intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Luật học: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam

Chia sẻ: Phong Tỉ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

62
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của luận án là làm rõ khái niệm pháp luật về bảo vệ BMNN, đặc điểm, nội dung điều chỉnh và vai trò của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam; phân tích các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ BMNN và các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN. Ở mức độ nhất định, luận án nghiên cứu pháp luật về bảo vệ BMNN ở một số nước trên thế giới và rút ra những giá trị có thể tham khảo cho Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án tiến sĩ Luật học: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH PHÙNG VĂN TÀI HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT MÃ SỐ: 62 38 01 01 Hà Nội – 2018
  2. Công trình được hoàn thành tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Nguyễn Ngọc Anh Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Vào hồi giờ ngày tháng năm 2018 Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của luận án Bí mật nhà nước là những thông tin quan trọng, liên quan đến sự ổn định và phát triển bền vững của quốc gia, dân tộc. Bảo vệ bí mật nhà nước (BMNN) là một quy luật tất yếu cho sự tồn tại, phát triển của mỗi cơ quan, tổ chức và nhà nước; có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong bảo vệ an ninh quốc gia (ANQG), đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi công nghệ, thông tin phát triển mạnh mẽ, thế giới bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” nhằm xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chú trọng đến công tác bảo vệ BMNN; sử dụng nhiều lực lượng, phương tiện, biện pháp để bảo vệ BMNN, trong đó, pháp luật được coi là “công cụ sắc bén, hữu hiệu”. Trải qua các giai đoạn khác nhau, Nhà nước ta đều ban hành các quy phạm pháp luật (QPPL) về bảo vệ BMNN phù hợp với đặc điểm tình hình và nhiệm vụ của cách mạng trong từng giai đoạn, các QPPL đó là cơ sở để hình thành nên pháp luật về bảo vệ BMNN. Từ khi hình thành, pháp luật về bảo vệ BMNN đã sớm đi vào cuộc sống và phát huy vai trò, tác dụng là công cụ sắc bén, hữu hiệu, là cơ sở pháp lý để tiến hành các hoạt động bảo vệ BMNN, góp phần giữ vững an ninh, trật tự, phục vụ cho sự phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước. Quá trình từ khi hình thành đến nay, pháp luật về bảo vệ BMNN không ngừng được xây dựng, bổ sung, đã tạo ra một hệ thống các QPPL quy định về công tác bảo vệ BMNN. Tuy nhiên, do sự thay đổi của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong và ngoài nước, pháp luật về bảo vệ BMNN đã bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định, ảnh hưởng không nhỏ đến công tác bảo vệ BMNN, là một nguyên nhân dẫn đến tình hình lộ, lọt, mất BMNN diễn biến phức tạp hiện nay. Điều đó đã đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN, đây cũng là yêu cầu tất yếu của quá
  4. 2 trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và là một nội dung quan trọng của hoàn thiện pháp luật về ANQG. Với các lý do trên, cùng với việc chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống ở cấp độ luận án về vấn đề này nên nghiên cứu sinh đã chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành “Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật”. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Mục đích nghiên cứu luận án: làm rõ cơ sở lý luận của hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam; đánh giá đúng thực trạng pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay; trên cơ sở đó đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay. Để đạt được mục đích trên, luận án định ra và giải quyết các nhiệm vụ: Làm rõ khái niệm pháp luật về bảo vệ BMNN, đặc điểm, nội dung điều chỉnh và vai trò của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam; phân tích các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ BMNN và các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN. Ở mức độ nhất định, luận án nghiên cứu pháp luật về bảo vệ BMNN ở một số nước trên thế giới và rút ra những giá trị có thể tham khảo cho Việt Nam. Nghiên cứu tổng quan về quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam từ 1945 đến nay; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bảo vệ BMNN Việt Nam hiện nay để chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó. Đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay. Phạm vi nghiên cứu của luận án: - Phạm vi về nội dung: Luận án nghiên cứu cơ sở lý luận của hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN; quá trình phát triển và thực trạng của
  5. 3 pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay; quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay. - Phạm vi về không gian và thời gian: Luận án nghiên cứu pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam từ năm 1945 nhưng tập trung vào giai đoạn hiện nay (từ năm 2000 đến nay) và có sự tham chiếu kinh nghiệm của nước ngoài. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về bảo vệ ANQG, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, pháp chế XHCN và xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp hệ thống, nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, trao đổi, chuyên gia và phương pháp thống kê, so sánh để nghiên cứu, luận giải các khái niệm, phạm trù có tính chất lý luận của hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN; làm rõ quá trình phát triển và thực trạng pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay; xác định rõ quan điểm và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay. 5. Những điểm mới của luận án Luận án đã xây dựng khái niệm pháp luật về bảo vệ BMNN, làm rõ đặc điểm, nội dung điều chỉnh và vai trò của pháp luật về bảo vệ BMNN; làm rõ các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ BMNN, các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay. Luận án đã rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay qua việc nghiên cứu pháp luật về bảo vệ BMNN ở một số nước trên thế giới. Làm rõ quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay; phân tích, đánh giá thực trạng của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay, khẳng định những kết quả đạt được,
  6. 4 đồng thời chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập ấy. Từ đó, luận án đề xuất 5 quan điểm và 3 nhóm giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án - Về lý luận: Luận án góp phần làm phong phú thêm lý luận về hoàn thiện pháp luật nói chung và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN nói riêng. - Về thực tiễn: Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN. Kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các công trình của tác giả liên quan đến luận án đã công bố và phụ lục, luận án bao gồm 4 chương, 9 tiết. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về công tác bảo vệ bí mật nhà nước liên quan đến luận án ưới góc độ pháp luật, các công trình nghiên cứu về công tác bảo vệ BMNN liên quan đến luận án đã đề cập đến một số vấn đề của pháp luật về bảo vệ BMNN như: các quy định làm cơ sở pháp lý cho công tác bảo vệ BMNN; mối quan hệ giữa bảo vệ BMNN với thực hiện quyền tự do dân chủ của công dân; vấn đề giải mật BMNN để đảm bảo quyền tiếp cận thông tin; đề xuất xây dựng ự án Luật Bảo vệ BMNN và sửa đổi các văn bản hướng dẫn thi hành.
  7. 5 1.1.2. Các công trình nghiên cứu pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước Các công trình nghiên cứu pháp luật về bảo vệ BMNN được công bố đã đề cập đến nhiều vấn đề của pháp luật về bảo vệ BMNN như: khái niệm, đặc điểm của pháp luật về bảo vệ BMNN; hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay; một số hạn chế, bất cập của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay; nhu cầu, quan điểm và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay... 1.2. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 1.2.1. Đánh giá kết quả các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án Đến nay đã có các công trình nghiên cứu đề cập đến khái niệm BMNN và bảo vệ BMNN, nhưng chủ yếu dưới góc độ công tác bảo vệ BMNN của lực lượng Công an. Ở các mức độ và khía cạnh khác nhau, các công trình nghiên cứu được công bố đã đề cập đến khái niệm và đặc điểm của pháp luật về bảo vệ BMNN. Tuy nhiên, các công trình đó chủ yếu đề cập một cách gián tiếp về khái niệm và đặc điểm của pháp luật về bảo vệ BMNN. Các công trình nghiên cứu liên quan đến hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN đã đề cập một cách khái quát lịch sử và sự phát triển của pháp luật về bảo vệ BMNN. Tuy nhiên, các công trình đó chưa phân chia thành các giai đoạn phát triển và gắn với yêu cầu bảo vệ BMNN trong từng giai đoạn của cách mạng Việt Nam. Mặt khác, các công trình nghiên cứu đó mới đề cập đến thực trạng pháp luật về bảo vệ BMNN dưới dạng liệt kê các VBQPPL về bảo vệ BMNN; chưa đánh giá toàn diện thực trạng của pháp luật về bảo vệ BMNN, chưa chỉ ra kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế bất cập đó của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay. Các công trình nghiên cứu liên quan đến hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN bước đầu đã chỉ ra mục tiêu, quan điểm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN, nhưng chưa có sự thống nhất trong việc xác định mục tiêu, quan
  8. 6 điểm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN. Với các mức độ khác nhau, các công trình nghiên cứu liên quan đến hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN đã đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN. 1.2.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, giả thuyết và câu hỏi nghiên cứu 1.2.2.1. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu - Về mặt lý luận, các vấn đề cần phải giải quyết là: xây dựng khái niệm pháp luật về bảo vệ BMNN, phân tích đặc điểm, nội dung điều chỉnh và vai trò của pháp luật về bảo vệ BMNN; làm rõ hệ thống các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam; phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay; rút ra những giá trị tham khảo trong quá trình hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay qua việc nghiên cứu pháp luật về bảo vệ BMNN ở một số nước trên thế giới. - Về mặt thực tiễn, các vấn đề cần phải giải quyết là: làm rõ quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay; phân tích, đánh giá thực trạng của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay, làm rõ những kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó; xác định các quan điểm và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay. 1.2.2.2. Giả thuyết và câu hỏi nghiên cứu đề tài luận án Với kết quả tổng quan tình hình nghiên cứu và căn cứ vào các lý thuyết có liên quan đến chủ đề nghiên cứu, luận án đặt ra giả thuyết nghiên cứu. Từ đó, luận án đứng trước một số câu hỏi nghiên cứu quan trọng cần phải trả lời: - Pháp luật về bảo vệ BMNN là gì? - Pháp luật về bảo vệ BMNN có đặc điểm, vai trò như thế nào? - Nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN ra sao? - Việc đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ BMNN dựa vào những tiêu chí nào? - Quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay như thế nào?
  9. 7 - Những kết quả đạt được; những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó của pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay là gì? - Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở nước ta hiện nay cần xuất phát từ những quan điểm mang tính chất định hướng nào? - Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay là gì? Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC 2.1.1. Khái niệm bí mật nhà nước và bảo vệ bí mật nhà nước 2.1.1.1. Khái niệm bí mật nhà nước Hiện nay, BMNN được hiểu là những tin về vụ, việc, tài liệu, vật, địa điểm, thời gian, lời nói có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ, các lĩnh vực khác mà Nhà nước không công bố hoặc chưa công bố và nếu bị tiết lộ thì gây nguy hại cho Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. 2.1.1.2. Khái niệm bảo vệ bí mật nhà nước Bảo vệ BMNN là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm BMNN. Nội dung bảo vệ BMNN gồm có: tham mưu cho Đảng, Nhà nước tổ chức triển khai công tác bảo vệ BMNN; thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN; xây dựng, triển khai các phương án, kế hoạch, áp dụng các biện pháp bảo vệ BMNN, khu vực, địa điểm cấm, nơi diễn ra các hoạt động có nội dung thuộc phạm vi BMNN; phòng, chống lộ, mất BMNN và hoạt động của các thế lực thù địch, các đối tượng phạm tội hoạt động thu thập BMNN; điều tra, xử lý các vụ lộ, mất BMNN, đối tượng có hành vi thu thập, chiếm đoạt, tiết lộ, tiêu huỷ trái phép BMNN.
  10. 8 2.1.2. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước 2.1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước Pháp luật về bảo vệ BMNN là tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm BMNN, được thể hiện trong các VBQPPL do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục nhất định. 2.1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước Ngoài các đặc trưng của pháp luật nói chung, pháp luật về bảo vệ BMNN có những đặc điểm riêng như: - Pháp luật về bảo vệ BMNN được hình thành từ rất sớm. - Pháp luật về bảo vệ BMNN luôn phải đáp ứng đồng thời các yêu cầu của quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN và công nhận, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. - Pháp luật về bảo vệ BMNN gồm các QPPL thể hiện trong nhiều VBQPPL với các cấp độ hiệu lực pháp lý khác nhau. - Nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN là những quan hệ xã hội có tầm quan trọng đặc biệt, thuộc nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. 2.1.3. Nội dung điều chỉnh và vai trò của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước 2.1.3.1. Nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước Pháp luật về bảo vệ BMNN là tổng thể các QPPL có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất, điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội, gồm: - Nhóm QPPL quy định chung về bảo vệ BMNN. - Nhóm QPPL quy định quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN. - Nhóm QPPL quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công dân trong bảo vệ BMNN. - Nhóm QPPL quy định khen thưởng và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN. 2.1.3.2. Vai trò của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước Ngoài vai trò của pháp luật nói chung, pháp luật về bảo vệ BMNN còn thể hiện vai trò riêng của mình như:
  11. 9 - Pháp luật về bảo vệ BMNN góp phần thể chế hóa chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. - Pháp luật về bảo vệ BMNN góp phần bảo vệ nhóm quan hệ xã hội có tầm quan trọng đặc biệt liên quan đến sự an nguy của chế độ XHCN và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. - Pháp luật về bảo vệ BMNN tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo vệ BMNN, góp phần xây dựng, củng cố lực lượng chuyên trách bảo vệ BMNN. 2.2. TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HOÀN THIỆN VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 2.2.1. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam Một là, tính toàn diện của pháp luật về bảo vệ BMNN. Hai là, tính đồng bộ, thống nhất của pháp luật về bảo vệ BMNN. Ba là, tính phù hợp của pháp luật về bảo vệ BMNN. Bốn là, tính minh bạch và khả thi của pháp luật về bảo vệ BMNN. Năm là, hình thức văn bản pháp luật về bảo vệ BMNN. Sáu là, kỹ thuật lập pháp của pháp luật về bảo vệ BMNN. 2.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam 2.2.2.1. Quan điểm của Đảng về bảo vệ bí mật nhà nước Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN chịu sự tác động trực tiếp từ yếu tố quan điểm của Đảng về bảo vệ BMNN 2.2.2.2. Những vấn đề về pháp lý Những vấn đề về pháp lý ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở nước ta hiện nay có thể kể đến là: trình độ, năng lực xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật; ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý; yêu cầu của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung. 2.2.2.3. Tình hình thế giới và khu vực liên quan đến an ninh quốc gia Tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, gây mất ổn định, bất trắc, khó lường nhưng hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Các
  12. 10 mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống tiếp tục gia tăng trong đó hoạt động khủng bố và vấn đề an ninh mạng đang đặt ra nhiều thách thức lớn đối với ANQG của nhiều nước và Việt Nam. Khu vực châu Á - Thái Bình ương trở thành khu vực địa chiến lược quan trọng của thế giới và tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất ổn định, đặc biệt là tranh chấp chủ quyền trên biển, sự trỗi dậy của Trung Quốc và quan hệ Mỹ - Trung Quốc. ASEAN trở thành một cộng đồng phát triển năng động, là nhân tố quan trọng đối với hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển ở khu vực, tiếp tục là nơi diễn ra tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn. Tranh chấp chủ quyền biển Đông giữa một số nước ASEAN với Trung Quốc tiếp tục căng thẳng, quyết liệt, không loại trừ xảy ra va chạm trên biển. Việt Nam đang trở thành nhân tố quan trọng góp phần tích cực đối với hòa bình, ổn định khu vực và luôn được các nước lớn tính toán trong chiến lược của mình. 2.2.2.4. Tình hình kinh tế, xã hội và đối ngoại của đất nước Về kinh tế, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn. Cùng với các luật khác trong hệ thống pháp luật nước ta, pháp luật về bảo vệ BMNN cũng đang dần được hoàn thiện để bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường ở nước ta phát triển đúng hướng. Tuy vậy, nhiều QPPL về bảo vệ BMNN vẫn là “sản phẩm” của thời kỳ đầu của quá trình đổi mới, do vậy, nó chưa phản ánh được một cách đầy đủ, toàn diện các quy luật của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Về mặt xã hội, tư tưởng dân chủ, nhân quyền, tư tưởng nhà nước pháp quyền XHCN mà cốt lõi là đề cao quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ngày càng được phổ biến rộng rãi và được nhận thức rõ ràng hơn. Việc thực hiện các quyền con người, quyền công dân liên quan nhiều đến việc bảo vệ BMNN, thậm chí có khi xảy ra sự xung đột. Mặt khác, trên thực tế còn xảy ra tình trạng lạm dụng bảo vệ BMNN để từ chối tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện quyền con người, quyền công dân. Về đối ngoại, nước ta đang hội nhập sâu, rộng vào đời sống quốc tế. Bên cạnh những cơ hội và thuận lợi trong quá trình phát triển mà hội nhập
  13. 11 quốc tế mang lại, nước ta cũng phải đối mặt với không ít thách thức, khó khăn, trong đó có những vấn đề liên quan trực tiếp đến bảo vệ BMNN. 2.3. PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM 2.3.1. Pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở một số nước trên thế giới Nghiên cứu pháp luật về bảo vệ BMNN ở một số nước trên thế giới, ta thấy có một số nội dung sau: Một là, về hình thức: Ở nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước thuộc hệ thống pháp luật XHCN và châu Âu lục địa, pháp luật về bảo vệ BMNN là một hệ thống các VBQPPL có chứa các quy phạm quy định về bảo vệ BMNN, trong đó đa số các nước đã ban hành một đạo luật riêng quy định về bảo vệ BMNN. Hai là, về nội dung: Nghiên cứu pháp luật về bảo vệ BMNN ở một số nước trên thế giới cho thấy một số vấn đề quan trọng nổi lên sau: Về khái niệm BMNN: Ở mỗi nước khác nhau, quy định về khái niệm BMNN cũng khác nhau. Tuy nhiên, đa số các nước đều coi BMNN là những thông tin, tài liệu của nhà nước, chính phủ trên các lĩnh vực an ninh, quốc phòng, ngoại giao, kinh tế, tố tụng hình sự… (gọi chung là các lĩnh vực công) mà có ảnh hưởng quan trọng đến ANQG và lợi ích dân tộc hoặc an toàn của công dân (chẳng hạn Nhật Bản). Về phạm vi BMNN: Các nước với các tên gọi khác nhau nhưng đều phân thành các cấp độ bí mật đối với BMNN. Đa số các nước đều phân thành ba loại, gồm: Mật, Tối mật, Tuyệt mật. Việc phân loại độ mật BMNN căn cứ vào nội dung, tầm quan trọng và lợi ích quốc gia mà thông tin, tài liệu đó chứa đựng. Về chủ thể thực hiện việc phân loại BMNN: Các nước giao cho các cơ quan nhà nước có liên quan ở cả cấp độ quốc gia, khu vực và trong phạm vi cơ quan nhà nước đó. Về trách nhiệm bảo vệ BMNN: Đa số các nước quy định trách nhiệm bảo vệ BMNN thuộc các cơ quan của nhà nước; riêng Trung Quốc quy định: BMNN phải được bảo vệ bởi pháp luật, tất cả các cơ quan nhà nước,
  14. 12 lực lượng vũ trang, các đảng chính trị, tổ chức xã hội, doanh nghiệp, các tổ chức và công dân có nghĩa vụ bảo vệ BMNN. Về giải mật BMNN: Các nước khác nhau, quy định về vấn đề này cũng khác nhau nhưng nhiều nước áp dụng cơ chế tự động giải mật. 2.3.2. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước Trong lộ trình hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN, Việt Nam có thể tham khảo một số kinh nghiệm sau đây: Một là, xây dựng một đạo luật riêng quy định về bảo vệ BMNN. Đa số các nước đều đã có một đạo luật riêng quy định về bảo vệ BMNN. Hai là, quy định rõ ràng, chính xác khái niệm BMNN và phạm vi BMNN. Khái niệm BMNN cần đi vào bản chất và chỉ ra những đặc trưng của BMNN để làm cơ sở cho việc xác định cái gì là BMNN. Đồng thời pháp luật về bảo vệ BMNN cần quy định rõ phạm vi BMNN gồm các nội dung cơ bản như: quy định về độ mật; chủ thể có thẩm quyền phân loại BMNN và trình tự, thủ tục để phân loại BMNN. Ba là, hoàn thiện quy định về trách nhiệm bảo vệ BMNN. Đa số các nước quy định trách nhiệm bảo vệ BMNN thuộc về các cơ quan nhà nước và phân rõ trách nhiệm của cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp; trách nhiệm của các cơ quan trung ương và của các cơ quan địa phương. Trung Quốc là nước XHCN có quy định trách nhiệm bảo vệ BMNN thuộc về cả hệ thống chính trị, các tổ chức kinh tế và cả công dân. Bốn là, hoàn thiện quy định về giải mật BMNN. Pháp luật các nước quy định về cách thức, cơ chế giải mật thông tin là khác nhau, trong đó nhiều nước quy định cơ chế tự động giải mật. Chương 3 QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
  15. 13 3.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950 Nước ta mới giành được chính quyền, chấm dứt thời kỳ thực dân, phong kiến, đất nước còn muôn vàn khó khăn nhưng đã phải bước vào thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong giai đoạn này, chưa có VBQPPL trực tiếp quy định về bảo vệ BMNN, các QPPL quy định về bảo vệ BMNN chủ yếu nằm trong các VBQPPL quy định về bảo vệ ANQG. 3.1.2. Gai đoạn từ năm 1950 đến năm 1991 Nhân dân ta tiến hành công cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất đất nước và cả nước tiến lên CNXH. Để thực hiện nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn này, Nhà nước ta đã ban hành nhiều VBQPPL về bảo vệ ANQG, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Đặc biệt, Nhà nước đã ban hành những VBQPPL trực tiếp quy định về việc bảo vệ BMNN, BMQG, đó là Sắc lệnh số 154/SL; Sắc lệnh số 69/SL và các văn bản hướng dẫn thi hành. 3.1.3. Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2000 Đã có rất nhiều VBQPPL về bảo vệ BMNN được ban hành, đặc biệt là Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991 và các văn bản hướng dẫn thi hành có ý nghĩa, vai trò quan trọng đáp ứng yêu cầu bảo vệ bảo vệ ANQG nói chung và bảo vệ BMNN nói riêng trong thời kỳ đổi mới đất nước. 3.1.4. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay Pháp luật về bảo vệ BMNN có bước phát triển quan trọng, một mặt Nhà nước ta tiếp tục ban hành Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 để thay thế Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành. Mặt khác, Nhà nước ta đã ban hành nhiều VBQPPL khác có chứa QPPL về bảo vệ BMNN, từ Hiến pháp, đến các bộ luật, luật, văn bản dưới luật, cùng với các điều ước quốc tế song phương và đa phương liên quan đến bảo vệ BMNN. Hệ thống QPPL về bảo vệ BMNN trong giai đoạn này bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu bảo vệ BMNN trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân.
  16. 14 3.2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.2.1. Kết quả đạt được và những hạn chế, bất cập về nội dung điều chỉnh của pháp về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay 3.2.1.1. Kết quả đạt được về nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay Một là, nhóm QPPL quy định chung về bảo vệ BMNN. Pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay có một hệ thống các QPPL quy định chung về bảo vệ BMNN, bao gồm: quy định chung về BMNN; quy định về các hành vi bị nghiêm cấm; về phạm vi BMNN và về biện pháp bảo vệ BMNN. Hai là, nhóm QPPL quy định quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN, bao gồm: quy định về chủ thể quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN, với trách nhiệm của từng chủ thể và quy định về nội dung quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN. Ba là, nhóm QPPL quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công dân trong bảo vệ BMNN, bao gồm: quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công dân nói chung; quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công dân trong các hoạt động cụ thể; quy định về trách nhiệm thực hiện công tác bảo vệ BMNN của Bộ Công an với tư cách là cơ quan được giao thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN. Bốn là, nhóm QPPL quy định khen thưởng và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN: Về khen thưởng, pháp luật về bảo vệ BMNN quy định: Cơ quan, tổ chức, công dân có thành tích bảo vệ BMNN thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật và quy định cụ thể thành tích bảo vệ BMNN là như thế nào bằng việc quy định cụ thể các trường hợp (hành vi) được khen thưởng trong bảo vệ BMNN. Về xử lý vi phạm, pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay đã quy định khá cụ thể, đầy đủ về các hành vi xâm phạm BMNN bị coi là tội phạm, bị truy cứu truy cứu trách nhiệm hình sự và cả những vi phạm pháp luật về bảo vệ
  17. 15 BMNN bị xử lý hành chính, đồng thời quy định rõ cả các hình thức xử lý đối với các vi phạm đó. 3.2.1.2. Những hạn chế, bất cập về nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay Một là, nhiều vấn đề liên quan đến bảo vệ BMNN chưa được điều chỉnh bằng pháp luật, chưa có QPPL quy định, chưa đảm được tính toàn diện của pháp luật về bảo vệ BMNN. Hai là, một số nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN còn bất cập, chưa đầy đủ, cụ thể, chưa đảm bảo được tính phù hợp, minh bạch và khả thi của pháp luật về bảo vệ BMNN, như: về khái niệm BMNN; về trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, công dân tham gia bảo vệ BMNN; về bảo vệ BMNN và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân. Ngoài các nội dung trên, còn nhiều nội dung về bảo vệ BMNN cũng chưa được quy định đầy đủ, cụ thể. Ba là, một số nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN không đồng bộ, thống nhất, như: Sự không thống nhất trong nội dung điều chỉnh của BLHS với nội dung điều chỉnh của Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000; sự không thống nhất trong nội dung điều chỉnh của các VBQPPL trực tiếp quy định về bảo vệ BMNN; sự không thống nhất trong nội dung điều chỉnh về phạm vi độ mật. 3.2.2. Kết quả đạt được và những hạn chế, bất cập về hình thức của pháp về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay 3.2.2.1. Kết quả đạt được về hình thức của pháp về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay Cho đến nay, pháp luật về bảo vệ BMNN đã có một hệ thống VBQPPL về bảo vệ BMNN thuộc nhiều ngành luật khác nhau với các độ hiệu lực pháp lý khác nhau, từ Hiến pháp đến các luật và VBQPPL dưới luật. Cùng với các VBQPPL về bảo vệ BMNN ở trong nước, hiện nay Việt Nam đã ký kết, gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương, trong đó có chứa các QPPL về bảo vệ BMNN.
  18. 16 3.2.2.2. Hạn chế, bất cập về hình thức của pháp về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay Một là, hệ thống VBQPPL về bảo vệ BMNN ít được hệ thống hoá. Hai là, ở nước ta vẫn chưa có Luật Bảo vệ BMNN, VBQPPL có hiệu lực pháp lý cao nhất mang tính chất chuyên ngành, trực tiếp quy định về bảo vệ BMNN hiện nay là Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000. Ba là, các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia về bảo vệ BMNN rất ít và mới chỉ tập trung vào một số nước mà Việt Nam có quan hệ truyền thống trước đây. Bốn là, kỹ thuật lập pháp trong một số văn bản về bảo vệ BMNN còn hạn chế. Có thể thấy những hạn chế về kỹ thuật lập pháp trong quy định của Bộ luật hình sự (BLHS) về các tội xâm phạm BMNN, thể hiện trong Điều 337, 338 BLHS năm 2015. Năm là, các danh mục BMNN chưa được ban hành kịp thời, đầy đủ. áu là, một số QPPL về bảo vệ BMNN được ban hành đã lâu nhưng chưa thực sự đi vào cuộc sống, còn thiếu các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như cơ chế để thực hiện. 3.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước 3.2.3.1. Nguyên nhân khách quan - Những thay đổi to lớn trong đời sống xã hội của đất nước thời gian qua. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước tạo ra những thay đổi to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong khi đó pháp luật về bảo vệ BMNN có trên tất cả các lĩnh vực đó, là một bộ phận thuộc thượng tầng kiến trúc nên mặc dù đã được quan tâm sửa đổi, bổ sung nhưng còn nhiều nội dung chưa theo kịp những thay đổi nhanh chóng của cuộc sống. - Sự gia tăng các VBQPPL về bảo vệ BMNN thuộc các ngành, lĩnh vực khác nhau, do nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành và trong một thời gian dài.
  19. 17 3.2.3.2. Nguyên nhân chủ quan - Trong một thời gian dài Nhà nước ta chưa có chương trình xây dựng pháp luật toàn diện, tổng thể, có tầm nhìn chiến lược trong đó có pháp luật về bảo vệ BMNN. - Tư duy pháp lý về bảo vệ BMNN có những khía cạnh không theo kịp sự thay đổi nhanh chóng và mạnh mẽ của đời sống. - Thiếu các công trình nghiên cứu cơ bản, cung cấp luận chứng khoa học cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN. - Việc bồi dưỡng kiến thức về bảo vệ BMNN, tổ chức, sắp xếp đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác xây dựng và áp dụng pháp luật ở các bộ, ngành chưa tương xứng với yêu cầu bảo vệ BMNN trong tình hình mới. Chương 4 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 4.1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 4.1.1. Thể chế hóa quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về bảo vệ an ninh quốc gia Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN phải quán triệt quan điểm chỉ đạo là thể chế hóa quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ ANQG, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. 4.1.2. Bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN phải bảo đảm tạo ra hệ thống QPPL về bảo vệ BMNN đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch. Hệ thống QPPL về bảo vệ BMNN phải bảo đảm phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp
  20. 18 luật; bảo đảm tính cụ thể, rõ ràng, minh bạch, khả thi, hiệu quả của pháp luật về bảo vệ BMNN. 4.1.3. Tạo khuôn khổ pháp lý đầy đủ, vững chắc cho công tác bảo vệ bí mật nhà nước trong tình hình mới Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN để tạo khuôn khổ pháp lý đầy đủ, vững chắc cho công tác bảo vệ BMNN đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước, đồng thời đảm bảo tốt các quyền tự do, dân chủ của công dân; phòng ngừa các hành vi lộ, lọt, mất BMNN và hoạt động thu thập BMNN của các đối tượng; nghiêm cấm các hành vi lợi dụng bảo vệ BMNN để che giấu hành vi vi phạm pháp luật. 4.1.4. Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước vừa mang tính thường xuyên, lâu dài, vừa mang tính cấp bách nhưng phải được tiến hành thận trọng Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN là việc làm thường xuyên, lâu dài và và mang tính cấp bách, là yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; phải đặt trong chiến lược tổng thể xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Mặt khác, pháp luật về bảo vệ BMNN điều chỉnh các quan hệ xã hội có tính chất quan trọng, nhạy cảm, liên quan đến vấn đề chính trị nội bộ, liên quan đến sự ổn định, phát triển của chế độ, nhà nước và xã hội nên việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN phải được tiến hành kịp thời nhưng thận trọng, đảm bảo vững chắc ANQG, không để tạo ra sơ hở, tạo cớ để các thế lực thù địch lợi dụng xâm phạm ANQG. 4.1.5. Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước phải đảm bảo tính kế thừa, tiếp thu kinh nghiệm lập pháp của nước ngoài Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN phải được tiến hành trên cơ sở tổng kết đầy đủ, toàn diện thực tiễn công tác bảo vệ BMNN ở nước ta trong những năm qua, khắc phục những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn, kế thừa những quy định còn phù hợp; cần tập trung nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp, tham khảo kinh nghiệm lập pháp về bảo vệ BMNN
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2