bản dường như không thể tự mình giải quyết trước những nguy cơ về an ninh từ bên ngoài. Trên thực tế, chính sách đối ngoại của Nhật Bản cũng chịu sự chi phối của Mỹ, đó chính là cái giá mà Nhật Bản phải trả cho việc dựa vào Mỹ để đảm bảo an ninh quốc gia. Thứ ba, quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ đã thúc đẩy nền kinh tế Nhật Bản phát triển nhanh. Tác động về mặt kinh tế đối với Nhật
- 17 Bản có lẽ nằm ngoài toan tính ban đầu của Mỹ, quan hệ liên minh chính trị - an ninh đã tác động sâu sắc đến nền kinh tế Nhật Bản, làm cho kinh tế quốc gia này thay đổi nhanh chóng. Đặc biệt, cuộc Chiến tranh Triều Tiên trở thành cú hích mạnh mẽ làm cho nền kinh tế Nhật Bản phát triển vượt bậc, được ví như “ngọn gió thần” thổi vào nền kinh tế Nhật Bản. Về kinh tế đối ngoại, quan hệ Nhật - Mỹ đã tạo điều kiện để kinh tế Nhật Bản thâm nhập trực tiếp vào thị trường Mỹ và thế giới. Đồng thời, với sự giúp đỡ của Mỹ, Nhật Bản có điều kiện thuận lợi để gia nhập và mở rộng quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF… Thứ tư, quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ tạo ra sự bất ổn trong xã hội Nhật Bản. Quan hệ Nhật Bản - Mỹ (1951-1960) có tác động mạnh đối với xã hội Nhật Bản, dẫn đến phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân. Phong trào bùng lên mạnh mẽ trước hết là nhằm chống lại “Hệ thống Hiệp ước San Francisco”, chống việc Mỹ xây dựng các căn quân sự và chống chính sách thân Mỹ “quá lộ liễu” của Chính phủ Nhật Bản. 4.2.2. Đối với Mỹ Quan hệ Nhật Bản - Mỹ tạo điều kiện cho Mỹ củng cố thế lực, triển khai thuận lợi chiến lược toàn cầu ở châu Á - Thái Bình Dương. Việc thiết lập quan hệ đồng minh với Nhật Bản đã giúp Mỹ phần nào hiện thực hoá chiến lược toàn cầu, ngăn chặn làn sóng CNCS ở châu Á - Thái Bình Dương, tạo cơ sở để Mỹ có thể dễ dàng triển khai chính sách của mình. Quan hệ kinh tế Nhật - Mỹ đã mở rộng thị trường thương mại và đầu tư cho tư bản Mỹ, góp phần thúc đẩy nền kinh tế Mỹ phát triển. Quan hệ kinh tế Nhật Bản - Mỹ trong giai đoạn 1951-1960 có tác động đến kinh tế nước Mỹ cho dù không lớn bằng tác động đến Nhật Bản. Quan hệ với Nhật Bản, Mỹ có thêm thị trường lớn để xuất, nhập khẩu hàng hóa, các nhà tư bản Mỹ có thêm cơ hội đầu tư, góp phần làm cho nền kinh tế Mỹ phát triển. 4.2.3. Đối với khu vực và quốc tế Quan hệ chính trị - an ninh Nhật Bản - Mỹ đã làm cho Trật tự hai cực Yalta được triển khai mạnh mẽ hơn ở châu Á – Thái Bình Dương. Trong giai đoạn 1951- 1960, tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương diễn ra sự cạnh tranh quyết liệt giữa hai cực. Vì vậy, Mỹ ra sức xây dựng ảnh hưởng tại khu vực này, tăng cường quan hệ đồng minh với Nhật Bản. Những thoả thuận giữa hai nước, đặc biệt là việc Nhật Bản cho phép Mỹ sử dụng các căn cứ quân sự và đóng quân ở Nhật Bản đã làm cho tình hình chính trị ở khu vực luôn trong tình trạng căng thẳng. Quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế Nhật Bản - Mỹ đã làm tương quan lực lượng của giữa hai hệ thống TBCN và XHCN có sự thay đổi. Việc Nhật Bản trở thành đồng minh của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương đã góp thêm sức mạnh cho hệ thống TBCN do Mỹ đứng đầu. Đồng thời, nó đã làm cho cán cân quyền lực ở khu vực này có sự thay đổi. Việc Nhật Bản liên minh chặt chẽ với Mỹ ở châu Á đã gây bất lợi cho các
- 18 nước XHCN và gia tăng tiềm lực của hệ thống TBCN cả về kinh tế, an ninh, quân sự. Quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế Nhật Bản - Mỹ có tác động đến cuộc Chiến tranh lạnh. Sau khi Mỹ phát động Chiến tranh lạnh, tình hình thế giới ngày càng trở nên căng thẳng. Khi liên minh Nhật Bản - Mỹ được thiết lập đã tác động trở lại cuộc Chiến tranh lạnh. Nhật Bản được coi là “tiền đồn” ở châu Á để Mỹ thực hiện mục tiêu ngăn chặn CNCS. Liên Xô tiếp tục phải đối phó với cuộc bao vây từ hai phía, phía Tây là CHLB Đức, phía Đông là Nhật Bản giống như trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Quan hệ Nhật - Mỹ làm cho Chiến tranh lạnh được triển khai mạnh mẽ hơn ở châu Á – Thái Bình Dương. 4.3. Đặc điểm của quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế Nhật Bản - Mỹ giai đoạn 1951 - 1960 Thứ nhất, quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ (1951 - 1960) thể hiện rõ toan tính chính trị của mỗi nước. Trong mối quan hệ Nhật Bản và Mỹ, cả hai bên đã thể hiện rõ những mưu toan, tính toán vì lợi ích của riêng mình. Trong khi Mỹ lợi dụng Nhật Bản để thực hiện mục đích về chính trị, an ninh là chủ yếu thì Nhật Bản lợi dụng Mỹ để bảo đảm an ninh quốc gia và phát triển kinh tế. Nhìn một cách khách quan thì trong giai đoạn 1951-1960, cả hai bên đều đạt được mục đích riêng của mình. Thứ hai, trong quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế Nhật Bản - Mỹ giai đoạn 1951 - 1960, quan hệ chính trị - an ninh giữ vai trò chủ đạo và quyết định. Mục đích ban đầu của hai nước khi thiết lập quan hệ đồng minh là phòng thủ chiến lược. Mỹ muốn dùng Nhật Bản làm căn cứ quân sự chiến lược ở châu Á - Thái Bình Dương để có thể phản ứng nhanh với mọi biến động diễn ra ở khu vực này. Còn Nhật Bản muốn lợi dụng sự đảm bảo an ninh của Mỹ để phòng thủ quốc gia, đối phó với những cuộc tấn công từ bên ngoài cũng như giữ gìn an ninh bên trong. Dù hai nước đẩy mạnh hợp tác kinh tế, khoa học - kỹ thuật hay các lĩnh vực nào khác thì một phần của sự hợp tác đó vẫn nhằm mục đích ban đầu: chính trị - an ninh. Thứ ba, quan hệ chính trị - an ninh, kinh tế giữa Nhật Bản và Mỹ mang tính “một chiều”, trong đó, Mỹ đóng vai trò chủ động, còn Nhật Bản chủ động chấp nhận sự “lép vế” trước Mỹ. Tính “một chiều” trong quan hệ Nhật Bản - Mỹ được thể hiện rõ nét trên phương diện chính trị - an ninh, khi những nội dung cốt lõi trong quan hệ giữa hai nước đều do Mỹ chủ động quyết định và chủ yếu diễn ra ở Nhật Bản. Còn về phương diện kinh tế, Nhật Bản cũng chưa đủ tiềm lực để cạnh tranh sòng phẳng với Mỹ. Mỹ là nước xuất siêu và đầu tư chủ yếu sang Nhật Bản. Trong quan hệ với Mỹ giai đoạn 1951-1960, Nhật Bản chịu “lép vế” trước Mỹ. Tuy nhiên, Nhật Bản đã tự nguyện chấp nhận thực trạng đó vì mục tiêu trước hết là bảo vệ, khôi phục và phát triển đất nước, phù hợp với hoàn cảnh của Nhật Bản lúc bấy giờ. Thứ tư, quan hệ chính trị - an ninh và kinh tế Nhật Bản - Mỹ (1951 - 1960) chịu sự chi phối sâu sắc của Chiến tranh lạnh và quan hệ giữa các cường quốc. Quan hệ hai
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 303 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 287 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 178 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 266 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 222 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 173 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 53 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 195 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 148 | 7
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 182 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 134 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 117 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 169 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn