Tóm tắt luận án Tiến sĩ Luật học: Quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành
lượt xem 4
download
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành phù hợp khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh và phương pháp xã hội học.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt luận án Tiến sĩ Luật học: Quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI PHẠM HÙNG CƯỜNG QUYỀN NHÂN THÂN CỦA NHÓM NGƯỜI DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRONG XÃ HỘI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Mã số: 9.38.01.03 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020
- Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Luật Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Lê Đình Nghị 2. PGS.TS. Hà Thị Mai Hiên Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Trường, họp tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Vào hồi ......... giờ........, ngày......... tháng 3 năm 2020. Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia và Thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội
- MỞ ĐẦU Trong những năm qua, Việt Nam đã có những chính sách cụ thể trong việc ban hành ra các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể để hiện thực hóa các biện pháp hỗ trợ quyền con người nói chung và quyền của nhóm dễ bị tổn thương nói riêng. Bên cạnh đó, các tổ chức nhân dân, phi chính phủ của Việt Nam và quốc tế cũng đã có rất nhiều chương trình, dự án hỗ trợ nhóm người yếu thế như hỗ trợ vốn, đào tạo dạy nghề, tạo công ăn việc làm, tiếp cận các dịch vụ công… Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó một phần do các quy định pháp lý có những điểm chưa triệt để và rõ ràng. Cùng với đó là những hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận cán bộ cơ sở, nguồn lực Nhà nước có hạn… dẫn đến nhận thức và việc tiếp cận các biện pháp của Nhà nước cũng như của các tổ chức nhân dân và phi chính phủ khác đối với nhóm người dễ bị tổn thương còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, việc bảo vệ quyền nhân thân của những người thuộc nhóm dễ bị tổn thương hiện tại vẫn chỉ được đề cập trong những đạo luật chung như Bộ luật Dân sự và một số luật chuyên ngành mà chưa thực sự được định hướng pháp điển hoá đúng với tính chất của nó. Chính vì vậy, luận án tập trung nghiên cứu vấn đề: “Quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành” nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong thời gian tới. Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu và làm rõ cơ sở lý luận về quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn 1
- thương cũng như các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này, đồng thời có sự nghiên cứu, so sánh với pháp luật của một số nước trên thế giới, từ đó chỉ ra những ưu nhược điểm của pháp luật về quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương tại Việt Nam hiện nay. Luận án cũng đi vào nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trên thực tế để làm nổi bật thực trạng quy định pháp luật về vấn đề này, qua đó đưa ra những ý kiến đánh giá và những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật trong thời gian tới. Mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực trạng quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền nhân thân của nhóm ngươi dễ bị tổn thương trong xã hội hiện nay. Trên cơ sở đó, Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành phù hợp khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh và phương pháp xã hội học để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu. Những đóng góp mới của Luận án: Thứ nhất, nghiên cứu đặc điểm, bản chất và chỉ ra những nét tổng quát nhất về nhóm người dễ bị tổn thương, từ đó xây dựng được khái niệm phù hợp nhất về vấn đề này. Thứ hai, phân tích và xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền này trên thực tế 2
- Thứ ba, nghiên cứu và xác định cụ thể những quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương thể hiện tính bao quát của việc nghiên cứu của luận án. Thứ tư, nghiên cứu các quy định pháp luật về quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương nói riêng ở cả trong và ngoài nước góp phần xây dựng một bức tranh toàn diện các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật. Thứ năm, nghiên cứu quy định pháp luật của một số quốc gia theo hướng so sánh sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam Thứ sáu, những đánh giá của luận án sẽ giúp các nhà lập pháp và các nhà nghiên cứu thấy rõ những lỗ hổng trong quy định pháp luật về vấn đề này. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận án bao gồm 4 chương: Chương 1: Lý luận chung về quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội. Chương 2: Quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành về quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội. Chương 3: Thực tiễn vận dụng và bảo vệ quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội. Chương 4: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội. 3
- Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN NHÂN THÂN CỦA NHÓM NGƯỜI DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRONG XÃ HỘI 1.1. Khái quát chung về nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội “Nhóm người dễ bị tổn thương là những con người yếu thế, có nguy cơ bị xâm phạm và/hoặc dễ bị bỏ quên các quyền về con người; và họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác trong xã hội” Từ phân tích định nghĩa về nhóm người dễ bị tổn thương nêu trên có thể đưa ra các đặc điểm của nhóm như sau: - Có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn - Do thể chất chưa phát triển hoặc do giới tính tự nhiên - Có nguy cơ cao bị bỏ quên hay bị coi thường, bị vi phạm các quyền con người, cần được bảo vệ đặc biệt so với nhóm cộng đồng khác 1.1.2. Phân loại nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội 1.1.2.1. Phụ nữ Phụ nữ là nhóm đông nhất trong các nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội (do hơn một nửa nhân loại là phụ nữ) nên vấn đề của phụ nữ thu hút sự quan tâm rất lớn của cộng đồng quốc tế. 1.1.2.2. Trẻ em Trẻ em được coi là một trong nhóm xã hội dễ bị tổn thương nhất, 4
- được nhà nước, xã hội quan tâm bảo vệ. Trẻ em là những con người nhưng là một nhóm xã hội dễ bị tổn thương, có những nhu cầu đặc biệt, và có quyền được hưởng sự chăm sóc, bảo vệ một cách đặc biệt 1.1.2.3. Người sống chung với HIV/AIDS Hiện nay, nhận thức của nhân loại về cơ chế lây nhiễm HIV đã được nâng cao. Bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người của những người sống chung với HIV/AIDS là một yếu tố cấu thành trong việc phòng chống sự lây truyền của HIV/AIDS. 1.1.2.4. Người khuyết tật Người khuyết tật được coi là một trong những nhóm thiểu số lớn nhất thế giới và cũng là một trong những nhóm dễ bị tổn thương nhất, vì tình trạng khuyết tật khiến họ phải chịu những thiệt thòi ở mọi mặt của đời sống xã hội. 1.1.2.5. Người lao động di trú Những người lao động di trú được xem là có giấy tờ hợp pháp khi họ được phép vào, ở lại và tham gia làm một công việc được trả lương tại quốc gia, nơi có việc làm theo pháp luật quốc gia đó và theo những hiệp định quốc tế mà quốc gia đó là thành viên. Những người lao động di trú được xem là không có giấy tờ hợp pháp khi họ không đáp ứng được các điều kiện đã nêu. 1.1.2.6. Người thiểu số “Người thiểu số, là người vì đặc điểm thể chất hoặc văn hóa của họ, bị tách ra khỏi những người khác trong xã hội nơi họ sống vì sự đối xử khác biệt và bất bình đẳng, và do đó họ coi mình là đối tượng của tập thể phân biệt đối xử ". Có thể nhận thấy rằng, định nghĩa nà 5
- bao gồm cả tiêu chí khách quan và chủ quan: tư cách thành viên của một nhóm thiểu số được xã hội quy định một cách khách quan, dựa trên các đặc điểm thể chất hoặc hành vi của một cá nhân; nó cũng được các thành viên của nó áp dụng một cách chủ quan, những người có thể sử dụng trạng thái của họ làm cơ sở cho bản sắc nhóm hoặc sự đoàn kết. 1.2. Khái niệm quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội “Nếu hiểu theo nghĩa khách quan thì quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, trong đó quy định rõ các cá nhân bao gồm cả nhóm người dễ bị tổn thương có những quyền nhân thân nào chung gắn với bản thân họ như những công dân khác cũng như các quy phạm đặc thù gắn với tính chất đặc biệt của nhóm chủ thể này và đấy là cơ sở để cá nhân người dễ bị tổn thương thực hiện quyền của mình. Còn nếu hiểu theo nghĩa chủ quan thì quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương chính là quyền dân sự chủ quan gắn liền với mỗi cá nhân, mỗi người thuộc nhóm người dễ bị tổn thương do Nhà nước quy định cho mỗi cá nhân thuộc nhóm người dễ bị tổn thương và không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. 1.3. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ghi nhận và đảm bảo quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội 1.3.1. Cơ sở lý luận của việc ghi nhận và đảm bảo quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội 6
- Thứ nhất, về quyền của nhóm – những nhận thức cơ bản Mặc dù chủ thể chính của quyền con người nói chung là các cá nhân, nên khi nói đến quyền con người về cơ bản là nói đến các quyền cá nhân (individual rights). Thứ hai, tầm quan trọng của việc thừa nhận và bảo đảm các quyền của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội Ở mỗi quốc gia và khu vực, do những nguyên nhân xã hội, lịch sử…luôn tồn tại những nhóm người có trình độ phát triển, vị thế và năng lực khác nhau. Mặc dù vậy, tất cả đều là thành viên của cộng đồng nhân loại, đều bình đẳng về các quyền và tự do của con người, bao gồm quyền nhân thân của họ. 1.3.2. Cơ sở thực tiễn của việc ghi nhận và đảm bảo quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội Vấn đề bảo vệ quyền con người và quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương phải bắt đầu từ việc nhận thức cho đến hành động trên thực tế. Từ điểm đầu của nhận thức cho đến trở thành hiện thực thực thi trên thực tế có rất nhiều công đoạn khác nhau, từ nhận thức, quy định thành pháp luật đến thực thi, phán xử. 1.4. Sơ lược lịch sử phát triển của pháp luật dân sự Việt Nam về quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội 1.4.1. Tư tưởng và sự phát triển về quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương ở Việt Nam trước năm 1995 Trong thời kỳ phong kiến, từ thời đại nhà Lý, Trần có Đại Việt sử ký toàn thư (1042), hay Triều Trần nổi tiếng với Hội nghị Diên Hồng 7
- (1284) thể hiện tính nhân đạo rất cao. 1.4.2. Quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương ở Việt Nam theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 Chỉ tính từ năm 1986 đến năm 2005, Việt Nam đã ban hành trên 13.000 văn bản pháp luật các loại, trong đó có hơn 40 bộ luật và luật, trên 120 pháp lệnh, gần 850 văn bản của Chính phủ và trên 3.000 văn bản pháp quy của các Bộ, ngành 1.4.3. Quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương ở Việt Nam theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 BLDS năm 2005 thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực ngày 01/01/2006, có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. 1.4.4. Quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương ở Việt Nam theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 Qua 2 lần sửa đổi, chế định quyền nhân thân trong BLDS năm 2015 đã được hoàn thiện và có nhiều quy định cụ thể so với BLDS năm 2005 để giải quyết các vấn đề bất cập từ thực tiễn cũng như yêu cầu cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 về việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân về dân sự nói chung, quyền của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội nói riêng. 1.5. Pháp luật quốc tế về quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội 8
- 1.5.1. Quyền nhân thân của phụ nữ Công ước CEDAW là một trong 9 công ước quốc tế quan trọng nhất hiện nay về quyền con người của Liên hợp quốc. Tuy nhiên, CEDAW không xác lập các quyền con người mới cho phụ nữ, Công ước đề ra những các thức, biện pháp nhằm loại trừ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong việc hưởng thụ các quyền con người mà họ đã được thừa nhận trong những điều ước quốc tế trước đó 1.5.2. Quyền nhân thân của trẻ em CRC là điều ước quốc tế về quyền con người của Liên hợp quốc, đồng thời là văn kiện quốc tế cơ bản và toàn diện nhất về quyền trẻ em. CRC được xây dựng trên cơ sở của bốn nguyên tắc nền tảng 1.5.3. Quyền nhân thân của những người sống chung với HIV/AIDS Quyền nhân thân nói riêng, quyền con người nói chung của những người sống chung với HIV/AIDS chưa được quy định trong Điều ước quốc tế, mà chỉ được ghi nhận trong một số văn kiện tiêu biểu như: Tuyên bố về Những hành động then chốt để tiếp tục thực hiện Chương trình Hành động của Hội nghị quốc tế về Dân số và phát triển (1999);… 1.5.4. Quyền nhân thân của người khuyết tật Công ước quốc tế về quyền của những người khuyết tật (ICRPD) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào tháng 3 năm 2007. Đây là điều ước quốc tế đầu tiên về quyền con người của Liên hợp quốc trong thế kỷ XXI, đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đấu tranh cho quyền của những người khuyết tật trên thế giới 9
- 1.5.5. Quyền nhân thân của người lao động di trú Hiện nay, trên thế giới có hàng trăm văn kiện quốc tế được thông qua trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến quyền và bảo vệ quyền của người lao động di trú. Một số công ước có liên quan của ILO như: Công ước số 97 về di trú tìm việc làm (sửa đổi), 1949; Công ước số 143 về người lao động di trú (các điều khoản bổ sung), 1975; 1.5.6. Quyền nhân thân của người thiểu số Năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) đã được bổ sung thêm những điều khoản riêng về quyền của người thiểu số cũng như thông qua Tuyên bố về quyền của những người thuộc nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo hoặc ngôn ngữ năm 1992 – đây là những văn kiện mà hiện nay đang đóng vai trò nền tảng cho việc bảo vệ quyền của người thiểu số trên thế giới Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN NHÂN THÂN CỦA NHÓM NGƯỜI DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRONG XÃ HỘI 2.1. Khái quát chung về quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành Tuy nhiên tiếp cận dưới góc độ pháp lý thì mặc dù quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương là một bộ phận cấu thành của luật nhân quyền quốc tế, nhưng trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành, có thể xác định rằng quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương là quyền nhân thân của một bộ phận cá nhân có những yếu tố 10
- đặc biệt trong xã hội, được các quy pháp luật luật dân sự về quyền nhân thân điều chỉnh. 2.2. Nội dung của các quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành 2.2.1. Các quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội liên quan đến sự cá biệt hóa cá nhân Thứ nhất, quyền có họ, tên của nhóm người dễ bị tổn thương Quyền có họ, tên là quyền nhân thân quan trọng đối với mỗi cá nhân nói chung cũng như người thuộc nhóm dễ bị tổn thương, có từ thời điểm cá nhân được sinh ra Thứ hai, quyền thay đổi họ; quyền thay đổi tên của nhóm người dễ bị tổn thương Với việc ghi nhận quyền có họ, tên đối với nhóm người dễ bị tổn thương là cơ sở tiền đề cho việc bảo đảm quyền thay đổi họ, thay đổi tên của họ. Thứ ba, quyền xác định, xác định lại dân tộc của nhóm người dễ bị tổn thương Xác định dân tộc là việc xác định lần đầu tiên cho một cá nhân (áp dụng phổ biến với trẻ sơ sinh – thuộc nhóm dễ bị tổn thương khi làm thủ tục đăng ký khai sinh); còn xác định lại dân tộc là việc định dân tộc hoặc những cá nhân đã được thừa nhận một dân tộc trước đó, có nhiều ý nghĩa với nhóm người lao động di trú Thứ tư, quyền của nhóm người dễ bị tổn thương đối với hình ảnh Quyền của cá nhân đối với hình ảnh là quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, theo đó cá 11
- nhân được phép sử dụng hình ảnh và cho phép người khác sử dụng hình ảnh của mình Thứ năm, quyền xác định lại giới tính, chuyển đổi giới tính của nhóm người dễ bị tổn thương Nguyên tắc xác định lại giới tính là: Bảo đảm mỗi người khuyết tật được sống đúng với giới tính của mình, việc xác định lại giới tính phải được tiến hành trên nguyên tắc tự nguyện, khách quan, trung thực, khoa học và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc đã xác định lại giới tính, giữ bí mật về các thông tin liên quan đến người được xác định lại giới tính. Thứ sáu, quyền đối với quốc tịch của nhóm người dễ bị tổn thương Quốc tịch là yếu tố nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân, là yếu tố thể hiện sự liên kết của một cá nhân với quốc gia mà cá nhân mang quốc tịch, đối với nhóm người dễ bị tổn thương cũng như vậy 2.2.2. Các quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội liên quan đến giá trị của con người trong xã hội - Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 34 BLDS năm 2015) Nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội cần được bảo vệ danh dự, nhân phẩm và uy tín để có thể tiếp tục cống hiến, tham gia vào việc hoà nhập cộng đồng, đóng góp cho xã hội và trở thành người có ích. - Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình (Điều 38 BLDS năm 2015 Quyền được bảo vệ đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình là thực sự cần thiết bởi lẽ, những thông tin về đời sống riêng 12
- tư, những bí mật cá nhân, bí mật gia đình của người dễ bị tổn thương là những điều nhạy cảm, có thể là nguyên nhân dẫn đến tình trạng “dễ bị tổn thương” của họ trong cộng đồng. Quyền được tôn trọng, bảo vệ các bí mật đó là cần thiết và hợp lý. 2.2.3. Các quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội liên quan đến thân thể con người - Quyền sống, quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể (Điều 33) Tính mạng, sức khỏe, thân thể của cá nhân là những yếu tố quan trọng hàng đầu và vô giá đối với mỗi người. Do đó, quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể của các nhân là quyền nhân thân cơ bản được ưu tiên quan tâm và bảo vệ từ phía nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền. - Quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác (Điều 35) Xuất phát từ nhu cầu của cá nhân cũng như mục đích chia sẻ với cộng đồng, những người gặp khó khăn trong quá trình điều trị bệnh hoặc vì lý do y tế khác mà pháp luật ghi nhận quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác. Theo đó, cá nhân được quyền tự quyết đối với cơ thể mình và đối thi thể của họ sau khi chết. 2.2.4. Các quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình - Quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình (Điều 39 BLDS năm 2015) 13
- Bên cạnh quyền sống, được bảo đảm những giá trị tinh thần, sức khoẻ, thân thể của mình, nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội cũng có quyền được “mưu cầu hạnh phúc”, ở đó, trong quan hệ hôn nhân và gia đình, những quyền nhân thân của họ cũng cần được bảo đảm. 2.2.5. Các quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội liên quan đến hoạt động lao động, sáng tạo của cá nhân Lao động là hoạt động thiết yếu, là phương thức tồn tại của con người. Bởi vậy, quyền được lao động có bản chất là một quyền tự nhiên, nó gắn bó và quan hệ mật thiết với “quyền sống” của mỗi cá nhân. Đối với nhóm người dễ bị tổn thương như trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật, trong quá trình tham gia làm việc của các chủ thể này có các quy định pháp luật riêng để bảo vệ, hỗ trợ, khuyến khích họ tham gia làm việc. Chương 3 THỰC TIỄN VẬN DỤNG VÀ BẢO VỆ QUYỀN NHÂN THÂN CỦA NHÓM NGƯỜI DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRONG XÃ HỘI 3.1. Những mặt tích cực đã đạt được trong việc vận dụng và bảo vệ các quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội 3.1.1 Trong việc bảo vệ quyền nhân thân đối với trẻ em Cụ thể hơn, việc đảm bảo quyền nhân thân về sức khỏe, thân thể theo quy định tại điều 33 BLDS 2015 luôn được chú trọng, các chương trình khám chữa bệnh miễn phí, các biện pháp giảm tỷ lệ tử 14
- vong trẻ sơ sinh và suy dinh dưỡng đã được triển khai khá hiệu quả (khoảng 8,4 triệu trẻ, chiếm trên 90% trẻ em dưới 6 tuổi, được phát thẻ khám chữa bệnh miễn phí) 3.1.2 Trong việc bảo vệ quyền nhân thân đối với phụ nữ Cùng với đó, Việt Nam cũng đạt được những thành tựu đáng khích lệ về đảm bảo các quyền của phụ nữ. Tỷ lệ nữ là đại biểu Quốc hội đạt tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội Việt Nam hiện nay đã tăng lên mức 26,72%, cao hơn mức trung bình toàn cầu là 22,3%1, đứng thứ 4 ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. 83% nữ giới trong độ tuổi lao động có việc làm. 3.1.3 Trong việc bảo vệ quyền nhân thân đối với nhóm người dân tộc thiểu số Việt Nam đang triển khai hai chương trình mục tiêu quốc gia là Chương trình Hỗ trợ Đất Sản xuất, Đất ở, Nhà ở và Nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn (Chương trình 134) và Chương trình Phát triển Kinh tế-Xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135) 3.1.4 Trong việc bảo vệ quyền nhân thân đối với nhóm người khuyết tật Nhà nước Việt Nam luôn tạo mọi điều kiện để các quyền của người khuyết tật Việt Nam ngày càng được đáp ứng tốt hơn. Nhiều 1 Xem thêm tại: http://vneconomy.vn/ty-le-nu-dai-bieu-quoc-hoi-viet-nam-cao-hon- trung-binh-toan-cau-20180118111331779.htm 15
- người khuyết tật nặng, thương binh, bệnh binh, người bị di chứng chất độc da cam, trong đó có trẻ em, được Nhà nước trợ cấp và nuôi dưỡng. 3.1.5. Trong việc bảo vệ quyền nhân thân đối với nhóm người lao động di trú Theo thống kê đến tháng 8/2011, số người nước ngoài làm việc ở Việt Nam là hơn 74.000 người. Lao động nước ngoài đến Việt Nam làm việc có quốc tịch từ hơn 60 quốc gia, trong đó người Châu Á chiếm hơn 58% gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia…; khoảng 28,5% mang quốc tịch Châu Âu và còn lại là các nước khác. 3.1.6 Trong việc bảo vệ quyền nhân thân đối với nhóm người sống chung với HIV/AIDS Theo số liệu của Bộ Y tế, Việt Nam đã xét nghiệm HIV được cho tổng cộng hơn 760 000 phụ nữ mang thai, tăng từ 32% năm 2009 lên 36% năm 2010.. Số người được điều trị kháng vi-rút tính đến tháng 12 năm 2010, ở Việt Nam là 42.492. Việt Nam hiện đã cung cấp điều trị được cho khoảng 52% những người sống với HIV đủ điều kiện tham gia điều trị. Khi người sống với HIV có sức khỏe tốt hơn, họ có thể tự lo liệu tốt hơn về mặt tài chính2. 3.2. Những mặt hạn chế trong việc vận dụng và bảo vệ các quyền nhân thân của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội 3.2.1 Tình trạng trẻ em bị xâm hại tình dục, xâm phạm hình ảnh, quyền riêng tư, bí mật cá nhân và bị ngược đãi trở nên phổ biến và nghiêm trọng. 2 http://www.wpro.who.int/vietnam/mediacentre/releases/2011/20111201/vi/ 16
- Theo thống kê của Cục Cảnh sát hình sự, Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an, từ năm 2014 đến năm 2016, toàn quốc đã phát hiện 4.147 vụ xâm hại tình dục trẻ em, với 4.320 đối tượng gây án, xâm hại 4.140 em; Riêng 6 tháng đầu năm 2017 đã phát hiện 696 vụ xâm hại tình dục trẻ em, với 716 đối tượng gây án. 3.2.2 Tình trạng phụ nữ bị xâm phạm về sức khỏe, thân thể, bị bạo lực gia đình, phân biệt đối xử vẫn còn tồn tại và có thiên hướng phức tạp hơn. Trong tổng số 157.859 vụ BLGĐ được phát hiện (từ năm 2011- 2015) cho thấy: Nạn nhân là phụ nữ (từ 16- 59 tuổi) chiếm tới 117.206 trường hợp (74,24%); 17.586 trường hợp là trẻ em (11,14%); 14.017 trường hợp là người cao tuổi (8,91%). Thống kê cũng cho thấy, có khoảng 58% phụ nữ đã kết hôn cho biết rằng cuộc đời họ đã từng phải trải qua ít nhất 1 trong 3 loại bạo lực gồm thể xác, tình dục và tinh thần. 3.2.3 Việc tiếp cận một số quyền nhân thân cơ bản của nhóm người thiểu số còn gặp nhiều khó khăn Đến 2012, tỷ lệ biết chữ trong độ tuổi từ 10 tuổi trở lên trong đồng bào dân tộc thiểu số là 83,8% - một con số rất đáng kể so với thời kỳ trước năm 1975. Một số dân tộc chỉ có tỷ lệ không biết đọc biết viết thấp như Tày: 5,1%, Mường: 5,5%. Tỷ lệ hoàn thành cấp tiểu học khu vực miền núi phía Bắc đạt 89,4%; Tây Nguyên 83,65 và Tây Nam Bộ 86,4%3. 3http://nguoibaovequyenloi.com/User/ThongTin_ChiTiet.aspx?MaTT=13220165373 5270172&MaMT=22 17
- 3.2.4 Tình trạng kì thị, phân biệt đối xử đối với người khuyết tật vẫn còn tồn tại, quá trình hoà nhập cộng đồng của người khuyết tật còn gặp nhiều khó khăn. Chính sự kỳ thị và phân biệt đối xử của gia đình và cộng đồng là nguyên nhân quan trọng nhất gây ra khó khăn cho người khuyết tật trong hôn nhân. Trong quan niệm của nhiều người, việc kết hôn của với người khuyết tật là không nên và sẽ đưa đến những điều khó khăn trong cuộc sống cho chính bản thân người khuyết tật. 3.2.5 Trong việc bảo vệ quyền nhân thân của nhóm lao động di trú tại Việt Nam ở một số lĩnh vực chưa có sự hướng dẫn cụ thể dẫn đến hệ quả khó khăn khi tiếp cận quyền. Theo thống kê đến tháng 8/2011, số người nước ngoài làm việc ở Việt Nam là hơn 74.000 người. Lao động nước ngoài đến Việt Nam làm việc có quốc tịch từ hơn 60 quốc gia, trong đó người Châu Á chiếm hơn 58% gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia…; khoảng 28,5% mang quốc tịch Châu Âu và còn lại là các nước khác. 3.2.6 Người bị nhiễm HIV/AIDS vẫn bị xâm phạm quyền đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, đồng thời phải chịu sự kì thị và phân biệt đối xử, ảnh hưởng nghiêm trọng tới quá trình sinh hoạt, lao động và hoà nhập cộng đồng. Trong chín tháng đầu năm, cả nước phát hiện mới 6.883 người nhiễm HIV, chuyển sang giai đoạn AIDS 3.484 người, số người nhiễm HIV tử vong 1.260 người. Ước tính cả năm 2017 sẽ có khoảng 9.800 người nhiễm HIV mới được phát hiện và có khoảng 1.900 người nhiễm 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 183 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030
27 p | 210 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 268 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ: Nghiên cứu tối ưu các thông số hệ thống treo ô tô khách sử dụng tại Việt Nam
24 p | 252 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 177 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 149 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 199 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 136 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn