intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Nông nghiệp: Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và kỹ thuật trồng rừng Cóc hành (Azadirachta excelsa (Jack) Jacobs) ở vùng khô hạn Nam Trung Bộ

Chia sẻ: Co Ti Thanh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:166

54
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm bổ sung một số đặc điểm sinh học của Cóc hành góp phần làm cơ sở cho việc xây dựng các biện pháp kỹ thuật trồng rừng cung cấp gỗ ở vùng khô hạn Nam Trung Bộ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án tiến sĩ Nông nghiệp: Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và kỹ thuật trồng rừng Cóc hành (Azadirachta excelsa (Jack) Jacobs) ở vùng khô hạn Nam Trung Bộ

  1. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài Khí hậu ở vùng Nam Trung Bộ phân chia thành hai mùa khô và mưa rõ rệt,  mùa khô thường kéo dài 8 tháng, từ tháng 1 đến tháng 8, trong đó lượng mưa chỉ  chiếm khoảng 20­25 % tổng lượng mưa năm. Mùa mưa kéo dài 4 tháng từ tháng  9 đến tháng 12, trong đó lượng mưa chiếm khoảng 75­80% tổng lượng mưa năm.  Lượng mưa trung bình năm  ở  vùng Nam Trung Bộ  từ  1000 ­ 2200 mm. Lượng   mưa  ở  tỉnh Ninh Thuận 
  2. 2 Cóc hành là loài cây ưa sáng, tán kín, lá xanh gần như  quanh năm, ra hoa và nảy  chồi vào những tháng khô hạn nhất trong năm. Đây là loài đa mục đích, có giá trị  cao về kinh tế, chu kỳ kinh doanh tương đối ngắn so với những loài cây bản địa   khác, có khả  năng gây trồng trên đất nghèo và nơi có khí hậu khô hạn (Hà Thị  Mừng, 2015) [20]. Cóc hành cũng là một trong những loài cây gỗ  bản địa của  vùng Nam Trung Bộ do khả năng chịu khô hạn tốt, nên được ngành lâm nghiệp  và cộng đồng dân cư   ở  hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận sử  dụng để  trồng   rừng trên những vùng đất cát khô hạn  ở  khu vực ven biển. Hiện nay, diện tích  rừng trồng Cóc hành ở hai tỉnh này đã lên đến hàng trăm ha (Sở NN&PTNT Ninh  Thuận,   2008  [28],   [29];   Hà   Thị   Mừng,   2015   [22]).   Theo   Thông   tư   số   35/TT­ BNN&PTNT ngày 23/6/2010 [1] thì Cóc hành và Xoan chịu hạn (Neem) là 2 loài   cây trồng lấy gỗ được đưa vào danh mục bổ sung một số loài cây trồng rừng tại   63   huyện   nghèo   thuộc   21   tỉnh   theo   Nghị   quyết   số   30a/2008/NQ­CP   (Bộ  NN&PTNT, 2010) [1]. Mặc dù Cóc hành đã được đưa vào danh mục cây trồng tại địa phương,  song chất lượng rừng trồng chưa tốt bởi còn rất ít những nghiên cứu mang tính  cơ sở cho các kỹ thuật trồng rừng loài cây này, cho đến nay kỹ thuật trồng rừng  Cóc hành ở  Nam Trung Bộ chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của người dân . Nhận  thấy rằng, để  trồng rừng Cóc hành thành công, khoa học và thực tiễn sản xuất   cần phải có những hiểu biết đầy đủ không chỉ về đặc điểm hình thái và đặc tính   phân bố  của Cóc hành, mà còn cả  đặc điểm sinh học, phương pháp nhân giống,   kỹ thuật trồng và nuôi dưỡng rừng.  Xuất phát từ  những  lý do trên, đề  tài:  “Nghiên cứu một số  đặc điểm  sinh   học   và   kỹ   thuật   trồng   rừng   Cóc   hành   (Azadirachta   excelsa  (Jack)  Jacobs)  ở  vùng khô hạn Nam Trung Bộ”  là hết sức cần thiết góp phần giải  quyết vấn đề trên. 2. Ý nghĩa của đề tài
  3. 3 ­ Ý nghĩa khoa học: Cung cấp cơ  sở  khoa học (đặc điểm sinh học, kỹ  thuật tạo cây giống, kỹ  thuật trồng rừng) để  xây dựng các biện pháp kỹ  thuật   nhằm phát triển rừng trồng cây Cóc hành ở vùng khô hạn Nam Trung Bộ. ­ Ý nghĩa thực tiễn: Làm cơ  sở  để  xây dựng hướng dẫn kỹ  thuật trồng   rừng Cóc hành ở vùng khô hạn Nam Trung Bộ. 3. Mục tiêu nghiên cứu     3.1. Mục tiêu chung Bổ sung một số đặc điểm sinh học của Cóc hành góp phần làm cơ sở cho   việc xây dựng các biện pháp kỹ  thuật trồng rừng cung cấp gỗ   ở vùng khô hạn  Nam Trung Bộ.    3.2. Mục tiêu cụ thể ­  Xác định được một số đặc điểm sinh học của Cóc hành. ­  Xác định được các biện pháp kỹ thuật trồng rừng Cóc hành ở  vùng khô   hạn Nam Trung Bộ. 4. Những đóng góp mơi cua  ́ ̉ luân an ̣ ́ ­ Đã bổ  sung được một số cơ  sở khoa học về đặc điểm sinh học, nhất là  đặc điểm lâm học, lượng hóa được một số  đặc điểm sinh lý, sinh thái của loài  Cóc hành tại vùng khô hạn Nam Trung Bộ  làm cơ  sở  nghiên cứu và phát triển   bền vững rừng trồng Cóc hành. ­ Bước đầu đề  xuất được một số  kỹ  thuật tạo cây giống và trồng rừng   Cóc hành làm cơ sở xây dựng các dự án phát triển rừng vùng khô hạn Nam Trung   Bộ. 5. Đối tượng và giới hạn nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cây Cóc hành phân bố tự nhiên tại một  số tỉnh Nam Trung Bộ, cây con trong vườn  ươm và cây rừng trồng Cóc hành tại 
  4. 4 hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. 5.2. Giới hạn nghiên cứu * Giơi han vê nôi dung nghiên c ́ ̣ ̀ ̣ ưu: ́ i) Luận án chỉ nghiên cứu một số đặc điểm sinh học cơ bản , gồm: 1) Đặc  điểm phân bố và điều kiện sinh thái loài; 2) Quan hệ Cóc hành với các loài trong  quần xã thực vật; 3) Đặc điểm vật hậu; 4) Đặc điểm sinh lý; 5) Đặc điểm cấu  trúc tầng cây cao của quần xã thực vật có cây Cóc hành và 6) Đặc điểm tái sinh  tự nhiên của Cóc hành. Đây là những căn cứ quan trọng cho các nghiên cứu tiếp  theo về kỹ thuật trồng rừng Cóc hành. ii) Những nghiên cứu về kỹ  thuật gây trồng chỉ  được nghiên cứu trên hai  loại đất chính, đó là đất xám nâu vùng bán khô hạn (Xk)  ở  Bình Thuận và đất  nâu vàng trên phù sa cổ (Fx) ở Ninh Thuận, mà chưa có điều kiện nghiên cứu trên  tất cả các loại đất của vùng Nam Trung Bộ. * Giơi han vê pham vi và đ ́ ̣ ̀ ̣ ịa bàn nghiên cứu: Địa bàn nghiên cứu của luận án là một số  tỉnh vùng khô hạn Nam Trung  Bộ (Ninh Thuận, Bình Thuận và Khánh Hòa), cụ thể: ­ Nghiên cứu  đặc điểm lâm học tại tất cả  các huyện thuộc tỉnh Ninh  Thuận và các huyện Hàm Thuận Nam, Tp. Phan Thiết, Hàm Thuận Bắc, Bắc  Bình, Tuy Phong tỉnh Bình Thuận, huyện Cam Ranh tỉnh Khánh Hòa (hình 2.4). ­ Điều tra đánh giá các mô hình trồng rừng sẵn có tại hai tỉnh Ninh Thuận   và Bình Thuận. ­ Thí nghiệm gieo  ươm được tiến hành tại vườn  ươm của Trạm thực   nghiệm Lâm nghiệp Thiện Nghiệp ­ Viện Khoa học Lâm nghiệp Nam Bộ, xã  Thiện Nghiệp, Tp. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận và vườn  ươm của Viện Khoa   học Lâm nghiệp Việt Nam tại quận Bắc Từ Liêm, Tp. Hà Nội. ­ Mô hình thí nghiệm được bố trí tại tiểu khu 137, Ban quản lý rừng phòng   hộ  Sông Lũy, xã Phan Tiến, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận và tiểu khu 49a,   Ban quản lý rừng phòng hộ đầu nguồn hồ Sông Sắt, xã Phước Thành, huyện Bác  
  5. 5 Ái, tỉnh Ninh Thuận. * Giơi han vê th ́ ̣ ̀ ơi gian nghiên c ̀ ứu: Thí nghiệm gieo  ươm Cóc hành được theo dõi từ khi cấy hạt đến khi cây  12 tháng. Thí nghiệm  điều kiện gây trồng, phương thức trồng, làm đất, bón phân,  mật độ trồng được theo dõi từ khi trồng đến lúc cây 4 năm. 6. Cấu trúc luận án Luận án gồm có 150 trang, 36 hình, 67 bảng và các phụ lục kèm theo Kết cấu thành các phần như sau : Phần mở đầu: 5 trang Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu về cây Cóc hành: 20  trang Chương 2: Nội dung và phương pháp nghiên cứu: 32 trang Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận: 79 trang Kết luận, tồn tại và kiến nghị: 4 trang Tài liệu tham khảo: 10 trang
  6. 6 Chương 1 TÔNG QUAN  ̉ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CƯU ́  VỀ CÂY CÓC HÀNH 1.1. TRÊN THẾ GIỚI  1.1.1. Nghiên cứu về phân loại, hình thái, phân bố và sinh thái * Nghiên cứu đặc điểm phân loại Theo một số công trình nghiên cứu trên thế giới thì họ Xoan gồm có 20 chi  là Ngâu; Gội nước; Sầu đâu; Xương cá nhuộm; Quếch; Lát hoa; Chặc khế; Sọ  khỉ (Xà cừ); Lòn bon; Xoan; Mung rô; Rây hoa mộc; Sấu đỏ; Dái ngựa; Tông dù;  Trường nát; Tú lệ; Lòng tong; Su (Đăng đinh); Xương cá to (Xu to, Xu ổi). Trong   đó, chi Sầu đâu (Azadirachta) có 2 loài là Azadirachta excelsa  (Jack) Jacobs (Cóc  hành) và Azadirachta indica Juss (Neem, Xoan chịu hạn), còn chi Xoan (Melia) có  3 loài là Melia azadarach L. (Xoan nhà), Melia dubia và Melia toosendan Sieb .et.  Zucc (Xoan quả to). Cóc hành có tên khoa học là  Azadirachta excelsa  (Jack) Jacobs, thuộc họ  Xoan (Meliaceae), chi Sầu đâu (Azadirachta). Ngoài tên gọi  Azadirachta excelsa  còn có một số  tên khoa học đồng nghĩa khác như:  Azadirachta integrifolia Merr,  Azedarach excelsa  (Jack) Kuntze,  Azedarach excelsa  (Jack),  Melia excelsa  Jack,  Trichilia excelsa (Jack) Spreng. Cóc hành cũng có nhiều tên gọi địa phương khác  nhau.  Ở  Philippine, Cóc hành có tên là cây Marrango, cây Philippine Neem; tại  Indonesia Cóc hành có tên là cây Kayu bawang, Sentang; tại Malaysia người ta gọi   Cóc hành là cây Ranggu, cây Saurian bawang; tại Thái Lan Cóc hành có tên là cây  Sa­dao­thiam. Tên thương mại của Cóc hành là Sentang (Dorthe Jøker, 2000) [60]. * Nghiên cứu đặc điểm hình thái Cóc hành là loài cây gỗ lớn, có thể cao tới 50 m và đường kính tới 125 cm.  Khi sinh trưởng vỏ  nứt ra và bong từng mảng dài, màu nâu hồng hay nâu xám,  chuyển sang màu nâu nhạt hoặc vàng xám khi cây già, bên trong vỏ  cây màu đỏ 
  7. 7 cam. Lá Cóc hành mọc so le nhau, lá kép lông chim không có lá chét. Cánh lá dài  60 ­ 90 cm, có 7 ­ 11 đôi lá, lá không cân đối, có hình mũi giáo hay hình elip, dài   khoảng 12,5 cm, rộng 3,5 cm, mép lá không có răng cưa, màu xanh bóng. Hoa tự  chùm, nhỏ có hình sao, màu trắng hơi xanh, mùi thơm hơi ngọt và đắng. Hoa có   năm cánh, cánh hoa dài 5 ­ 6,5 mm, rộng từ 1,2 ­ 2,5 mm, nhụy hoa dài 4 mm, bầu   nhụy có ba lá noãn, mỗi lá noãn có hai ngăn và một đầu nhụy, thùy dài 70 mm.   Quả  mọc đơn, cùi dày, nhiều thịt, nhựa màu trắng. Quả  non có màu xanh, khi  chín chuyển sang màu vàng. Quả  dài 20 – 25 mm, dày 10 ­ 12 mm, khi cắt hay   nghiền nát có mùi của tỏi, mỗi kilogram quả có khoảng 500 hạt. Khi cây còn non,  vỏ cây có màu vàng nhạt hay nâu xám. Khi cây già, vỏ chuyển sang màu nâu hay   vàng xám. Cây trồng từ sáu đến bảy năm bắt đầu ra hoa và quả, hoa nở vào cuối  tháng hai đến đầu tháng ba, quả bắt đầu chín từ giữa tháng 5 đến tháng 6 (Dorthe  Jøker, 2000) [60]; Affendy H và cs, 2009 [52]). Như vậy, việc định loại, tên gọi và mô tả  hình thái cũng như cấu tạo giải   phẫu loài Cóc hành là tương đối rõ ràng, không chỉ có tác dụng nhận biết và phân   biệt loài mà còn làm cơ  sở  cho việc sử  dụng một số  sản phẩm của Cóc hành   thông qua những mô tả về hình thái cấu tạo giải phẫu các bộ phận của cây. * Nghiên cứu đặc điểm phân bố và sinh thái Theo Lim và cs (2006) [75], Cóc hành phân bố tự nhiên ở rừng nguyên sinh  và rừng thứ sinh tại những vùng đất ẩm thấp thuộc khu vực ở Đông Nam Á ­ Thái   Bình   Dương   như:   Malaysia,   Indonesia   (tại   đảo   Sumatra,   Sulawesi,   Borneo),  Philippines, New Guinea, Thái Lan và Việt Nam. Gần đây, Cóc hành còn tìm thấy ở  các nước nhiệt đới khác như Đài Loan, Guatemala, Hawaii ( Ong Kian Huat và cs,  2002) [84], [85]. Theo Appanah, S. and G. Weinland (1993) [56], Kijkar. S (1995)[71], Cóc  hành có nguồn gốc từ  Borneo thuộc Indonesia, mọc tự  nhiên  ở  miền Nam Thái   Lan, bán đảo Malaysia và bán đảo Palawan của Philippines. Thời gian gần đây, 
  8. 8 Cóc hành đã được đưa tới trồng  ở  nhiều nước nhiệt đới khác như  Đài Loan,   Guatemala và bang Hawaii. Tại khu vực Đông Nam Á, Cóc hành mọc ở những nơi đất trống của rừng   già hoặc rừng thứ  sinh. Ngoài ra, Cóc hành còn được tìm thấy trong rừng khô   rụng lá nguyên sinh ở độ cao từ 0 ­ 350 m. Loài này chủ yếu xuất hiện cùng với   các loài thuộc chi Durio ( họ  Cẩm quỳ ­ Malvaceae), chi Palaquium (họ  Hồng  xiêm ­ Sapotaceae), chi Calophyllum (họ  Măng cụt ­ Clusiaceae) và chi Agathis  (họ  Bách tán ­ Araucariaceae).  Vào những năm 1953 và 1954, Cóc hành được  trồng   thử   nghiệm   trên   quy   mô   nhỏ   ở   bán   đảo   Malaysia   bởi   Nordahlia   Binti  Abdullah Siam, (2009) [83], kết quả  thử  nghiệm   cho thấy  Cóc hành đã có tầm  quan trọng do sự tăng trưởng nhanh và chất lượng gỗ tốt. Cóc hành phân bố ở nơi có độ  cao dưới 350m, lượng mưa bình quân năm  từ 1600 mm đến 3000 mm, nhiệt độ trung bình tối đa là 21 ­ 34°C và sinh trưởng   trên đất phù sa có kết cấu trung bình, thoát nước tốt, đất chua (thích hợp độ pH ở  khoảng 5 ­ 6,5). Ngoài ra, Cóc hành cũng được tìm thấy trên các vùng đất phù sa,  đất sét, đất phát triển trên đá granit, đất laterit và đá vôi  (Lim và cộng sự, 2006)  [75]. Các loại đất có thành phần cơ  giới nặng, thoát nước kém hay đất bí chặt   không thích hợp cho việc trồng Cóc hành (Nordahlia Binti Abdullah Siam, 2009)  [81];  Ong Kian Huat và cs, 2002) [84], [85]. Cóc hành cũng được tìm thấy dọc   theo hai bên đường và ranh giới giữa các nông trại,  nằm rải rác trên khu vực tiếp   giáp giữa các trạng thái rừng rụng lá theo mùa và rừng nửa rụng lá (Kijkar. S,  1995) [71]. Nghiên cứu của Florido Helen và Priscilla Mesa (2001) [64] cho thấy, Cóc   hành thích hợp với nơi có lượng mưa hàng năm từ  400 ­ 2000 mm/năm, nhiệt độ  trung bình từ 22 – 250C, độ cao từ 250 ­ 300 m so với mặt nước biển, đất màu mỡ,  thoát nước tốt, đất cát mùn hoặc mùn cát với độ pH từ 5,0 ­ 6,5 ( Ahmad Zuhaidi Y,  G. Weinland, 1995) [53]. Tốc độ tăng trưởng của Cóc hành trên đất bằng phẳng tốt  hơn so với trên sườn núi hoặc  ở khu vực miền núi ( Nor Farika Zani và cs, 2013) 
  9. 9 [83]. Cóc hành sinh trưởng rất kém ở những nơi đất bị ngập nước, có khí hậu quá   lạnh và kéo dài.
  10. 10 1.1.2. Nghiên cứu về đặc điểm vật hậu và nhân giống Cóc hành * Nghiên cứu đặc điểm vật hậu  Theo Dorthe Jᴓker (2000) [60], thời gian ra hoa và kết quả  của Cóc hành   thay đổi giữa các địa phương. Ở  phía bắc Thái Lan, Cóc hành rụng lá vào tháng   giêng tới tháng hai. Lá non mọc ngay khi lá già rụng xuống, khi lá mới chuyển  sang màu xanh cây bắt đầu ra hoa. Cóc hành ra hoa từ tuổi 6 đến tuổi 7. Hoa ra từ  tháng 2 đến tháng 3, Hoa có mùi thơm, dài từ 5,0 ­ 6,5 mm, rộng từ 1,5 ­ 2,5 mm   và bông dài khoảng 4 mm. Nhụy chia thành ba lá noãn (Kijkar, 1995) [71]. Tại các  vĩ độ thấp hơn của Thái Lan, quả Cóc hành chín từ giữa tháng 4 và đến tháng 6,  đôi khi chín muộn vào tháng 10 đến tháng 12. Ở các vĩ độ cao hơn quả chín sớm  hơn. Quả  thường có kích thước từ 2,5 ­ 3,5cm, dài và thuôn dài, khi non có màu  xanh, khi chín màu vàng bên trong có một hạt lớn (dẫn theo Đặng Quốc Thông,  2004) [38], Nordahlia AS và cs, 2013) [83]. Hạt Cóc hành dài từ 20 ­ 25 mm, rộng   10 ­ 12 mm (Lim và cộng sự, 2006 [75]; Kiijkar, 1995) [71].           Amnuayporn Choldumrongkul và cộng sự (1993) [55] đã xác định các loài  côn trùng tham gia thụ phấn cho hoa Cóc hành ở Thái Lan. Theo đó, côn trùng thụ  phấn cho các cụm hoa của Cóc hành thuộc về bộ cánh màng, bộ cánh cứng và bộ  2 cánh. Các loài côn trùng thuộc bộ  cánh màng chủ  yếu là các loài Ong ( Apis  indica F. và Apis sp.), Ronalia sp, Vespa sp., Sceliphron sp. Các tác giả  này cũng  khẳng định, Cóc hành là loài thụ phấn chéo. Hạt giống được thu hái 2 đợt trong năm; trong đó đợt 1 (đợt chính) được  thu hái trong khoảng tháng 4 ­ 6, còn đợt 2 (đợt phụ, chín muộn) được thu hái   trong khoảng tháng 10 ­ 12. Hạt được thu hái từ cây mẹ  có tuổi từ 6 trở lên, tán   cân đối, đường kính ngang ngực (D 1.3 cm) từ 20 ­ 30 cm, chiều cao (H vn, m) từ 10  ­ 12 m, cây phát triển tốt, không bị sâu bệnh hại, có nguồn gốc rõ ràng. Khi quả  chín, màu quả  chuyển từ  màu xanh nhạt sang màu vàng, thịt quả  mềm có mùi   thơm và vị  ngọt. Quả  chỉ  được thu hái vào lúc chúng có màu vàng và còn  ở  trên  cây bằng cách trèo hoặc dùng các công cụ để thu hái trực tiếp. Khi quả  đã rụng 
  11. 11 xuống đất mới thu hoạch, tỷ lệ nẩy mầm thấp hơn. Sau khi thu hái, quả được ủ  để  làm mềm vỏ  quả. Sau đó chà nhẹ  các quả  để  lấy hạt ra phơi  ở  những nơi   thoáng mát, không phơi hạt trực tiếp trên nền gạch dưới ánh nắng trực xạ (Ong  Kian Huat và cs, 2002) [84], [85]. * Nghiên cứu nhân giống Cóc hành  Nghiên cứu nhân giống bằng hạt cũng đã được nhiều tác giả  quan tâm   nghiên cứu tại các nước Đông Nam Á. Quả Cóc hành được thu hoạch khi chúng  chuyển từ  màu xanh sang màu vàng. Có thể  thu hái quả  trực tiếp trên cây hoặc   thu các quả rụng rơi mặt đất. Tuy nhiên, thu hái quả chín rụng dưới đất thì tỷ lệ  nẩy mầm của hạt thấp và dễ bị nấm bệnh tấn công, hạt Cóc hành không có giai  đoạn ngủ, vì thế  sau khi thu hái, quả  cần được xử  lý và  ươm ngay nhằm đảm  bảo tỷ lệ nẩy mầm cao. Để tăng tỷ lệ nẩy mầm của hạt, cần loại bỏ phần thịt   quả bằng việc ủ hạt sau khi thu hái để thịt quả mềm, sau đó chà nhẹ lấy hạt ra  phơi, không phơi hạt trực tiếp trên nền gạch hay xi măng, dưới ánh nắng trực  xạ (Dorthe Jᴓker, 2000) [60]. Hạt Cóc hành rất nhanh mất sức nảy mầm, chỉ có thể được lưu trữ  trong  một vài tuần. Bảo quản hạt bằng cách lưu trữ trong bao tải với mùn cưa hoặc để  ở nơi thoáng mát. Độ ẩm của hạt khoảng 50% trong bảo quản sẽ đảm bảo tỷ lệ  nẩy mầm cao. Hạt Cóc hành có thể được gieo trực tiếp trong túi bầu (Ong Kian  Huat và cs, 2002) [84] hoặc  trồng trong khay hay một luống theo hàng. Sau khi  gieo, các hạt được phủ  một lớp đất hoặc cát với độ  dày từ  0,5 ­ 1,0 cm; sau đó  phủ  rơm và tưới nước đủ   ẩm.  Sau khi gieo khoảng 1 tuần, hạt giống sẽ  nảy   mầm. Tỷ lệ nảy mầm của hạt là 75 ­ 80%. Sau khi nảy mầm, cây con cần được  che sáng ít nhất 50% và giảm dần tỷ  lệ  che sáng khi cây cao khoảng 30 cm trở  lên. Cây giống có thể  được chuyển sang túi bầu lớn (5*8 cm) khi hai cặp lá đã   phát triển. Cây 3 ­ 4 tháng tuổi có chiều cao khoảng 30 ­ 40 cm có thể đem trồng  rừng [60]. Tại Thái Lan, người ta khuyến khích dùng ruột bầu gồm xơ dừa và đất có 
  12. 12 phân với tỷ  lệ  3:1, kết hợp với phân bón nén dạng Osmocote khoảng 0,5 g cho  mỗi túi bầu, đây là dạng phân hỗn hợp rất tốt cho sinh trưởng của cây con Cóc  hành (Jintana Bupabanpot và cs, 2006 [67]; Nordahlia Binti Abdullah Siam, 2009  [83]). Cây giống nên được phun hàng tuần bằng thuốc trừ sâu khi cây con cao từ  30 ­ 40 cm. Cây con 6 tháng là độ tuổi tốt nhất cho trồng rừng. Ít nhất một tháng   trước khi trồng, tất cả các cây giống cần hạn chế tưới nước và dỡ giàn che hoàn  toàn. Cắt rễ thường được sử dụng cho sản xuất quy mô lớn (Chungpongse và cs,   1991) [59]. Theo Ong Kian Huat và cộng sự (2002) [85], thời gian ươm cây trong vườn   là 06 ­ 12 tháng, trước khi trồng rừng một tháng nên tiến hành đảo bầu 1 lần, khi   đó mới tiến hành đưa cây đi trồng, bình quân 1 kg hạt giống có thể trồng 2 ­ 3 ha.  Jintana Bupabanpot và cs (2006) [67] đã nghiên cứu về ảnh hưởng che sáng  đến tốc độ sinh trưởng và chất lượng cây con Cóc hành tại Songlkha, miền Nam  Thái Lan. Thí nghiệm được bố  trí hoàn toàn ngẫu nhiên với bốn công thức che   sáng khác nhau: Che 90%, che 70%, che 50% và không che với ba lần lặp lại cho  mỗi nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy, cây con ở các chế độ che sáng có  tốc độ sinh trưởng cao nhất trong 2 ­ 3 tháng đầu tiên. Cây con ở chế độ che 90%   có đường kính và tổng sinh khối thấp nhất, nhưng tỷ lệ giữa sinh khối thân và  sinh khối rễ là cao nhất. Cây con ở chế độ che sáng 70% có đường kính nhỏ hơn   cây con dưới điều kiện không che, nhưng không có sự khác biệt đáng kể về tổng   sinh khối và tỷ lệ sinh khối thân/ rễ. Giữa các cây con ở điều kiện che sáng 70%,   50% và không che, các điều kiện ánh sáng không có hiệu lực với chiều cao hoặc  số  lá kép. Cây con  ở  chế  độ  che sáng 90% và 70% có tỷ  lệ  sống đạt 81,2% và  93,7%, không có cây chết ở chế độ che sáng 50% và không che. Những nghiên  cứu về  nhân  giống  sinh dưỡng Cóc  hành cũng đã  được  nhiều tác giả  quan tâm. Tại Thái Lan, tỷ lệ ra rễ của hom giâm đạt trên 90% và  giâm hom có thể  cung cấp cây con cho trồng rừng công nghiệp. Nuôi cấy mô  chưa   được   chứng   minh   là   khả   thi   cho   sản   xuất   cây   giống   có   quy   mô   lớn  
  13. 13 (Nordahlia  Binti Abdullah Siam, 2009) [81]. 1.1.3. Nghiên cứu về công dụng của Cóc hành Tính chất và công dụng gỗ Ngoài ý nghĩa về  mặt sinh thái như  phủ  xanh đất trống đồi trọc, cải tạo   đất bị hoang hóa, góp phần tái sinh rừng, cây Cóc hành còn được ứng dụng trong   nhiều lĩnh vực khác nhau, các bộ  phận của loài này đều được công nhận có  những công dụng tốt. Mohd Farid, A. & Maziah, Z, (1999) [80] cho rằng gỗ Cóc hành có thể giữ  được độ bền trong một khoảng thời gian đáng kể và thích hợp cho các công trình  mộc cao cấp, sản xuất đồ  gỗ, nội thất, tàu, vách ngăn, ván dán và ván ép, tấm  ván ép mật độ trung bình, sàn gỗ, chạm khắc, đồ  tiện. Gỗ đã được sử dụng cho  công trình xây dựng (mộc, hoàn thiện nội thất và sàn) và cho đồ  nội thất  ở  Philippines. Bên cạnh đó, gỗ  được sử dụng làm hộp đàn piano, diêm, khắc trang   trí và hộp [93]. Ở Papua New Guinea, gỗ được sử dụng để sản xuất cửa mái hắt   và xuồng [60], [75]. Một số  nghiên cứu về  tính chất cơ  lý gỗ  Cóc hành  ở  Malaysia cho thấy,  gỗ  Cóc hành có khối lượng trung bình, gỗ  cứng, tâm gỗ  có màu nâu đỏ  và phân   định rõ ràng từ  màu vàng ­ trắng. Dác gỗ  màu trắng hoặc đôi khi màu hồng  xám. Khối lượng gỗ là 550­780 kg/m3 ở độ ẩm 15%. Gỗ cứng và nặng vừa phải,  khối lượng trung bình khô kiệt 427­770 kg/m3  và thay đổi theo tuổi cây, co rút  trung bình 0,5% với cả hai chiều xuyên tâm và tiếp tuyến [65], [75], [93]. Không  có sự  khác biệt về  tính chất cơ  học gỗ  của cây  ở  rừng trồng và rừng tự  nhiên.  Bằng quan sát, người ta chỉ ra rằng có sự khác biệt về màu sắc của gỗ lõi và gỗ  dác giữa cây trồng bằng hạt và cây trồng bằng hom. Cây già có tỷ  lệ  gỗ  dác ít   hơn so với cây non [82], [75], [93]. Chất lượng gỗ Cóc hành được trồng từ hom   tốt hơn so với chất lượng gỗ được trồng từ cây hạt. Gỗ Cóc hành 10 tuổi ở rừng   trồng được xem như phù hợp cho mục đích đóng đồ  gia dụng, nội thất, gỗ lạng 
  14. 14 (veneer) và gỗ dán. Vì vậy, trong công nghiệp không nhất thiết phải chờ đến khi  cây 15 tuổi . Theo  Florido   Helen,   Priscilla   Mesa   (2001)   [64]   thì   gỗ   Cóc   hành   còn   có  nhiều công dụng khác như  gỗ  có chất lượng tốt dùng trong các công trình xây  dựng, bản khắc trang trí, làm cửa, đồ trang trí nội thất và đóng tàu. Thành phần hóa học và công dụng của vỏ, lá, hạt  Ermel và cộng sự đã chiết xuất từ hạt Cóc hành chất marrangin, một dạng  limonoid, có tác dụng điều tiết sinh trưởng côn trùng tương tự như azadirachtin.  Đồng thời, tác giả  cũng đã tách ra chất azadirachtin B và ba chất tương tự  chất  azadirachtin khác từ gỗ Cóc hành. Hai trong số các chất tìm được là chất mới, tuy   nhiên chưa xác định được hàm lượng các chất này. Tác giả  cho rằng chất chiết   xuất từ  thân Cóc hành có thể  so sánh với hiệu quả  của chất chiết xuất từ  hạt   Neem. Tại Malaysia, chính phủ đã ban hành bằng sáng chế về việc sử dụng chất   chiết xuất từ gỗ Cóc hành để  kiểm soát côn trùng và thuốc trừ  sâu thực vật cơ  bản (dẫn theo Murray B.Isman, 2005) [77]. Nghiên  cứu   của  Ekkarat   Kaewnang­O  và   cộng  sự  (2011)   [61]  về   thành  phần các axit béo từ hạt Cóc hành cho thấy dầu hạt được chiết xuất với hexane   ở  nhiệt độ  phòng, sản lượng dầu đạt khoảng 35%  khối lượng nhân. Sản phẩm  hạt giống của các loài Azadirachta đã được sử dụng một thời gian dài trong y học   cổ truyền và nông nghiệp như phân bón đất, thấm thuốc trừ sâu, côn trùng và làm  xà phòng. Các axit béo có các tính chất vật lý sau: Mật độ ở 29°C là 0,878, chỉ số  khúc xạ  ở 29°C là 1,460, tỷ trọng  ở 23°C là 0,1987, giá trị  axit là 16,35 và chỉ số  xà phòng hóa là 203,38. Thành phần dầu hạt Cóc hành bao gồm: Axit caprylic   0,30%,   axit   n­capric   0,96%,   axit   palmitic   9,8%,   axit   stearic   4,7%,   axit  Heneicosanoic   0,72%,   axit  Behenic   2,76%  và  axit  Tricosanoic  0,75%  vv...  [61],  [93]. Năm 2005, Kohsuke và Mitsuyoshi Yatagai [73]  đã khảo sát thành phần  dầu từ hạt cây Cóc hành bằng phương pháp sắc kí khí ghép phối phổ đã xác định 
  15. 15 thành phần chính là acid oleic (31,3%), acid palmitic (14,2%), acid octadecanoic   (13,0%). Thành phần phụ của dầu hạt có n­ankan, hợp chất hương phương, este,  sulfur, hợp chất nitơ, terpenoids. Dịch trích từ dầu hạt có chỉ số xà phòng hóa là 203,38 dùng làm xà phòng,  sản xuất dược phẩm, kem đánh răng. Dịch chích có chứa azadirachtin (khoảng   3,3 – 3,5%) được sử dụng làm chất diệt trùng, chữa bệnh sốt rét, bào chế thuốc   trong y học. Bã trích dùng làm tăng độ  phì nhiêu của đất và xua đuổi côn trùng.   Từ   hạt,   các   nhà   khoa   học   đã   li   trích   được   marrangin   (azdirachtin   L)   là   một  limonoid mới có hoạt tính mạnh hơn azdirachtin gấp ba lần. Lá có tác dụng diệt trùng hoặc xua đuổi côn trùng. Ở Thái Lan và Malaysia  người ta dùng đọt non, lá và hoa làm thức ăn. Dịch trích từ  lá có tác dụng ngừa   thai. Hoa là nguồn nguyên liệu để  sản xuất phấn hoa, làm thức ăn, chữa bệnh  đau dạ  dày và bệnh mũi. Vỏ  bào là dược phẩm trị  bệnh về  túi mật và bàng   quang. Gỗ  dác được sử  dụng làm thuốc chữa bệnh cho túi mật. Lõi gỗ  dùng trị  bệnh yếu dạ dày. Rễ  cây trị  bệnh có nhiều đờm trong cuống họng. Vỏ  rễ  chữa   nôn mửa, điều trị bệnh ngoài da. Rễ tơ làm thuốc trị giun có trong ruột. Vỏ cây có  chứa tannin dùng làm phẩm nhuộm. Ngoài ra, Cóc hành còn có khả năng cải tạo   đất, chống xói mòn, lá sử dụng làm phân bón trong nông nghiệp, trồng làm hàng   rào chắn gió hoặc đai bảo vệ, trồng ven đường, cây bóng mát và cho củi đốt [94],  [64], [77], [93]. Thí nghiệm cũng nghiên cứu ảnh hưởng của dịch trích từ lá cây Cóc hành  bằng ba loại dung môi khác nhau eter dầu hỏa, chloroform, methanol đối với mối  Coptotermes gestroi  Wasmann. Kết quả  cho thấy dịch trích bằng các loại dung   môi và nồng độ  khác nhau có  ảnh hưởng quan trọng đối với khả  năng hấp thụ  thức ăn và sự  sống sót của mối trong đó dịch eter dầu hỏa có hoạt tính mạnh   nhất tiếp theo là dịch chloroform và metanol [94]. 1.1.4. Nghiên cứu về kỹ thuật gây trồng Cóc hành Gây trồng và đánh giá sinh trưởng của Cóc hành tuy còn là vấn đề  mới  
  16. 16 nhưng cũng đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, đặc biệt tại Thái Lan và   Malaysia.  Tại Malaysia, Cóc hành chưa trồng trên quy mô lớn, nhưng có một số thử  nghiệm trên quy mô nhỏ. Tại bán đảo này, Cóc hành có thể được trồng bằng cây  rễ  trần, tái sinh bằng gốc hoặc cây con có bầu. Cóc hành có thể  sống và phát  triển trong điều kiện bị che sáng. Khoảng cách giữa các cây trồng là yếu tố quan  trọng để  đạt được hình dáng thân mong muốn (Ahmad Zuhaidi Y, G. Weinland,   1995 [53], Mohd Farid, và cộng sự, 2001) [79].  Vị trí trồng và các chất dinh dưỡng trong đất trồng Cóc hành liên quan đến  sinh trưởng của cây. Cóc hành 2 tuổi có sinh trưởng tương đối tốt trên các loại   đất chua nghèo dinh dưỡng. Giai đoạn rừng non, sự phát triển của Cóc hành chịu   ảnh hưởng mạnh bởi độ  dốc (hoặc độ  dày tầng đất) và chất dinh dưỡng trong  đất (đặc biệt là K). Sinh trưởng của Cóc hành bị hạn chế khi trồng trên sườn dốc   và có tầng đất nông. Mức độ  và loại phân bón được áp dụng với các phương   pháp áp dụng trên đất nghèo chất dinh dưỡng là một trong những yếu tố  cần  được xem xét khi đánh giá năng suất rừng trồng Cóc hành, đặc biệt là trên đất  mùn cát ­ sét, đất chua và nghèo chất dinh dưỡng [86], [87].  Affendy và cộng sự (2009) [52] nghiên cứu trồng 5 loài cây bản địa trên lỗ  trống   của   rừng   thứ   sinh   suy   thoái   tại   Negeri   Sembilan   (42ha)   gồm   các   loài  Azadirachta excelsa, Cinnamomum iners, Intsia palembanica, Hopea pubescens và  Shorea leprosula. Kết quả cho thấy Azadirachta excelsa có tăng trưởng trung bình  cao nhất (tăng trưởng trung bình về đường kính D 1.3 là 1,06 cm/năm), tiếp theo là  các   loài  Shorea   leprosula,  Hopea   pubescens,  Cinnamomum   iners  và  Intsia  palembanica  với tăng trưởng lần lượt là 1,03, 1,01, 0,98 và 0,97 cm/năm. Về  chiều cao Azadirachta excelsa tăng trưởng đạt 1,38 m/năm và tiếp theo là  Shorea   leprosula,  Hopea pubescens,  Cinnamomum iners  và  Intsia palembanica  đạt 1,16,  1,04, 1,81 và 0,77 m/năm. Tác giả cũng chỉ ra rằng tỷ lệ sống và tăng trưởng của  loài Azadirachta excelsa và Cinnamomum iners đạt cao nhất khi áp dụng kỹ thuật 
  17. 17 trồng lỗ trống trong rừng. Các biện pháp kỹ thuật lâm sinh có khả năng cải thiện  sự  sống, chiều cao, đường kính và sự  tăng lên của sinh khối khu vực rừng thứ  sinh. Aminah và cộng sự (2005) [54] đã nghiên cứu trồng thử nghiệm Cóc hành  từ cây hom tại Selangor, Malaysia. Kết quả cho thấy, sau 7 năm trồng, Cóc hành   có tỷ lệ sống là 49%, đường kính trung bình đạt 7,99 cm và chiều cao trung bình   đạt 7,46 m. Tác giả  kết luận rằng cây hom cành có thể  được sử  dụng như  một   vật liệu thay thế  trong trồng rừng. Hiệu quả  tăng trưởng sẽ  tốt hơn nếu cây   dòng vô tính được tuyển chọn với tốc độ tăng trưởng cao. Trong một nghiên cứu của Hamzah và cộng sự (2009) [66], các tác giả đã  đánh giá tình trạng dinh dưỡng đất và hiệu quả  tăng trưởng của 6 loài họ  Dầu  (Dryobalanops   aromatica,  Hopea   nervosa,  Neobalanocarpus   heimii,  Shorea  parvifolia, S. assamica và S. leprosula) và 3 loài không thuộc họ dầu (Azadirachta  excelsa, Cinnamomum iners và Intsia palembanica) sau 6 năm trồng trên đất lâm  nghiệp bị suy thoái ở Malaysia. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt đáng kể  về tính chất lý hóa đất nơi trồng và không trồng các loài nói trên. Tuy nhiên, việc   trồng các loài này có thể làm tăng độ màu mỡ đất do lượng vật rơi rụng hoàn trả  lại cho đất do tăng khả năng trao đổi cation, tăng tổng carbon, nitơ tổng số, pH và  trao đổi Al. Kết quả đánh giá tăng trưởng về đường kính và chiều cao cũng cho  thấy, sau 6 năm trồng loài Cóc hành (Azadirachta excelsa) có tăng trưởng cao nhất  (1,4  cm/năm  về   đường  kính  và   1,41  m/năm  về   chiều  cao).   Trong   khi  đó  loài   Cinnamomum iners tăng trưởng đứng thứ  2 cũng chỉ  đạt 1,35 cm/năm về  đường  kính và 1,12 m/năm về chiều cao. Tỷ lệ sống của Cóc hành đạt cao (73,3%) đứng   thứ 2 sau Cinnamomum iners (đạt 77,5%). Tác giả đi đến nhận xét loài Cóc hành  có khả  năng thích nghi tốt với môi trường khắc nghiệt, đặc biệt là độ  chặt đất   cao, hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất thấp, đất bị  suy thoái và là một  trong những loài có tiềm năng rất lớn trong các dự án phục hồi rừng tương lai.
  18. 18 Cóc hành là loài mới được đưa vào trồng rừng tại các nước trên thế  giới  nên những đánh giá về  hiệu quả  kinh tế  còn rất khiêm tốn. Tại Hội thảo quốc   gia về trồng cây lấy gỗ thương mại (1997) do FAO [68] tổ chức tại Malaysia đã  cho thấy, Cóc hành (Sentang) trồng hỗn hợp với Cao su (Hevea) sẽ cho hiệu quả  kinh tế cao hơn khi trồng riêng rẽ Cao su hoặc Cóc hành. Mô hình trồng Cóc hành  đơn lẻ với chu kỳ 15 năm (diện tích 40 ha, mật độ trồng 833 cây/ha, mật độ cuối  cùng 300 cây/ha, tỉa thưa vào năm thứ 5 và 10) cho giá trị hiện tại thuần NPV 0,32  triệu RM (hoặc 8,000 RM/ha), tỷ lệ thu hồi vốn nội bộ IRR đạt 15%. Trong khi  đó, mô hình hỗn giao Cóc hành ­ Cao su chu kỳ 20 năm (diện tích 40 ha, Cao su  trồng 400 cây/ha ban đầu, dự  kiến tỉa thưa tự  nhiên còn lại 340 cây/ha khi thu  hoạch mủ và gỗ; Cóc hành trồng 533 cây/ha xen giữa hàng cao su, mật độ để lại   195 cây/ha, tỉa thưa năm 3 và năm thứ  5) cho giá trị  NPV 0,45 triệu RM (11,250   RM/ha), IRR đạt 16,1%. Báo cáo đã đánh giá việc trồng rừng Cao su xen Cóc hành  được coi là thích hợp cho diện tích đất đai nhỏ, và được tiến hành để  tối đa hóa   doanh thu từ gỗ Cóc hành trong khi đảm bảo một tính liên tục từ  thu nhập hàng   năm thời kỳ khai thác mủ Cao su (Fao, 1997) [69].    Tại Thái Lan, mặc dù còn mới mẻ, nhưng Cóc hành được coi là loài có giá  trị quan trọng trong những loài cây trồng rừng ở Thái Lan do sinh trưởng nhanh và  cho gỗ tốt. Tuy nhiên, không rõ cơ sở di truyền của nó có thể là một hạn chế lớn   khi đưa vào gây trồng tại nước này.  Ở  rừng trồng, Cóc hành có tỷ  lệ  sống tới   100%, là loài tương đối ít sâu bệnh hại trong giai đoạn sinh trưởng ban đầu. Cóc  hành chịu được lượng mưa lớn hơn Neem ( Azadirachta indica  Juss). Loài này  sinh trưởng chậm ban đầu nhưng sau đó tăng lên đáng kể. Rừng trồng Cóc hành  được trồng với khoảng cách 2­4 m x 4 m. Cóc hành có thể  được khai thác sau 5  năm trồng tùy vào mục đích khai thác khác nhau. Quá trình tỉa thưa nên được thực   hiện để thúc đẩy sự sinh trưởng nhanh và duy trì độ  cứng gỗ, giữ lại những cây 
  19. 19 thân thẳng và hình dáng đẹp. Sau hai lần tỉa thưa, rừng trồng Cóc hành nên được  khai thác trắng và chuyển sang luân kỳ  tiếp theo. Tỉa thưa lần đầu khi cây cao   trung bình 10­15 m, mật độ lớn hơn 800 cây/ha (để lại 500­600 cây/ha). Tỉa thưa   giảm đi khi chiều cao cây trung bình trên 20m, mật độ cuối cùng giảm xuống còn  250­300 cây/ha. Tuy nhiên, không nhất thiết phải tỉa thưa vì Cóc hành có thể  để  tỉa thưa tự nhiên (Wong, M, 1981) [92]. 1.2. Ở VIỆT NAM  1.2.1. Nghiên cứu về phân loại, hình thái, phân bố và sinh thái * Nghiên cứu đặc điểm phân loại Họ Xoan Meliaceae còn gọi là họ Dái ngựa, chủ yếu là cây thân gỗ và cây   bụi (có một số ít là cây thân thảo) trong bộ Bồ hòn. Họ Xoan thường lá kép lông  chim 1 lần, ít khi lá đơn mọc cách, rất gần với họ  Cam (Rutaceae) và có nhiều   điểm chung với họ Thanh thất  (Simaroubaceae) hoa thường đơn tính, có một số  hoa lưỡng tính, nhị thường hợp thành ống. Họ Xoan có khoảng 50 chi và 550 loài,  phân bố khắp miền nhiệt đới, trong đó có một chi (Toona) phát triển tới tận vùng  ôn   đới   phía   Bắc   của   Trung   Quốc   và   về   phía   Nam   tới   Đông   Nam   Australia;   Chi Azadirachta có   2   loài   là Azadirachta   excelsa (Jack)   Jacobs  và Azadirachta  indica Juss; chi Melia có 3 loài là Melia azadarach L. (Xoan nhà), Melia azadarach  cultivar toosendan (Xoan đào) và Melia toosendan S et Z. (Khổ  luyện tử) (Phạm  Hoàng Hộ, 1999) [15]. Ở  Việt Nam, Cóc hành còn có tên gọi khác là Sầu đâu cao (Phạm Hoàng   Hộ, 1999) [15], Xoan Ninh Thuận, Neem Ninh Thuận, Xoan rừng (Đặng Thị Như  Quỳnh, 2001) [26], Nguyễn Việt Cường, 2010) [4]. Theo Phạm Hoàng Hộ (1999)   [15], Cóc hành ở Việt Nam có tên khoa học là Azadirachta excelsa (Jack) Jacobs,  thuộc họ  Xoan (Meliaceae). Phần lớn cây gỗ của họ  Xoan có lá kép lông chim 1   lần, ít khi lá đơn mọc cách. Cây gỗ  của họ  Xoan cũng rất gần với họ  Cam   (Rutaceae) và có nhiều điểm chung với họ  Thanh thất   (Simaroubaceae ). Tuy  vậy, hoa của chúng thường lưỡng tính, nhị  thường hợp thành  ống (Trần Hợp, 
  20. 20 2002) [16] . * Nghiên cứu về đặc điểm hình thái Hình thái là những điểm khác biệt bề  ngoài giúp cho việc nhận diện các  loài khác nhau thậm chí là cùng một loài  ở  các giai đoạn tuổi khác nhau. Thông  thường hình thái của các loài khác nhau có sự khác nhau, ngay cả trong cùng một   loài đặc điểm hình thái cũng có sự  biến đổi theo giai đoạn tuổi. Tuy nhiên, chỉ  đặc điểm  ổn định, phản  ảnh bản chất của loài mới giúp ích cho việc nhận biết   chúng một cách dễ  dàng, các đặc điểm khác có thể  gây nên sự  nhầm lẫn. Do  vậy, trong phân loại thực vật, nghiên cứu đặc điểm hình thái của loài là rất cần  thiết làm cơ  sở  cho việc nhận biết và phân loại giữa các loài với nhau (Võ Đại   Hải và cộng sự, 2010) [11]. Cóc hành ở Việt Nam là cây gỗ lớn, lá có sóng dài 20­30 cm, mang lá phụ  xoan, bầu dục dài 4­7 cm, đầu nhọn, đáy tà tròn, bất xứng, bìa nguyên, mặt trên   nâu, mặt dưới nâu nhợt, gân phụ 8 cặp, cuống phụ  4­6 mm. Phát hoa  ở  nách lá,   chùm tụ tán dài 10 – 13 cm, nhánh dài 1,5 ­ 2 cm, lá đài không lông; cánh hoa dài 5   ­ 6 mm, không lông; tiểu nhụy dính thành ống, bao phấn 10, gắn trước một phiến   có hai thùy. Quả  có nhân cứng (Phạm Hoàng Hộ, 1999) [15].  Theo Phạm Thế  Dũng và cộng sự  (2010) [6] thì Cóc Hành có hình thái bên ngoài rất giống với  Xoan chịu hạn (Azadirachta indica  Juss), nhưng lá Cóc hành xanh thẫm,  dày,  bóng, hơn Xoan chịu hạn, vỏ thân nứt dọc sâu hơn. * Đặc điểm phân bố và sinh thái Ở  Việt Nam, Cóc hành phân bố  trong rừng Khộp khô hạn của tỉnh Ninh  Thuận, là một trong những loài cây chủ lực phục vụ công tác trồng rừng ở vùng  khô hạn. Cóc hành thích hợp nơi có nhiệt độ  trung bình 16­220C, chịu được hạn,  lượng mưa từ  300­1200 mm. Độ  cao dưới 300 m so với mực nước biển [26],   [15], [4], [6].          Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Ninh Thuận (2008) [28],  [29] thì Cóc hành là loài cây mọc nhanh, ưa sáng, thân thẳng, rễ ăn sâu xuống đất  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0