intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn Ngữ Anh: Ẩn dụ về mùa trong bài hát tiếng Anh và tiếng Việt: nghiên cứu theo đường hướng tri nhận

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:25

29
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận án "Ẩn dụ về mùa trong bài hát tiếng Anh và tiếng Việt: nghiên cứu theo đường hướng tri nhận" nhằm tìm ra sự giống và khác nhau ẩn dụ tri nhận về mùa trong các bài hát tiếng Anh và tiếng Việt; Đưa ra những lí giải cho sự giống và khác nhau đó qua sự nghiệm than từ môi trường vật lí và môi trường văn hóa xã hội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn Ngữ Anh: Ẩn dụ về mùa trong bài hát tiếng Anh và tiếng Việt: nghiên cứu theo đường hướng tri nhận

  1. ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ SỸ THỊ THƠM TÓM TẮT LUẬN ÁN ẨN DỤ VỀ MÙA TRONG BÀI HÁT TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT: NGHIÊN CỨU THEO ĐƯỜNG HƯỚNG TRI NHẬN Ngành: Ngôn Ngữ Anh Mã số: 9220201 DANANG – 2021
  2. CHƯƠNG 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Lakoff and Johnson đã đánh dấu cuộc cách mạng về ngôn ngữ học tri nhận bằng tác phẩm kinh điển có tên Ẩn dụ quanh ta được viết vào năm 1980 khi hai ông xem xét ẩn dụ dưới góc nhìn ngôn ngữ tri nhận. Quan điểm cho rằng ẩn dụ cần được nhìn nhận là một hiên tượng ý niệm, không chỉ là một hiện tương ngôn ngữ đơn thuần đã được khẳng định bởi Lakoff và các nhà nghiên cứu ngôn ngữ theo trường phái của ông như Kövecses, 2002, 2010; Lakoff, 1987; Lakoff & Johnson, 1980a, 1999; Lakoff & Turner, 1989 v.v. Vì vậy lý thuyết này đã tạo nên nền tảng, cơ sở cho những nguyên cứu sau này. Ở Việt Nam, nhiều học giả cũng đã đưa ra những quan điểm về ẩn dụ tri nhận dựa trên học thuyết của Lakoff and Johnson. Hiện tại trên thế giớ cũng như ở Việt Nam có khá nhiều nghiên cứu về ẩn dụ tri nhận khảo sát về thực thể trừu tượng và cụ thể xung quanh thế giới con người. Đặc biệt, các nghiên cứu quan tâm nhiều tới việc khảo sát các thực thể trừu tượng được xem xét như là miền đích trong ẩn dụ tri nhận. Những thứ trừu tượng này trở nên dễ hiểu hơn nhờ ẩn dụ tri nhận bởi lẽ ẩn dụ tri nhận là quá trình ý niệm hóa một miền trừu tượng hơn thông qua một miền cụ thể hơn. Trong đó đáng chú ý là khái niệm trừu tượng thời gian cũng được khảo sát nhiều bởi các tác giả trong và ngoài nước. Tuy nhiên đa số trong các nghiên cứu này thời gian được xem là miền đích. Như vậy thời gian được xem xét như là miền nguồn vẫn chưa được khảo sát sâu rộng. Tóm lại, chủ đề này vẫn chưa được khảo sát rộng rãi ở Việt Nam mặc dù đó là một chủ đề thú vị và có ý nghĩa. Vì vây, nghiên cứu “Ẩn dụ về mùa trong bài hát tiếng Anh và tiếng Việt: nghiên cứu theo đường hướng tri nhận” được thực hiện nhằm bổ sung và cung cấp ứng dụng hữu ích cho việc day, học và dịch tiếng Anh ở Việt Nam. Ngoài ra, nghiên cứu còn giúp thúc đẩy sự thông hiểu về ẩn dụ của người nước ngoài sử dụng tiếng Viêt. 1.2. Mục đích và mục tiêu cảu nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện với mục đích khảo sát ẩn dụ vè mùa trong bài hát tiếng Anh và tiếng Việt theo lý thuyết của ẩn dụ tri nhận. Sau đó, có sự so sánh ẩn dụ giữa tiếng Anh và tiếng Việt để tìm ra sự tương đồng và khác biệt giữa chúng. Đồng thời, nghiên cứu cũng đưa ra một số lí do giải thích cho sự giống và khác nhau đó. Để đạt được mục đích đó nghiên cứu cần theo đuổi các mục tiêu cụ thể sau: 2
  3. - Mô tả mùa được ánh xạ như thế nào từ các thực thể cụ thể trong bài hát tiếng Anh và tiếng Việt. - Mô tả mùa ánh xạ như thế nào lên các thực thể trừu tượng trong bài hát tiếng Anh và tiếng Việt. - Tìm ra sự giống và khác nhau ẩn dụ tri nhận về mùa trong các bài hát tiếng Anh và tiếng Việt. - Đưa ra những lí giải cho sự giống và khác nhau đó qua sự nghiệm than từ môi trường vật lí và môi trường văn hóa xã hội. 1.3. Ý nghĩa của nghiên cứu Nghiên cứu đã khảo sát những người nói tiếng Anh ở các quốc gia trong nhóm các nước vòng trong cùng của biểu đồ Kachru (1985) và người Việt ý niệm hóa về mùa. Do đó, nghiên cứu có ý nghĩa cả về lí luận và thực tiễn. Về mặt lí thuyết, nghiên cứu góp phần vào tính hiệu quả của CMT. Lý thuyết này được liên tục bổ sung ngày một hoàn thiện. Nghiên cứu hi vọng rằng sẽ góp phần vào việc hiểu bản chất của ngôn ngữ con người nói chung, thúc đẩy nghiên cứu về ẩn dụ tri nhận và đặc tính của nó nói riêng và khuyến khích nghiên cứu sâu hơn về lĩnh vực ngôn ngữ học tri nhận. Về phương pháp, nghiên cứu đã chỉ ra các tiếp cân mới trong khảo sát ẩn dụ trong nghiên cứu so sánh đối chiếu ngôn ngữ, cụ thể trong nguyên cứu này là so sánh giữa tiếng Anh và tiếng Việt. Về thực tiễn nghiên cứu cung cấp những gợi ý hữu dụng trong việc dạy và học ngôn ngữ. Đặc biệt, nghiên cứu góp phần vào việc cải thiện khả năng ngôn ngữ của người Việt học tiếng Anh và người nước ngoài học tiếng Việt. CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN 2.1. Cở sở lý luận 2.1.1. Lý thuyết ẩn dụ theo truyền thống Ẩn dụ là đối tượng nghiên cứu được bàn luận lâu nay với nhiều quan điểm khác nhau trên khắp thế giới. Theo truyền thống, nghiên cứu ẩn dụ được xem như là một hình thái tu từ, là phương tiện có tính trang trí sủ dụng trong hình thức tu từ (trích từ Ungerer & Schmid, 2006, tr.114). Bên cạnh đó, ở phương tây ẩn dụ được tiếp cận với nhiều cách khác nhau: Bên cạnh đó, ở phương Tây, ẩn dụ đã được tiếp cận theo nhiều cách khác nhau như phương pháp luận của Aristotle, nghiên cứu ẩn dụ với tư cách là chuyển di tên gọi; phương pháp ngôn ngữ truyền thống tiếp cận ẩn dụ là một sự sai lệch về ngôn ngữ dẫn đến câu không chính xác hoặc phi logic; về cách tiếp cận ứng dụng, ẩn dụ được coi là một hành động nói khác thường, từ đó một loạt các nguyên 3
  4. tắc đặc biệt được yêu cầu; và dưới góc độ tiếp cận tương tác, ẩn dụ được hiểu là sự tương tác giữa hai chủ thể. Do đó, phương pháp tương tác mở ra sự thừa nhận giá trị của ẩn dụ trong tri nhận. Nó tạo ra cơ sở cho sự xuất hiện của lý thuyết tri nhận, đặc biệt, với tác phẩm kinh điển Ẩn dụ quanh ta (Metpahors we live by 1980) của Lakoff & Johnson mà nghiên cứu này chủ yếu dựa vào. 2.1.2. Ẩn dụ trong ngôn ngữ học tri nhận Lý thuyết ẩn dụ tri nhận (CMT), đã đề xuất rằng ẩn dụ không phải là một kiểu sử dụng ngôn ngữ theo kiểu cách mà chủ yếu là một mô hình tri nhận có hệ thống về các khái niệm, đã dẫn đến một cuộc cách mạng lớn trong nghiên cứu về ẩn dụ. Do đó, CMT được nhiều nhà ngôn ngữ học nhận thức áp dụng rộng rãi để phân tích ẩn dụ (Lakoff & Johnson, 1980a; Lakoff, 1993; Kövecses, 2010; Gibbs, 2011). CMT không chỉ làm nổi bật bản chất phổ biến của phép ẩn dụ trong cuộc sống hàng ngày mà còn cho thấy phép ẩn dụ ảnh hưởng đến cách mọi người suy nghĩ, nói và hành động (Lakoff & Johnson, 2003; Deignan, 2005; Littlemore 2009; Kövecses, 2010). Điều quan trọng hơn đối với các nhà ngôn ngữ học là CMT có thể được coi là một giải thích ý niệm cho phần ẩn dụ của việc sử dụng ngôn ngữ. Thuật ngữ ẩn dụ được sử dụng trong nghiên cứu này đề cập đến phép ẩn dụ ý niệm, mà một miền ý niệm này được hiểu theo một miền ý niệm khác. Ẩn dụ ý niệm có thể được đưa ra bằng công thức A là B hoặc A như B. Cụ thể, A biểu thị miền đích và B là miền nguồn như trong ẩn dụ thời gian trôi qua như một đối tượng chuyển động, trong đó khái niệm đối tượng chuyển động được ánh xạ lên khái niệm thời gian trôi qua. (Lakoff & John, 1980a; Lakoff, 1993, 2003; Kövecses, 2010). Thành phần của ẩn dụ tri nhận Khi thảo luận về ẩn dụ trong văn hóa, Kövecses (2005) lưu ý rằng “ẩn dụ được xem là sự cấu thành bởi nhiều bộ phận, khía cạnh hoặc thành phần tương tác với nhau.” (Tr.5). Ông cũng phác thảo 11 thành phần của phép ẩn dụ khái niệm, đó là (1) miền nguồn, (2) miền đích, (3) cơ sở trải nghiệm, (4) cấu trúc thần kinh tương ứng với (1) và (2) trong não, (5) mối quan hệ giữa nguồn và đích, (6) các biểu thức ngôn ngữ ẩn dụ, (7) ánh xạ, (8) kế thừa, (9) pha trộn, (10) hiện thực hóa phi ngôn ngữ và (11) mô hình văn hóa. Đăc điểm của ẩn dụ tri nhận Để hoàn thiện định nghĩa về ẩn dụ, một số đặc điểm chính của phép ẩn dụ ý niệm, được trình bày như là tính đẳng hình, tính hệ thống, tính phổ biến, tính bộ phận và tính đối ngẫu. 2.2. Tổng quan về các nghiên cứu liên quan 4
  5. Thời gian được coi là miền đích trong hầu hết các tác phẩm nổi tiếng. Lakoff và Johnson (1980a, tr.7-9), cung cấp các ẩn dụ ý niệm về thời gian thông qua một số biểu thức ẩn dụ như là THỜI GIAN LÀ TIỀN BẠC, THỜI GIAN LÀ NGUỒN LỰC CÓ HẠN, THỜI GIAN LÀ HÀNG HÓA CÓ GIÁ TRỊ. Bên cạnh đó, họ đưa ra một khái niệm ẩn dụ khác về thời gian, đó là THỜI GIAN LÀ ĐỐI TƯỢNG CHUYỂN ĐỘNG. Tương tự, Kövecses đồng ý và đưa ra ẩn dụ THỜI GIAN LÀ CHUYỂN ĐỘNG. Tuy nhiên, ông mở rộng phép ẩn dụ này khi nói thêm rằng ẩn dụ ý niệm THỜI GIAN LÀ CHUYỂN ĐỘNG tồn tại hai trường hợp đặc biệt trong tiếng Anh: CHUYỂN ĐỘNG CỦA THỜI GIAN LÀ CHUYỂN ĐỘNG CỦA ĐỐI TƯỢNG và CHUYỂN ĐỘNG CỦA THỜI GIAN LÀ CHUYỂN ĐỘNG CỦA NGƯỜI QUAN SÁT QUA KHÔNG GIAN. Ngoài ra, Goedly (1997) phát hiện ra THỜI GIAN LÀ KHÔNG GIAN. Hơn nữa, thảo luận về nhân cách hóa, một phương thức ẩn dụ được sử dụng phổ biến trong văn học, tức là trong ngôn ngữ thơ ca, Kövecses tìm thấy nhiều ẩn dụ ý niệm hơn về thời gian, cụ thể là, THỜI GIAN LÀ KẺ CẮP, THỜI GIAN LÀ KẺ HỦY DIỆT, THỜI GIAN LÀ NGƯỜI THU HOẠCH, THỜI GIAN LÀ NGƯỜI PHÁ HOẠI, THỜI GIAN LÀ MỘT NGƯỜI ĐÁNH GIÁ, và THỜI GIAN LÀ NGƯỜI TRUY NÃ. Phát triển khái niệm ẩn dụ về thời gian của Lakoff và Johnson (1980a), Evans (2004) đưa ra cách tiếp cận ẩn dụ ý niệm về thời gian. Đặc biệt, ông làm rõ ẩn dụ THỜI GIAN LÀ ĐỐI TƯỢNG CHUYỂN ĐỘNG bằng hai bộ ánh xạ trong đó thời gian được cấu trúc ẩn dụ theo chuyển động. Nói cách khác, ánh xạ không-thời gian trong trường hợp này đã được phân loại trên cơ sở đối tượng chuyển động. Li (2014) đã tiến hành nghiên cứu “Phân tích khối liệu về việc sử dụng ẩn dụ của thời gian danh từ tần suất cao: Những thách thức đối với lý thuyết ẩn dụ ý niệm”. Với việc sử dụng Ngân hàng Anh ngữ (BoE), nghiên cứu này phân tích các biểu thức ngôn ngữ thường xuất hiện về thời gian có liên quan đến hai ẩn dụ khái niệm về thời gian (THỜI GIAN LÀ TIỀN và THỜI GIAN LÀ CHUYỂN ĐỘNG). Cụ thể, khái niệm thời gian thường xuyên được sử dụng làm chủ đề để minh chứng cho sự tồn tại của ẩn dụ ý niệm trong CMT. Thật thú vị, kết quả cho thấy danh sách các ẩn dụ ngôn ngữ thường xuyên được tìm thấy ở đây dường như khá khác với danh sách các ví dụ do Lakoff và Johnson (1980a, b) đưa ra cho hai nhóm ẩn dụ ý niệm này. Ở Việt Nam, các ẩn dụ ý niệm về thời gian được khảo sát trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Quyết (2015). Thông qua biểu hiện của thời gian: ngày, các phần của ngày, đêm, tháng, mùa, và thời gian nói chung như các miền 5
  6. đích, bên cạnh các ẩn dụ ý niệm về thời gian được trình bày ở trên (bởi Lakoff và Johnson, 1980a, b; Kövecses, 2010; Goosystem , 1997; Evans, 2004), nghiên cứu đã phát hiện ra 7 phép ẩn dụ khái niệm về thời gian. Ngoài ra, nghiên cứu do Bạch Thị Thanh Phượng (2014) thực hiện đã khảo sát các ẩn dụ khái niệm về mùa xuân và xuân biểu thị các mùa trong thơ tiếng Anh và tiếng Việt. Nghiên cứu cho thấy những phát hiện thú vị và tiết lộ những hạn chế của nó. Đáng chú ý, Hồ Trịnh Quỳnh Thư (2018) đã tiến hành một nghiên cứu có tên: nghiên cứu tri nhận về cách diễn đạt ẩn dụ tình yêu trong tiếng Anh và tiếng Việt. Đây là một trong những nghiên cứu hiếm hoi có phát hiện liên quan đến ẩn dụ thời gian trong đó thời gian được coi như một miền nguồn. Tóm lại, một số lượng lớn các nghiên cứu đã được thực hiện để điều tra khái niệm về thời gian như một miền đích. Ngược lại, rất ít nghiên cứu cho thấy thời gian được sử dụng để diễn tả các thực thể khác được coi là miền đích. Nói cách khác, thời gian như một miền nguồn được sử dụng để ánh xạ lên các miền khác là một vùng đất bao la hoặc miền đất hứa chào đón các học giả đến khám phá về ẩn dụ tri nhận. CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Câu hỏi nghiên cứu Luận án được thực hiện cố gắng trả lời câu hỏi nghiên cứu tổng thể sau: Có sự giống và khác nhau nào của ẩn dụ tri nhận về mùa được thể hiện qua ca từ bài hát tiếng Anh và tiếng Việt? Để đạt được mục đích này, nghiên cứu cần trả lời hai câu hỏi nghiên cứu sau: 1. Có sự giống và khác nhau nào của ẩn dụ tri nhận về mùa được thể hiện qua ca từ bài hát tiếng Anh và tiếng Việt khi mùa được xem là miền đích? 2. Có sự giống và khác nhau nào của ẩn dụ tri nhận về mùa được thể hiện qua ca từ bài hát tiếng Anh và tiếng Việt khi mùa được xem là miền nguồn? 3.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn này là một nghiên cứu so sánh được thực hiện nhằm xác định các ẩn dụ về MÙA dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận, trong đó chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh kết hợp phương pháp mô tả và có sự hỗ trợ của một số kỹ thuật của phương pháp định tính và định lượng. 3.3. Tiến trình thu thập dữ liệu 6
  7. 3.3.1. Nguồn dữ liệu The data collected comes from English and Vietnamese song lyrics from the 20th century onward. As an investigation of conceptual metaphors of season, the samples selected come from songs. There are several sources, namely, Internet-based records, CD/DVD-based records, and printed publications. Dữ liệu thu thập được lấy từ lời bài hát tiếng Anh và tiếng Việt từ thế kỷ 20 cho tới nay. Là khảo sát ẩn dụ khái niệm về mùa, các mẫu được chọn đến từ bài hát. Dữ liệu được thu thập từ một số nguồn, cụ thể là bản ghi trên Internet, bản ghi dựa trên CD / DVD và các ấn phẩm. Quá trình thu thập dữ liệu tuân theo một số bước để xây dựng hai khối liệu của hai ngôn ngữ. Khối liệu được xây dựng gồm 1646 và 1897 biểu thức ẩn dụ liên quan đến mùa trong tiếng Anh và tiếng Việt tương ứng. 3.3.2. Xác định ẩn dụ ý niệm Nhận dạng các ẩn dụ (bao gồm xác định các ẩn dụ ngôn ngữ và ẩn dụ ý niệm) là một bước quan trọng của bất kỳ nghiên cứu ẩn dụ nào. Thực tế, việc xác định ẩn dụ ý niệm phụ thuộc vào ý nghĩa của các biểu thức ngôn ngữ (tức là ẩn dụ ngôn ngữ) chỉ ra các ẩn dụ ý niệm trong diễn ngôn. Xác định ẩn dụ ngôn ngữ Nghiên cứu áp dụng phương pháp xác định ẩn dụ của Charteris-Black, Pragglejaz Group và mở rộng quy trình của Pragglejaz do Wittink thực hiện. Xác định ẩn dụ ý niệm Nghiên cứu áp dụng tiến trình 5 bước xác định ẩn dụ ý niệm của Steen (1999, 2007). 3.4. Phân tích dữ liệu 3.4.1. Khung phân tích Khái niệm mùa trong nghiên cứu này được ký hiệu bằng các từ: mùa xuân, mùa xuân, mùa xuân, mùa hạ, mùa hạ, mùa thu, mùa thu, mùa đông, mùa đông trong tiếng Việt và and season, spring, springtime, summer, summertime, autumn, autumntime, fall, winter and wintertime trong tiếng Anh. Khung phân tích của nghiên cứu này có thể được sơ đồ hóa như hình dưới đây: 7
  8. Hình 1. Khung phân tích ẩn dụ tri nhận về mùa trong tiếng Anh và tiếng Việt 3.4.2. Tiến trình phân tích dữ liệu Tiến trình phân tích của nghiên cứu này được kết hợp giữa CMA (Charteris-Black, 2004) và FSM (Steen, 2011) với sự hỗ trợ của (CIC) (Kövecses, 2010), được đề cập lại trong cuốn sách Khái niệm mở rộng lý thuyết ẩn dụ (Kövecses, 2020) khi ông thảo luận về ẩn dụ trong ngữ cảnh, có thể hình dung qua 3 giai đoạn như sau: Hình 2. Tiến trình phân tích ẩn dụ tri nhận về mùa 8
  9. CHƯƠNG 4. THỰC THỂ MÙA ĐƯỢC ÁNH XẠ TỪ CÁC MIỀN THỰC THỂ CỤ THỂ TRONG CA TỪ BÀI HÁT TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT Chương này trình bày kết quả phân tích ẩn dụ về mùa trong tiếng Anh và tiếng Việt khi mùa được coi là miền đích. Theo phân loại của Zheng (2017), các miền cụ thể được sử dụng để ý niệm mùa đã được phát hiện với tổng số lượng lớn các biểu thức ẩn dụ trong cả tiếng Anh và tiếng Việt, lần lượt giữ 1,275 và 1,359 từ hai khối liệu với sự phân bố của các thực thể sống và vô tri như các miền nguồn được thấy trong hình sau: Hình 3. Sự phân bổ thực thể sống và vô tri được ánh xạ lên mùa trong tiếng Anh và tiếng Việt 4.1. Thực thể sống Liên quan đến MÙA NHƯ MỘT THỰC THỂ SỐNG, các phát hiện đã phát hiện ra 9 phép ẩn dụ về mùa như trong hình bên dưới: 9
  10. Hình 4. Sự phân bố miền đích của các thực thể vô tri lên mùa trong tiếng Anh và tiếng Việt Rõ ràng là ẩn dụ MÙA LÀ THỰC THỂ TRONG KHÔNG GIAN là phổ biến nhất trong cả hai ngôn ngữ. Có nghĩa là cả người phương Tây và người Việt Nam đều coi MÙA là một thực thể được thể hiện tương quan trong không gian. Tương tự, các thực thể, cụ thể là thực thể cụ thể, chất tự nhiên, đặc điểm của tự nhiên được sử dụng rất nhiều để miêu tả MÙA. Những ẩn dụ này là phổ biến vì những miền này quen thuộc với tất cả mọi người trên trái đất chúng ta. Cụ thể, mọi người đều coi mình như một thực thể, và họ tự hiện thân như một vật chứa những vật thể khác trong một không gian nhất định. Hơn nữa, con người trải nghiệm môi trường sống của họ với kiểu thời tiết, đơn vị thời gian mỗi ngày. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cho thấy những ẩn dụ mới lạ, cụ thể là khái niệm hóa MÙA như một thực thể xã hội và một hoạt động xã hội. Trên thực tế, khi THỜI GIAN được khảo sát như một miền đích, không có phát hiện nào cho thấy ÂM NHẠC được sử dụng để miêu tả THỜI GIAN. Tuy nhiên, kết quả của luận án này đã phát hiện ra ẩn dụ MÙA LÀ ÂM NHẠC trong cả hai ngôn ngữ. Có thể kết luận rằng mọi người có chung cách nhận thức thế giới nói chung, MÙA nói riêng khi họ có những trải nghiệm vật lý giống nhau cho dù họ sống ở đâu trên Trái Đất. 4.2. Miền thực thể sống Theo phân loại của Zheng (2017), các thực thể sống bao gồm động vật và thực vật, trong đó động vật bao gồm động vật bậc thấp và động vật bậc cao (cụ thể là con người). Số liệu thống kê thu thập được cho thấy ẩn dụ MÙA LÀ THỰC THỂ SỐNG khá phổ biến trong cả tiếng Anh và tiếng Việt. Chính xác là có 201 biểu thức, với 336 tần số trong tiếng Anh và 268 biểu thức trong tiếng Việt, giữ 285 tần số. Giống như các miền trên, số lượng biểu thức hỗ trợ mỗi trường hợp trong mỗi ngôn ngữ là không giống nhau. Nó có thể được minh họa trong hình dưới đây: 10
  11. Hình 5. Phân bổ thực thể sống là miền nguồn ánh xạ lên mùa trong tiếng Anh và tiếng Việt 4.3. Tiểu kết Kết quả cho thấy có hai miền nguồn lớn ánh xạ lên miền đích MÙA trong khối liệu tiếng Anh và tiếng Việt, đó là miền vô tri và miền thực thể sống, với 13 miền nhỏ hơn. Ngoài ra, mỗi cấp dưới này có một số lượng lớn các miền phụ. Nói cách khác, về mặt MÙA là miền đích, có 40 phép ẩn dụ khái niệm được tìm thấy trong hai ngôn ngữ như trong Bảng dưới đây: Bảng 1. Ẩn dụ ý niệm về mùa trong tiếng Anh và tiếng Việt khi mùa là miền đích 11
  12. Conceptual Metaphors English Vietnamese 1 SEASON IS MOTION + + 2 SEASON IS A CONTAINER + + 3 SEASON IS A CONTAINED OBJECT + + 4 SEASON IS A CORPOREAL OBJECT + + 5 SEASON IS A COLORED OBJECT + + 6 SEASON IS AN OLFACTORY OBJECT + + 7 SEASON IS A TASTY OBJECT + + 8 SEASON IS EXISTENCE + + 9 SEASON IS POSSESSION + - 10 SEASON IS LOCATION + + 11 SEASON IS PATH + + 12 SEASON IS A FORCE/CHANGER + + 13 SEASON IS PLACE + + 14 SEASON IS HEAVEN + - 15 SEASON IS SEA - + 16 SEASON IS A RIVER + + 17 SEASON IS FIRE + + 18 SEASON IS HEAT + + 19 SEASON IS LIGHT + + 20 SEASON IS SUNSHINE - + 21 SEASON IS WIND + - 22 SEASON IS COLDNESS + + 23 SEASON IS LIQUID + + 24 SEASON IS SOUND + + 25 SEASON IS TEMPORAL CYCLE + + 26 SEASON IS MUSIC + + 27 SEASON IS MONEY + - 28 SEASON IS MAGIC + - 29 SEASON IS FOOD + - 30 SEASON IS COSTUMES - + 31 SEASON IS COSMETICS - + 32 SEASON IS A SOCIAL EVENT + + 33 SEASON IS A HOLIDAY/VOCATION + + 34 SEASON IS CHARACTERISTIC OF CLIMATE + + 35 SEASON IS CHARACTERISTIC OF GALACTIC ENTITIES + + 36 SEASON IS CHARACTERISTIC OF TEMPORAL UNITS + + 37 SEASON IS A LIVING ENTITY + + 38 SEASON IS A PERSON + + 39 SEASON IS AN ANIMAL + + 40 SEASON IS A PLANT + + Note: + = existent; - = nonexistent CHƯƠNG 5. THỰC THỂ MÙA ÁNH XẠ LÊN MIỀN TRỪU TƯỢNG TRONG CA TỪ BÀI HÁT TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT 5.1. Miền trạng thái tự nhiên Trạng thái ở đây đề cập đến hình dạng và đặc điểm bên ngoài của các đối tượng, hoặc hiện trạng của hệ thống vật chất. Bên cạnh đó, theo từ điển Longman Dictionary English (LDE), nó được định nghĩa là “tình trạng mà một người hoặc một vật là; cách để trở thành". Cụ thể, trạng thái tự nhiên trong bài báo này bao gồm sức sống, sự suy tàn, sự trường tồn, sự sống, vẻ đẹp và tuổi trẻ. 12
  13. Hình 6. Phân bổ miền trạng thái tự nhiên được ánh xạ qua mùa trong tiếng Anh và tiếng Việt MÙA được sử dụng rộng rãi để ý niệm hóa các trạng thái tự nhiên trong cả tiếng Anh và tiếng Việt. Điều đáng chú ý là các trạng thái tích cực như cuộc sống tốt đẹp, sắc đẹp và tuổi trẻ được hình thành qua XUÂN trong khi trạng thái tiêu cực, như là sự suy tàn được hiểu một cách ẩn dụ qua hai mùa: mùa thu và mùa đông. Ngoài ra, về ánh xạ phụ, bên cạnh hai lĩnh vực: sức sống và sự suy giảm mà hai ngôn ngữ cùng có, phát hiện cho thấy có ba miền đích là cuộc sống, vẻ đẹp và tuổi trẻ được ánh xạ từ mùa chỉ trong tiếng Việt, và chỉ có một miền là sự tồn tại mà người Anh ánh xạ từ mùa lên. 5.2. Miền xã hội Lĩnh vực xã hội, một lĩnh vực cơ bản trong ngôn ngữ học nhận thức, bao gồm một số lượng lớn các mối quan hệ không thể tách rời với cuộc sống của con người. Phát hiện của nghiên cứu cho thấy rằng MÙA được khai thác để nói về các lĩnh vực xã hội, chẳng hạn như đoàn tụ, chia ly, chiến thắng, v.v., được tổng hợp như trong hình dưới đây: Hình 7. Phân bố miền xã hội được ánh xạ từ mùa trong tiếng Anh và tiếng Việt 5.3. Miền cảm xúc 13
  14. Thực tế là cảm xúc đã trở thành một đối tượng phổ biến trong các nghiên cứu liên quan đến ẩn dụ (Lakoff và Johnson, 1980: Ning Yu, 1998; Kövecses, 2000, 2005, 2010). Lakoff và Johnson (1980) khẳng định rằng ẩn dụ đóng một phần thiết yếu trong việc hình thành khái niệm về cảm xúc. Ngoài ra, khi thảo luận về các miền đích phổ biến, Kövecses chia sẻ rằng cảm xúc là miền đích thượng danh, với rất nhiều yếu tố cấp dưới như giận dữ, sợ hãi, tình yêu, hạnh phúc, buồn bã, xấu hổ, tự hào, v.v., được hiểu chủ yếu qua ẩn dụ ý niệm. Điều thú vị là những phát hiện của nghiên cứu đã khám phá ra rằng MÙA được khai thác để thể hiện cảm xúc, với các miền tình yêu, hạnh phúc, buồn bã và cô đơn được phân phối như trong bảng dưới đây: Bảng 2. Miền cản xúc được ánh xạ từ MÙA trong tiếng Anh và tiếng Việt Emotional domains English Vietnamese Number of Number of expressions expressions 1 Love 94 124 2 Happiness 31 34 3 Sadness 49 97 4 Loneliness 54 51 Total 228 301 Tóm lại, MÙA được coi như một miền nguồn để ánh xạ lên cảm xúc. Đáng chú ý là cảm xúc tích cực như là tình yêu vui vẻ, hạnh phúc được biểu hiện một cách ẩn dụ qua hai mùa là xuân và hạ. Ngược lại, hai mùa khác được sử dụng để thể hiện những cảm xúc tiêu cực như buồn bã và cô đơn. 5.4. Tiểu kết Tóm lại, liên quan đến miền nguồn, người ta đã mượn MÙA để diễn tả các miền trừu tượng, được phân loại thành các miền trạng thái tự nhiên, xã hội và cảm xúc. Với ba miền lớn được ánh xạ thông qua miền nguồn MÙA, tổng cộng có 18 miền miền nhỏ được tìm thấy trong tiếng Anh và tiếng Việt, và được tổng hợp trong bảng sau: Conceptual Metaphors English Vietnamese 1 VITALITY IS SEASON + + 2 DECLINE IS SEASON + + 3 PERPETUATION IS SEASON + - 4 LIFE IS SEASON - + 5 BEAUTY IS SEASON - + 6 YOUTH IS SEASON - + 7 REUNION IS SEASON + + 14
  15. 8 SEPARATION IS SEASON + + 9 MEMORY IS SEASON + + 10 HOPE IS SEASON + + 11 DIFFICULTY IS SEASON + - 12 VICTORY IS SEASON - + 13 FREEDOM IS SEASON - + 14 PEACE IS SEASON - + 15 LOVE IS SEASON + + 16 HAPPINESS IS SEASON + + 17 SADNESS IS SEASON + + 18 LONELINESS IS SEASON + + Note: + = existent; - = nonexistent Giống như trường hợp MÙA được coi là miền đích, sự tương đồng và khác biệt của ẩn dụ ý niệm cho MÙA với tư cách miền nguồn được tìm thấy trong cả hai nguồn ngữ liệu. Về mức độ khai thác ngôn ngữ, ẩn dụ CẢM XÚC LÀ MÙA là phổ biến nhất so với các ẩn dụ khác trong cả hai ngôn ngữ. Cụ thể, có 228 và 306 biểu đạt hỗ trợ phép ẩn dụ này trong dữ liệu tiếng Anh và tiếng Việt tương ứng. Bên cạnh đó, một số miền kéo theo như LOVE, LONELINESS, VITALITY được áp dụng rộng rãi trong cả 2 ngữ liệu, lần lượt là 94 và 124, 54 và 51, 48 và 55 trong tiếng Anh và tiếng Việt. Ngược lại, một số ẩn dụ ít phổ biến hơn trong hai ngôn ngữ, ví dụ: ĐOÀN TỤ LÀ MÙA, với 8 và 10 biểu đạt trong tiếng Anh và tiếng Việt, và HY VỌNG LÀ MÙA, với 9 biểu đạt trong tiếng Anh và 10 trong ngữ liệu tiếng Việt. Ngoài những điểm tương đồng này, hai ngôn ngữ có sự khác biệt trong việc khai thác MÙA để ý niệm hóa các thực thể trừu tượng, CHIẾN THẮNG và SỰ TRƯỜNG TỒN là những trường hợp điển hình. Chính xác là có 15 biểu đạt hỗ trợ ẩn dụ CHIẾN THẮNG LÀ MÙA trong tiếng Việt, trong khi không tìm thấy biểu thức ẩn dụ nào trong ngữ liệu tiếng Anh. Ngược lại, SỰ TRƯỜNG TỒN LÀ MÙA được rút ra từ 8 biểu đạt trong tiếng Anh, nhưng không có bất kỳ biểu đạt nào được tìm thấy trong dữ liệu tiếng Việt. Về chủ đề của miền, hai ngôn ngữ chia sẻ 10 miền được ánh xạ thông qua MÙA. Đó là SỨC SỐNG, SỰ SUY TÀN, ĐOÀN TỤ, CHIA CÁCH, HOÀI NIỆM, HY VỌNG, TÌNH YÊU, HẠNH PHÚC, NỖI BUỒN, SỰ CÔ ĐƠN. Ngược lại, hai miền phụ: TRƯỜNG TỒN, KHÓ KHĂN tồn tại trong ngôn ngữ tiếng Anh trong khi 6 miền khác, đó là CUỘC SỐNG, VẺ ĐẸP, TUỔI TRẺ, HÒA BÌNH, CHIẾN THẮNG và TỰ DO được hiểu theo nghĩa ẩn dụ qua MÙA được áp dụng trong dữ liệu tiếng Việt. Liên quan đến các loại ẩn dụ ý niệm, nghiên cứu cho thấy một số phát hiện thú vị. Như đã đề cập trước đó, liên quan đến MÙA được coi là miền đích, hầu hết các phép ẩn dụ được tìm thấy là phổ quát. Tuy nhiên, trong 15
  16. trường hợp MÙA là miền nguồn ánh xạ lên các thực thể trừu tượng, các ẩn dụ của MÙA ở đây là mới lạ trong cả hai ngôn ngữ. Trên thực tế, các nghiên cứu liên quan đã thực hiện để khảo sát các ẩn dụ về mùa liên quan đến MÙA như miền đích. Do đó, ban đầu, tác giả của nghiên cứu này có ý định khảo sát miền đích MÙA được ánh xạ thông qua các miền nguồn. Đáng ngạc nhiên, dữ liệu phát hiện ra rằng MÙA được khai thác để miêu tả các thực thể khác, đặc biệt là các miền trừu tượng. Nói cách khác, ý niệm hóa các thực thể trừu tượng thông qua miền MÙA chưa được tìm thấy trong các nghiên cứu trước đây, ngoại trừ phép ẩn dụ MÙA LÀ TÌNH YÊU (Phan, et al. (2018). Do đó, 18 ẩn dụ ý niệm, được tìm thấy trong nghiên cứu này, có thể được coi là những ẩn dụ mới lạ. Đáng chú ý là mặc dù MÙA có thể được sử dụng để diễn đạt các miền trừu tượng khác nói chung, nhưng mỗi mùa có xu hướng khai thác để ngụ ý một số khái niệm nhất định. Đặc biệt, MÙA XUÂN và MÙA HÈ thường được sử dụng để ý niệm hóa các khái niệm tích cực, trong khi các khái niệm tiêu cực dường như được hiểu qua MÙA THU và MÙA ĐÔNG trong hai ngôn ngữ. SỨC SỐNG, HY VỌNG hay TÌNH YÊU HẠNH PHÚC được thể hiện qua MÙA XUÂN và MÙA HÈ. Cũng có thể hiểu được vì trong hai mùa có điều kiện thuận lợi, sinh vật nói chung, con người nói riêng đều trải nghiệm những điều tốt đẹp. Theo đó, mọi người sử dụng những mùa này để mô tả những điều tích cực. Ngược lại, SỰ SUY TÀN, TÌNH YÊU TAN VỠ, CÔ ĐƠN, NỖI BUỒN, v.v., gắn liền với MÙA THU và MÙA ĐÔNG. 16
  17. CHƯƠNG 6. KẾT LUẬN VÀ THẢO LUẬN 6.1. Kết luận Dưới gó nhìn của CMT, 3175 biểu đạt ẩn dụ về mùa, 4105 lần xuất hiện đã được xác định và thu thập từ 854 lời bài hát tiếng Anh và tiếng Việt. Phân tích dữ liệu dựa trên các khung phân tích của Steen (2011) đề xuất. Phương pháp định tính của CMA được sử dụng để mã hóa dữ liệu theo cách thủ công nhằm xác định các ẩn dụ về mùa. Sau đó, chúng được định lượng để hỗ trợ quá trình so sánh và đối chiếu giữa hai ngôn ngữ. Từ quá trình phân tích dữ liệu, các phát hiện chính của nghiên cứu có thể được tóm tắt câu trả lời cho câu hỏi nghiên cứu tổng thể nêu trên như sau: Mục đích của nghiên cứu là xác định các ẩn dụ về mùa trong tiếng Anh và tiếng Việt khi mùa được coi là miền đích và miền nguồn. Tổng cộng, có 58 ẩn dụ về mùa được tìm thấy từ hai nguồn ngữ liệu, với 40 ẩn dụ về mùa là miền mục tiêu và 18 ẩn dụ về ánh xạ mùa sang các miền khác. Đáng chú ý, số ẩn dụ với MÙA là miền đích cao hơn nhiều so với số ẩn dụ khi MÙA được coi là miền nguồn. Thực tế, THỜI GIAN được coi là miền đích trong các nghiên cứu liên quan đến ẩn dụ ý niệm (Lakoff và Johnson, 1980; Evans, 2004; Kövecses, 2005, 2010; Li, 2014; Walinski, 2014, v.v., ). Do đó, MÙA, một khái niệm về thời gian, được nhận thức một cách ẩn dụ với ứng dụng rộng rãi trong cả hai ngôn ngữ là điều dễ hiểu. Đồng thời, suy ra rằng việc tìm ra 18 phép ẩn dụ qua miền nguồn MÙA là tương đối mới mẻ. Ngoài việc tìm ra miền đích và miền nguồn, nghiên cứu còn phát hiện ra những điểm giống và khác nhau trong cách ẩn dụ về MÙA giữa tiếng Anh và tiếng Việt. Xét về mức độ khai thác ngôn ngữ, số liệu thống kê cho thấy kho ngữ liệu tiếng Việt có nhiều biểu đạt ẩn dụ hơn tiếng Anh, lần lượt là 1717 và 1458. Tuy nhiên, về tần số, ngữ liệu tiếng Anh chiếm ưu thế, với 2777 lần xuất hiện, trong khi tiếng Việt có 2061 lần xuất hiện. Có thể suy ra rằng các biểu thức ẩn dụ được lặp lại dày đặc trong lời bài hát tiếng Anh. Về miền, hai ngôn ngữ chia sẻ 40 ẩn dụ khi coi MÙA là cả miền nguồn và miền đích. Đặc biệt, được phân loại thành hai miền chính: thực thể động và thực thể vô tri, 30 miền nguồn giống nhau được tìm thấy. Hơn nữa, MÙA là miền đích ánh xạ lên 10 miền trừu tượng khác trong hai ngôn ngữ. Ngược lại, nghiên cứu phát hiện ra 8 miền phụ liên quan đến MÙA là miền đích và 2 miền phụ liên quan đến MÙA là miền nguồn chỉ bằng tiếng Anh. Ngược lại, có 4 miền nguồn và 6 miền đích được tìm thấy trong ngữ liệu tiếng Việt, nhưng chúng không có trong ngôn ngữ kia. Tóm lại, các miền nguồn và miền đích ánh xạ lên hoặc được ánh xạ thông qua thực thể MÙA được tổng hợp trong Bảng dưới đây: 17
  18. Bảng 6.1. Sơ đồ miền MÙA ánh xạ hoặc được ánh xạ Kết quả của nghiên cứu phù hợp với tuyên bố của Lakoff (1993): “các ánh xạ ẩn dụ khác nhau về tính phổ quát; một số dường như phổ biến, một số khác trải rộng và một số dường như là thu hẹp theo văn hóa. " (tr.245). Tuy nhiên, rõ ràng là khái niệm MÙA, như nó được thể hiện qua dữ liệu ngữ liệu, được ý niệm hóa với độ phức tạp hơn nhiều so với luận điểm theo Lakoff về các giả định CMT (Khajeh, 2013). 6.2. Thảo luận 6.2.1. Mức độ khai thác bốn mùa Về việc MÙA được coi là miền đích, dữ liệu từ cả hai ngôn ngữ cho thấy rằng MÙA được ý niệm hóa như là các thực thể vô tri vô giác và thực thể sống đồng đều trong bốn mùa, cụ thể là xuân, hạ, thu và đông. Nói cách khác, số lượng các biểu đạt ẩn dụ hỗ trợ cho các ẩn dụ về mùa là miền đích là khá bằng nhau trong phép ẩn dụ bốn mùa trong tiếng Anh và tiếng Việt. Mặc dù hầu hết các ẩn dụ khái niệm liên quan đến mùa như miền đích đều có sẵn trong bốn mùa tương đối như nhau, nhưng khái niệm về mùa như 18
  19. một miền nguồn lại khác nhau đối với mỗi mùa. Nó có nghĩa là mặc dù MÙA có thể được sử dụng để diễn đạt các lĩnh vực trừu tượng khác nói chung, mỗi mùa có xu hướng khai thác để ngụ ý một số khái niệm nhất định. Đặc biệt, MÙA XUÂN và MÙA HÈ thường được sử dụng để khái niệm hóa các khái niệm tích cực, trong khi các khái niệm tiêu cực dường như được hiểu qua MÙA THU và MÙA ĐÔNG trong hai ngôn ngữ. Ví dụ, tình yêu SỨC SỐNG, HI VỌNG hoặc HẠNH PHÚC được thể hiện qua MÙA XUÂN và HÈ. Cũng có thể hiểu được vì trong hai mùa có điều kiện sống tốt, sinh vật nói chung, con người nói riêng đều trải qua những điều tốt đẹp. Theo đó, mọi người sử dụng những mùa này để mô tả những điều tích cực. Ngược lại, SỰ SUY TÀN, TÌNH YÊU TAN VỠ, SỰ CÔ ĐƠN, NỖI BUỒN v.v., gắn liền với MÙA THU và MÙA ĐÔNG. Ngoài những điểm tương đồng được chia sẻ trong việc khai thác bốn mùa cho phép ẩn dụ, hai ngôn ngữ còn bộc lộ những điểm khác biệt. Thứ nhất, về số lượng diễn đạt ẩn dụ, mùa hè được khai thác hiệu quả nhất trong tiếng Anh; tuy nhiên, mùa thu được sử dụng nhiều nhất trong tiếng Việt. Trong khi đó, mùa thu và mùa hè được sử dụng với tỷ lệ thấp nhất so với các mùa khác trong dữ liệu tiếng Anh và tiếng Việt, điều này gây ngạc nhiên đáng kể cho tác giả của nghiên cứu này vì kết quả khác với dự đoán và giả định mà nhà nghiên cứu đã nghĩ trước khi thu thập và xử lý dữ liệu. Cụ thể hơn, lúc đầu tác giả nghĩ rằng mọi người sẽ sử dụng mùa xuân để ý niệm hóa hầu hết trong cả hai ngôn ngữ. Thứ hai, một số mùa được sử dụng để ý niệm các thực thể nhất định, có thể áp dụng trong ngôn ngữ này, nhưng không có trong ngôn ngữ kia, và ngược lại. Ví dụ: MÙA HÈ được sử dụng để nói về sự trường tồn, MÙA THU và MÙA ĐÔNG được sử dụng để diễn đạt khó khăn tồn tại trong tiếng Anh. Ngược lại, XUÂN được sử dụng để phản ánh vẻ đẹp, chiến thắng, tự do, v.v., chỉ có trong dữ liệu tiếng Việt. 6.2.2. Mức độ khai thác loại ẩn dụ Về các loại ẩn dụ ý niệm, phát hiện cho thấy một số loại ẩn dụ về mùa chiếm ưu thế trong cả hai ngôn ngữ. Dựa trên SIL International và Lakoff và Johnson (1980a), Sandström (2006) đã nhóm các kiểu ẩn dụ phụ thành một kiểu ẩn dụ cao hơn. Đặc biệt, các ẩn dụ thông thường bao gồm ẩn dụ bản thể, ẩn dụ định hướng và ẩn dụ cấu trúc. Trong ẩn dụ bản thể học, vật chứa đựng, ẩn dụ thực thể và ẩn dụ vật chất. Trên thực tế, những ẩn dụ này có mặt khắp nơi trong hai khối liệu với một số lượng lớn các ẩn dụ ngôn ngữ. Ví dụ, MÙA LÀ THỰC THỂ CỤ THỂ lần lượt có 152 và 137 biểu đạt bằng tiếng Anh và tiếng Việt. Theo đó, có thể kết luận rằng trong điều kiện MÙA được coi là 19
  20. miền đích, các ẩn dụ ý niệm về mùa chủ yếu là ẩn dụ phổ quát. Tương tự, liên quan đến phân cấp giản đồ (Kövecses, 2020), hầu hết các ẩn dụ được coi là miền đích thuộc về mức giản đồ cao, cụ thể là lược đồ hình ảnh và miền. Ví dụ: các ẩn dụ khái niệm MÙA LÀ ĐỐI TƯỢNG CHUYỂN ĐỘNG, MÙA LÀ VẬT CHỨA, MÙA LÀ VẬT ĐƯỢC CHỨA, MÙA LÀ KHÔNG GIAN, v.v., ở cấp giản đồ hình ảnh. Mặt khác, trong trường hợp MÙA là miền nguồn ánh xạ lên các thực thể trừu tượng, các ẩn dụ về MÙA ở đây là mới mẻ trong cả hai ngôn ngữ. Không giống như trường hợp mùa là miền đích, ở đây hầu hết các phép ẩn dụ đều ở mức giản đồ thấp, tức là khung và không gian tinh thần theo quan điểm của lược đồ Kövecses (2020). Nói cách khác, những ẩn dụ này trở nên cụ thể hơn. Trường hợp này có thể được minh họa thông qua một số ẩn dụ điển hình như HY VỌNG LÀ XUÂN, TÌNH YÊU LÀ MÙA, CÔ ĐƠN LÀ MÙA, v.v., được hiểu và diễn giải chủ yếu dựa trên ngữ cảnh cụ thể nơi những ẩn dụ này được tạo ra. Rõ ràng là liên quan đến các loại ẩn dụ, nghiên cứu cho thấy những phát hiện khác nhau, so với những nghiên cứu đã đề cập trước đó. Cụ thể hơn, bên cạnh các miền nguồn như CHUYỂN ĐỘNG, VẬT CHỨA, LỰC, TIỀN, CON NGƯỜI v.v., cũng được tìm thấy trong nghiên cứu nói trên liên quan đến việc khảo sát ý niệm về thời gian, nghiên cứu hiện tại còn tìm ra thêm các miền khác ánh xạ lên MÙA ví dụ: ÂM THANH, ÁNH SÁNG, CHẤT LỎNG, CÂY, v.v. Đặc biệt, các miền đích được ánh xạ thông qua MÙA được tìm thấy ở đây gần như mới. Nói cách khác, điều đáng ngạc nhiên là liên quan đến MÙA là miền đích, dữ liệu phát hiện ra rằng MÙA được khai thác để thể hiện các thực thể khác, cụ thể là miền trừu tượng. Vì vậy, việc ý niệm hóa về các thực thể trừu tượng thông qua miền MÙA đã không được tìm thấy trong các nghiên cứu trước đây, ngoại trừ phép ẩn dụ MÙA LÀ YÊU trong nghiên cứu của Hồ Trịnh Quỳnh Thư (2018). 6.2.3. Cơ sở lí giải cho ẩn dụ Một mục tiêu khác của nghiên cứu là đưa ra những lý giải cho những điểm tương đồng và khác biệt này, dựa trên cơ chế hình thành ý niệm và cấu tạo nhận thức của con người thông qua sự nghiệm than vật lý. Trong nghiên cứu này, cơ sở lý luận cho hiện tượng dựa trên cơ sở về môi trường vật chất, và môi trường văn hóa xã hội, nơi mà hai ngôn ngữ chia sẻ sự giống nhau và bộc lộ sự khác biệt. 6.2.3.1. Sự tương đồng 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2