Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Diễn ngôn phương Tây - phương Đông của Phạm Quỳnh và Nhất Linh
lượt xem 4
download
Mục đích nghiên cứu của Luận án nhằm tìm hiểu thái độ ứng xử với phương Tây của Phạm Quỳnh và Nhất Linh, từ đó nghiên cứu sâu hơn ý niệm về Phương Đông, về dân tộc và nỗ lực kiến tạo con đường đi cho tương lai văn hóa dân tộc của họ. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Diễn ngôn phương Tây - phương Đông của Phạm Quỳnh và Nhất Linh
- BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI -----------o0o---------- LÊ THỊ VÂN ANH DIÔN NG¤N PH¦¥NG T¢Y - PH¦¥NG §¤NG CñA PH¹M QUúNH Vµ NHÊT LINH Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 9.22.01.21 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN HÀ NỘI - 2019
- Công trình đƣợc hoàn thành tại: TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. NGUYỄN ĐÌNH CHÚ PGS.TS TRẦN VĂN TOÀN Phản biện 1: PGS.TS VŨ THANH Viện Văn học Phản biện 2: PGS.TS HÀ VĂN ĐỨC Trường ĐHKHXHNV – ĐHQG Hà Nội Phản biện 3: PGS.TS TRẦN THỊ TRÂM Học Viện Báo chí và Tuyên truyền Luận án sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm luận án cấp Trƣờng họp tại Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội vào ….. giờ......, ngày…. tháng….. năm 2019 Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thƣ viện Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội - Thƣ viện Quốc gia Việt Nam
- 1 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Văn hoá Việt Nam đầu thế kỷ XX đƣợc tồn tại và phát triển dựa trên nền tảng cuộc tiếp xúc giữa phƣơng Đông và phƣơng Tây (chủ yếu là trục tiếp xúc Pháp – Việt). Những yêu cầu của thời cuộc đã buộc ngƣời Việt đầu thế kỷ XX phải nhận thức về phƣơng Tây (Pháp) – “kẻ khác” và về phƣơng Đông (Việt) – “chính mình”, từ đó nảy sinh những diễn ngôn về phƣơng Đông – phƣơng Tây, về dân tộc, bản sắc, cũng nhƣ về văn minh, hiện đại. Những diễn ngôn ấy vô cùng đa dạng phản ánh tâm thế phức tạp của ngƣời Việt Nam trong cuộc tiếp xúc này. 1.2. Trong rất nhiều trí thức ngƣời Việt tiêu biểu đầu thế kỷ XX tham gia vào việc kiến tạo diễn ngôn về phƣơng Đông – phƣơng Tây, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu hai trƣờng hợp tiêu biểu là Phạm Quỳnh (1892 – 1945) và Nhất Linh (1906- 1963). Giữa Phạm Quỳnh và Nhất Linh có những điểm tƣơng đồng quan trọng: đều là những ngƣời hoạt động văn hóa trong môi trƣờng công khai, đều thụ đắc trực tiếp những ảnh hƣởng từ phƣơng Tây và cùng từng bị dƣ luận hiểu theo nhiều cách khác nhau, thậm chí khen – chê đối lập. Đặc biệt họ là những trí thức thuộc địa đã tự giác sử dụng quyền lực của những diễn ngôn tác động vào những đối tƣợng mà họ tin rằng việc tác động đó sẽ dẫn đến sự thay đổi cho xã hội, kiến tạo những ý niệm về cộng đồng, về dân tộc và sẽ góp phần hoà giải Đông Tây. Mặt khác, họ lại có những khác biệt và tiếp biến về mặt văn hoá. Nếu Phạm Quỳnh là một học giả để lại di sản lí luận bề thế mang tính chất định hƣớng thì Nhất Linh lại là lãnh đạo của một văn phái, di sản của ông chủ yếu gắn với những sáng tác cụ thể, đi sâu vào thực hành văn hoá, văn học. Nếu Phạm Quỳnh là đại diện tiêu biểu cho thế hệ trí thức 1907, thì Nhất Linh là đại diện tiêu biểu cho thế hệ trí thức 1925 – hai thế hệ trí thức tiếp nối hoạt động công khai trong nửa đầu thế kỷ XX. Bản thân Nhất Linh và các cộng sự của mình trong Tự lực văn đoàn đã không ngừng cố gắng để “vƣợt qua” “thế hệ Phạm Quỳnh”. Vì vậy, việc đặt hai nhà văn này trong trục nghiên cứu sẽ giúp chúng ta có đƣợc những nhận thức quan trọng về sự tiếp biến văn hóa của hai thế hệ trí thức ngƣời Việt về ý niệm Đông - Tây. Lựa chọn những đối tƣợng phức tạp có cả những ƣu điểm và hạn chế này, chúng tôi cũng mong muốn tìm thấy đƣợc sự tƣơng thích về ý nghĩa thực tiễn của đề tài. Bởi vấn đề tiếp xúc văn hóa Đông - Tây đến nay vẫn còn nguyên giá trị thời sự, góp phần rút ra kinh nghiệm cho công cuộc hội nhập quốc tế “hòa nhập mà không hòa tan”. 1.3. Đối với những nhân vật tạo lập đƣợc những diễn ngôn có sức ảnh hƣởng lớn trong cuộc đụng độ Đông – Tây và cũng gặp phải những đối cực trong lịch sử tiếp nhận nhƣ Phạm Quỳnh và Nhất Linh thì việc tìm hiểu di sản văn hóa của họ dƣới góc độ nghiên cứu diễn ngôn là một cách làm khả thi và hứa hẹn đem đến nhiều kết quả ý nghĩa. 2. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tƣợng nghiên cứu: Diễn ngôn phƣơng Tây – phƣơng Đông của Phạm Quỳnh và Nhất Linh.
- 2 2.2. Phạm vi nghiên cứu: Qua phạm vi tƣ liệu đã khảo sát (thƣ mục tham khảo). 3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Chúng tôi mong muốn thông qua lý thuyết nghiên cứu diễn ngôn của M. Foucault đặc biệt kết hợp với việc vận dụng những kết quả nghiên cứu của chủ nghĩa hậu thuộc địa, tìm hiểu thái độ ứng xử với phƣơng Tây của Phạm Quỳnh và Nhất Linh, từ đó nghiên cứu sâu hơn ý niệm về Phƣơng Đông, về dân tộc và nỗ lực kiến tạo con đƣờng đi cho tƣơng lai văn hóa dân tộc của họ. Chúng tôi cố gắng „„thuật tả‟‟ một cách khách quan, nguyên trạng ngữ nghĩa của văn bản, để ngƣời đọc có cách nhìn nhận toàn diện hơn đồng thời thấy đƣợc sự tƣơng đồng, tiếp biến trong cách ứng xử của Phạm Quỳnh và Nhất Linh đối với ý niệm về phƣơng Tây và phƣơng Đông. 4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Phương pháp tiếp cận hệ thống - Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp - Phương pháp lịch đại và đồng đại. - Phương pháp liên ngành 5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN - Luận án là công trình chuyên biệt đầu tiên vận dụng lý thuyết nghiên cứu diễn ngôn của M. Foucault, lý thuyết nghiên cứu hậu thuộc địa để thuật tả và nhận diện diễn ngôn phƣơng Tây, phƣơng Đông của hai đối tƣợng văn hóa phức tạp là Phạm Quỳnh và Nhất Linh. - Lần đầu tiên diễn ngôn của hai đại diện tiêu biểu cho hai thế hệ trí thức ngƣời Việt là Phạm Quỳnh và Nhất Linh đƣợc đƣa vào cùng trục nghiên cứu, đƣợc mở rộng tìm hiểu trong mối quan hệ tƣơng tác hai chiều với môi trƣờng văn hoá Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Luận án đã chỉ ra sự tƣơng đồng cũng nhƣ sự khác biệt, chuyển biến trong cách ứng xử của họ đối với ý niệm về phƣơng Tây và phƣơng Đông. - Luận án cho thấy tiềm năng của hƣớng nghiên cứu diễn ngôn, hƣớng nghiên cứu hậu thuộc địa về những tƣơng tác văn hóa Đông – Tây đồng thời cho thấy những bài học kinh nghiệm thực tiễn từ quá khứ để hƣớng tới hiện tại trong chủ trƣơng xây dựng “Một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. - Luận án là một tài liệu tham khảo có giá trị giúp độc giả, nhất là những ai chƣa cho điều kiện tiếp xúc trực tiếp văn bản của Phạm Quỳnh và Nhất Linh có cách nhìn nhận sâu sắc hơn về hai đối tƣợng văn hóa phức tạp này. 6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án đƣợc triển khai thành các chƣơng chính nhƣ sau: Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu Chương 2: Diễn ngôn phƣơng Tây – phƣơng Đông của Phạm Quỳnh Chương 3: Diễn ngôn phƣơng Tây – phƣơng Đông của Nhất Linh.
- 3 PHẦN NỘI DUNG Chương 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Khái niệm “Diễn ngôn” của Micheal Foucault và những định hướng ứng dụng Trong khuôn khổ luận án, khái niệm diễn ngôn đƣợc sử dụng với ý nghĩa bắt nguồn từ quan niệm của Foucault “một diễn ngôn là một khu vực đƣợc đóng khung chặt chẽ bởi khung kiến thức xã hội, là một hệ thống các phát ngôn mà trong đó thế giới có thể đƣợc biểu hiện. Mấu chốt của vấn đề là ở chỗ: thế giới không phải chỉ đơn giản là "ở đó" [có sẵn] để đƣợc nói đến, đúng hơn là chính thông qua diễn ngôn thế giới đƣợc biểu hiện”. Điều mà Foucault quan tâm không phải là điều gì là sự thật mà là “cái đƣợc gọi là sự thật” đƣợc nói ra nhƣ thế nào (how can the truth be told?). Khi một diễn ngôn đƣợc phát biểu với quyền lực và khung tri thức gắn liền với nó, nó có thể loại trừ các diễn ngôn khác. Chẳng hạn chính quyền lực từ diễn ngôn thực dân đã loại trừ những phát ngôn mang ý nghĩa trái ngƣợc – ví dụ diễn ngôn đến từ các dân tộc là thuộc địa. Tuy nhiên, Foucault cũng nhấn mạnh: ở đâu có sự thống trị, ở đó có sự phản kháng (vì quyền lực không chỉ có một chiều từ trên xuống mà còn đi từ dƣới lên). Vì vậy, nghiên cứu diễn ngôn không phải chỉ là nghiên cứu tri thức đƣợc kiến tạo bởi những ngƣời nắm giữ quyền lực mà một nhiệm vụ rất quan trọng là nghiên cứu diễn ngôn từ nhóm yếu thế nhƣ “giới nữ”, “giới tính thứ ba”, “dân tộc thiểu số”, “thuộc địa”, … Trong luận án, với đối tƣợng nghiên cứu của luận án là: diễn ngôn phƣơng Tây – phƣơng Đông của Phạm Quỳnh và Nhất Linh – diễn ngôn của những trí thức thuộc địa luôn có sự tƣơng tác với thực dân trong mối tƣơng quan tri thức và quyền lực phức tạp, chúng tôi vận dụng kết quả nghiên cứu của một trong những ứng dụng từ lý thuyết diễn ngôn của Foucault, đó là chủ nghĩa hậu thuộc địa. 1.1.2. Khái niệm “Diễn ngôn phương Tây – phương Đông” theo tinh thần của chủ nghĩa hậu thuộc địa Chủ nghĩa hậu thuộc địa bắt đầu manh nha từ giữa thế kỷ XX. Từ thập niên 1960 đến 1970, những đƣờng hƣớng đã đƣợc khơi dậy cụ thể hơn, đặc biệt là năm 1978 với sự xuất hiện của công trình Đông phương học của Edward Said, nền móng của nghiên cứu hậu thuộc địa đã đƣợc thiết định. Từ thập niên 80, 90, chủ nghĩa hậu thuộc địa phát triển rộng rãi, thu hút đƣợc sự chú ý của giới phê bình nghiên cứu và đến nay vẫn còn gây nhiều tranh luận sôi nổi, gia nhập vào lĩnh vực nghiên cứu văn hoá, văn học góp phần đƣa ra những phân tích về sự xâm chiếm thuộc địa, sự kiến tạo chủ thể trong diễn ngôn thực dân/thuộc địa, sự kháng cự của những chủ thể này thông qua các diễn ngôn giải thực dân/thuộc địa và những di sản thuộc địa trong các quốc gia thuộc địa/ cựu thuộc địa/ lệ thuộc, … Trong các chủ đề của chủ nghĩa hậu thuộc địa thì mối quan hệ phƣơng Tây (thực dân) – phƣơng Đông (thuộc địa) luôn nổi lên nhƣ một trục chính quan trọng với những tƣơng tác văn hóa – tri thức – quyền lực phức tạp, đặt ra yêu cầu về giải thực về văn hóa, quyền đƣợc lên tiếng của trí thức thuộc địa, bản sắc văn hóa và con đƣờng đi cho các dân tộc thuộc địa/ cựu thuộc địa … và đƣợc bàn luận bởi những học
- 4 giả danh tiếng nhƣ: Edward W. Said (1935 – 2003), Gayatri Chakravorty (sinh năm 1942), Homi. K. Bhabha (sinh năm 1946), ... 1.1.2.1. Diễn ngôn Phương Tây – Phương Đông hay là sự kiến tạo của phương Tây (thực dân) về phương Đông (thuộc địa) Phƣơng Tây không chỉ định vị phƣơng Đông bằng những khái niệm mà còn biểu đạt về họ, diễn giải về họ, tạo ra và duy trì quyền lực lên họ thông qua các diễn ngôn. Phát triển quan niệm của M. Foucault, Edward Said, đã nghiên cứu quá trình phƣơng Tây thông qua diễn ngôn tạo lập những biểu đạt về phƣơng Đông nhƣ là quá trình tạo lập những biểu đạt về “cái khác”, mở rộng ra là quá trình thực dân tạo lập những biểu đạt về thuộc địa. Edward Said, qua công trình Đông phương luận, chứng minh rằng: diễn ngôn Đông phƣơng học không chỉ kiến tạo nên phƣơng Đông mà còn kiến tạo nên cả phƣơng Tây. Tính chất nhƣợc tiểu mà Đông phƣơng học quy ƣớc cho phƣơng Đông đã làm nổi bật tính ƣu việt của phƣơng Tây. Tính duy cảm, phi logic, nguyên thuỷ, chuyên quyền của phƣơng Đông đã xác lập nên một phƣơng Tây logic, dân chủ, tiến bộ,... Phƣơng Tây luôn ở vị thế “trung tâm”, trong khi phƣơng Đông là ngoại biên “khác biệt”. Thậm chí, diễn ngôn của phƣơng Tây về phƣơng Đông còn gợi ra một thế đối lập khác: cực tính nam – phƣơng Tây – sáng rõ, trật tự, nhạy bén, nguyên tắc và cực tính nữ – phƣơng Đông – phi logic, thụ động, phi nguyên tắc và duy cảm. 1.1.2.2. Nhu cầu kiến tạo Diễn ngôn Phương Tây – Phương Đông của trí thức phương Đông (thuộc địa) Từ quan điểm của Said, ta có thể thấy: văn hoá phƣơng Đông trong diễn ngôn Đông phƣơng luận của ngƣời phƣơng Tây là một nền văn hoá mà sự phát triển bị chặn lại. Các nƣớc cựu thuộc địa sẽ phải mất rất nhiều thời gian và công sức để chống lại lịch sử đƣợc tạo lập bởi phƣơng Tây. Nếu nhƣ Said quan tâm đến sự tạo lập của phƣơng Tây về phƣơng Đông, thì G. Spivak, qua tác phẩm Những người thấp cổ bé họng có lên tiếng được không?, lại chú trọng vào tình thế phát ngôn, vấn đề tự đại diện (tự miêu tả) và sự im lặng không thể tránh đƣợc của kẻ/cái/sự nhƣợc tiểu (subaltern). Spivak đã dấy lên những câu hỏi: Quyền lực thực dân đã thành công ở mức độ nào trong việc bắt buộc thuộc địa phải im lặng ? Thuộc địa sẽ nói bằng giọng của mình hay bằng giọng “vay mƣợn” của thực dân? Liệu có phải là tốt nhất để khôi phục lại tiếng nói của kẻ/cái/sự nhƣợc tiểu bằng cách tách rời họ khỏi nền văn hóa của thực dân hay bằng cách làm nổi bật mức độ những điều mà họ đã rập khuôn từ kẻ đã chinh phục họ? Và liệu giọng nói của kẻ/cái/sự nhƣợc tiểu có thể đƣợc đại diện bởi các trí thức bản địa? … Theo Foucault, văn hóa đƣợc tạo nên từ vô số diễn ngôn đang đối kháng nhau. Chính vì thế, diễn ngôn thực dân là diễn ngôn thống trị kỷ nguyên thực dân, nhƣng bên cạnh diễn ngôn thực dân sẽ là những diễn ngôn giải thực dân của các thuộc địa. Và thực tế, các trí thức thuộc địa (phƣơng Đông) luôn luôn có nhu cầu “viết lại” những diễn ngôn của thực dân (phƣơng Tây) để nhận thức về thực dân, chống lại sự xâm nhập của thực dân, tìm lại chính mình, tìm ra con đƣờng đi cho dân tộc của mình – có nghĩa là nỗ lực “giải thực”. 1.1.2.3. Quá trình tương tác văn hoá và sự lựa chọn con đường đi cho tương lai của thuộc địa Học giả quan tâm đặc biệt đến tình trạng tƣơng tác văn hóa phức tạp, chứa đựng nhiều mâu thuẫn - hệ quả cho quá trình xâm nhập thực dân là H.K.Bhabha.
- 5 Mặc dù còn gây nhiều tranh cãi, các khái niệm về sự tƣơng tác văn hoá nhƣ “tính lai ghép” chính là một cơ chế giải thực hữu hiệu của các dân tộc Đông phƣơng nhƣợc tiểu. Phƣơng Đông khó có thể khôi phục hoàn toàn bản sắc văn hóa (vì đã rơi vào trạng thái đứt gãy do sự xâm lấn của thực dân) nhƣng họ cũng thƣờng ít khi từ bỏ hoàn toàn di sản văn hoá của mình để trở thành một bản sao của Phƣơng Tây. Phƣơng Đông sẽ phải để tâm tới vị thế phụ/ nhỏ của mình và vì sao họ bị cƣỡng chế sát nhập vào một môi trƣờng văn hoá chính trị hoàn toàn khác đồng thời họ sẽ kiến tạo diện mạo văn hóa mới cho chính họ trên đƣờng biên giao thoa giữa văn hóa bản địa và văn hóa Phƣơng Tây. Quan trọng hơn là con đƣờng đi cho tƣơng lai của các thuộc địa/ các nƣớc đã từng là thuộc địa là gì? Nên phát triển theo định hƣớng văn hoá của kẻ xâm lƣợc vạch ra hay trở về với nền văn hoá sơ khai hay phức hợp cả hai hƣớng đó? Sự tƣơng tác, chuyển dịch văn hoá là không thể tránh khỏi. Và sản phẩm văn hoá mà họ tạo ra dù muốn hay không đều bị ám ảnh bởi sự lai ghép. Sự lai ghép đó ở mức độ nào, trong sự thƣơng thỏa đến đâu là do lựa chọn của các trí thức thuộc địa. Theo các nhà nghiên cứu hậu thuộc địa, Phƣơng Đông và phƣơng Tây (đi kèm với chúng là các khái niệm bản sắc, chủng tộc, dân tộc) không phải là những khái niệm với nội hàm có sẵn, mà là sản phẩm của diễn ngôn, luôn luôn đƣợc viết lại theo tiến trình lịch sử tiếp xúc Đông – Tây. Nhu cầu nhận thức và viết lại diễn ngôn phƣơng Tây – phƣơng Đông của các trí thức thuộc địa là có thực và rất cần đƣợc nghiên cứu để tiếng nói của phƣơng Đông có vị thế ngang hàng với tiếng nói của phƣơng Tây. 1.2. Nhu cầu kiến tạo diễn ngôn về phƣơng Tây (Pháp) – phƣơng Đông (Việt) của trí thức Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX 1.2.1. Cuộc tiếp xúc phương Tây (Pháp) – phương Đông (Việt) tại Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Cuộc tiếp xúc giữa Việt Nam với các nƣớc phƣơng Tây bắt đầu từ cuối thế kỷ XVI khi nƣớc ta giao thƣơng với Bồ Đào Nha, Anh, Pháp. Tuy nhiên hình ảnh tiếp xúc Đông – Tây tại Việt Nam rõ nét nhất là sự tiếp xúc Pháp – Việt khi thực dân Pháp sang xâm lƣợc nƣớc ta từ giữa thế kỷ XIX. Nhƣ bất kỳ thực dân nào, Ngƣời Pháp chiếm Việt Nam, đặt nền đô hộ bằng bạo động, duy trì sự chiếm đóng cũng bằng bạo động, tất cả đều nhằm mục đích vật chất “tìm kiến lợi nhuận”. Tuy nhiên, sự thƣơng thỏa quyền lực giữa thực dân và thuộc địa vẫn luôn xuất hiện. Theo Nguyễn Văn Trung, thực dân xây dựng các “huyền thoại” để che đậy dã tâm bóc lột của mình, để xoa dịu những căng thẳng giữa thực dân – thuộc địa là: “huyền thoại khai hóa”, “ơn huệ thực dân”, “huyền thoại Pháp – Việt đề huề”, … Thế nhƣng “huyền thoại” mà thực dân sáng tạo ra không phải chỉ đem lại cái lợi cho thực dân, nó ẩn chứa những mối nguy hiểm mà thực dân luôn phải kiểm soát. Bởi “Đã đành, trong ý định huyễn diệu, ngƣời nói đến Tự do dân chủ, đề cao hiệp tác đề huề không phải để thực hiện mà là nhằm che dấu áp bức, đè nén, nhƣng lời nói huyễn diệu vẫn phải nói lên Tự do, hiệp tác là gì … Do đó, làm cho những ngƣời nghe biết đƣợc nhƣ thế nào là tự do, dân chủ thực sự” “Mối nguy hiểm ở chỗ không phải mọi ngƣời bản xứ đƣợc học ở nhà trƣờng thực dân mở đều sẽ làm tay sai tất cả cho Pháp hay sẽ ngoan ngoãn tin nghe những
- 6 lời nói đƣờng mật huyễn diệu của họ. Trái lại ngƣời bản xứ chỉ lợi dụng phƣơng tiện thực dân cung cấp cho để hiểu thực dân và tìm thấy đƣờng lối chống thực dân” Nhìn chung, di sản thuộc địa của Pháp tại Đông Dƣơng cũng nhƣ bất kỳ một cuộc xâm lăng nào đều vẫn còn gây ra những tranh cãi. Sự tranh cãi đó có lẽ bắt nguồn từ chính những “huyền thoại” mà thực dân Pháp tạo dựng nên. Những diễn ngôn về phƣơng Tây – phƣơng Đông của các sĩ phu, trí thức ngƣời Việt trong thời điểm này không chỉ là sản phẩm của sức hấp dẫn từ “kẻ khác” (phƣơng Tây) mà còn là nhu cầu định nghĩa lại bản thể, nhu cầu có tiếng nói riêng để thoát ra khỏi sự “bắt buộc im lặng của cái/kẻ/sự nhƣợc tiểu” trƣớc sức mạnh quá lớn từ phƣơng Tây. Đó cũng chính là nhu cầu để họ kiến tạo nên những diễn ngôn dân tộc, coi đó là nền tảng cho quá trình hoà giải Đông – Tây. Nói cách khác nhận thức về phƣơng Tây (Pháp) luôn song hành cùng với nhận thức về phƣơng Đông (Việt). Và chính những biến chuyển, điều tiết quyền lực của thực dân Pháp khi cai trị ở Việt Nam cũng đã tác động không nhỏ đến việc chuyển biến, phân hóa các luồng tƣ tƣởng nhận thực của ngƣời Việt về ngƣời Pháp vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. 1.2.2. Nhận thức về phương Tây (Pháp) của trí thức Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Những nhận thức về phƣơng Tây trƣớc hết có thể kể đến nhận thức phƣơng Tây nhƣ thứ ngoại bang ta có thể dùng ý chí quyết tâm tiêu diệt đƣợc nhƣ đã từng đẩy lùi biết bao nhiêu cuộc xâm lƣợc của kẻ thù phƣơng Bắc (Ví dụ: diễn ngôn của Nguyễn Đình Chiểu). Dần dần ngƣời ta phải thừa nhận rằng kẻ thù đến bằng súng đạn đó thực sự còn nguy hiểm hơn kẻ thù đến từ phƣơng Bắc với nền văn minh đi trƣớc châu Á hàng thế kỷ. Vì thế, nảy sinh cách phản ứng mang tính chất bế tắc của những ngƣời hiểu rất rõ sự lớn mạnh của phƣơng Tây (Pháp) cũng nhƣ vị thế nhƣợc tiểu của Việt Nam (phƣơng Đông), lƣờng trƣớc đƣợc sự thất bại nếu phản ứng đối nghịch theo cách cũ nhƣng chƣa tìm ra phƣơng cách mới (Ví dụ: Trƣờng hợp của Phan Thanh Giản (1796 - 1867)) Câu chuyện nhận thức về phƣơng Tây (Pháp) đã không còn dừng lại ở việc nhìn nhận bộ mặt phƣơng Tây (Pháp) khi đến Việt Nam nữa mà tiến xa hơn là câu chuyện “đi Tây”, sang Pháp để hiểu đúng về Pháp để tìm ra câu trả lời giải quyết tình thế khó khăn của dân tộc. Đó là hành trình của các thế hệ trí thức ngƣời Việt cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX với những nhân vật văn hoá nổi bật nhƣ Trƣơng Vĩnh Kí, Nguyễn Trƣờng Tộ, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nhất Linh, Nguyễn Ái Quốc, ... Khi đến với phƣơng Tây (Pháp), họ đã có những điều chỉnh trong nhận thức: Phƣơng Tây có những điểm mạnh để họ học tập tự cƣờng dân tộc. Phƣơng Tây không chỉ là thù mà còn có những điểm để ta “chơi” đƣợc, “lợi dụng” đƣợc để phát triển đất nƣớc. Đó là cách phản ứng của những ngƣời mang tƣ tƣởng Duy tân nhƣng bất bạo động nhƣ Nguyễn Trƣờng Tộ, Trƣơng Vĩnh Kí, Phan Châu Trinh, Nguyễn Văn Vĩnh (1882 – 1936), Phạm Quỳnh (1892 – 1945), Nhất Linh và Tự lực văn đoàn, .... Tuy có khác nhau về quan điểm cụ thể và cách thức thực hiện nhƣng đều có
- 7 chung cái gốc là khai sáng dân trí. Chính vì vậy những nhân vật lịch sử đi theo quan điểm này đã chú trọng hòa giải Đông – Tây trong nỗ lực tạo bình đẳng về văn hóa. Đó là cách phản ứng của những ngƣời cũng hiểu rất rõ sự lớn mạnh của Pháp cũng nhƣ vị thế nhƣợc tiểu của Việt Nam nhƣng đã tìm đƣợc những phƣơng cách mới để thay đổi cục diện. Họ vừa thấy đƣợc sự lớn mạnh của phƣơng Tây (Pháp), vừa nhận thức sâu sắc về những mâu thuẫn không thể điều hoà nổi giữa phƣơng Đông (Pháp) – phƣơng Tây (Việt) nếu không thực hiện bạo động vũ trang dành độc lập thoát khỏi sự bảo hộ của phƣơng Tây. Ví dụ: Phan Bội Châu, Nguyễn Ái Quốc. 1.2.3. Nhận thức về phương Đông (dân tộc) Chƣa lúc nào những khái niệm nhƣ “dân tộc”, “giống nòi”, “đồng bào”, “hồn nƣớc” lại xuất hiện nhiều nhƣ vậy trong các diễn ngôn thời kỳ này. “Dân tộc” trở thành khái niệm đƣợc “thiêng hoá” để họ tìm thấy sức mạnh từ truyền thống. Dân tộc không phải chỉ là phạm vi về lãnh thổ địa lý, về nhà nƣớc mà còn là một ý niệm có thể cố kết đƣợc về tinh thần của những con ngƣời trong cùng cộng đồng đó; trở thành điểm tựa tạo ra sức mạnh gắn kết cộng đồng trong cuộc tiếp xúc với “kẻ khác” – phƣơng Tây (Pháp). Điều đó càng đúng hơn trong bối cảnh đất nƣớc đang bị Pháp xâm lƣợc, khi chủ quyền lãnh thổ đã không còn. Tìm về với những điểm tựa nhƣ “hồn nƣớc”, “đồng bào”, “tổ tông”, .... chính là điểm chung của rất nhiều tác giả giai đoạn này nhƣ: Phạm Tất Đắc (Chiêu hồn nước), Tản Đà (Thề non nước), Phan Bội Châu (Việt Nam quốc sử khảo), .... “Nỗ lực đề cao “hồn dân tộc” đã đƣợc cụ thể hoá qua các hành động cụ thể nhƣ nỗ lực đề cao tiếng Việt, nỗ lực tìm lại chất liệu văn hoá, văn học truyền thống, nỗ lực xây dựng những biểu tƣợng về chủ nghĩa anh hùng, chủ nghĩa yêu nƣớc của dân tộc, nỗ lực tìm ra con đƣờng đi cho dân tộc, … 1.3. Tình hình nghiên cứu diễn ngôn phƣơng Tây – phƣơng Đông của Phạm Quỳnh và Nhất Linh 1.3.1. Những đánh giá về diễn ngôn phương Tây - phương Đông của Phạm Quỳnh 1.3.1.1. Khuynh hướng thứ nhất: phủ nhận, thậm chí luận tội những diễn ngôn phương Tây phương Đông của Phạm Quỳnh VD: Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Thai Mai, Trƣơng Chính, Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Văn Hoàn, Vũ Đức Phúc, Thiếu Sơn, Trần Đình Hƣợu, Lê Chí Dũng,Nguyễn Văn Trung, Mai Quốc Liên, ... 1.3.1.2. Khuynh hướng thứ hai: ghi nhận những đóng góp trên lĩnh vực văn hóa qua các diễn ngôn phương Tây phương Đông của Phạm Quỳnh Ví dụ: Dƣơng Quảng Hàm, Lê Thanh, Vũ Ngọc Phan, Phạm Thế Ngũ, Thanh Lãng, Trần Đình Sử, Nguyễn Ngọc Thiện, Nguyễn Huệ Chi, Trần Văn Toàn, Bùi Việt Thắng, Trần Mạnh Tiến, Trịnh Bá Đĩnh, Trần Văn Chánh,… Nguyễn Đình Chú (lần thứ II nhận định về Phạm Quỳnh), … 1.3.1.3. Khuynh hướng thứ ba: chiêu tuyết, biện hộ cho những đóng góp của Phạm Quỳnh thông qua các diễn ngôn phương Tây phương Đông Ví dụ: Nguyễn Văn Khoan, tác giả Khúc Hà Linh, Nhà văn Vƣơng Trí Nhàn… 1.3.1.4. Khuynh hướng thứ tư: Khuynh hướng thứ tư: khách quan, nhìn nhận trực tiếp vai trò “trí thức trung gian” của Phạm Quỳnh
- 8 VD: GS. Trịnh Văn Thảo, GS. Nguyễn Đình Chú (lần thứ III nhận định về Phạm Quỳnh), … 1.3.2. Những đánh giá về diễn ngôn phương Tây – phương Đông của Nhất Linh 1.3.2.1. Khuynh hướng thứ nhất: ghi nhận sự ảnh hưởng của văn hoá, văn học phương Tây đến những tác phẩm nghệ thuật và nỗ lực hiện đại hoá văn học mà Nhất Linh và các cộng sự đã thực hiện Trƣơng Chính, Vũ Ngọc Phan, Trƣơng Tửu, Phạm Thế Ngũ, PGS. TS. Trần Văn Toàn, Đặng Tiến, … 1.3.2.2. Khuynh hướng thứ hai: ghi nhận những đóng góp về văn học nghệ thuật của Nhất Linh nhưng cho rằng con đường hiện đại hoá và lý tưởng của Nhất Linh vừa có điểm tích cực vừa có điểm hạn chế VD: GS Đặng Thai Mai, GS. Phan Cự Đệ, GS. Trần Đăng Suyền, … Hiện tƣợng Phạm Quỳnh, Nhất Linh trong lịch sử văn học Việt Nam chính là ví dụ tiêu biểu cho sự phức tạp của quy luật cộng hƣởng trong tiếp nhận văn học. Chúng tôi tôn trọng mọi ý kiến thuộc các khuynh hƣớng khác nhau và chúng tôi cũng nhận thấy: các ý kiến nghiên cứu về Phạm Quỳnh và Nhất Linh tuy đều đã có đề cập đến những quan tâm của Phạm Quỳnh và Nhất Linh về vấn đề Phƣơng Đông – Phƣơng Tây nhƣng chƣa khái quát đƣợc thành hệ thống ý niệm cũng nhƣ cơ chế hình thành các diễn ngôn đó, cơ chế các diễn ngôn đó chi phối cách thức thực hành văn hóa, văn học của hai nhà văn. Hơn nữa, cũng chƣa có công trình nghiên cứu nào đặt Phạm Quỳnh và Nhất Linh trong cùng một trục nghiên cứu. Vì vậy, việc nghiên cứu diễn ngôn Phƣơng Đông – Phƣơng Tây của Phạm Quỳnh và Nhất Linh hứa hẹn sẽ đem đến những diễn giải mang tính hệ thống và có ý nghĩa. Tất nhiên, chúng tôi cũng ý thức rằng: bản thân các luận điểm trong luận án cũng chỉ là một góc nhìn trong muôn vàn góc nhìn mà quy luật cộng hƣởng trong tiếp nhận văn học gợi ra. 1.3.3. Những gợi mở nghiên cứu diễn ngôn phương Tây – phương Đông của Phạm Quỳnh và Nhất Linh Có thể thấy điểm chung rõ nhất giữa Phạm Quỳnh và Nhất Linh khi tạo lập các diễn ngôn đó là tính chất nƣớc đôi trong tâm thế của một chủ thể thuộc địa: vừa thừa nhận phƣơng Tây (ngƣời Pháp) nhƣ là văn minh, tiến bộ, phƣơng Đông (ngƣời An Nam) nhƣ là nhƣợc tiểu, lạc hậu; vừa mang tâm thế giải thuộc địa: muốn thoát ra khỏi trạng thái nhƣợc tiểu với sự định hƣớng học tập phƣơng Tây để tự cƣờng dân tộc và cố gắng xác lập “một bản sắc cho dân tộc” – cái gọi là “Việt Nam tính”. Mặc dù cùng đi theo khuynh hƣớng hòa giải đụng độ Đông – Tây từ gốc văn hóa, nhƣng diễn ngôn phƣơng Đông – phƣơng Tây của Phạm Quỳnh và Nhất Linh lại khác nhau về cách thức và ý hƣớng triển khai. Dù thế nào Phạm Quỳnh cũng xuất thân từ lớp nhà Nho sau đó mới ảnh hƣởng của văn hóa Pháp. Thời đại của Phạm Quỳnh là thời kỳ đầu tiếp xúc với phƣơng Tây. Còn Nhất Linh (dù có những sáng tác nhƣ Nho phong, Người quay tơ), về cơ bản, là một nhà tƣ sản, thuộc thế hệ tri thức tiếp thu nền giáo dục Tây phƣơng. Thời đại của Nhất Linh: sự tiếp xúc với phƣơng Tây đã đi vào chiều sâu, thậm chí có những thay đổi quá nhanh trong vòng xoáy của công cuộc hiện đại hóa con ngƣời cũng không thể kiểm soát đƣợc. Phạm Quỳnh với tƣ cách định hƣớng về mặt lý thuyết, những phác thảo về cách thức thực hiện. Nhất Linh với tƣ cách là ngƣời thực hành, đi sâu vào những thực hành văn hóa, văn học.
- 9 Học tập phƣơng Tây nhƣng không dứt bỏ truyền thống văn hóa phƣơng Đông, bản thân Phạm Quỳnh có sự định hƣớng ngay từ ban đầu là sự kết hợp, dung hòa giữa Đông và Tây, chắt lọc những yếu tố hợp lý từ truyền thống văn hóa là bản lề cho quá trình học tập phƣơng Tây. Trong khi đó, với tôn chỉ hành động “Làm cho ngƣời ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa”, Nhất Linh đã có những diễn ngôn đả phá vào thành trì phong kiến với những phong tục lạc hậu – nhƣ một phần của truyền thống văn hóa (qua các tác phẩm mang tính chất luận đề, hý họa Lý Toét – Xã Xệ,…). Trong việc ứng dụng văn hóa phƣơng Tây vào Việt Nam của Nhất Linh cùng Tự lực văn đoàn đã thể hiện một tham vọng kiến tạo một dân tộc tính kiểu mới. Phạm Quỳnh hƣớng ngòi bút của mình đến tầng lớp tinh hoa, đặc tuyển, trong khi Nhất Linh hƣớng tới đông đảo đại chúng, đặc biệt là đại chúng thị dân. Những tƣơng đồng và khác biệt trên hứa hẹn đem đến những gợi mở thú vị trong việc nghiên cứu diễn ngôn phƣơng Đông – phƣơng Tây của Phạm Quỳnh và Nhất Linh. KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 Trong chƣơng 1, chúng tôi đã giới thiệu hệ thống cơ sở lí luận và tiền đề văn hóa là nền tảng để thực hiện luận án. Rõ ràng nhu cầu kiến tạo diễn ngôn phƣơng Tây – phƣơng Đông của các trí thức thuộc địa trong bối cảnh xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX là hoàn toàn có thực và đã tạo ra những bƣớc đi mới cho văn hóa Việt Nam, vừa phản ánh những kết quả mang tính quy luật của chủ nghĩa hậu thuộc địa về các nƣớc thuộc địa/ cựu thuộc địa vừa mang những nét riêng với sự đa dạng ở tầng sâu văn hóa. Tất cả những điều đó sẽ giúp chúng tôi tìm hiểu sâu sắc hơn về diễn ngôn phƣơng Tây – phƣơng Đông của Phạm Quỳnh và Nhất Linh với những tƣơng quan quyền lực, tri thức phức tạp. Chương 2 DIỄN NGÔN PHƢƠNG TÂY - PHƢƠNG ĐÔNG CỦA PHẠM QUỲNH 2.1. Chủ thể diễn ngôn: Tâm thế Phạm Quỳnh – “Một trí thức của hai thế giới” Phạm Quỳnh (1892 – 1945) là trí thức trƣởng thành trong giai đoạn nhà nƣớc quân chủ Việt Nam thừa nhận sự thất bại và lệ thuộc vào Pháp. Hệ tƣ tƣởng Nho giáo bảo vệ nhà nƣớc phong kiến ấy vẫn tồn tại nhƣng đã bộc lộ những bất lực và yếu kém, dần dần đƣợc thay đổi bằng hệ thống giáo dục của nhà nƣớc bảo hộ và đƣợc giảng dạy bằng tiếng Pháp. Tuy nhiên, Phạm Quỳnh lại trƣởng thành trong giai đoạn đầu gây dựng hệ thống giáo dục thuộc địa khi mà hệ thống nhà trƣờng Pháp vẫn đang ở tình trạng gây dựng, thể nghiệm và luôn phải chấp nhận những thách thức từ thiết chế giáo dục truyền thống ở Việt Nam. Bản thân Phạm Quỳnh cũng chỉ thụ hƣởng nền giáo dục Pháp khi tốt nghiệp thủ khoa trƣờng Thông ngôn Hà Nội còn nền tảng tƣ tƣởng vẫn từ giáo dục truyền thống. Nhƣng đó lại là tiền đề quan trọng để Phạm Quỳnh tiếp thu trực tiếp văn hóa, tƣ tƣởng phƣơng Tây, nhất là khi sự nghiệp của Phạm Quỳnh gắn liền với kế hoạch mang tính chiến lƣợc của ngƣời Pháp. Năm 1907, trƣờng Đông Kinh Nghĩa thục ra đời và phát triển mạnh mẽ, góp
- 10 ích rất lớn cho phong trào canh tân hóa tƣ tƣởng của ngƣời Việt. Ngƣời Pháp “coi những cố gắng của ngƣời “bản xứ” để tự giáo dục theo những đƣờng lối do tự họ lựa chọn là một hành động chính trị chống lại chế độ thuộc địa” nên đã đàn áp và ra lệnh đóng cửa Đông Kinh Nghĩa Thục sau tám tháng hoạt động. “Rút kinh nghiệm từ phong trào Đông Kinh từ phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, thực dân Pháp nhận thấy rõ không thể chỉ cấm đoán tiêu cực và đàn áp bằng bạo lực mà phải thỏa mãn những đòi hỏi khai hóa, duy tân cải cách do Đông Kinh Nghĩa Thục khởi xƣớng, điều cốt yếu là thỏa mãn một cách khác và giành lấy phần chủ động mà thôi”. Và Phạm Quỳnh chính là một trong số những ngƣời đƣợc Pháp chọn để thực hiện kế hoạch đó khi ông trở thành Tổng thƣ ký Hội Khai Trí Tiến Đức, chủ bút báo Nam Phong và biên soạn sách giáo khoa cho trƣờng học thuộc địa. Theo Nguyễn Văn Trung, Nam Phong và Hội Khai Trí Tiến Đức là “một thứ Đông Kinh Nghĩa Thục của thực dân”. Có thể nói, Phạm Quỳnh đã lập ngôn với tƣ cách một học giả thừa hƣởng cả hai nền học vấn Nho học và Tây học – mà chủ yếu qua qua trình tự học, tự nghiên cứu, tự tích lũy. Phạm Quỳnh chính là “Trí thức của hai thế giới”, ngƣời trí thức “đứng giữa trận chiến cũ và mới, truyền thống và hiện đại”, giữa Đông và Tây, giữa ý định và những hệ quả nằm ngoài suy tính của ngƣời Pháp…. 2.2. Hệ thống phƣơng tiện truyền thông diễn ngôn phƣơng Tây – phƣơng Đông của Phạm Quỳnh Hệ thống phƣơng tiện truyền thông diễn ngôn phƣơng Tây – phƣơng Đông của Phạm Quỳnh chủ yếu là diễn ngôn báo chí (chủ yếu là các bài viết trên Nam Phong tạp chí) và những diễn ngôn mang tính hùng biện (diễn thuyết và tranh luận) với thể loại trọng tâm là văn nghị luận Phạm Quỳnh sử dụng văn nghị luận với một cách viết hàn lâm và hƣớng đến đối tƣợng chính là tầng lớp tinh hoa/ đặc tuyển. Theo chúng tôi diễn ngôn của Phạm Quỳnh là thứ văn mang tính định hƣớng và truyền bá tƣ tƣởng. 2.3. Diễn ngôn phƣơng Tây – phƣơng Đông của Phạm Quỳnh 2.3.1. Nhận thức về phương Tây (Pháp) Trong những diễn ngôn của mình, Phạm Quỳnh đã thừa nhận sự xuất hiện của ngƣời Pháp tại Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Ông đã khái quát lại những đặc tính đặc trƣng của ngƣời Pháp với một thái độ ngợi ca. Phạm Quỳnh cũng đã nhận định cách đối xử của ngƣời Pháp với thuộc địa sẽ khác với các thực dân khác. Khái niệm “lòng trung thành”, “niềm tin”, “sự hi vọng”, “sự biết ơn” của ngƣời nƣớc Nam đối với ngƣời Pháp đã xuất hiện nhiều lần trong các diễn ngôn của ông: Sứ mệnh của nước Pháp, Thư ngỏ gửi ngài bộ trưởng thuộc địa, Tiến tới một bản hiến pháp, .... Đó là diễn ngôn đề cao sự khai hoá của ngƣời Pháp – thuyết phục ngƣời Việt tin tƣởng vào sự bảo hộ của Pháp. Điều này cũng hoàn toàn có thể lý giải đƣợc dựa trên vị thế xã hội của Phạm Quỳnh khi ông vừa là chủ bút Nam Phong (tờ báo nhận tài trợ từ Pháp) vừa là thƣ ký hội Khai trí Tiến Đức. 2.3.2. Nhận thức về phương Đông (dân tộc) Cuộc gặp gỡ với phƣơng Tây “nhƣ một kẻ khác” – một ý niệm hoàn toàn khác biệt cuộc tiếp xúc với Trung Quốc đã diễn ra hàng nghìn năm - đã đánh thức trong những học giả thế hệ Phạm Quỳnh về cái gọi là “bản sắc” và mong muốn đi tìm câu trả lời cho câu hỏi “ta là ai” và “cái gọi là Việt Nam tính thực sự là gì”? Trong sự
- 11 nghiệp của mình Phạm Quỳnh cũng đã dày công khôi phục những mảnh ghép của lịch sử dân tộc từ những phong tục cổ truyền, nết ăn, nết ở, … đến ca dao tục ngữ, những văn bản của ngƣời Việt. Đây là một hành động có ý nghĩa to lớn để khôi phục lại gƣơng mặt quê hƣơng. 2.3.2.1. Văn hóa Việt Nam – nền văn hóa bản địa đặc sắc Sự đa dạng của những không gian văn hóa Phạm Quỳnh viết Trẩy hội Chùa Hương, Mười ngày ở Huế, Một tháng ở Nam Kỳ … khi mới ra làm báo Nam Phong, với tinh thần yêu thiên nhiên, mong muốn khám phá về những phong tục tập quán và di sản văn hóa trên khắp mọi miền đất nƣớc. Gƣơng mặt văn hóa bản địa cứ hiện ra dần qua các trang du ký. Di sản văn hóa bản địa đặc sắc Phạm Quỳnh đã tự khảo cứu và biên dịch các sách khảo cứu về di sản dân tộc trên rất nhiều lĩnh vực nhƣ về mĩ thuật, lăng tẩm, tục lệ ngày tết, thờ cúng tổ tiên … từ đó khái quát nên văn hóa truyền thống của ngƣời Việt. Quan tâm tới rất nhiều lĩnh vực văn hóa, nhƣng điều thu hút Phạm Quỳnh nhất có lẽ vẫn là vấn đề ngôn ngữ. Và việc đề cao quốc ngữ, quốc văn nhƣ nỗ lực hình thành “tiếng nói riêng” cho dân tộc đã trở thành một chủ kiến rất kiên định của Phạm Quỳnh. Với Phạm Quỳnh văn học quốc văn đã bắt đầu từ tục ngữ ca dao của ngƣời lao động và văn chƣơng chữ Nôm của cha ông ta từ trƣớc. Vì thế ông đã viết nhiều bài khảo cứu chi tiết về nguồn gốc, đặc trƣng nghệ thuật, giá trị nội dung của tục ngữ ca dao Việt Nam, Truyện Kiều, … đối với cả nhân dân trong nƣớc và ngƣời ngoại quốc. Ngoài ra, tạo ra cái nhìn liền mạch về ngôn ngữ dân tộc, Phạm Quỳnh cũng chính là ngƣời đầu tiên nêu vấn đề Nghiên cứu vốn cổ Hán Nôm (1924) và Các môn cổ văn Hán Nôm (1928) Văn chương trong lối hát ả đào (1923), … Tạp chí Nam Phong dƣới sự chỉ đạo của Phạm Quỳnh trong suốt nhiều năm liền luôn có những chuyên mục về tục ngữ, ca dao. Không chỉ dày công khảo cứu, sƣu tập và gìn giữ kho tàng văn nghệ quốc âm, bình phẩm các giá trị để văn nghệ quốc âm đƣợc trở về với vị trí xứng đáng, chứng minh sức sống mãnh liệt của ngôn ngữ dân tộc qua cây bút ngƣời nghệ sĩ, Phạm Quỳnh còn so sánh, đặt di sản văn nghệ quốc âm của dân tộc ngang hàng với thế giới để thấy cái tài tình của thi nhân mỗi nƣớc. Ý thức đề cao quốc âm, đặt quốc âm trong đối sánh với những ngôn ngữ khác của Phạm Quỳnh còn đƣợc thể hiện qua việc Hội Khai Trí Tiến Đức (mà ông làm Tổng Thƣ ký) xây dựng Việt Nam Tự điển (1931). 2.3.2.2. Văn hóa Việt Nam và nỗ lực trường tồn qua những thăng trầm của lịch sử Nỗ lực thoát khỏi số phận “một học trò nhỏ” của Trung Hoa Phạm Quỳnh đủ tỉnh táo để nhận ra rằng sự lệ thuộc của văn hóa Việt Nam vào văn hóa Trung Quốc có hai nguyên nhân: từ hoàn cảnh lịch sử và sự chấp nhận, tự ti của chính ngƣời Việt Nam không cố gắng hết sức trong quá trình tự định nghĩa bản sắc dân tộc. Mặc dầu vậy, Phạm Quỳnh vẫn luôn bày tỏ một tinh thần lạc quan: “Theo cách nói dân gian, cuộc chiến đấu đó đúng là trứng chọi đá. Quả trứng nƣớc Nam ắt phải bị đập vỡ tan tành, chẳng thể nào khác. Sự thật là nó đã không bao giờ bị đập vỡ, và cuộc chiến đấu chênh lệch đó cứ lặp đi lặp lại một cách thƣờng kỳ trong suốt lịch sử,
- 12 và nƣớc Nam bao giờ cũng đã thoát ra nguyên vẹn”. Và Phạm Quỳnh là ngƣời gạn đến cùng những sự khác biệt để nhấn mạnh nét đặc trƣng của văn hóa Việt theo đúng tinh thần “thoát ra nguyên vẹn” để nỗ lực trƣờng tồn qua những biến động lịch sử. Nỗ lực khẳng định tư cách quốc gia của mình trước thực dân Pháp “Ngƣời nƣớc Nam không thể coi nƣớc Pháp là tổ quốc của mình, bởi vì ngƣời nƣớc Nam đã từng có một tổ quốc” [76, 379] Khi đối thoại với ngƣời Pháp về thể chế Liên bang Đông Dƣơng, Phạm Quỳnh cũng luôn khẳng định tƣ cách quốc gia của nƣớc Nam. Đọc những tƣ liệu lƣu trữ, Phạm Quỳnh khẳng định: ngƣời Việt sinh ra không phải là để làm nô lệ. Theo Phạm Quỳnh, ngƣời Việt “đang phải chịu và nó thực sự là một cuộc khủng hoảng về nhân cách”. “Trên góc độ quốc gia, khủng hoảng này có thể đƣợc tóm tắt nhƣ sau: chúng tôi là một dân tộc đi kiếm tìm một Tổ quốc và chƣa tìm thấy Tổ quốc đó”. Và dù rằng nhƣ vậy, Phạm Quỳnh cũng khảng khái khẳng định: Tổ quốc này không thể là nƣớc Pháp. “Một dân tộc đang kiếm tìm một Tổ quốc”, điều đó không hoàn toàn chỉ là những bất lợi. Ngƣời Việt Nam hãy lọc ra những gì phù hợp và cần thiết để từ đó tiếp tục hành trình tự định nghĩa, hoàn thành những phác thảo về dân tộc mình với một sức bật và tinh thần cầu thị mạnh mẽ nhất. 2.3.3. Nỗ lực kiến tạo diện mạo mới cho tương lai văn hóa dân tộc 2.3.3.1. Mục tiêu hướng tới Chủ trƣơng mà Phạm Quỳnh hƣớng đến là một nƣớc Việt Nam quân chủ lập hiến dƣới sự bảo hộ của Pháp. Quân chủ lập hiến của Phạm Quỳnh chỉ còn cái vỏ của chế độ truyền thống, còn thực chất đã biến đổi về chất. Triều đình sẽ lắng nghe ý kiến của nhân dân thông qua tầng lớp trí thức để từ đó có những quyết sách cho phù hợp. Quan điểm của Phạm Quỳnh có lí khi ngƣời trí thức và ngƣời dân An Nam đƣơng thời vẫn còn gắn bó với nền quân chủ. Hơn thế, khi dân trí còn thấp thì hình thức quân chủ lập hiến là một lựa chọn có ƣu thế bởi lẽ chính triều đình là ngƣời định hƣớng, nâng cao dân trí cho dân chúng. Nếu nhƣ sự có mặt của ngƣời Pháp trên đất nƣớc này là một định mệnh mang tính lịch sử thì điều cần thiết nhất với Việt Nam – một đất nƣớc có truyền thống sau lƣng mình hai mƣơi lăm thế kỷ lịch sử là: sự bảo hộ để đi lên theo con đƣờng văn minh, hiện đại dựa trên nền tảng tinh hoa văn hóa sẵn có của chính mình và của cái nôi văn minh phƣơng Đông. Chính vì vậy mục tiêu mà Phạm Quỳnh hƣớng đến chính là dựa vào Pháp và tinh hoa văn hóa truyền thống để loại trừ vị thế nhƣợc tiểu thuộc địa của mình. 2.3.3.2. Cách thức thực hiện Để đạt đƣợc mục tiêu trên, Phạm Quỳnh đã đặt ra các cách thức thực hiện và tự thực hiện nhƣ sau: (1) Nỗ lực thuyết phục cả hai phía – người Pháp và người Việt: Phạm Quỳnh đã cố gắng điều hòa mâu thuẫn nảy sinh do sự không thông hiểu giữa Pháp và Đông Dƣơng và thuyết phục ngƣời Pháp - ngƣời Việt “xích lại gần nhau” để từ đó có cơ sở thực hiện chủ trƣơng mà ông đặt ra. Thuyết phục nƣớc Pháp từ chính truyền thống nhân đạo của nƣớc Pháp, Phạm Quỳnh đã chỉ ra cho ngƣời Pháp một phƣơng cách tối ƣu: “muốn thống trị bền thì chỉ có thể dựa trên sự đồng thuận lƣơng tâm và ý nguyện con ngƣời”.
- 13 Đối với ngƣời Việt, họ cần hiểu sự có mặt của ngƣời Pháp là một tất yếu do sự yếu kém và lạc hậu của nƣớc Việt. Phạm Quỳnh thuyết phục cho ngƣời Việt hiểu rằng: ngƣời Việt học tập ngƣời Pháp vì ngƣời Việt chứ không phải là vì ngƣời Pháp. Theo Phạm Quỳnh: điều kiện cần và đủ để ngƣời Pháp và ngƣời Việt có thể “xích lại gần nhau” chính là vì mục đích chung “khôi phục một quốc gia đã mất cho ngƣời Việt” Nhƣ vậy, Phạm Quỳnh vừa nỗ lực khôi phục lại diện mạo dân tộc lại vừa thừa nhận diễn ngôn khai hoá của ngƣời Pháp, mong muốn dựa vào ngƣời Pháp để phục hƣng dân tộc. (2) “Làm mới” tinh hoa văn hóa phương Đông trong thực tế hiện thời Phạm Quỳnh không chỉ giới thiệu mà còn ngợi khen những yếu tố tích cực của các học thuyết là tinh hoa văn hóa phƣơng Đông khi vẫn còn nguyên những “giá trị thời sự”. Ví dụ nhƣ Nho giáo của Khổng Tử với những giá trị bền vững. Phạm Quỳnh đã so sánh Mạnh Tử với các triết gia phƣơng Tây hiện đại nhƣ Jean Jacques Rousseau. Sự gặp gỡ giữa các nền văn minh là hoàn toàn có thật không kể khoảng cách địa lý và thời gian. Theo Phạm Quỳnh, Phật giáo có thể giúp ngƣời An Nam vƣợt qua cuộc khủng hoảng về tinh thần mà họ đang phải chịu đựng. Từ đó, Phạm Quỳnh mong muốn có thể đi đến đƣợc sự đồng cảm hài hòa giữa phƣơng Đông và phƣơng Tây, giữa khoa học châu Âu và minh triết châu Á. (3) Học tập tư tưởng và học thuật phương Tây Trong bài viết Bàn về quốc học (Nam Phong, số 163), Phạm Quỳnh đã bày tỏ quan điểm là ở Việt Nam không có một nền quốc học chân chính. Cũng chính vì vậy Phạm Quỳnh đã rất chú trọng dịch thuật nhiều tƣ tƣởng học thuật mang tính chất bách khoa của phƣơng Tây để nâng cao dân trí. Phạm Quỳnh chủ trƣơng giới thiệu những lý thuyết mang tính tri thức bách khoa cho ngƣời dân An Nam. Phạm Quỳnh là ngƣời Việt Nam đầu tiên dịch, giới thiệu và bàn luận về triết lý cổ Hi La, những học thuyết của Descartes, Montesquieu, Voltaire, Rousseau, Auguste Comte,… Phạm Quỳnh cũng chú ý giới thiệu chuyên sâu về lý luận văn học và thực hành phƣơng pháp nghiên cứu văn học mới. Phạm Quỳnh đã khảo dịch về lịch sử văn chƣơng Pháp, về nghề văn, về cách viết tiểu thuyết, về thơ, kịch nói, các tác phẩm nổi tiếng đƣơng thời,… tất cả đều có tính gợi ý, định hƣớng cho bƣớc hình thành và phát triển văn mới ở nƣớc ta theo mẫu hình văn học phƣơng Tây. Có thể nói, Phạm Quỳnh luận về văn học với tƣ cách một nhà khai sáng, viết lí luận cho những ngƣời thực hành và vì thế là nhà thiết kế chi tiết và công phu cho văn học Việt Nam hiện đại. (4) Xây dựng nền giáo dục phù hợp với người Việt Theo Phạm Quỳnh, một lý do không thể bỏ qua trong việc xây dựng nền giáo dục phù hợp cho ngƣời Việt: đó là vì tầng lớp trí thức tinh hoa truyền thống đã không còn thể hiện đƣợc uy tín và vai trò quan trọng của mình. Ông cho rằng: tiêu chí để phân biệt sự phát triển của các quốc gia là tầng lớp thƣợng lƣu, Phạm Quỳnh quan niệm trƣớc hết phải cải cách từ chính tầng lớp này. Lựa chọn đƣợc một nền giáo dục phù hợp sẽ giúp tầng lớp này thay đổi đƣợc diện mạo quốc gia. Cấu trúc thích hợp cho nền quốc học chính là điều Phạm Quỳnh đang nỗ lực truyền bá: tích hợp đƣợc các lý tƣởng của cả Đông và Tây, hấp thu khoa học và văn
- 14 minh phƣơng Tây nhƣng vẫn gắn bó với ngôn ngữ, truyền thống lâu đời của chủng tộc mình. Vấn đề ngôn ngữ luôn đƣợc Phạm Quỳnh đề cao, đó là cơ sở để xây dựng một nền văn hóa dân tộc, thậm chí là một căn cứ để khẳng định sự tồn tại của đất nƣớc: Phạm Quỳnh đề cao phát triển chữ quốc ngữ nhƣng điều đó không có nghĩa là Phạm Quỳnh loại trừ chữ Nho và chữ Pháp. Biết chữ Pháp để tiếp cận với nền văn minh nhân loại. Còn giữ chữ Nho để hiểu đƣợc tinh hoa văn hóa dân tộc. Nhƣ vậy, trên con đƣờng kiến tạo diện mạo mới cho tƣơng lai văn hóa dân tộc, Phạm Quỳnh đã cố gắng vừa thuyết phục ngƣời Pháp phát huy truyền thống “nhân đạo” và lịch thiệp” để “bảo hộ” cho một quốc gia Việt Nam có truyền thống văn hoá lâu đời; vừa thuyết phục ngƣời Việt tự gây dựng trên nền tảng truyền thống cha ông, học tập phƣơng Tây, nâng cao dân trí để loại trừ vị thế thuộc địa nhƣợc tiểu của mình. 2.3.4. Diễn ngôn phương Đông - phương Tây của Phạm Quỳnh và những ngã rẽ tiếp nhận Phạm Quỳnh là một nhà văn khai sáng đặc trƣng của thời hiện đại có niềm tin chắc chắn vào ngôn ngữ, tin rằng ngôn ngữ sẽ truyền tải đƣợc đúng ý định của mình đến với mọi ngƣời đồng thời diễn ngôn của mình sẽ có tác dụng thúc đẩy mọi ngƣời hành động. Tuy nhiên, ngôn ngữ thƣờng có những ngã rẽ trong tiếp nhận mà ngƣời tạo lập văn bản không thể biết trƣớc đƣợc, nhất là khi Phạm Quỳnh lựa chọn Nam Phong – một tờ báo hoạt động dựa trên ngân sách của Pháp – là hệ thống phƣơng tiện truyền bá diễn ngôn của mình. Trong vai trò chủ bút Nam Phong, việc Phạm Quỳnh ca ngợi Pháp là điều không thể tránh khỏi. Nhƣng rõ ràng, trong diễn ngôn của Phạm Quỳnh, giữa quyền lực thực dân (Pháp) và những yếu tố vị lợi cho dân tộc (Việt) luôn có sự điều tiết, thƣơng thỏa. Mặt khác, với vai trò là chủ bút Nam Phong, Phạm Quỳnh có thể nƣơng theo những chính sách của Pháp để tạo ra những cú hích lớn trong tiến trình nâng cao dân trí, cải tiến nền văn hóa. Nhƣng việc ông ca ngợi Pháp cũng chính là đầu mối dẫn đến kết cục đau lòng mà chủ tịch Hồ Chí Minh phải nói là “bất tất nhiên”. Trong các diễn ngôn của mình, Phạm Quỳnh đã thể hiện một niềm tin nhiệt thành vào diễn ngôn tiến bộ, khai sáng của ngƣời Pháp mà hầu nhƣ không nhắc đến những biện pháp cai trị khắc nghiệt của họ đối với ngƣời An Nam. Điều này khiến cho ông rơi vào trạng thái bị kỳ thị là bồi bút thân Pháp, tiếp tay thêm cho sự cai trị của ngƣời Pháp đối với xứ Đông Dƣơng. Từ sự nghi kỵ đó những đóng góp của ông về văn hóa và giáo dục – vốn là có sự độc lập tƣơng đối với chính trị cũng trở thành con số không, thậm chí không còn đƣợc thừa nhận. Nhẹ nhàng hơn thì một vài nhà phê bình cho rằng phƣơng thức giải thuộc địa từ gốc văn hóa của Phạm Quỳnh quá trừu tƣợng, xa rời thực tế – dù cho có đúng đắn về mặt lý thuyết nhƣng không khả thi, không phù hợp với thực tế thống trị thực dân. Quan điểm của Phạm Quỳnh còn là một sự thách thức với số đông dân chúng An Nam lúc bấy giờ khi ông đặt sứ mệnh lịch sử lên vai tầng lớp trí thức tinh hoa – một điều gần nhƣ đi ngƣợc lại với truyền thống “văn hóa làng xã” của ngƣời Việt. Tuy nhiên, cái khó đối với Phạm Quỳnh không phải chỉ là sự bất thông hiểu của những ngƣời đồng hƣơng mà còn là sự nghi kỵ của ngƣời Pháp – chính những ngƣời mà ông đặt số mệnh dân tộc dƣới sự bảo hộ của họ. Ngày 8/1/1945, trong báo
- 15 cáo của Thống sứ Trung kỳ Healewyn gửi Đô đốc Decoux và Tổng Đại diện Mordant, có đoạn viết: “Những yêu sách của Phạm Quỳnh đòi trở lại việc chấp thuận một chế độ tự trị hoàn toàn cho hai xứ bảo hộ (Trung Kỳ và Bắc Kỳ), khƣớc từ chế độ thuộc địa ở Nam Kỳ và thành lập một Quốc gia Việt Nam... Cho tới nay đó là một địch thủ thận trọng nhƣng cƣơng quyết chống lại sự đô hộ của nƣớc Pháp và ông ta có thể sớm trở thành một kẻ thù không khoan nhƣợng” [28, 178]. Điều đó cho thấy chính ngƣời Pháp cũng đề phòng Phạm Quỳnh. Trong các diễn ngôn của ông có thể thừa nhận sự bảo hộ, khuyến khích việc học tập tƣ tƣởng và học thuật của ngƣời Pháp để cải tiến xã hội nhƣng ông không bao giờ chấp nhận sự thống trị hoàn toàn của ngƣời Pháp, không bao giờ chấp nhận là bản sao của ngƣời Pháp. Trong hoàn cảnh nhiều hạn chế của một cận thần thân Pháp, Phạm Quỳnh đã cố gắng khéo léo gạn lọc những điều có lợi cho quốc dân (bảo tồn quốc âm, giữ gìn bản sắc văn hóa, nâng cao dân trí). Đối với Phạm Quỳnh, có thể có rất nhiều điều quan trọng, nhƣng quan trọng nhất là ngƣời Việt phải có tiếng nói riêng của mình – phải có “quốc hồn”, “quốc tuý” của mình – từ đó có đƣợc bản sắc riêng của một “Quốc gia Việt Nam” với truyền thống lịch sử lâu đời. Tất cả những điều còn lại – không cần biết là cách thức nhƣ thế nào – quan trọng là phải làm cho bản sắc ấy ngày càng có giá trị và nhận đƣợc sự tôn trọng của các nƣớc khác, đặc biệt là những nƣớc mà chúng ta đang phải dày công xích lại gần và học tập. Bản thân Phạm Quỳnh cũng đã gửi gắm nỗi niềm tâm sự qua hình ảnh nàng Kiều và qua bài thơ khóc Nguyễn Văn Vĩnh. Nhƣ vậy, mặc dù có công truyền bá tƣ tƣởng Đông Tây, làm cho chữ quốc ngữ ngày càng phát triển và luôn nỗ lực hết mình để kiến tạo con đƣờng đi cho tƣơng lai văn hóa dân tộc thì cuộc đời của Phạm Quỳnh vẫn gặp phải những bi kịch đến từ những cách hiểu khác nhau (ở cả hai phía – ngƣời Việt và ngƣời Pháp) về diễn ngôn của mình. KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 Nguyễn Văn Trung trong Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam thực chất và huyền thoại đã khẳng định: “Thực dân Pháp tung ra những huyền thoại để che dấu thực chất của chế độ thực dân, rút cục chính những huyền thoại đó lại tố cáo thực chất và tạo điều kiện tâm lý đánh đổ thực chất”. Trƣờng hợp Phạm Quỳnh và Nam Phong là một ví dụ tiêu biểu. Phạm Quỳnh đã có sự góp sức không nhỏ trong chiến lƣợc tạo dựng hai huyền thoại chính “Khai hóa” và “Pháp Việt đề huề” của ngƣời Pháp nhƣng rõ ràng chính những huyền thoại đó lại góp phần giúp ngƣời Việt nâng cao dân trí, tự ý thức về dân tộc của mình, hiểu đƣợc những khái niệm tƣ tƣởng tiến bộ của nhân loại, đánh thức những mong muốn đƣợc sống nhân văn trong tinh thần ngƣời Việt đầu thế kỷ XX. Qua chƣơng 2, chúng tôi đã phân tích chủ thể diễn ngôn Phạm Quỳnh nhƣ một chủ thể văn hóa chịu sự tác động của thực tế khách quan từ nhiều phía nhƣng đồng thời di sản văn hóa ông cũng lại tác động rất lớn tới xã hội đƣơng thời. Rõ ràng thực dân Pháp là ngƣời đề ra chủ trƣơng nhƣng không phải lúc nào cũng kiểm soát đƣợc tất cả những chủ trƣơng đó. Luôn luôn có những thƣơng thỏa quyền lực và những giao cắt tri thức giữa thực dân và thuộc địa, giữa Đông và Tây, giữa truyền thống và hiện đại …
- 16 Chương 3 DIỄN NGÔN PHƢƠNG TÂY – PHƢƠNG ĐÔNG CỦA NHẤT LINH 3.1. Chủ thể diễn ngôn: Tâm thế Nhất Linh – “Một trí thức tây học kiểu mới” Nhất Linh – Nguyễn Tƣờng Tam (1906 – 1963) trƣởng thành trong giai đoạn công cuộc thực dân đã tiến hành phận sự của mình thông qua cơ chế đào tạo ra một tầng lớp trí thức kiểu mới – trí thức Tây học. Những tƣ tƣởng phƣơng Tây đã tấn công và phá vỡ mọi thành trì phong kiến bao bọc đời sống Việt Nam suốt hàng ngàn năm lịch sử. Thời đại của Nhất Linh là thời đại chuyển mình mạnh mẽ và khốc liệt nhất để chuyển từ phạm trù trung đại sang phạm trù hiện đại, hội nhập với văn hoá thế giới. Bản thân Nhất Linh đƣợc trải nghiệm trƣờng tiểu học ở Cẩm Giàng, học trung học tại Trƣờng Bƣởi, tiếp tục học ngành Y và Mĩ thuật nhƣng chỉ 1 năm rồi bỏ dở, sau sang Pháp du học, vừa học khoa học, vừa nghiên cứu về nghề báo và nghề xuất bản, đậu bằng Cử nhân Khoa học Giáo khoa. Nhƣ vậy Nhất Linh chính là sản phẩm tƣơng đối hoàn thiện của nền giáo dục thuộc địa, quy củ, lớp lang và toàn diện khác với thế hệ tự học, tự nghiên cứu, dịch thuật và truyền bá tƣ tƣởng của Phạm Quỳnh. Nhất Linh chính là thế hệ thanh niên đƣợc “cắm điện trực tiếp” từ những tri thức, những trào lƣu trƣờng phái mới nhất về tƣ tƣởng, văn học nghệ thuật của phƣơng Tây. Trong các trƣờng học Pháp thuộc mà Nhất Linh đã từng học, chúng tôi đặc biệt lƣu ý trƣờng Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dƣơng. Bởi lẽ, lựa chọn học trƣờng này, bản thân Nhất Linh phải có khiếu về hội họa, có khiếu về nghệ thuật. Chƣa kể trƣờng Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dƣơng tuy là trƣờng học của Pháp nhƣng lại có những ƣu việt khi có vị hiệu trƣởng đầu tiên là Victor Tardieu. Có một chút gì đó giống nhƣ với Alexandre Yersin, ông Victor Tardieu đến Việt Nam với tƣ cách – là một ngƣời đến để “cộng tác” nhƣ chúng ta vẫn thƣờng thấy hiện nay. Ông là ngƣời “có một sự nghiệp lâu dài ở chính quốc với tƣ cách một họa sĩ” “yêu nghề, tận tâm dạy bảo sinh viên, khuyến khích sự sáng tạo, tiếp thu cái mới, tìm về nghệ thuật truyền thống để phát triển không ngừng một nền mĩ thuật Việt Nam đổi mới”. Những ông thầy hội họa đến từ phƣơng Tây nhƣng không ép học trò của mình phải trở thành bản sao cho những cây cọ phƣơng Tây, ngƣợc lại, “họa sĩ Tardieu, những ngƣời cộng sự của ông thấy cần phải điều chỉnh, giúp đỡ các họa sĩ Việt Nam, tìm lại đƣợc ý nghĩa sâu xa nguồn cảm hứng cơ bản từ chính truyền thống của nghệ thuật phƣơng Đông”. Chính trong không khí mang tinh thần nghệ thuật nhân văn và cởi mở này, dù chỉ có học 1 năm nhƣng Nhất Linh – một trong những thế hệ học sinh đầu tiên của trƣờng Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dƣơng chắc hẳn cũng đã tiếp nhận một nguồn năng lƣợng thúc đẩy sự sáng tạo vƣợt qua mọi giới hạn, vƣợt qua sự áp đặt trở thành những phó bản của phƣơng Tây. Cũng trong chính thời đại này, nói nhƣ GS. Trịnh Văn Thảo, những trí thức trƣởng thành trong thế hệ này có “độ tuổi ghi danh” mang tính “thanh thiếu niên” nổi bật. Nghĩa là thời đại này đã sản sinh ra những “thủ lĩnh”, những anh tài trên các lĩnh vực văn hoá xã hội từ độ tuổi rất sớm và đặc biệt trí thức thuộc thế hệ này có “khả năng cảm thụ tri thức càng mạnh mẽ và sâu sắc hơn do giới trí thức năm 1925 mang nhiều đặc điểm “thanh niên tính”, luôn sẵn sàng, luôn cởi mở đối với mọi chọn lựa”. Nhất Linh cũng là một trong những thủ lĩnh, những anh tài nhƣ thế. Nhất Linh đã
- 17 thực sự sáng tạo trên tƣ cách là một nghệ sĩ – trí thức, có những đóng góp ý nghĩa cho đời sống văn hoá xã hội đƣơng thời. 3.2. Hệ thống phƣơng tiện truyền thông diễn ngôn phƣơng Tây – phƣơng Đông của Nhất Linh Nhất Linh – chủ bút báo Phong Hóa và Ngày Nay – hai tờ báo với ngân sách tự thu tự chi, tồn tại độc lập, không nhận tiền và sự định hƣớng của chính quyền, không chịu sự giúp đỡ của chính phủ Bảo hộ, đóng góp công sức rất lớn trong việc hiện đại hóa báo chí dân tộc đồng thời là thủ lĩnh của Tự lực văn đoàn – một trong những văn đoàn có sự chuyên nghiệp và tầm ảnh hƣởng lớn vào bậc nhất trong văn học Việt Nam thế kỷ XX cũng đã chọn lựa diễn ngôn báo chí, những diễn ngôn mang tính chất hùng biện nhƣ là phƣơng tiện hữu hiệu truyền bá tƣ tƣởng của mình và các cộng sự. Nếu nhƣ Nam Phong tạp chí sử dụng cả chữ Hán, Pháp và Việt thì hai tờ báo của Nhất Linh hoàn toàn dùng tiếng Việt. Nếu nhƣ thể loại trọng tâm của Phạm Quỳnh là văn nghị luận thì thể loại trọng tâm tạo nên “thƣơng hiệu” của Tự lực văn đoàn lại là tiểu thuyết. Văn của Phạm Quỳnh mang tính chất định hƣớng tƣ tƣởng hƣớng tới cả ngƣời Việt và ngƣời Pháp, đặc biệt mong muốn tác động tới tầng lớp tinh hoa, đặc tuyển để thay đổi xã hội. Văn của Tự lực văn đoàn với đặc thù của tiểu thuyết hƣớng tới đối tƣợng chính là ngƣời Việt và nhanh chóng phủ sóng mọi giai tầng của xã hội, nhất là tầng lớp thị dân đông đảo. 3.3. Diễn ngôn phƣơng Tây – phƣơng Đông của Nhất Linh 3.3.1. Nhận thức về phương Tây (Pháp) Thái độ đối với phƣơng Tây của Nhất Linh mang tính chất nƣớc đôi: vừa mong muốn học tập đạt đến trình độ phƣơng Tây để vƣợt thoát khỏi vị trí nhƣợc tiểu, vừa căm ghét, phê phán những gì phƣơng Tây đã gây ra trên đất nƣớc mình. Phƣơng Tây vừa nhƣ một giá trị văn minh phổ quát của nhân loại (cần hƣớng đến) và vừa mang bộ mặt tham lam, tàn ác của những kẻ thực dân tại Đông Dƣơng. Tính chất nƣớc đôi trong nhận thức về phƣơng Tây này của Nhất Linh cũng khác biệt và đi xa hơn so với Phạm Quỳnh – thừa nhận sự bảo hộ của phƣơng Tây. 3.3.2. Nhận thức về phương Đông (dân tộc) 3.3.2.1. Tình yêu với những nét đẹp văn hoá truyền thống Nhất Linh sớm bộc lộ tình cảm với văn hoá dân tộc. Những bài viết đầu tiên về truyện Kiều trên Nam Phong tạp chí hay những trang văn thuở đôi mƣơi nhƣ Nho Phong (viết năm 1924, 1925) đến Người quay tơ (viết năm 1926) đã thể hiện rõ điều đó. Đây là sự trăn trở của một cây bút trẻ muốn tìm nguồn cảm hứng sáng tác từ những chất liệu truyền thống. Sau này, khi đã là chủ của hai tờ báo có sức ảnh hƣởng lớn trong xã hội đƣơng thời Phong hoá và Ngày nay, dù cổ xuý nhiệt liệt cho những thứ “tây nhất”, “mới nhất”, Nhất Linh vẫn dành đất cho những bài viết về vẻ đẹp của phong tục đất Việt. 3.3.2.2. Dấu ấn phương Đông trong sự sáng tạo trên đường biên giao thoa văn hóa Đông (Việt) – Tây (Pháp) Dấu ấn phƣơng Đông trong Nhất Linh nhiều khi lắng rất sâu, ngay cả trong hình hài của những điều ông có đƣợc do nhà trƣờng phƣơng Tây tạo dựng. Ta có thể thấy rõ điều này qua một trong những bức hoạ nổi tiếng nhất của ông – ông sử dụng tài năng hội hoạ một cách nghiêm túc nhất chứ không phải là những bức tranh biếm hoạ, minh hoạ trên hai tạp chí - bức Scène de Marché de rue Indochinois (Cảnh Phố Chợ Đông
- 18 Dương) vẽ trên lụa thực hiện khoảng 1926-1929. Chất phƣơng Đông (đề tài +chất liệu) kết hợp với Khoa học (kĩ thuật tạo hình) phƣơng Tây đã tạo nên bức tranh nhƣ một minh chứng rõ nét cho sự giao thoa Đông – Tây ở chiều rất sâu trong chủ thể văn hóa Nguyễn Tƣờng Tam. Một sản phẩm văn hóa rất nổi tiếng khác của Nhất Linh là hí họa Lý Toét. George Dutton trong bài viết Lý toét ngao du phố phường cho rằng Lý toét, hình ảnh tiêu biểu cho các nhân vật biếm hoạ trên báo Phong Hoá, chính là “một sự pha trộn giữa hai dòng hài hƣớc: truyền thống biếm họa chính trị của Pháp và truyền thống châm biếm thị giác cũng nhƣ truyền miệng đã hình thành lâu đời ở Việt Nam”. Nhân vật Tuyết trong Đời mưa gió không chỉ gần gũi với hình tƣợng Marguerite Gautier trong Trà Hoa Nữ (Alexandre Dumas con) và Emma Bovary trong Quý bà Bovary (Gustave Flaubert) mà còn mang bóng dáng của những yêu nữ trong Liêu trai chí dị. Còn đối với tiểu thuyết Bướm trắng, dù hình tƣợng nhân vật, cốt truyện, kĩ thuật kể chuyện, tƣ tƣởng … có sự ảnh hƣởng rất lớn từ phƣơng Tây thì hình tƣợng trung tâm “bƣớm trắng” mang ý nghĩa truy vấn về bản chất nhân sinh lại dƣờng nhƣ đƣợc thoát thai từ cánh bƣớm đã trở thành huyền thoại trong văn hóa phƣơng Đông của triết gia Trang Tử. Nhƣ vậy, có thể nói dấu ấn phƣơng Đông đã trở thành một hằng số, dù ít dù nhiều vẫn luôn in dấu trong sự sáng tạo của Nhất Linh trên đƣờng biên giao thoa văn hóa Đông (Việt) – Tây (Pháp). 3.3.2.3. Tư duy phê phán: muốn “đồng đẳng” phương Đông cần tự thay đổi Mặc dù có dành tình cảm cho những nét đẹp truyền thống nhƣng đó không phải là sự quan tâm chính của ông. Sự gặp gỡ với phƣơng Tây đã giúp Nhất Linh nhận ra sự nhƣợc tiểu của quê hƣơng xứ sở của mình. Chính vì vậy, bằng một tƣ duy phê phán mãnh liệt, nhà văn cùng các cộng sự của mình đã giễu cợt những “thói hƣ tật xấu”, những thứ rƣờm rà, bảo thủ, lạc hậu của con ngƣời cũ (qua hình ảnh Lý Toét, Xã Xệ, các nhân vật trong tập truyện ngắn Tối tăm …) hƣớng đến con ngƣời mới và đả phá vào thành trì phong kiến, trong đó tập trung đấu tranh giải phóng cái tôi cá nhân khỏi những kiềm toả của lễ giáo phong kiến, đòi quyền sống của con ngƣời (nhƣ Lạnh lùng, Đoạn tuyệt, …) 3.3.3. Nỗ lực kiến tạo diện mạo mới cho tương lai văn hoá dân tộc Nhất Linh lại mong muốn kiến tạo bản sắc văn hoá kiểu mới, tạo ra một thứ văn chƣơng và rộng ra là văn hoá An Nam do chính ngƣời An Nam làm ra với cách nghĩ, cách cảm phù hợp với sự đổi thay của thời đại và làm phong phú thêm cho đời sống tâm hồn ngƣời An Nam. Không phải một phƣơng Đông với hào quang từ quá khứ, cũng không phải phƣơng Đông thụ động, mà là phƣơng Đông chủ động tự xây con đƣờng cho chính mình. Với Phạm Quỳnh, phƣơng Đông là ý niệm về dân tộc, ý niệm về ngôn ngữ, ý niệm về lịch sử, dòng giống (cội nguồn), lãnh thổ, Phạm Quỳnh đặc biệt đề cao “hồn dân tộc” (trong đó ngôn ngữ nhƣ một phƣơng diện biểu đạt về “hồn dân tộc”). Với Nhất Linh, Phƣơng Đông không phải là những ý niệm mà là những điều cụ thể đƣợc hiện diện và ngày cần phải đƣợc hiện đại hóa hơn bằng chính sức của ngƣời Việt – “tự lực”. Bản thân sự xuất hiện của Tự lực văn đoàn đã là minh chứng rõ nét nhất cho khát vọng đó của Nhất Linh. 3.3.3.1. Ước vọng mới cho phương Đông Với lý tƣởng đó, Nhất Linh và các cộng sự của mình đã dần dần từng bƣớc
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 303 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 288 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 179 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 266 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 222 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 175 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 53 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 198 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 148 | 7
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 135 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 170 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn