intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Từ nối thuộc phạm trù tương phản trong văn bản tiếng Việt

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

10
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án "Từ nối thuộc phạm trù tương phản trong văn bản tiếng Việt" được hoàn thành với mục tiêu nhằm xác lập cơ sở lí luận thông qua việc trình bày một số vấn đề lí thuyết của Ngôn ngữ học Văn bản và lí thuyết Phân tích Diễn ngôn; Thống kê, miêu tả, phân tích và đối chiếu về mặt cấu trúc hình thức của nhóm từ nối trên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Từ nối thuộc phạm trù tương phản trong văn bản tiếng Việt

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------------------- LÊ THU LAN TỪ NỐI THUỘC PHẠM TRÙ TƯƠNG PHẢN TRONG VĂN BẢN TIẾNG VIỆT Ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 9 22 90 20 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC HÀ NỘI – 2023
  2. Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM VIỆN NGÔN NGỮ HỘC VIỆN KHOA HỌC XÁC HỘI VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS TS Phạm Văn Tình Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Hồng Cổn Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Xuân Hòa Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Đăng Sửu Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, họp tại Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội. Vào hồi .... giờ ... ngày .... tháng ..... năm 202... Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện Học viện Khoa học Xã hội
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Theo M.A.K. Halliday (1960, 1976) thì “Đơn vị cơ bản khi chúng ta sử dụng ngôn ngữ, không phải là từ hay câu mà là văn bản”. Như thế, chúng ta thực hiện chức năng giao tiếp không phải là một từ, một câu hay những câu rời rạc mà bằng những phát ngôn có liên quan với nhau, tạo thành một văn bản. Chính vì ý nghĩa này mà văn bản đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà ngôn ngữ học. Khi nói tới văn bản thì người ta sẽ nhắc đến một đặc trưng cơ bản và quan trọng nhất đó là tính liên kết (cohesion). Để tạo thành văn bản thì các câu trong đó phải gắn bó với nhau theo một nguyên tắc cơ bản với những phương thức liên kết nhất định. Trong số rất nhiều các phương thức liên kết được sử dụng trong văn bản như phép đối, phép lặp, phép liên tưởng, phép nối, phép thế, phép tỉnh lược, phép tuyến tính,… thì phép nối được dùng khá phổ biến. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa của phép liên kết nói chung, phép nối nói riêng mà chúng tôi thấy rằng đây là một trong những vấn đề đáng được quan tâm trong phạm vi ngữ nghĩa văn bản. Mọi phát ngôn trong văn bản đều có sự nối kết với nhau bằng các phép liên kết mà mỗi phép đều có một đặc trưng chỉ dấu hiệu riêng (phép lặp, phép đối, phép nối, phép tỉnh lược, phép liên tưởng, phép tuyến tính). Bản thân trật tự tuyến tính (không có dấu hiệu hiển hiện trong văn bản) nhưng cũng là một biểu hiện của sự liên kết (liên kết tuyến tính). Nhưng chỉ khi xuất hiện các phương tiện nối thì mới gọi là phép nối. Phép nối là phép liên kết dùng các phương tiện nối (cụ thể là các từ/ cụm từ nối) để tạo nên sự nối kết trong văn bản. Các từ/ cụm từ nối rất nhiều, đa dạng và được phân loại theo các phạm trù khác nhau: phạm trù hợp – tuyển, phạm trù nguyên nhân – kết quả, phạm trù thời gian – không gian, phạm trù khái quát – cụ thể, phạm trù tương phản – nhượng bộ, … Thực tế đã có nhiều nghiên cứu bước đầu về các đơn vị từ ngữ nối thuộc các phạm trù nói trên, nhưng nghiên cứu một cách có hệ thống và đưa ra mô hình khái quát về những từ nối thuộc phạm trù tương phản trong tiếng Việt thì hầu như chưa được quan tâm nhiều. Thông qua nghiên cứu này, chúng tôi muốn làm rõ giá trị liên kết cũng như khả năng tạo giá trị biểu đạt của nhóm từ nối thuộc phạm trù tương phản, cụ thể là xem chúng được sử dụng như thế nào, chức năng liên kết trong văn bản ra sao, mô hình khái quát hóa của từng từ, của cả nhóm từ này được thể hiện có gì đặc biệt, … Càng đi sâu vào từ nối và các phương tiện nối, ta càng thấy rõ “bức tranh” liên kết đa dạng và thú vị của từ nối tiếng Việt. Nhưng thực tế trong
  4. 2 giới Việt ngữ học, chưa có một công trình nghiên cứu đầy đủ, hệ thống về riêng nhóm từ tương phản trong tiếng Việt. Đây chính là lí do khiến chúng tôi bắt tay thực hiện đề tài luận án “Từ nối thuộc phạm trù tương phản trong văn bản tiếng Việt”. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mô tả, khái quát hóa mô hình cấu trúc, đặc điểm ngữ nghĩa cơ bản giữa hai vế (chủ ngôn và kết ngôn) của nhóm từ nối tương phản; tìm ra sự tương đồng hoặc khác biệt về đặc điểm cấu trúc và đặc trưng ngữ nghĩa của nhóm từ nối tương phản trong một số loại thể văn bản được khảo sát: văn bản văn học nghệ thuật, văn bản chính luận, văn bản khoa học. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Xác lập cơ sở lí luận thông qua việc trình bày một số vấn đề lí thuyết của Ngôn ngữ học Văn bản và lí thuyết Phân tích Diễn ngôn. - Thống kê, miêu tả, phân tích và đối chiếu về mặt cấu trúc hình thức của nhóm từ nối trên. - Thống kê, miêu tả, phân tích và đối chiếu đặc điểm về chức năng ngữ nghĩa (trong phạm vi một ngữ cảnh xác định) của nhóm từ nối trên. 3. Đối tượng, phạm vi và ngữ liệu nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Những từ nối thuộc phạm trù tương phản trong văn bản tiếng Việt (qua văn bản văn học nghệ thuật và một số văn bản chính luận, văn bản khoa học xã hội). 3.2. Phạm vi và ngữ liệu nghiên cứu Xem xét nhóm từ nối thuộc phạm trù tương phản được sử dụng không phải ở trong các phát ngôn giao tiếp (lời nói), cũng không phải là các phát ngôn riêng lẻ, mà là trong các phát ngôn gắn kết với nhau trong văn bản, đặc biệt là các văn bản văn học nghệ thuật, văn bản chính luận, văn bản khoa học. 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, luận án sẽ sử dụng các phương pháp và thủ pháp nghiên cứu sau: Phương pháp phân tích diễn ngôn, Phương pháp miêu tả ngữ nghĩa. Và các thủ pháp: Thủ pháp thu thập dữ liệu, Thủ pháp thống kê phân loại. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án là công trình khảo sát, phân tích, miêu tả toàn diện, hệ thống, cụ thể về nhóm từ nối thuộc phạm trù tương phản trong tiếng Việt trên phương diện cấu trúc phát ngôn và ngữ nghĩa liên kết, góp phần trả lời một câu hỏi mang tính giả thuyết: “Nếu coi từ nối là một chỉ dấu liên kết thì vai
  5. 3 trò của hai loại liên kết (liên kết cấu trúc và liên kết ngữ nghĩa) được biểu hiện như thế nào?” 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án Về lí luận: Mở rộng “biên độ nghiên cứu”, từ một phạm vi nghiên cứu cụ thể, luận án góp phần làm phong phú, sáng tỏ thêm lí thuyết về các phép liên kết và phương tiện liên kết trong tiếng Việt, đồng thời góp phần làm phong phú thêm lí thuyết Dạy tiếng (cho người nước ngoài). Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án đem lại những ứng dụng hữu ích trong thực tiễn sử dụng ngôn ngữ; biên soạn từ điển, biên soạn giáo trình chuyên khảo, giảng dạy ngôn ngữ; giúp người dạy và học hiểu và sử dụng chính xác hơn ngôn ngữ tiếng Việt. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nguồn ngữ liệu khảo sát, nội dung chính của luận án được cấu trúc thành ba chương như sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết của luận án. Chương 2: Liên kết cấu trúc của nhóm từ nối tương phản trong tiếng Việt. Chương 3: Liên kết ngữ nghĩa của nhóm từ nối tương phản trong tiếng Việt. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1. Tình hình nghiên cứu về văn bản và phép nối ở nước ngoài Những công trình nghiên cứu về văn bản và liên kết Ngôn ngữ học Văn bản ra đời và có lịch sử phát triển chưa dài. Manh nha từ những năm thuộc thập kỉ 50, nó chỉ được thừa nhận là một chuyên ngành ngôn ngữ học độc lập vào cuối những năm thuộc thập niên 60 và 70 của thế kỉ XX. Không dừng ở cấp độ câu, các nhà ngữ học đã mở rộng việc nghiên cứu ngôn ngữ trong phạm vi rộng hơn, tức là các đơn vị “siêu cú pháp” (Lúc đầu được các nhà Nga ngữ học gọi bằng những thuật ngữ như “chỉnh thể cú pháp phức hợp” (сложное синтаксическое целое), “thể thống nhất trên câu” (сверхфразовое единство). Ngay sau đó là rất nhiều bài báo, những công trình nghiên cứu xuất hiện và giới ngôn ngữ học đã chính thức ghi nhận một trào lưu nghiên cứu mới. Cuốn Cohesion in English (Phép liên kết trong tiếng Anh) của M.A.K. Halliday và R. Hassan ra đời năm 1976 được xem là công trình đầu tiên nghiên cứu về phép nối với tư cách là một phương tiện liên kết liên câu (có sự xuất hiện các từ nối). Ngoài cuốn sách của D. Nunan (1998), nhan đề
  6. 4 “Introduction Discourse Analysis” (Dẫn nhập phân tích diễn ngôn), tiếp tục còn có thêm một số công trình nghiên cứu khác, chẳng hạn của K. Boost, Z.S. Harris, Halliday, Hasan, W. Koch, L.M. Loseva, Crystal,… tất cả các nhà nghiên cứu đều thống nhất coi liên kết là đặc trưng quan trọng của văn bản, khi xem xét phép nối, các tác giả đã chỉ ra 4 loại quan hệ ngữ nghĩa chủ yếu của phép liên kết này: 1) nghịch đối, 2) bổ sung, 3) thời gian, 4) nguyên nhân. Đây cũng là căn cứ để các nhà Việt ngữ học: Trần Ngọc Thêm (1985, 1999, 2001), Diệp Quang Ban (2002, 2009), Nguyễn Thị Việt Thanh (1999), Phạm Văn Tình (1983, 2002), v.v… tiếp tục mạch nghiên cứu phép nối này trong tiếng Việt. Nghiên cứu về liên kết và phép nối Cohesion in English” của Halliday và Hasan được xem là công trình mở đầu, giữ vai trò quan trọng trong giai đoạn nghiên cứu về tính liên kết và phép nối trong văn bản. Các kết quả nghiên cứu về tính liên kết trong văn bản tiếng Anh đã chính thức đặt vấn đề cho các nhà ngữ học quan tâm nghiên cứu về vai trò của từ nối trong phép nối. J. R. Martin là người đầu tiên nghiên cứu kĩ về phép nối. Martin tiến hành nghiên cứu văn bản tiếng Anh trên bình diện hệ thống – cấu trúc (qua công trình English Text – System and Structure (Văn bản tiếng Anh – Hệ thống và Cấu trúc, 1992). Martin đã khảo cứu và phân tích sự biểu hiện của các phép liên kết và đặc biệt lưu ý tới “sự nối kết văn bản qua phép nối (có các từ nối hiện diện). Căn cứ vào ngữ liệu, ông phân biệt hai dạng thức nối: nối bên trong (internal relations) và nối bên ngoài (external relations) theo các quan hệ bổ sung (addictive relations), nhân quả (consiquential relations), so sánh (comparative relations), thời gian (temporal) và định vị (locative relations). Trong công trình An Introduction to Functional Grammar” (1998), Halliday đã làm rõ hơn khái niệm “tính liên kết” (cohesion), các phương thức liên kết tạo nên văn bản và sự mạch lạc (coherence) văn bản theo quan điểm của Ngữ pháp Chức năng. Khác với một số nhà nghiên cứu (về văn bản) trước đó, Halliday cho rằng, các phương tiện liên kết (các phép liên kết) bao gồm: phép quy chiếu, phép thay thế và tỉnh lược, phép nối, phép liên kết từ vựng. Qua những nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới thì phép nối tuy không được nghiên cứu rộng rãi nhưng so với các phép liên kết khác thì đã đạt được những kết quả đáng chú ý. Đây có thể xem là nền tảng quan trọng về mặt lí luận để có thể tiến hành nghiên cứu phép nối theo các mối quan hệ khác nhau.
  7. 5 1.2. Tình hình nghiên cứu về văn bản và phép nối ở trong nước Nghiên cứu về văn bản Ngôn ngữ học Văn bản đến khá chậm trong giới Việt ngữ học. Trên thế giới, chuyên ngành ngôn ngữ này đã manh nha từ những năm 50 và phát triển khá rầm rộ vào những năm 70 của thế kỉ XX. Có thể nói, vào năm 1973, hai tác giả Nguyễn Tài Cẩn và N.V. Stankevich đã phần nào đưa ra ý tưởng nghiên cứu các đơn vị trên câu. Nhưng người có vai trò tiên phong và đóng góp nhiều tâm huyết và công sức nhất phải kể đến Trần Ngọc Thêm. Năm 1985, qua công trình “Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt” (tái bản nhiều lần sau đó), ông đã trình bày một cách hệ thống, đầy đủ về những vấn đề lí thuyết của Ngôn ngữ học Văn bản và “áp” vào nghiên cứu thực tiễn tiếng Việt. Đến nay (2023), sau gần bốn chục năm, giới Việt ngữ học vẫn coi đây là tác phẩm đáng tham khảo nhất trong việc nghiên cứu các đơn vị trên câu “siêu cú pháp”. Một trong những tác giả có đóng góp quan trọng vào những thành tựu của ngôn ngữ học văn bản không thể không nhắc đến là Diệp Quang Ban. Ông đã có rất nhiều bài báo, chuyên luận viết về lĩnh vực này. Cuốn Giao tiếp - Văn bản - Mạch lạc - Liên kết - Đoạn văn (2002) đã tập hợp, hệ thống nhiều kết quả nghiên cứu. Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu của các tác giả Đỗ Hữu Châu (1994) và Nguyễn Thị Việt Thanh (1994, 1999), Lê Xuân Thại (1998), Phạm Văn Tình (2002), Lương Đình Dũng (2005), Lương Đình Khánh (2006), Bùi Văn Năm (2010)… Cùng với đó là những luận văn cũng đã nghiên cứu về vấn đề liên kết trong văn bản như: Phạm Thu Trang (2001), Dương Thị Bích Hạnh (2003), Thái Thị Như Quỳnh (2013), Nguyễn Thị Thu (2014), Lê Thị Thùy Linh (2015), Võ Thị Hường (2017), Nguyễn Thị Tố Hoa (2021) … Nghiên cứu về từ nối trong liên kết văn bản Trần Ngọc Thêm (trong Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt) đã đi sâu nghiên cứu các khía cạnh của văn bản cả từ phương diện ngữ pháp, ngữ nghĩa của phép nối. Ông phân loại các phương thức liên kết căn cứ vào đơn vị mà chúng liên kết (các phát ngôn hiện diện trên văn bản). Từ đó, tác giả chia ra 3 loại chính: 1) các phương thức liên kết chung, bao gồm: phép lặp, phép đối, phép thế đồng nghĩa, phép liên tưởng, phép tuyến tính; 2) các phương thức liên kết hợp nghĩa, bao gồm: phép thế đại từ, phép tỉnh lược yếu, phép nối lỏng; 3) các phương thức liên kết trực thuộc, bao gồm: phép tỉnh lược mạnh, phép nối chặt. Ở đây, phép nối có sự phân biệt. Trần Ngọc Thêm phân loại thành hai loại: phép nối lỏng và phép nối chặt. Tác giả đã phân chia phép nối lỏng dựa trên phương thức liên kết hợp nghĩa và phát
  8. 6 ngôn hợp nghĩa còn phép nối chặt dựa trên phương liên kết của ngữ trực thuộc. Tiếp đó, Diệp Quang Ban (trong Văn bản và liên kết trong tiếng Việt (1998) đã nghiên cứu rộng và kĩ tới một loạt vấn đề mà Ngôn ngữ học Văn bản quan tâm: văn bản, đoạn văn, liên kết, mạch lạc. Trong việc phân chia phép nối ở cấp độ vĩ mô, giống với kết quả phân chia của Trần Ngọc Thêm, tác giả cũng chia phép nối thành hai loại lớn: phép nối lỏng và phép nối chặt. Nguyễn Thị Việt Thanh trong Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt (1999) đã tiến hành khảo sát và xây dựng hệ thống liên kết lời nói xuất phát từ hệ thống liên kết văn bản đã được bổ sung chỉnh lí: liên kết bao gồm liên kết ngữ kết học và liên kết ngữ dụng học. Theo tác giả thì phương thức liên kết lời nói thể hiện trên hai phương diện: liên kết bằng phương thức ngữ kết học và liên kết bằng phương thức ngữ dụng học. Đi sâu vào phương thức liên kết ngữ kết học, tác giả tiếp tục phân chia thành ba tiểu loại: liên kết duy trì chủ đề, liên kết phát triển chủ đề và liên kết logic. Nguyễn Thiện Giáp (2009), với công trình Dụng học Việt ngữ cũng đã nghiên cứu tới phép nối. Tác giả đã phân loại và mô tả khá kĩ phép liên kết này. Ông chia các dạng biểu hiện của phép nối trong tiếng Việt thành 4 loại liên kết khác nhau: 1) đồng hướng, 2) ngược hướng, 3) nhân quả, 4) thời gian – trình tự. Ông cũng xem xét vị trí liên kết của phép nối qua liên kết hồi chỉ (anaphora) và khứ chỉ (cataphora). Đặc biệt theo Nguyễn Thiện Giáp thì trong tiếng Việt còn có những từ, tổ hợp từ (cụm từ) có chức năng liên kết được sử dụng khá phổ biến (mà không phải chỉ các liên từ mới được sử dụng) để nối, như: với lại, thêm vào đó, ngoài ra, tương tự, một mặt thì, mặt khác thì, tóm lại, hay là, ấy là chưa kể, nếu như, với lý do, với điều kiện, trong hoàn cảnh, ngay lập tức, lúc đó, trên đây, sau đó, v.v. Trong cuốn Logic- ngữ nghĩa từ hư tiếng Việt (2016), Nguyễn Đức Dân phân tích ba nhóm từ hư (phụ từ, quan hệ từ và tình thái từ); những từ này được coi là có các ý nghĩa tình thái và mối quan hệ khác nhau. Ngoài các công trình đề cập tới các từ ngữ nối đã nêu trên thì còn có một loạt các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành và hội thảo khoa học đề cập đến từ ngữ nối ở những khía cạnh và mức độ khác nhau. Trên cơ sở lí thuyết chung về kết tử, các tác giả đã có những giới thuyết căn bản về kết tử tiếng Việt, mở đường cho nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu tiếp theo về lập luận trong tiếng Việt. Ngoài ra, việc nghiên cứu phép nối tiếng Việt và so sánh với tiếng Anh hoặc ngược lại cũng là hướng nghiên cứu đang được chú ý hiện nay. Chẳng hạn, nghiên cứu của một số tác giả như: Ngô Thị Bảo Châu (2009), Bùi Văn Năm (2010), Nguyễn Thị Thanh Hà (2011), Nguyễn Thị Hoa
  9. 7 (2011), Nguyễn Thị Hoàng Huế (2012), Nguyễn Thị Tố Hoa (2021)… Các nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào việc đối chiếu phép nối trong tiếng Việt với tiếng Anh trên một số phương diện như đặc điểm cú pháp, đặc điểm ngữ nghĩa. Tuy nhiên, các công trình trên chỉ tập trung đối chiếu phép nối nói chung, không đi sâu vào đối chiếu các nhóm từ nối cụ thể. Cho đến nay đã có một số nhóm từ nối tiếng Việt theo phạm trù được nghiên cứu bước đầu, chẳng hạn: Thái Thị Như Quỳnh (2013) nghiên cứu về các cặp từ nối theo phạm trù hợp - tuyển , Nguyễn Thị Thu (2014) nghiên cứu từ nối theo phạm trù tương phản - nhượng bộ, Vũ Thị Huyền Trang (2014) nghiên cứu từ nối theo phạm trù tương phản, Võ Thị Hường (2017) nghiên cứu nhóm từ, cụm từ nối theo phạm trù kết quả - tổng kết, v.v. 1.2. Cơ sở lí luận của luận án Luận án dựa vào lí thuyết Ngôn ngữ học Văn bản và lí thuyết Phân tích Diễn ngôn làm tiền đề và làm xuất phát điểm về mặt lí luận. Ngôn ngữ học Văn bản, như đã nói, đã có sự phát triển mạnh mẽ trên thế giới từ những năm 70 của thế kỉ XX, được giới thiệu ở Việt Nam giữa những năm 80 và được giới Việt ngữ học hưởng ứng rất mạnh mẽ trong những năm sau đó. 1.2.1. Quan niệm và hướng tiếp cận của luận án Vấn đề liên kết và vai trò của các từ hư nói chung, từ nối nói riêng, đều được xem xét ở hai bình diện: liên kết cấu trúc và liên kết ngữ nghĩa. Nhóm từ nối tương phản bao gồm những từ, tổ hợp đa dạng về loại từ nhưng có chung chức năng quan hệ và ngữ pháp. Muốn thực hiện được điều này, luận án sẽ đi sâu nghiên cứu vai trò của các từ nối theo phạm trù tương phản trong tiếng Việt trên phương diện tĩnh và động trong việc tạo lập các đơn vị thực thi chức năng giao tiếp. Muốn thế, luận án sẽ căn cứ vào nghĩa tự thân của mỗi từ nối. Tiếp đó là xem xét phạm vi liên kết của các từ nối đó để chỉ ra giá trị, công năng ngữ nghĩa của cả chuỗi phát ngôn tạo thành một “thông điệp ngữ nghĩa” trên nền tảng của lập luận phản đề. 1.2.2. Về các khái niệm phát ngôn, câu, văn bản, diễn ngôn Phát ngôn và câu Trước đây, ngôn ngữ học truyền thống xem câu là đơn vị ở bậc cao nhất, đơn vị thực hiện chức năng thông báo và được định nghĩa theo ba tiêu chí. Trong một chừng mực nào đó, câu chủ yếu được xem xét ở mặt tĩnh tại, tách khỏi ngữ cảnh giao tiếp. Phát ngôn (utterance) chính là đơn vị hiện thực của câu trong giao tiếp. Nó là sản phẩm của lời nói, gắn liền với từng ngữ cảnh giao tiếp cụ thể. Như vậy, câu và phát ngôn thực chất không phải là hai đơn vị ngôn ngữ khác nhau.. Trong đề tài nghiên cứu của mình, chúng tôi lấy định nghĩa phát ngôn của Trần Ngọc Thêm (1999) làm căn cứ xử lí các trường hợp cụ thể.
  10. 8 Văn bản và diễn ngôn Có thể nói, hai thuật ngữ văn bản (text) và diễn ngôn (discourse) được hiểu và điều chỉnh qua từng thời kì. Ở giai đoạn đầu tiên, giới ngữ học quan tâm nghiên cứu tới ngôn ngữ dưới dạng chữ viết. Cho nên văn bản được dùng chỉ các sản phẩm ngôn ngữ ở dạng viết (hoàn chỉnh về cấu trúc và có tính liên kết ngữ nghĩa). Ở giai đoạn thứ hai, các nhà nghiên cứu nhận ra một điều, ngôn ngữ nói (hội thoại) chiếm một dung lượng lớn và giữ vai trò quan trọng trong giao tiếp nên thuật ngữ diễn ngôn được sử dụng song song với văn bản. Trong đó diễn ngôn chỉ “ngôn ngữ nói” và văn bản chỉ “ngôn ngữ viết”. Đến giai đoạn tiếp theo (và hiện nay), thuật ngữ diễn ngôn được dùng để chỉ tất cả các sản phẩm ngôn ngữ trong giao tiếp, bất luận nó được sinh ra từ các cuộc đối thoại tự nhiên hay từ các văn bản được viết ra (truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ, văn bản hành chính, văn bản khoa học…). Thuật ngữ văn bản vẫn được dùng để chỉ các sản phẩm ngôn ngữ viết. 2.3. Vấn đề tính liên kết Liên kết trong văn bản Liên kết (cohesion) là một khái niệm, chỉ một đặc điểm cơ bản trong sự nối kết các đơn vị ngôn ngữ, đặc biệt là văn bản. Bản thân văn bản là một tập hợp mà những phần tử của nó chính là các phát ngôn. Phát ngôn chính là “đơn vị hạt nhân” của văn bản với những quan hệ nhiều chiều. Liên kết chính là mạng lưới của những quan hệ và liên hệ ấy. Có thể nói, sự liên kết giữa các phát ngôn tạo thành một “ma trận liên kết”, chúng luôn có một sợi dây gắn kết hữu hình (thể hiện ra bằng các phương tiện liên kết) hay vô hình (phương tiện liên kết zéro) và những sợi dây này được kéo từ đầu nọ sang đầu kia, nhiều đến nỗi tạo nên một mạng lưới dày đặc (trong tiếng Hi Lạp thì “testa” còn có nghĩa là “tấm vải dệt”), trong đó mỗi đơn vị riêng biệt gắn kết chặt chẽ với những đơn vị còn lại. Phương thức liên kết và phương tiện liên kết Liên kết gồm có liên kết nội dung và liên kết hình thức. Liên kết nội dung được thể hiện bằng hệ thống các phương tiện liên kết hình thức và liên kết hình thức chủ yếu dùng để diễn đạt sự liên kết nội dung. Liên kết hình thức (liên kết cấu trúc) có thể dễ dàng được nhận diện nhờ các phương tiện ngôn ngữ tường minh trên văn bản (qua các từ, phát ngôn, chuỗi phát ngôn)… Còn liên kết nội dung thể hiện ở sự gắn bó chặt chẽ của liên kết chủ đề và liên kết logic. Như vậy, phương thức liên kết chính là cách sử dụng các phương tiện ngôn ngữ để tạo ra sự liên kết cho văn bản. Phương tiện liên kết rất đa dạng, có nhiều hình thức và cách biểu hiện khác nhau. Bất kì văn bản nào cũng có sự nối kết. Các phát ngôn miêu tả sự tình đứng cạnh nhau theo trật tự tuyến tính cũng làm nên sự nối kết. Nhưng chúng ta
  11. 9 chỉ xem xét phép nối khi trên văn bản xuất hiện các “chỉ dấu” nối kết (tức các phương tiện nối). Hai mặt của sự liên kết văn bản Từ quan điểm vừa đề cập trên, ta có thể thấy các nhà ngôn ngữ đều xem xét tính liên kết căn cứ vào cả hai mặt của liên kết. Phương thức liên kết (thường gọi là biện pháp liên kết hay phép liên kết) chính là cách sử dụng các phương tiện ngôn ngữ để tạo ra liên kết văn bản. 2.4. Mạch lạc trong văn bản Từ lâu, các tên gọi “liên kết” (cohesion) và “mạch lạc” (coherence) đã trở nên phổ biến trong phân tích diễn ngôn và ngôn ngữ học văn bản, cũng như trong ngữ pháp và phong cách học. Nhiều ý kiến cho rằng liên kết chưa đủ để cho một sản phẩm ngôn ngữ trở thành một văn bản. Thậm chí có nhiều người còn cho rằng liên kết cũng không phải là điều kiện cần cho một văn bản vì không có nó một văn bản vẫn có thể là một văn bản. Còn về mạch lạc thì tuy có các quan điểm khác nhau nhưng mọi người đều thống nhất coi mạch lạc là điều kiện và là yếu tố quyết định tạo thành văn bản. Thực tế, có liên kết mới tạo nên mạch lạc. Theo Trần Ngọc Thêm (1985) và I. P. Gal’perin (1987), mạch lạc chính là một mặt biểu hiện của liên kết nội dung. 1.3. Phép nối và từ nối 1.3.1. Phép nối và sự phân loại phép nối trong tiếng Việt 1.3.1.1. Các quan niệm về phép nối Phép nối là một trong những phương thức liên kết văn bản được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm; phép nối thực chất cũng là phép liên kết. Phép nối dùng để kết nối các mệnh đề trong câu, kết nối các câu trong một đoạn văn, và kết nối các đoạn văn trong một văn bản. Nhờ có phép nối mà ý nghĩa của các mệnh đề, câu hay đoạn văn trở nên được sáng rõ, tường minh. Phép nối có vị trí khác với các phép liên kết khác. 1.3.1.2. Phân loại phép nối trong tiếng Việt Nếu sự có mặt của các phương tiện nối chỉ làm cho phát ngôn chứa nó phụ thuộc vào chủ ngôn về mặt nội dung mà không ảnh hưởng đến mặt cấu trúc thì ta có phép nối lỏng. Nhưng nếu sự có mặt của các phương tiện nối có khả năng làm thay đổi cấu trúc của kết ngôn, khiến nó phụ thuộc vào chủ ngôn không chỉ về mặt nội dung mà cả về mặt ngữ nghĩa thì ta có phép nối chặt. 1.3.2. Từ nối và phân loại từ nối Từ nối (conjunctions, linking-words, connectors) là những từ giúp liên kết các từ, cụm từ, câu và mệnh đề lại với nhau tạo thành câu và đoạn văn hoàn chỉnh, hay và mạch lạc.
  12. 10 Từ nối hay quan hệ từ là những hư từ, do đó chúng không có ý nghĩa từ vựng mà chỉ chỉ thuần túy mang ý nghĩa ngữ pháp tức là ý nghĩa biểu thị quan hệ chức năng của các đơn vị ngữ pháp, chúng không làm thành tố trung tâm trong cụm từ, và do đó cũng không làm thành phần câu. Theo Phạm Văn Tình (1983), từ nối trong tiếng Việt có thể được chia thành các phạm trù như sau (mà chúng tôi căn cứ để phân loại, nhận diện và khảo sát): 1. Hợp - tuyển: gồm các từ và cụm từ nối: và, hay (là), hoặc (là)... 2. Tương phản: nhưng, trái lại, ngược lại, tuy vậy, tuy nhiên, mặc dù… 3. Thừa nhận - khẳng định: nói đúng ra, nói thật tình, thực ra, quả nhiên, thực vậy... 4. Thời gian - không gian: sau đây, đồng thời, thế rồi, trong khi đó, trước hết… 5. Nhấn mạnh: đặc biệt là, thậm chí, nhất là, ít ra, huống chi, ấy là... 6. Giải thích - bổ sung: nói cách khác, cụ thể là, nghĩa là, vả lại, tức là, ngoài ra... 7. Minh họa - giới thiệu: ví dụ, chẳng hạn, thứ nhất là, thứ hai là, như sau... 8. Giả thiết - nguyên nhân: nếu, bởi vì, miễn là... 9. Kết quả - tổng kết: vì vậy, cho nên, vậy nên, do đó, rốt cuộc, tóm lại, nhìn chung, để cho, để rồi, nói chung... 1.4. Ngữ nghĩa học (Semantics) Ngữ nghĩa học là thuật ngữ của lí thuyết chung về tín hiệu, tức là bộ môn nghiên cứu phương diện của những quan hệ giữa tín hiệu với hiện thực được nói tới trong thông điệp, nói đúng hơn là giữa tín hiệu với vật được quy chiếu trong thông điệp. Đây là lĩnh vực của chức năng miêu tả, của những thông tin miêu tả, thông tin sự vật. Nói cách khác, nghĩa học có thể được hiểu như là một thuật ngữ của lí thuyết chung về nội dung tín hiệu. Theo cách hiểu này, nghĩa học là một bộ môn của ngôn ngữ học nghiên cứu mối quan hệ giữa các tín hiệu và hiện thực mà chúng biểu đạt, tức nghiên cứu ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ, mối quan hệ giữa hình thức và nội dung của tín hiệu ngôn ngữ. Theo Lê Quang Thiêm: “Ngữ nghĩa học là bộ môn, môn học nghiên cứu nghĩa của các biểu thức, các đơn vị ngôn ngữ trong hệ thống cũng như trong hoạt động hành chức ở diện đồng đại cũng như trong tiến trình phát triển lịch sử của ngôn ngữ.” Trong lịch sử ngôn ngữ học, có các khuynh hướng nghiên cứu ngữ nghĩa khác nhau trên thế giới. Đó là: 1. Ngữ nghĩa học truyền thống, 2. Ngữ nghĩa học cấu trúc, 3. Ngữ nghĩa học hình thức, 4. Ngữ nghĩa học tri nhận. Mỗi khuynh hướng lại dựa trên quan điểm, cách tiếp cận, cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu khác nhau. Mỗi khuynh hướng đều bộc lộ những mặt mạnh và bất cập trong việc tiếp cận đối tượng. Cũng bởi giải mã sao
  13. 11 cho đúng ngữ nghĩa (của mọi sản phẩm trong giao tiếp ngôn ngữ) luôn là vấn đề phức tạp (liên quan tới mỗi đơn vị ngôn ngữ, đến ngữ cảnh giao tiếp, tâm lí giao tiếp…) mà ứng dụng một phương pháp nào cho phù hợp luôn là yêu cầu đặt ra đối với mọi nhà ngôn ngữ. 1.5. Nghiên cứu từ nối theo hướng Ngữ nghĩa học 1.5.1. Bình diện hình thức Mọi sản phẩm ngôn ngữ được hiện thực hóa trong giao tiếp đều có một hình thức thể hiện. Hình thức đó có thể được thể hiện bằng một từ (cụm từ), phát ngôn (câu), chuỗi câu (văn bản). Các từ nối được xem xét ở đây thuộc phép nối chặt (từ nối tác động làm thay đổi ngữ nghĩa của chuỗi phát ngôn). Mô hình A. rB là mô hình tổng quát của mối quan hệ giữa chủ ngôn và kết ngôn được thể hiện bằng từ nối. Từ nối này có chức năng như thế nào là công việc tiếp theo mà luận án phải thực hiện. 1.5.2. Bình diện ngữ nghĩa Luận án sẽ kết hợp xem xét các phát ngôn được nối kết bằng các từ nối theo phạm trù tương phản trước hết căn cứ vào các dấu hiệu liên kết hình thức. Trên cơ sỏ ngữ liệu “tường minh” đó mà từng bước chỉ ra ngữ nghĩa của toàn thông điệp. Nó cỏ thể chỉ trong phạm vi hai phát ngôn liền kề (chủ ngôn, kết ngôn) và cũng có thể mở rộng ngữ cảnh xem xét nhiều phát ngôn liên quan. 1.6. Tiểu kết Để làm cơ sở cho những nghiên cứu về đề tài của luận án, chương này đã đề cập đến những lí thuyết ngôn ngữ học có liên quan như: Lí thuyết Ngôn ngữ học Văn bản, Lí thuyết Phân tích Diễn ngôn, đặc biệt giới thiệu tổng thể về các phép liên kết văn bản, trong đó đi sâu phân tích về phép nối (và các khái niệm liên quan: phát ngôn, câu, văn bản, diễn ngôn, liên kết, mạch lạc). Giới thuyết về những vấn đề cơ bản của Ngữ nghĩa học (Semantics) Chúng tôi đã điểm qua các cách gọi và các cách phân loại từ nối và chọn cách phân loại của Phạm Văn Tình (1983), phân các tiểu nhóm theo các phạm trù ngữ nghĩa. Phần khảo sát, miêu tả và phân tích các chương tiếp theo của nhóm từ nối theo phạm trù tương phản sẽ căn cứ vào cách phân loại này. Trên cơ sở các lí thuyết nền tảng trên (coi đó là xuất phát điểm cơ bản về mặt lí luận), chúng tôi sẽ vận dụng vào xem xét từ nối tương phản trên bình diện cấu trúc, ngữ nghĩa.
  14. 12 CHƯƠNG 2 LIÊN KẾT CẤU TRÚC CỦA NHÓM TỪ NỐI TƯƠNG PHẢN TRONG VĂN BẢN TIẾNG VIỆT 2.0. Dẫn nhập Từ nối theo phạm trù tương phản, như đã trình bày trong phần lí luận của chương 1, bao gồm các từ và tổ hợp từ tham gia vào kết cấu có quan hệ tương phản hay đối lập được xác định và được đánh dấu bằng các từ nối có chức năng liên kết chuyên dụng như: nhưng (song), nhưng mà, tuy nhiên, tuy vậy, mặc dù, mặc dầu, trái lại, ngược lại… 2.1. Phân loại nhóm từ nối theo phạm trù tương phản Dựa vào số lượng tiếng của từ nối tương phản lại có thể chia nhóm đơn thành hai loại: + Từ nối tương phản có một tiếng: nhưng, song, tuy… + Từ nối tương phản có hai tiếng: tuy vậy, tuy nhiên, thế nhưng, nhưng mà, dù cho, dẫu cho, dẫu rằng,… + Từ nối tương phản có ba tiếng trở lên: nhưng trái lại, song ngược lại, thế nhưng mà,… (có kết cấu là quán ngữ, hoặc kết cấu ngẫu hợp). Dựa vào kết quả phân loại của các nhà nghiên cứu, chúng tôi xin tập hợp lại trong một danh sách gồm những từ ngữ chuyên dụng biểu thị ý nghĩa tương phản này là: nhưng, mà, mà là, còn, nhưng mà, nhưng vẫn, thế nhưng, thế mà, thế nhưng mà, trái lại, ngược lại, tuy, tuy vậy, tuy nhiên, tuy thế, dù, mặc dù, dù cho, cho dù, song, song le, mặt khác, thật ra (là)... Trong phạm vi luận án này, để tập trung, chúng tôi có hạn chế phạm vi, chỉ khảo sát và miêu tả một số nhóm từ nối tiêu biểu để làm rõ cấu trúc liên kết điển hình (chương 2) và đặc điểm ngữ nghĩa cơ bản (chương 3). 2.2. Mối quan hệ đối ứng giữa chủ ngôn và kết ngôn với 4 mô hình cơ bản Qua khảo sát, có thể quy về bốn mô hình đối ứng cơ bản. - Chủ ngôn và kết ngôn theo quan hệ 1:1. Mô hình: A. rB1 - Chủ ngôn và kết ngôn theo quan hệ 1:n (n ≥ 2). Mô hình: A. rB1, B2, B3,… - Chủ ngôn và kết ngôn theo quan hệ n:1 (n ≥ 2). Mô hình:
  15. 13 A1, A2, A3. rB1 - Chủ ngôn và kết ngôn theo quan hệ n:n (n ≥ 2). Mô hình: A1, A2, A3,… rB1, B2, B3,… 2.3. Cấu trúc tương phản điển hình qua từ nối “nhưng/song” Trong các từ nối tương phản mà chúng tôi khảo sát (bao gồm 9 tài liệu, theo các thể loại: văn học nghệ thuật, khoa học, chính luận) thì cặp từ nối “nhưng/ song/ nhưng mà…” chiếm tỉ lệ cao nhất (81%). Còn lại là các từ nối khác (tuy vậy/ tuy nhiên/ tuy thế (14%), trái lại/ ngược lại (5%). 2.3.1. Xác định nghĩa Nhìn chung, các từ điển giải thích ngôn ngữ đều khá nhất quán trong quan niệm, về lời giải thích ý nghĩa chức năng và dẫn chứng miêu tả giống nhau của "nhưng" và “song” là: biểu thị điều sắp nói ra, đối lập, trái ngược, tương phản với ý do điều vừa nói đến có thể gợi ra. Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, Trung tâm Từ điển học, Nxb Đà Nẵng, 2020) định nghĩa: nhưng (k. - kết từ) từ biểu thị điều sắp nêu ra ngược với ý do điều vừa nói đến có thể gợi ra. Việc nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn. Muốn đi xem nhưng không có vé. song (k. - kết từ) [vch] như nhưng [nhưng nghĩa mạnh hơn]. Số lương anh ấy tuy ít ỏi, song cũng cũng đủ nuôi vợ con. (Vũ Trọng Phụng) 2.3.2. Mô hình liên kết của từ "nhưng" Mô hình khái quát Với những kí hiệu A, B là những nội dung bất kì ở trước và/hoặc sau từ nối tương phản, chúng tôi tiến hành mô hình hóa cấu trúc quan hệ tương phản của "nhưng" trong cấu trúc như sau: A nhưng B Đây là mô hình cấu trúc phát ngôn tương phản phổ biến nhất có sự tham gia của từ "nhưng". Mô hình biến thể Mô hình phản ánh một vị trí phổ biến của "nhưng" là đứng ở đầu câu biểu thị quan hệ tương phản giữa các câu, tức liên kết ở cấp độ văn bản, là: A. Nhưng B
  16. 14 Chúng tôi sẽ lần lượt khảo sát, mô tả và đánh giá vai trò, giá trị và ý nghĩa của việc sử dụng các kết cấu tương phản được thiết lập theo những mô hình này về mức độ tương phản thông qua các hình thức đánh dấu trong kết cấu. 2.3.3. Phạm vi liên kết của từ "nhưng" Phạm vi cú pháp Ở trên chúng tôi đã xem xét kết cấu có "nhưng" được đánh dấu bằng việc sử dụng dấu câu trên văn bản phù hợp với mối quan hệ giữa các vế. Đến đây, chúng tôi xem xét hoạt động hành chức của kết cấu có "nhưng" trong phạm vi các đơn vị ngữ pháp chức năng được thể hiện như thế nào. Cụ thể là xem xét cấu trúc có "nhưng" với khả năng tham gia vào các thành tố, thành phần câu ngữ pháp nào và thể hiện ý nghĩa của kết cấu mà chúng tham gia ra sao. Phạm vi liên kết liên phát ngôn Ở cấp độ văn bản, khi quan hệ liên kết giữa các phát ngôn, các câu, cũng thường được gọi là liên phát ngôn, liên liên câu hay đoạn văn, ta thấy quan hệ tương phản được thể hiện như mô hình (vừa nói ở trên): A. Nhưng B Mô hình "A. Nhưng B " đã thể hiện một bối cảnh ngữ pháp quan hệ liên kết trên câu. Thứ hai, mô hình cũng giả định vấn đề quy mô cấu tạo của A và B giả định thực tế sẽ có biên độ, ranh giới như thế nào. Có thể coi cấu trúc này là sự mở rộng quy mô cấu tạo của các bộ phận cấu thành, từ những thành phần câu phát triển mở rộng lên thành các câu và được đánh dấu bằng dấu chấm câu để phân tách, thay vì dùng dấu phẩy trong sự phân tách các thành phần câu. 2.4. Đặc điểm cấu trúc nghĩa trong mô hình Chức năng tạo nghĩa tương phản trong thành phần câu Từ những khảo sát và phân tích các ví dụ, chúng tôi rút ra một số đặc điểm chức năng ngữ pháp và cấu trúc ngữ nghĩa của toàn bộ kết cấu cũng như các bộ phận cấu thành quan hệ tương phản trong mô hình "A nhưng B". Chức năng biểu hiện nghĩa lâm thời Như đã nói ở trên, các nhóm từ nối được xếp riêng là do chúng có chung ý nghĩa chức năng của từng nhóm. Tuy nhiên trong thực tế sử dụng, trong những văn cảnh cụ thể, có những từ nối thuộc nhóm chuyên dụng này lại được dùng để biểu thị ý nghĩa chức năng của từ nối khác và khi đó chúng có thể thay thế cho nhau được. Từ "nhưng" cũng được sử dụng với ý nghĩa lâm thời và với chức năng kiêm nhiệm ấy, nó có thể được giải thích bằng nhiều kiểu quan hệ khác nhau tuỳ thuộc vào ngữ cảnh.
  17. 15 Tổ hợp "nhưng cũng" Đó là khi "nhưng" có những phó từ khác đi cùng và kết hợp thành nhóm từ như: "nhưng không", "nhưng cũng", "nhưng cũng không", "nhưng vẫn", "nhưng vẫn không", "vẫn không"… và đều tham gia vào việc biểu thị hoặc làm tăng sắc thái ý nghĩa tương phản. Tổ hợp "nhưng mà" Ở vai trò là một hư từ, nhìn chung, các từ điển tiếng Việt đều xem xét và nhìn nhận khá giống nhau về từ "mà", coi "mà" là một từ thuộc đa loại với những chức năng khác nhau như kết từ, liên từ, đại từ hay trợ từ; thường dùng trước động từ, tính từ hoặc trước cấu trúc thành phần câu, thậm chí trước chủ ngữ - vị ngữ. Với chức năng của một đại từ thay một danh từ đã nêu ở trên, làm cho rõ điều vừa nói về một đặc điểm cụ thể. 2.5. Tiểu kết Trong chương 2 này, chúng tôi đề cập đến cấu trúc của nhóm từ nối tương phản trong tiếng Việt. Trong chương này, chúng tôi đã trình bày quan điểm, tiêu chí phân loại và tiếp đó, tiến hành phân loại nhóm từ nối theo phạm trù tương phản tiếng Việt. Theo số liệu thống kê thì các từ nối theo phạm trù này xuất hiện với tần số và mức độ khác nhau (trong tổng thể và trong bản thân mỗi loại hình văn bản: văn học nghệ thuật, chính luận, khoa học). Chúng tôi cũng tiến hành phân tích đặc điểm và sự hành chức cơ chế nghĩa của nhóm từ nối tương phản (trong quan hệ giữa chủ ngôn với kết ngôn), bao gồm 2 hướng liên kết cơ bản: 1) liên kết tường minh và 2) liên kết suy luận, lập luận. Phân tích được hai hướng này sẽ làm rõ các vấn đề liên kết cấu trúc và liên kết ngữ nghĩa. Để có căn cứ làm rõ hai mối liên kết đó, chúng tôi cho rằng phải xem xét, phân lập và chỉ ra một ngữ cảnh đủ bề rộng trong mối liên kết chịu sự chi phối của từ nối tương phản (đứng đầu kết ngôn). Đó là mối quan hệ đối ứng giữa hai vế liên kết đang xét (chủ ngôn và kết ngôn). Từ đây, luận án chỉ ra 4 mô hình đối ứng cơ bản (1:1, 1:n, n:1, n:n). Mở rộng phạm vi liên kết từ nối sẽ giúp cho người đọc nhìn ra giá trị ngữ dụng trong các cấu trúc lập luận mang sắc thái tương phản – đối lập. Cơ chế biểu hiện phổ biến, cơ bản của phạm trù liên kết tương phản được phân tích kĩ, nhiều mặt qua cặp từ nối “nhưng/song”. Đây là cặp từ nối điển hình, chiếm tỉ lệ cao nhất trong các mẫu khảo sát (qua 9 tác phẩm được lựa chọn từ các tác phẩm văn học, khoa học, chính luận). Từ cơ chế này, luận án sẽ nhận diện và chỉ ra diễn biến, sự hành chức của cách diễn đạt mang tính “phản đề” (của người nói, người viết) thể hiện qua từng từ nối thuộc phạm trù tương phản. Các biến thể của từ nối “nhưng/song” cho
  18. 16 thấy tính phức tạp về cấu trúc và theo đó là sự sinh động, phong phú về ngữ nghĩa biểu hiện của nó. Trong vai trò, chức năng ngữ pháp của mình, từ nối tương phản đã hoạt động như một chất kết dính các đơn vị từ ngữ, phát ngôn… thành một kiểu kết cấu có ý nghĩa tương phản, cũng tức là biểu hiện quan hệ tương phản. Như vậy, từ nối tương phản đã tạo ra một loại kết cấu có ý nghĩa đặc trưng riêng biệt, giống như những kiểu loại kết cấu khác có chung một nội dung biểu hiện nhưng khác nhau về quy mô cấu tạo. Kết cấu tương phản có thể đóng vai trò ngữ pháp khác nhau trong nhiều loại đơn vị ngôn ngữ ở các cấp độ khác nhau, từ đơn vị thành phần câu đến các phát ngôn (câu), đoạn văn trong mọi loại thể văn bản. CHƯƠNG 3 LIÊN KẾT NGỮ NGHĨA CỦA NHÓM TỪ NỐI TƯƠNG PHẢN TRONG VĂN BẢN TIẾNG VIỆT 3.0. Dẫn nhập Trong chương 2, chúng tôi đã xem xét các từ nối theo phạm trù tương phản của tiếng Việt trên bình diện cấu trúc, tức là phân tích giá trị liên kết về mặt liên kết hình thức của các phát ngôn có chứa các từ nối này. Nhưng đi sâu xem xét về mặt Nghĩa học (Semantics) thì mọi phát ngôn khi được hiện thực hóa trong giao tiếp bao giờ cũng hàm ý một nội dung ngữ nghĩa mà người nói cần truyền đạt. Các phát ngôn trong văn bản lần lượt xuất hiện theo trật tự tuyến tính. Nếu kí hiệu 2 phát ngôn có quan hệ liên kết có từ nối, ta có mô hình liên kết: A. rB trong đó: A, B là 2 phát ngôn độc lập, r là từ nối (ở đây là từ nối theo quan hệ tương phản). Qua khảo sát, hầu hết các từ nối đều đứng sau phát ngôn A và ở đầu phát ngôn B. A là chủ ngôn (phát ngôn đứng làm chủ). B là kết ngôn (phát ngôn liên kết).1 1 Chủ ngôn là phát ngôn đang xét được coi là phát ngôn có vai trò đứng làm chủ. Kết ngôn là phát ngôn phụ thuộc. Nếu là phép đối, kết ngôn được gọi là đối ngôn; là phép lặp, kết ngôn gọi là lặp ngôn; là phép tỉnh lược, kết ngôn gọi là lược ngôn, v.v.
  19. 17 3.1. Ngữ nghĩa của các từ nối theo phạm trù tương phản 3.1.1. Từ nối “nhưng/ song” “Nhưng” và “song” là 2 biến thể tương đương. Tuy nhiên, “nhưng” xuất hiện nhiều và phổ biến hơn cả nên chúng tôi chủ yếu tập trung miêu tả ngữ nghĩa ngữ dụng của từ “nhưng” và sẽ bổ sung thêm phần miêu tả từ “song”. “A nhưng B” có ý tương phản xuất phát từ một tiền đề (A). Tuy nhiên, B mang ý “phản đề” hoàn toàn không theo quy luật của logic hình thức và theo logic được hình thành từ ý đồ của người nói. B có nhiều khả năng (chứ không phải một). Và nó chỉ được chấp nhận khi mà ngữ nghĩa hai vế (giữa A và B) “ngược lại với ý do điều nói đến có thể gợi ra”. * Tương phản tường minh Qua các ví dụ liên kết 2 phát ngôn (chủ ngôn – kết ngôn), ta thấy rõ nét tương phản tường minh qua cách diễn đạt ngữ nghĩa hai vế của quan hệ “A. rB”. Ý “phản đề” thể hiện rõ ở B. * Tương phản suy luận “Nhưng” luôn giữ vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt người đọc tới một hướng suy luận cần thiết. Mô hình liên kết hình thức của các ví dụ có thể là: A (1). Nhưng B1 (2, 3, 4). Nhưng B2 (5, 6, 7), tức là có nhiều phát ngôn tham gia và không chỉ có 1 “nhưng”. Cả chuỗi phát ngôn làm nên một nội dung diễn đạt mà nếu ta chỉ đọc một cặp thoại (mà không nối kết với cặp thoại liền kề sẽ không hiểu hết được diễn biến các sự tình). Từ diễn biến của “nhưng1” tiếp đó là diễn biến của “nhưng2”, ta có thể rút ra những suy luận ngữ nghĩa qua đoạn văn này. * Tương phản lập luận Lập luận được hình thành từ cơ sở suy luận mà suy luận có được từ các luận cứ kết nối với phần kết luận. Luận cứ có rõ ràng thì mới có thể đưa đến kết luận chắc chắn và từ đó mới có sức thuyết phục cao. Ví dụ: (1) Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. (2) Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố xí nghiệp khác có thể bị tàn phá. (3) Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! (4) Không có gì quý hơn độc lập, tự do. (5) Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. (Hồ Chí Minh Tuyển tập, 2, 430) Ví dụ có 5 phát ngôn, 1 đoạn văn, có từ nối “song” (một biến thể của “nhưng”). Ở đây, ta thấy 2 phát ngôn (A và B) làm thành một “luận cứ tiềm năng” (luận cứ có thể dẫn đến nhiều kết luận).
  20. 18 (A) Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. (B) Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố xí nghiệp khác có thể bị tàn phá. → Cuộc chiến tranh (do Mỹ gây ra) gây ra nhiều tổn thất cho đất nước Việt Nam có thể kéo dài mà chưa thể biết thời điểm kết thúc. Sau phát ngôn này, nếu dùng từ “nhưng” có thể có một số phát ngôn, đại loại: - Nhưng nhân dân Việt Nam đủ khả năng khắc phục sự tàn phá đó. - Nhưng vẫn còn nhiều thành phố, xí nghiệp khác chưa thể bị tàn phá. - Nhưng liệu Mỹ có đủ sức thực hiện cuộc Chiến tranh Phá hoại lâu đến thế không? - v.v. Như vậy, người viết có thể lựa chọn nhiều cách diễn đạt, miễn sao phát ngôn tiếp theo phù hợp với hai phát ngôn tiền đề (giữ vai trò chủ ngôn). 3.1.2. Từ nối “tuy nhiên/ tuy vậy” * Tương phản tường minh Tuy nhiên” và “tuy vậy” là hai từ nối khá thông dụng trong tiếng Việt. “Tuy nhiên” là “từ biểu thị điều nêu ra sau đó là một nhận xét có phần nào trái với điều nhận xét vừa đưa ra trước đó, nhưng cần nêu để bổ sung.” (Từ điển tiếng Việt, 2020). Còn “tuy vậy” là “từ biểu thị điều nêu ra sau đó là trái với điều người ta có thể nghĩ dựa vào những điều vừa nói đến trước đó.” (Từ điển tiếng Việt, 2020). * Tương phản suy luận, lập luận Trong các ví dụ có các từ nối này, người viết đã hướng người đọc vào một lập luận, mà muốn sáng tỏ nội dung thông điệp, ta phải căn cứ vào cấu trúc lập luận được tạo ra từ chính các từ nối “tuy nhiên/ tuy vậy” để giải mã cho đúng thông điệp của toàn bộ chuỗi phát ngôn tham gia vào ngữ cảnh liên kết. 3.1.3. Từ nối “mặc dù/ mặc dầu” * Tương phản tường minh “Mặc dù” là “từ biểu thị quan hệ trái ngược giữa điều kiện và sự việc, để nhấn mạnh dù sao sự việc vẫn xảy ra” (Từ điển tiếng Việt, 2020). Ta thấy, cứ có sự trái ngược là có hàm ý “tương phản”. Trong cách sử dụng, từ này đồng nghĩa với “mặc dầu, dù rằng, dầu rằng”. Vì vậy, trong các ví dụ miêu tả dưới đây, chúng tôi gộp các từ “mặc dầu, mặc dù, dù rằng” vào một nhóm miêu tả. * Tương phản suy luận, lập luận Ví dụ: (1) Tóm lại, nếu so sánh cụ thể thì ta có thể nêu như sau: (2) a) Ngôn ngữ là kết quả của một loại hoạt động tinh thần. Và loại hoạt động tinh thần gắn với nhận thức trên, cuối cùng phải được thông qua những dấu hiệu vật
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2