Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
lượt xem 3
download
Mục đích nghiên cứu của Luận án nhằm đánh giá thực trạng phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình tại tỉnh Bắc Giang, từ đó làm căn cứ đề xuất một số giải pháp phân bố đất nông nghiệp hợp lý. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ: Phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Bắc Giang
- HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM NGUYỄN THỊ DUNG PHÂN BỐ ĐẤT NÔNG NGHIỆP HỘ GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG Ngành: Kinh tế phát triển Mã số: 9 31 01 05 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÀ XUẤT BẢN HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP - 2020
- Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Quang Hà 2. TS. Mai Lan Phương Phản biện 1: PGS.TS. Phạm Văn Hùng Học viện Nông nghiệp Việt Nam Phản biện 2: PGS.TS. Trần Thị Thu Hà Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam Phản biện 3: TS. Nguyễn Quốc Oánh Trường Cán bộ Quản lý Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 1 Luận án sẽ được bảo vệ trước hội đồng đánh giá luận án cấp Học viện, họp tại: Học viện Nông nghiệp Việt Nam Vào hồi ….. ngày….tháng….năm 20… Có thể tìm hiểu Luận án tại thư viện: - Thư viện Quốc gia - Thư viện Học viện Nông nghiệp Việt Nam 1
- PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Phân bố đất nông nghiệp là sự phân chia diện tích đất nông nghiệp giữa các vùng, giữa các loại hình sử dụng đất và giữa các chủ thể sử dụng đất dẫn đến sự thay đổi về cơ cấu đất nông nghiệp theo thời gian. Dưới tác động của các yếu tố như: chính sách, thể chế, kinh tế, kỹ thuật và tâm lý xã hội đất nông nghiệp được điều chỉnh, phân chia lại, hình thành nên hiện trạng diện tích đất nông nghiệp tích tụ, tập trung hay manh mún, phân tán. Thực tế cho thấy, phân chia đất nông nghiệp theo chủ thể sử dụng, đặc biệt là chủ thể hộ gia đình luôn có ý nghĩa quan trọng về phát triển kinh tế, xã hội và ổn định chính trị. Vì vậy, việc lựa chọn nhằm hướng đến một sự phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình “hợp lý”, trong đó, đảm bảo công bằng và đem lại hiệu quả kinh tế sử dụng đất với mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia, mỗi vùng và địa phương luôn là một vấn đề lớn và hết sức quan trọng. Để đảm bảo mục tiêu trên trong vòng một thế kỷ qua, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện các cuộc “cách mạng, hay “đổi mới” trong chính sách đất đai. Từ việc ruộng đất tập trung vào tay một số địa chủ thời kỳ phong kiến, đến việc phân chia ruộng cho nông dân thông qua cải cách ruộng đất (1953 – 1956) ở miền Bắc, tiếp đó là ruộng đất được tập trung với quy mô lớn vào các Hợp tác xã nông nghiệp bắt đầu từ những năm 60 ở miền Bắc và sau giải phóng miền Nam. Cuối cùng là thời kỳ “Đổi mới” bắt đầu vào cuối những năm 80 của thế kỷ XX vớicác chính sách đất đai như: luật đất đai 1987, Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ chính trị, Nghị định số 64/CP của Chính phủ, luật đất đai năm1993. Quyền sử dụng đất được giao cho các hộ gia đình với nguyên tắc đất đai được phân chia “công bằng” trong đó đất nông nghiệp HTX được phân chia bằng nhau theo hướng bình quân một lao động, một nhân khẩu cả về diện tích và vị trí đất nông nghiệp đối với từng địa phương ở miền Bắc. Quyền sở hữu được tôn trọng trước khi thành lập tổ hợp tác và có điều chỉnh để đảm bảo lượng đất nông nghiệp tối thiểu cần thiết cho dân không có đất ở miền Nam. Nhìn chung, sản xuất nông nghiệp Việt Nam sau đổi mới dựa trên nền tảng chủ yếu là kinh tế hộ gia đình với quy mô sản xuất nhỏ, manh mún và phân tán. Diện tích đất nông nghiệp bình quân hộ gia đình năm 2016 (bao gồm cả ba loại: đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp và đất nuôi trồng thủy sản) xấp xỉ 0,8 ha/ hộ gia đình (Tổng cục Thống kê, 2016), thấp hơn so với khu vực có quy mô diện tích bình quân hộ thấp nhất thế giới là Nam Á - 1,0 ha, và diện tích này chưa bằng 1/2 so với mức bình quân diện tích đất nông nghiệp hộ gia đình khu vực Đông Nam Á – 1,8 ha (Eastwood & cs., 2006). Mặc dù diện tích hộ gia đình với quy mô sản xuất nhỏ, manh mún và phân tán nhưng lại góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế của sản xuất nông nghiệp, xóa đói giảm nghèo và phát triển văn hóa nông thôn nói chung trong suốt giai đoạn đổi mới của đất nước. Chính vì vậy, phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình với quy mô nhỏ, manh mún, phân tán được thừa nhận một cách rộng rãi, khách quan về tính hợp lý, tối ưu của nó trong vòng 30 năm đổi mới. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình với quy mô nhỏ, manh mún, phân tán bộc lộ nhiều hạn chế, thậm chí được coi là rào cản chính đối với phát triển nông nghiệp hàng hóa, và nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Tình trạng giữ đất nông nghiệp của các hộ không sản xuất nông nghiệp như một tài sản đảm bảo xuất hiện ngày càng nhiều. Nhóm hộ này có xu hướng bỏ hoang, cho mượn đất nông nghiệp hoặc sản xuất với mục đích giữ đất nông nghiệp mà không tính tới hiệu quả sử dụng, trong khi các hộ nông nghiệp là các hộ cần đất lại thiếu đất để sản xuất. Để giải quyết tình trạng này, các quan điểm, chính sách theo hướng nới lỏng kiểm soát đối với tích tụ đất nông nghiệp, khuyến khích tập trung ở các hình thức khác nhau đối với các điều kiện, vùng nông nghiệp khác nhau xuất hiện. Những quan điểm, chính sách này dường như phù hợp với xu thế phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa thời hiện đại nhưng lại có mâu thuẫn trong việc duy trì 1
- các chính sách hỗ trợ xã hội với yêu cầu hàng đầu là mọi nông dân cần có đất để sản xuất. Tuy cùng hướng đến một mục tiêu chung là tối đa hóa lợi ích xã hội, nhưng các quan điểm, chính sách cụ thể về đất đai khác nhau sẽ dẫn đến các kết quả phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình khác nhau thậm chí là mâu thuẫn nhau. Do vậy, việc phân tích đánh giá một cách có hệ thống, toàn diện các khía cạnh của quá trình phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình, dự báo xu thế của phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình trong tương lai dưới ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế, xã hội để cung cấp thông tin và làm căn cứ cho việc đề xuất các giải pháp hỗ trợ, thúc đẩy phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình hợp lý, là vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa nhằm cung cấp những luận chứng khoa học và thực tiễn để đề xuất các giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình, nghiên cứu đã lựa chọn tỉnh Bắc Giang để tiến hành kiểm định các giả thiết về các kịch bản có thể xảy ra đối với xu hướng phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình: Thứ nhất nếu ưu tiên về tính bình quân, đồng đều trong phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình để đảm bảo ổn định, an sinh xã hội, các rào cản đối với tích tụ tập trung đất đai là đủ lớn thì dẫn đến duy trì phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình là quy mô nhỏ, phân tán, manh mún. Thứ hai, nếu quy mô nhỏ, phân tán trong sản xuất nông nghiệp thực sự là rào cản đối với hiệu quả kinh tế, thì trong điều kiện sức ép về gia tăng thu nhập từ nông nghiệp cả cho tiêu dùng và xuất khẩu nông sản hàng hóa, dẫn đến tập trung, tích tụ đất nông nghiệp là chủ đạo, thì phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình là tập trung, với quy mô lớn và không đồng đều. Thứ ba, không có xu hướng nào nói trên là vượt trội, sự phân bố nói trên khá cân bằng. Bắc Giang là một tỉnh thuộc vùng Trung du và miền núi phía Bắc có ngành nông nghiệp đứng thứ 23 toàn quốc và đứng đầu khu vực Trung du và miền núi phía Bắc, với 81,25% trong tổng diện tích đất nông nghiêp do các hộ gia đình sử dụng (Sở Tài nguyên và Môi trường Bắc Giang, 2018). Chính vì vậy nghiên cứu: “Phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Bắc Giang” được lựa chọn nhằm kiểm định các giả thuyết về các kịch bản nêu trên từ đó cung cấp những luận chứng khoa học và thực tiễn góp phần đề xuất các giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình hợp lý trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng và ở Việt Nam nói chung. 1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 1.2.1. Mục tiêu chung Đánh giá thực trạng và xu thế phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình tại tỉnh Bắc Giang, từ đó làm căn cứ đề xuất một số giải pháp hỗ trợ, thúc đẩy phân bố đất nông nghiệp hợp lý hướng đến tối đa hóa lợi ích xã hội của phân bố nguồn lực đất nông nghiệp, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể - Góp phần hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn về phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình; - Đánh giá thực trạng phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình được thực hiện thông qua đánh giá hiện trạng phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình, xác định tính hợp lý, tính hiệu quả và tính công bằng trong phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình, mối quan hệ giữa phân bố công bằng đất nông nghiệp với hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp hộ gia đình tỉnh Bắc Giang; - Nhận diện và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình trên địa bàn tỉnh Bắc Giang và dự báo về xu thế phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình 2
- - Đề xuất một số giải pháp nhằm hỗ trợ, thúc đẩy quá trình phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình Bắc Giang hợp lý theo hướng công bằng và hiệu quả nhằm phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. 1.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hiện trạng, biến động phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình theo quy mô đất nông nghiệp, các nhân tố ảnh hưởng đến phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình tại tỉnh Bắc Giang. Đối tượng khảo sát: Chủ thể sử dụng đất nông nghiệp là các hộ gia đình sử dụng đất nông nghiệp sản xuất; Cán bộ cơ sở cấp thôn, xã, cán bộ quản lý đất nông nghiệp cấp huyện, cấp tỉnh (phòng Nông nghiệp, phòng Tài nguyên và Môi trường). Các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội có ảnh hưởng đến phân bố đất nông nghiệp. 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu 1.3.2.1. Về nội dung nghiên cứu Nghiên cứu giới hạn chính vào phân bố đất nông nghiệp theo chủ thể sử dụng đất là hộ gia đình theo quy mô sử dụng đất. Tuy phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình dựa trên các khía cạnh khác: theo vùng, loại hình sử dụng đất, hay các chủ thể sử dụng đất khác (như: doanh nghiệp, tổ chức khác…) được đề cập đến ở một số nội dung, nhưng chỉ trên giác độ các yếu tố liên quan, không thuộc đối tượng nghiên cứu chính. Đất sản xuất nông nghiệp (trồng cây hàng năm và lâu năm) và đất nuôi trồng thủy sản (mặt nước) trong ba loại đất (đất sản xuất nông nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản, đất lâm nghiệp) được lựa chọn để tiến hành nghiên cứu. Lý do lựa chọn đó là đất sản xuất nông nghiệp là loại đất chủ yếu các hộ sử dụng, mặc dù đất nuôi trồng thủy sản có tỷ lệ nhỏ nhưng hiện nay các hộ có xu hướng chuyển đổi sang đất này. Đất lâm nghiệp không được tính đến vì lý do chính là: việc bao hàm đất lâm nghiệp vào nghiên cứu sẽ dẫn đến sự kém tương thích trong tổng hợp, phân tích, so sánh quy mô, hiệu quả sử dụng đất của hộ gia đình (do tính đặc thù về sử dụng đất lâm nghiệp là diện tích đất thường được các hộ gia đình sử dụng với quy mô diện tích lớn nhưng thu nhập mang lại trên một đơn vị diện tích thấp đáng kể). Thêm vào đó, đất lâm nghiệp mặc dù có diện tích lớn nhưng chủ yếu do các doanh nghiệp quản lý và sử dụng, tỷ lệ hộ gia đình có đất lâm nghiệp trong tỉnh không lớn, nên tỷ lệ này trong mẫu điều tra cũng rất nhỏ, tạo ra sự khác biệt lớn với những quan sát này nếu như gộp các loại đất vào trong phân tích. Với hai lý do trên, nếu nghiên cứu bao gồm đất lâm nghiệp trong phân tích thống kê mẫu điều tra, thì ở hầu hết các nội dung, cần phải tách riêng loại đất này, hoặc chọn phương thức nào đó để quy đổi thích hợp, là việc làm khá phức tạp nhưng không mang lại nhiều ý nghĩa. Tuy nhiên, việc loại trừ đất lâm nghiệp ở mức độ nào đó, dù không lớn, cũng là một hạn chế của nghiên cứu. Các giải pháp hỗ trợ, thúc đẩy phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình được chú trọng chủ yếu các giải pháp chính sách của địa phương và kiến nghị các chính sách vĩ mô. 1.3.2.2. Về thời gian Số liệu thứ cấp được sử dụng nghiên cứu phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình trong giai đoạn 2005 đến 2019. Số liệu khảo sát các hộ gia đình và cán bộ quản lý liên quan đến lĩnh vực đất nông nghiệp năm 2018, 2019. Các dự báo và giải pháp đưa ra được xác định chủ yếu cho giai đoạn 2021 - 2030. 1.3.2.3. Về không gian Nghiên cứu phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình được tiến hành trên địa bàn tỉnh Bắc 3
- Giang. Trong đó, địa bàn được chọn để khảo sát là ba huyện đại diện cho các tiểu vùng của tỉnh: Huyện Việt Yên (vùng trung du), Lục Ngạn (vùng núi có núi cao), Lạng Giang (vùng núi có núi thấp). 1.4. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN Về cơ sở lý luận, nghiên cứu hệ thống hóa các khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung, các nhân tố ảnh hưởng đến phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình, đồng thời làm rõ lý luận về tính công bằng, tính hiệu quả kinh tế, mối quan hệ giữa công bằng và hiệu quả làm cơ sở để xác định tính hợp lý trong phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình. Về phương pháp nghiên cứu, phương pháp thống kê mô tả được sử dụng trong đánh giá hiện trạng, biến động phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình. Mô hình đường giới hạn ngẫu nhiên (SFA) sử dụng nhằm phân tích mối quan hệ giữa hiệu quả và quy mô diện tích đất nông nghiệp, các nhân tố đánh giá công bằng được xác định bởi mô hình phân tích nhân tố khám phá (EFA). Ngoài ra, nghiên cứu sử dụng hệ số Gini và đường cong Lorenz để có cái nhìn đầy đủ, toàn diện hơn về tính công bằng trong phân bố đất nông nghiệp tại Bắc Giang. Đồng thời, nghiên cứu sử dụng mô hình Probit trong đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến các giao dịch trên thị trường đất nông nghiệp, một trong các con đường phân bố lại đất nông nghiệp. Về kết quả nghiên cứu, nghiên cứu hiện trạng, biến động phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình tại các vùng, theo loại hình đất nông nghiệp, giữa các hộ gia đình phân theo ngành nghề với kết quả phân bố chỉ ra rằng manh mún đất nông nghiệp là hiện tượng phổ biến ở Bắc Giang cũng như trong cả nước, hiện nay xuất hiện các hình thức tích tụ, tập trung nhưng diễn ra chậm chạp. Đánh giá tính hợp lý trong phân bố, hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp chỉ ra rằng quy mô nhỏ tỷ lệ nghịch hiệu quả kinh tế nhưng nếu ứng dụng các biện pháp kỹ thuật, tiết kiệm đầu vào trong sản sản thì quy mô nhỏ chưa hẳn là hạn chế. Tính công bằng được nhìn nhận có sự khác nhau: trong quá khứ công bằng dựa trên kết quả phân bố là sự phân chia đất đai ngang bằng, đồng đều, công bằng hiện tại dựa trên phương thức phân bố đất đai cần được sử dụng bởi người cần đất nhất điều này dường như là một hạn chế. Tùy thuộc vào điều kiện từng vùng mà các hộ sử dụng loại hình sử dụng đất khác nhau dẫn đến mối quan hệ công bằng và hiệu quả mâu thuẫn hoặc không mâu thuẫn, theo quy mô đất đai công bằng và hiệu quả có sự mâu thuẫn nghĩa là quy mô nhỏ đảm bảo công bằng nhưng hiệu quả thấp và ngược lại. Các tác động bổ sung hay ngược chiều nhau và sự diễn ra đồng thời của các yếu tố được tập trung chú ý trong đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình, từ đó đưa ra các giải pháp hỗ trợ, thúc đẩy phân bố hợp lý đất nông nghiệp hộ gia đình Bắc Giang góp phần phát triển KT – XH của tỉnh dựa trên tính hợp lý trong phân bố trong đó đảm bảo công bằng trong phân bố và nâng cao hiệu quả sử dụng đất. 1.5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN Phân bố nguồn lực luôn là vấn đề trung tâm của phát triển KT - XH, của kinh tế học. Đối với đất đai, nó không chỉ thuần túy là tư liệu sản xuất quyết định trong sản xuất nông nghiệp, là nguồn sinh kế của nông dân, mà còn là tài sản cất trữ được ưu tiên hàng đầu bởi các lý do về kinh tế và ngoài kinh tế, vì vậy việc thay đổi về quyền sử dụng đất, dẫn đến thay đổi phân bố đất đai, là vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi thời gian dài nhưng ảnh hưởng của nó đến KT-XH chính là vượt ra ngoài ý nghĩa thuần túy về phân bố tư liệu sản xuất. Dưới áp lực của những thay đổi về bối cảnh và điều kiện của sản xuất nông nghiệp, cũng như tái cơ cấu ngành nông nghiệp, sẽ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp, đến cơ cấu đất đai theo chủ thể sử dụng đất, mà tuyệt đại đa số họ là các hộ gia đình nông dân. Một cách khái quát, thì nghiên cứu này làm rõ, tiếp tục hoàn thiện lý luận về phân bố đất nông nghiệp 4
- hộ gia đình. Nghiên cứu hiện trạng phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình. Khảo sát các luận cứ để đánh giá các giả thuyết về chiều hướng phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình dưới hình thức manh mún hay tích tụ, tập trung đất nông nghiệp, xác định tính hợp lý trong phân bố trên các khía cạnh: hiệu quả, công bằng, mối quan hệ công bằng và hiệu quả, nhận diện, xác định chiều ảnh hưởng của các yếu tố đến phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình, đưa ra các giải pháp hỗ trợ, thúc đẩy phân bố hợp lý đất nông nghiệp hộ gia đình. Các phát hiện này có ý nghĩa, cả trên phương diện cung cấp thông tin, tài liệu cho nghiên cứu, giảng dạy và tài liệu tham khảo cho hoạch định chính sách ở cấp địa phương và cấp quốc gia. PHẦN 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÂN BỐ ĐẤT NÔNG NGHIỆP HỘ GIA ĐÌNH 2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN BỐ ĐẤT NÔNG NGHIỆP HỘ GIA ĐÌNH 2.1.1. Các quan điểm, khái niệm về phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình 2.1.1.1. Khái niệm về phân bố Cho đến nay, có rất nhiều khái niệm khác nhau của các học giả về phân bố: Trong lĩnh vực tài nguyên, phân bố phản ánh lượng tài nguyên các chủ thể nắm giữ (hay sử dụng). Đó là kết quả của quá trình vận động và phát triển dưới tác động của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội. Một sự phân bố tốt là sự phân bố vừa đủ, hiệu quả và công bằng, trong đó có mức độ bất bình đẳng ở mức giới hạn có thể chấp nhận được (Daly, 1992). Trong lĩnh vực sản xuất, phân bố được hiểu là cách thức phân chia lượng đầu ra, của cải, thu nhập cho các cá nhân hay các yếu tố sản xuất (như lao động, đất đai, vốn), từ đó hình thành kết quả của sự phân bố (Samuelson & William, 2010). Trong nghiên cứu này, phân bố (distribution) được hiểu là cách thức, là con đường phân chia lượng tài nguyên cho các cá nhân hay tổ theo thời gian, từ đó hình thành nên kết quả hay hiện trạng phân bố. Một sự phân bố tốt là một sự phân bố đem lại tổng lợi ích lớn nhất (hiệu quả) và phân chia tổng lợi ích đó mà mà các cá nhân hay tổ chức trong xã hội cảm thấy hài lòng, chấp nhận (công bằng). 2.1.1.2. Phân bố đất nông nghiệp Đất nông nghiệp là những diện tích đất phù hợp cho sản xuất nông nghiệp, bao gồm cả cây trồng và vật nuôi. Đây là nguồn lực chính trong sản xuất nông nghiệp (FAO, 2013 và OECD, 2007). Theo Luật đất đai năm 2013, đất nông nghiệp phân theo loại hình sử dụng bao gồm: Đất trồng cây hàng năm (gồm: đất trồng lúa và đất trồng cây hàng năm khác), đất trồng cây lâu năm, đất rừng (gồm: đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng), đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối, đất nông nghiệp khác (Quốc hội, 2013). Hiện nay, phân bố đất nông nghiệp có nhiều khái niệm khác nhau: Theo Harriet (2015) và Huaizhou (2014) phân bố đất nông nghiệp là sự thay đổi cơ cấu đất nông nghiệp theo thời gian trong một hệ thống bao gồm: Sự phân chia và phân chia lại đất nông nghiệp, chủ sở hữu quyền sử dụng đất, khả năng sử dụng đất, quy mô đất nông nghiệp, quản lý đất nông nghiệp, phạm vi phân bổ đất nông nghiệp trong từng vùng hay địa phương... Theo Ulle Endriss (2006) phân bố đất nông nghiệp là kết quả của một chuỗi các bước được thực hiện như: Phân chia, phân chia lại, điều chỉnh… nhằm hình thành nên cơ cấu đất nông nghiệp theo quy mô đất nông nghiệp đối với từng vùng kinh tế. Như vậy, phân bố đất nông nghiệp được hiểu là sự phân chia diện tích đất nông nghiệp giữa các vùng, giữa các loại hình sử dụng đất và giữa các chủ thể sử dụng đất theo thời gian và không gian. Một sự phân bố hợp lý là sự phân bố trong đó đảm bảo công bằng đối với chủ thể sử dụng đất và đem lại hiệu quả kinh tế sử dụng đất. 5
- 2.1.1.3. Phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình Theo Luật đất đai năm 2013 cho thấy chủ thể sử dụng đất hộ gia đình là các hộ gia đình trực tiếp sản xuất nông nghiệp, họ đã được Nhà nước giao, cho thuê, công nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp, nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp và có nguồn thu nhập ổn định từ sản xuất nông nghiệp trên đất đó. Phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình được hiểu là sự phân chia diện tích đất nông nghiệp giữa các chủ thể sử dụng đất là các hộ gia đình. Phân bố này được đo bởi diện tích và tỷ trọng diện tích của hộ, nhóm hộ giữa các vùng, các loại hình sử dụng đất và ngành nghề trong tổng diện tích đất nông nghiệp của vùng, của địa phương và quốc gia. 2.1.2. Đặc điểm của phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình Thứ nhất, tính lịch sử, trong từng giai đoạn, đất nông nghiệp hộ gia đình ở các vùng, các quốc gia, các địa phương có sự điều chỉnh và phân chia lại đất nông nghiệp giữa các loại hình đất nông nghiệp, giữa các hộ sao cho phù hợp nhu cầu sử dụng. Do đó, hiện trạng phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình trong mỗi thời kỳ mang tính lịch sử phát triển của xã hội. Thứ hai, tính kinh tế, khi các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp thay đổi, cùng với sự thay đổi của các phương thức sản xuất nông nghiệp nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế thì chế độ sở hữu quyền sử dụng đất nông nghiệp hộ gia đình có sự thay đổi phù hợp với các hình thức tổ chức và phương thức sản xuất nói trên. Ngoài việc thay đổi chế độ sở hữu quyền sử dụng đất, loại hình nông sản sản xuất có sự thay đổi, từ đó thay đổi loại hình sử dụng đất nhằm mục đích sản xuất ra nông sản phù hợp với cầu của thị trường đem lại hiệu quả sử dụng đất. Quy luật giá trị của K. Mark cho thấy việc tính toán chi phí sản xuất và lưu thông bằng giá trị là cần thiết do yêu cầu của thị trường. Nguồn lực đất nông nghiệp có hạn nhưng cần phải sản xuất được nhiều của cải vật chất cho xã hội ở mức cao nhất, hay chi phí cho một đơn vị sản phẩm là ít nhất với chất lượng sản phẩm cao. Thứ ba, tính xã hội, theo Marx lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là cách thức mà con người có quan hệ xã hội với nhau. Chúng ta thấy rằng, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chính trong nông nghiệp. Trong phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình luôn nảy sinh mối quan hệ giữa con người với đất nông nghiệp, mối quan hệ giữa người sở hữu quyền sử dụng và người sử dụng đất nông nghiệp, giữa những người sử dụng đất nông nghiệp. Do đó, phân bố đất nông nghiệp mang đặc trưng riêng của xã hội theo thời gian.. Thứ tư, tính văn hóa, đất đai là yếu tố gắn liền với đời sống của con người. Trong khi, mỗi vùng, mỗi quốc gia, mỗi địa phương có phong tục, tập quán, lối sống, truyền thống tâm lý đặc trưng. Vì vậy, phân bố đất nông nghiệp mang tính đặc trưng văn hóa vùng như: truyền thống sản xuất, tâm lý giữ đất như tài sản đảm bảo, thừa kế đất cho đời sau. Thứ năm, tính thể chế, phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình thể hiện rõ tính thể chế. Các thể chế, chính sách: chính sách đất đai, chính sách tái cơ cấu ngành nông nghiệp, chính sách khuyến khích liên kết sản xuất,… qua các thời kỳ làm thay đổi cơ cấu diện tích đất nông nghiệp nói chung và đất nông nghiệp hộ gia đình nói riêng. 2.1.3. Vai trò của phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình Đối với hộ gia đình, phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình là yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế sử dụng đất. Giai đoạn 2006- 2011, diện tích đất giao cho các hộ gia đình tăng 88,8% lên 89,4%, cơ cấu diện tích đất nông nghiệp theo loại hình đất sử dụng có sự thay đổi phù hợp với cơ cấu từng loại cây trồng. Sự chuyển dịch trên góp phần tích cực nâng cao hiệu quả kinh tế sử dụng đất, ổn định đời sống người dân (Nguyễn Thị Ngọc Anh, 2019). Đối với cộng đồng, phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình góp phần phát triển cộng đồng. Có thể nói, phân bố đất nông nghiệp hợp lý sẽ góp phần ổn định sinh kế đối với người sử dụng, đảm bảo an ninh lương thực, tăng sản lượng cây trồng và cải thiện dinh dưỡng cho người nghèo ở nông thôn (Rodney, 2007 và Lê Sỹ Hải, 2017). Đối với xã hội, phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình đảm bảo công bằng xã hội. Sự phân bố đất nông nghiệp công bằng sẽ tạo cảm giác yên tâm khi các hộ có quyền sử dụng nó (Lamont & Favor, 2017). Phân bố 6
- đất nông nghiệp hộ gia đình hợp lý sẽ thực hiện mục tiêu phát triển ngành kinh tế khác (Nguyễn Hữu Tuấn, 2019). 2.1.4. Nội dung nghiên cứu về phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình Trải qua một thời kỳ dài của lịch sử, bức tranh phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình được thể hiện qua hiện trạng quy mô đất nông nghiệp, cơ cấu diện tích đất nông nghiệp hộ gia đình giữa các vùng, các loại hình đất sử dụng và giữa các hộ gia đình với kết quả phân bố là quy mô đất nông nghiệp nhỏ, manh mún hay quy mô đất nông nghiệp lớn theo hướng tích tụ, tập trung. Tính hợp lý trong phân bố dựa trên nền tảng của sự công bằng các hộ có đất để sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế sử dụng đất. Trong đó, việc xác định mối quan hệ giữa công bằng và hiệu quả nhằm kết hợp hài hòa hai mục tiêu công bằng và hiệu quả trong phân bố là điều cần được quan tâm. 2.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình Hiện trạng phân bố đất nông nghiệp luôn biến động theo thời gian từ đó hình thành nên hiện trạng quy mô diện tích đất nông nghiệp theo hướng manh mún hay tích tụ, tập trung. Ở Việt Nam, đa phần các hộ gia đình đều sử dụng quy mô diện tích đất nông nghiệp nhỏ. Hiện trạng phân bố nói trên do: Thứ nhất, sự thay đổi quyền sử dụng đất như sự chuyển giao quyền sở hữu từ các chủ thể. Thứ hai, sự chuyển đổi mục đích sử dụng đất trong nội bộ đất nông nghiệp. Thứ ba, sự chuyển đổi từ đất nông nghiệp thành đất phi nông nghiệp, chuyển nhượng, thuê đất. Hay nói cách khác, phân bố đất nông nghiệp chịu tác động bởi ba nhóm các yếu tố: Nhóm các yếu tố chính sách, thể chế (gồm: Chính sách giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, chính sách hỗ trợ sản xuất trong chương trình xóa đói giảm nghèo, chính sách phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị trong công nghiệp hóa, đô thị hóa, chính sách khuyến khích tích tụ, tập trung đất nông nghiệp, chính sách tái cơ cấu ngành nông nghiệp, chính sách liên kết, hợp tác trong nông nghiệp); Nhóm các yếu tố kinh tế, kỹ thuật (gồm: Sự phát triển của thị trường đất đai, thị trường nông sản, gia tăng của thu nhập ngoài nông nghiệp và dịch chuyển lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp và khoa học công nghệ); Các yếu tố tâm lý, xã hội. 2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ PHÂN BỐ ĐẤT NÔNG NGHIỆP HỘ GIA ĐÌNH Trong phạm vi nghiên cứu tác giả đưa ra kinh nghiệm về phân bố đất nông nghiệp của một số quốc gia châu Á gần với Việt Nam như: Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và một số tỉnh ở Việt Nam, từ đó, rút ra bài học như sau: (i) phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình ở Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam có quy mô nhỏ, manh mún. Sự phân chia đất công bằng đối với các nông hộ theo diện tích đất tốt (xấu) là nguyên nhân dẫn đến tình trạng phân tán, manh mún đất nông nghiệp. Bên cạnh đó, việc chuyển đổi đất nông nghiệp phục vụ cho quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa cũng yếu tố làm giảm quy mô diện tích đất nông nghiệp. Chính vì vậy, khi xem xét đánh giá phân bố đất nông nghiệp cần xác định mức độ, chiều ảnh hưởng của các nguyên nhân trên. (ii) Thứ hai, các quốc gia có các chính sách đất đai khác nhau. Đất đai có thể là sở hữu của Nhà nước hoặc tư nhân, nhưng nhìn chung, các chính sách giao đất lâu dài ổn định, thế chất bằng quyền sử dụng đất là một trong những yếu tố giúp các hộ nông dân yên tâm sản xuất, gắn bó lâu dài với đất nông nghiệp, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng đất. (iii) Thứ ba, tại các quốc gia tích tụ đất nông nghiệp được thực hiện thông qua việc khuyến khích phát triển thị trường quyền sử dụng đất, liên kết sản xuất, ký hợp đồng ủy thác ngân hàng trong việc thuê đất trong trường hợp chủ thể không có nhu cầu sử dụng đất tạo sự công bằng giữa các hộ trong sử dụng đất nhưng xu hướng này diễn ra còn chậm chạp. PHẦN 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN Nghiên cứu sử dụng phương pháp tiếp cận: Tiếp cận thể chế, tiếp cận thị trường, tiếp cận vùng, tiếp cận chủ thể sử dụng đất, tiếp cận có sự tham gia. 7
- 8
- 3.3. PHƯƠNG PHÁP CHỌN ĐIỂM NGHIÊN CỨU Căn cứ vào đặc điểm địa bàn nghiên cứu tác giả đã phân tích lựa chọn dựa trên các tiêu chí địa hình phân thành hai tiểu vùng: Vùng miền và vùng trung du. Cụ thể chọn 3 huyện: Việt Yên, Lục Ngạn, Lạng Giang. Trong đó, tổng thể điều tra (các hộ gia đình trong toàn tỉnh) được phân thành 03 vùng là 03 huyện đại diện cho điều kiện đất đai và sản xuất nông nghiệp của toàn tỉnh Việt Yên đại diện cho vùng trung du có diện tích đất nuôi trồng thủy sản lớn nhất trong các huyện của vùng và đang diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp cũng như công nghiệp hóa, đô thị hóa mạnh mẽ, Lục Ngạn là huyện đại diện cho vùng miền núi trong đó có vùng núi cao có diện tích đất trồng cây lâu năm lớn nhất và Lạng Giang đại diện cho vùng miền núi có núi thấp với diện tích đất trồng cây hàng năm lớn. 3.4. PHƯƠNG PHÁP THU THẬP DỮ LIỆU Các dữ liệu thứ cấp được thu tập từ các tài liệu: Tạp chí, luận án, luận văn, báo cáo khoa học, báo cáo tổng kết của các đơn vị,... Đây là cơ sở quan trọng về tổng quát và chung nhất về các vấn đề về phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình trong nước và quốc tế. Các dữ liệu này được sưu tầm, phân loại, phân tích và trích dẫn đầy đủ. Nguồn số liệu sẵn có được thu thập theo bảng. Bên cạnh đó, tác giả thu thập số liệu sơ cấp trên cơ sở khảo sát 438 mẫu, trong đó, 399 hộ gia đình thuộc ba huyện Lục Ngạn, Lạng Giang, Việt Yên đại diện cho các vùng của tỉnh và 39 cán bộ về lĩnh vực đất đai thông qua sự phân bổ theo địa phương tại các cấp huyện, xã, thôn. 3.5. PHƯƠNG PHÁP TỔNG HỢP VÀ PHÂN TÍCH DỮ LIỆU Trên cơ sở tổng hợp số liệu tác giả sử dụng phương pháp thống kê mô tả về phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình; Mô hình đường giới hạn ngẫu nhiên sử dụng nhằm xác định mối quan hệ giữa hiệu quả và quy mô đất đai; Mô hình probit trong phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia thị trường đất đai; Tìm ra các nhân tố xác định công bằng qua mô hình phân tích nhân tố khám phá (EFA). 3.6. HỆ THỐNG CÁC CHỈ TIÊU NGHIÊN CỨU Nghiên cứu sử dụng ba nhóm chỉ tiêu nghiên cứu: Hệ thống chỉ tiêu về phân bố đất nông nghiệp, hệ thống chỉ tiêu đánh giá công bằng trong phân bố đất nông nghiệp, hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất. PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. THỰC TRẠNG PHÂN BỐ ĐẤT NÔNG NGHIỆP HỘ GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG 4.1.1. Hiện trạng, biến động phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình 4.1.1.1. Hiện trạng, biến động phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình theo vùng a. Hiện trạng phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình theo vùng Hộ gia đình Bắc Giang sử dụng 1,54% tổng diện tích đất nông nghiệp các hộ trong cả nước, tương ứng với 245.274,33 ha (Tổng cục Quản lý đất đai, 2018). Diện tích đất này có sự phân bố không đồng đều giữa các vùng. Tổng diện tích đất nông nghiệp hộ gia đình (bao gồm đất trồng trọt và đất nuôi trồng thủy sản) giai đoạn 2005- 2015 lớn hơn rất nhiều so với vùng trung du. Trên 80% đất nông nghiệp hộ gia đình tập trung ở vùng miền núi. Trong khi, chỉ gần 20% diện tích còn lại phân bố tại vùng trung du. Bắc Giang nằm ở vùng trung du nhưng diện tích đất nông nghiệp bình quân hộ ở Bắc Giang chỉ 3.269,87 m2/hộ (0,33 ha) (bảng 4.2) thấp hơn so với bình quân trung vùng 9
- Đông Bắc – xấp xỉ 0,49 ha/hộ (Tổng cục Thống kê, 2016) và của cả nước – khoảng 0,46 ha/hộ (Bộ Tài nguyên & Môi trường, 2018). Bảng 4.1. Hiện trạng quy mô diện tích đất nông nghiệp tại các hộ điều tra năm 2018 Tổng Lục Ngạn Việt Yên Lạng Giang Số Số Số Số Nhóm diện tích (m )2 Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ lượng lượng lượng lượng (%) (%) (%) (%) (hộ) (hộ) (hộ) (hộ) Dưới 1.000 m2 32 8,02 16 7,84 11 14,67 5 4,17 Từ 1.000 m2 đến 2.000 m2 82 20,55 40 19,61 16 21,33 26 21,67 Từ 2000 m2 đến dưới 3.000 m2 141 35,34 50 24,51 23 30,67 68 56,67 Từ 3.000m 2 đến dưới 4.000 m2 60 15,04 27 13,24 12 16,00 21 17,50 Từ 4.000 m2 đến 5.000 m2 29 7,27 21 10,29 8 10,67 0 0,00 Từ 5.000 m2 đến 6.000 m2 15 3,76 14 6,86 1 1,33 0 0,00 Từ 6.000 m2 đến 7.000 m2 7 1,75 6 2,94 1 1,33 0 0,00 Trên 7.000 m2 33 8,27 30 14,71 3 4,00 0 0,00 Tổng 399 100,00 204 100,00 75 100,00 120 100,00 Diện tích bình quân hộ 3.269,87 3.986,96 2.775,57 2.359,75 Sd (sai tiêu chuẩn) 3.116,70 4.017,63 1.999,59 709,81 CV (Hệ số biến thiên) 0,95 1,01 0,72 0,30 Nguồn: Số liệu điều tra (2018) b. Biến động phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình theo vùng Tổng diện tích đất nông nghiệp hộ gia đình toàn tỉnh giai đoạn 2005- 2015 trong bảng có xu hướng biến động tăng, diện tích đất này tăng nhiều hơn so với bình quân cả nước trong cùng giai đoạn (bình quân tỉnh tăng 13,74%, bình quân cả nước tăng là 8,67% (Tổng cục Quản lý Đất đai, 2016). Sự biến động tăng giữa các vùng và trên toàn tỉnh là tương đương (khoảng trên dưới 14%). Trong đó, đất nông nghiệp hộ gia đình thành phố Bắc Giang có xu hướng tăng vượt trội. Bình quân diện tích đất nông nghiệp các hộ nơi đây tăng 66,34% và tăng 1,77 lần năm 2015 so với năm 2005. 8000 3500 7000 3000 6000 2500 5000 2000 4000 1500 3000 2000 1000 1000 500 0 0 Diện tích bình quân/hộ năm 2006 Diện tích bình quân/hộ năm 2016 Diện tích bình quân/nhân khẩu năm 2006 Diện tích bình quân/nhân khẩu năm 2016 Biểu 4.1. Biến động quy mô đất nông nghiệp hộ gia đình theo vùng giai đoạn 2006 – 2016 (diện tích bình quân/hộ, diện tích bình quân/nhân khẩu) Nguồn: Cục Thống kê Bắc Giang (2006 - 2016) 10
- Biểu 4.1 mức độ biến động bình quân diện tích đất hộ và nhân khẩu trong suốt một thập kỷ (2006- 2016) theo chiều hướng tăng nhẹ trong toàn tỉnh, cũng như trong các vùng. Bình quân đất nông nghiệp trên hộ và nhân khẩu toàn tỉnh tăng lần lượt là 0,24 lần, 0,37 lần. Xu hướng biến động bình quân đất nông nghiệp theo nhân khẩu trên gần với xu hướng chung trong cả nước (OECD, 2016). Mặc dù trong cùng một tỉnh nhưng sự biến động phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình cũng có sự khác biệt giữa các vùng theo thời gian. Bình quân diện tích đất nông nghiệp hộ gia đình trên hộ và nhân khẩu vùng miền núi tăng nhiều hơn so với vùng trung du giai đoạn 2006- 2016. Số liệu điều tra năm 2018 cho thấy bình quân diện tích đất nông nghiệp hộ giảm ở Lục Ngạn- vùng núi có núi cao và Việt Yên- vùng trung du, và tăng không đáng kể ở Lạng Giang- vùng núi có núi thấp- trong giai đoạn 1994- 2018. Cũng trong giai đoạn 1994- 2018, diện tích bình quân lao động các huyện có xu hướng tăng, nhưng diện tích này chỉ bằng một nửa so với cả nước (0,34 ha) và bằng một phần tư các nước trong khu vực Đông Nam Á (WB, 2016). Tóm lại, phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình Bắc Giang cho thấy đất nông nghiệp hộ gia đình có sự phân bố không đồng đều giữa các vùng. Quy mô diện tích đất nông nghiệp nơi đây nhỏ hơn vùng Đông Bắc, cũng như trên cả nước. Trong suốt một thập kỷ (2005- 2015) đất nông nghiệp hộ gia đình biến động tăng nhưng đến năm 2018 diện tích đất này có xu hướng giảm. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh xuất hiện hình thức tích tụ đất đai. Tuy nhiên, về cơ bản quy mô diện tích đất nông nghiệp trên nhân khẩu và lao động Bắc Giang nhỏ hơn rất nhiều so với cả nước, các nước trong khu vực và thế giới. 4.1.1.2. Hiện trạng, biến động phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình theo loại hình sử dụng đất a. Hiện trạng phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình theo loại hình sử dụng đất Hiện trạng phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình (bao gồm đất sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản) bảng 4.3. Bảng 4.2. Hiện trạng quy mô đất nông nghiệp tại các hộ điều tra theo loại sử dụng đất năm 2018 Đất trồng cây lâu Đất trồng cây Đất nuôi trồng năm hàng năm thủy sản Nhóm diện tích (m2) Số Số Số Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ lượng lượng lượng (%) (%) (%) (hộ) (hộ) (hộ) Bằng 0 m2 183 45,86 164 41,10 377 94,49 Từ 0 đến dưới 1.000 m2 25 6,27 65 16,29 12 3,01 Từ 1.000 m2 đến 2.000 m2 41 10,28 44 11,03 3 0,75 Từ 2000 m2 đến dưới 3.000 m2 51 12,78 91 22,81 0 0,00 Từ 3.000 m2 đến dưới 4.000 m2 28 7,02 29 7,27 3 0,75 Từ 4.000 m2 đến 5.000 m2 21 5,26 6 1,50 1 0,25 Từ 5.000 m2 đến 6.000 m2 14 3,51 0 0,00 1 0,25 Từ 6.000 m2 đến 7.000 m2 6 1,50 0 0,00 0 0,00 Trên 7.000 m2 30 7,52 0 0,00 2 0,50 Tổng 399 100,00 399 100,00 399 100,00 Diện tích bình quân hộ (tính theo 3.824,81 1.825,37 2.252,64 loại đất các hộ sử dụng) Sd (sai tiêu chuẩn) 3.487,29 1.277,14 866,16 CV (Hệ số biến thiên) 0,91 0,70 0,38 Nguồn: Số liệu điều tra (2018) 11
- Mô tả rằng cơ cấu diện tích đất sản xuất nông nghiệp hộ gia đình chiếm tỷ lệ đáng kể. Diện tích đất này chiếm trên 90% trong tổng diện tích đất nông nghiệp các hộ trong tỉnh, diện tích đất này có tỷ lệ tương đương trong cả nước (89,4%) (OECD, 2016), phần còn lại là diện tích đất nuôi trông thủy sản của tỉnh chiếm một tỷ lệ nhỏ là dưới 10%. Diện tích đất này trên địa bàn tỉnh giống như Việt Nam và các nước Đông Nam Á chủ yếu được sử dụng để sản xuất cây lương thực truyền thống là lúa nước. Quy mô diện tích đất trong số liệu điều tra bảng 4.2. chỉ ra rằng đất trồng cây hàng năm các hộ gia đình sử dụng chủ yếu là quy mô diện tích nhỏ dưới 0,5 ha. Mặc dù, diện tích cây trồng cây lâu năm có diện tích bình quân/ hộ là lớn nhất (3.824,81 m2) nhưng các hộ sử dụng diện tích đất quy mô nhỏ là đáng kể (chủ yếu các hộ có diện tích dưới 0,4 ha). b. Biến động phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình theo loại hình sử dụng đất Phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình theo loại hình sự dụng đất biến động tăng trong giai đoạn 2005 – 2015. Trong đó, diện tích đất nuôi trồng thủy sản có xu hướng tăng mạnh nhất, tăng 0,41 lần giai đoạn 2005- 2015 và 0,76 lần giai đoạn 2010- 2015. Cơ cấu đất nông nghiệp giữa các loại hình có xu hướng dịch chuyển từ đất trồng cây hàng năm sang đất trồng cây lâu năm và nuôi trồng thủy sản. Ngoài sự chuyển dịch loại hình đất nông nghiệp, trong nội bộ các hộ, cơ cấu sử dụng đất cho từng loại hình cây trồng cũng có sự thay đổi. Tóm lại, hiện trạng phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình tỉnh Bắc Giang theo loại hình sử dụng đất cho thấy tỷ lệ đất nông nghiệp hộ gia đình sử dụng cho sản xuất nông nghiệp lớn hơn rất nhiều so với đất nuôi trồng thủy sản mặc dù diện tích đất nông nghiệp phục vụ cho nuôi trồng thủy sản tăng mạnh từ năm 2005 đến 2015. Trong sản xuất đất nông nghiệp, phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình cũng có xu hướng biến động diện tích từ trồng cây hàng năm và cây lâu năm và biến động theo loại cây trồng. 4.1.1.3. Hiện trạng, biến động phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình tỉnh Bắc Giang theo ngành nghề a. Hiện trạng phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình theo ngành nghề Các hộ NN là các hộ sử dụng gần toàn bộ diện tích đất nông nghiệp. Tuy nhiên, bình quân quy mô diện tích đất nông nghiệp các hộ này là 4.361,78 m2 (0,44 ha) nhỏ hơn mặt bằng chung trên cả nước- khoảng 0,46 ha/hộ (Bộ Tài nguyên & Môi trường, 2018). Bảng 4.3. Hiện trạng quy mô đất nông nghiệp hộ gia đình theo ngành nghề năm 2018 Hộ có nguồn Hộ NN Hộ CN- XD Hộ TMDV thu từ lương Nhóm diện tích (m2) Số Số Số Số Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ lượng lượng lượng lượng (%) (%) (%) (%) (hộ) (hộ) (hộ) (hộ) Dưới 1.000 m2 14 5,19 12 15,58 5 12,50 1 8,33 Từ 1.000 m2 đến 2.000 m2 48 17,78 19 24,68 10 25,00 5 41,67 Từ 2000 m2 đến dưới 3.000 m2 91 33,70 30 38,96 20 50,00 0 0,00 Từ 3.000 đến dưới 4.000 m2 41 15,19 11 14,29 3 7,50 5 41,67 Từ 4.000 m2 đến 5.000 m2 23 8,52 3 3,90 2 5,00 1 8,33 Từ 5.000 m2 đến 6.000 m2 15 5,56 0 0,00 0 0,00 0 0,00 Từ 6.000 m2 đến 7.000 m2 6 2,22 1 1,30 0 0,00 0 0,00 Trên 7.000 m2 32 11,85 1 1,30 0 0,00 0 0,00 Tổng 270 100,00 77 100,00 40 100,00 12 100,00 Diện tích bình quân hộ 3.620,87 2.737,75 2.183,33 2.408,65 Sd (sai tiêu chuẩn) 2.598,58 4.959,08 879,56 1.184,45 CV (Hệ số biến thiên) 0,72 1,81 0,40 0,49 Nguồn: Số liệu điều tra (2018) 12
- Các hộ NN là các hộ sử dụng gần toàn bộ diện tích đất nông nghiệp. Tuy nhiên, bình quân quy mô diện tích đất nông nghiệp các hộ này là 4.361,78 m2 (0,44 ha) nhỏ hơn mặt bằng chung trên cả nước- khoảng 0,46 ha/hộ (Bộ Tài nguyên & Môi trường, 2018). Phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình theo ngành nghề được đề tài tập trung mô tả hiện trạng về quy mô diện tích đất nông nghiệp theo các loại hộ nông nghiệp, công nghiệp - xây dựng, thương mại dịch vụ và các nhóm hộ khác (là những hộ có nguồn thu nhập chính từ lương). Việc phân loại hộ được tính toán theo thu nhập lớn nhất của hộ từ các hoạt động NN, CN – XD, TMDV và trong các đơn vị hành chính). Nếu so sánh theo loại hộ thì tính đến năm 2018 hộ NN là hộ có quy mô diện tích đất nông nghiệp lớn (có 11,85% số hộ NN sử dụng quy mô diện tích lớn hơn 0,7 ha). Trong khi các hộ còn lại có quy mô diện tích đất nông nghiệp nhỏ, chủ yếu dưới 0,5 ha. b. Biến động phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình theo ngành nghề Giai đoạn 2006 - 2011 diện tích đất nông nghiệp bình quân hộ NN có xu hướng giảm. Tổng diện tích đất này giảm 26,85%. Trong đó, bình quân diện tích đất nông nghiệp của hộ NN và lao động trong hộ giảm lần lượt là 19,62% và 23,68% (Cục Thống kê Bắc Giang, 2011). Điều này có thể lý giải như sau: Do sinh kế của các hộ NN gắn chặt với đất nông nghiệp nên các hộ trên sẽ giữ đất như tài sản đảm bảo cuộc sống, tuy nhiên khi các giao dịch mua bán không được thực hiện nhằm tăng quy đất nông nghiệp của hộ thì việc thực hiện chính sách trưng dụng đất, sẽ là yếu tố làm thu hẹp quy mô diện tích đất nông nghiệp. Đánh giá sự thay đổi trong khoảng thời gian dài từ khi giao đất cho đến nay (1994- 2018) cho thấy hộ NN có xu hướng tăng quy mô diện tích đất nông nghiệp (năm 2018 tăng so với năm 1994 là 11,53%). Ngược lại, các hộ khác có xu hướng giảm quy mô diện tích đất nông nghiệp ( hộ CN-XD, hộ TMDV và hộ thu lương lần lượt giảm 3,77%, 0,47%, 8,89%). Điều này ít nhiều giải thích sự xuất hiện hiện tượng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trên bình diện chung, về tổng thể thì các hộ có xu hướng tập trung đất nông nghiệp để sử dụng diện tích mảnh đất lớn và giảm số mảnh. Do sự rút lao động có xu hướng rút ra khỏi ngành NN nên diện tích đất nông nghiệp bình quân lao động tăng (hộ NN tăng 0,23 lần, hộ CN- XD tăng 0,57, hộ TMDV tăng 0,63 lần, hộ thu từ lương tăng 0,18 lần). Tóm lại, hiện trạng phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình theo ngành nghề cho thấy các hộ NN là các hộ sử dụng đất nông nghiệp với quy mô lớn hơn các hộ phi nông nghiệp. Tuy nhiên, diện tích đất nông nghiệp các hộ nông nghiêp trên địa bàn tỉnh Bắc Giang sử dụng nhỏ hơn so với các hộ NN trong cả nước. Các hộ sản xuất nông nghiệp có xu hướng mở rộng quy mô đất nông nghiệp bằng việc thuê mượn hay mua thêm một phần đất từ các hộ CN-XD, hộ TMDV và hộ thu từ lương. Vì vậy, tỉnh Bắc Giang cần có chính sách khuyến khích các hộ CN-XD, hộ TM-DV và hộ thu từ lương chuyển nhượng đất nông nghiệp sang hộ NN, giúp các hộ nông nghiệp mở rộng quy mô diện tích đất nông nghiệp phát triển sản xuất. 4.1.1.4. Kết quả phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình a. Manh mún đất nông nghiệp Phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình Bắc Giang theo vùng, theo loại hình đất sử dụng và giữa các hộ theo ngành nghề có quy mô nhỏ, các hộ chủ yếu sử dụng quy mô diện tích đất dưới 0,4 ha, quy mô này nhỏ hơn so với cả nước và vùng Đông Bắc. Bên cạnh đó, phân bố đất nông nghiệp của Bắc Giang là có sự khác biệt lớn về đặc điểm phân bố đất đai 13
- giữa các huyện đại diện cho các vùng trong tỉnh. Manh mún là một hiện tượng phổ biến ở Bắc Giang cũng như trong cả nước. Mức độ manh manh mún đất nông nghiệp Bắc Giang là 0,55, tương đương với một số tỉnh miền Bắc như: Yên Bái (0,51), Hà Tây (0,69) (Sally & cs., 2007). Với hiện trạng phân bố đất nông nghiệp như hiện nay thì tình trạng manh mún đất nông nghiệp sẽ là một xu thế chưa thể thay đổi. b. Tích tụ, tập trung đất nông nghiệp Quy mô, diện tích đất nông nghiệp nhỏ, manh mún là một hiện tượng phổ biến ở Việt Nam cũng như ở Bắc Giang. Tuy nhiên, hiện nay lao động có xu hướng rút ra khỏi ngành nông nghiệp dẫn tới hiện tượng thiếu lao động trong nông nghiệp. Thêm vào đó, là các chính sách khuyến khích tích tụ, tập trung là các yếu tố hình thành nên hình thức tổ chức sản xuất mới, từ đó làm xuất hiện xu hướng tích tụ, tập trung với quy mô diện tích đất nông nghiệp lớn hơn. Tóm lại, hiện trạng phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình tỉnh Bắc Giang cho thấy tồn tại song song hai trạng thái manh mún và tích tụ, tập trung đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên quy mô đất nông nghiệp nhỏ, manh mún là hiện tượng phổ biến. Hình thức tích tụ, tập trung đất nông nghiệp được hình thành do ba nguyên nhân chính là mua/đấu thầu, liên kết/hợp tác sản xuất và thực hiện dồn điền đổi thửa. Tuy nhiên, tập trung, tích tụ đất đai chưa phải là một hiện tượng phổ biến trên địa bàn tỉnh. Nếu Nhà nước nói chung và tỉnh Bắc Giang có các chính sách đất đai tác động đủ mạnh thì trong tương lai quyền sử dụng đất nông nghiệp sẽ có xu hướng chuyển từ những người có đất nông nghiệp nhưng không có nhu cầu sản xuất nông nghiệp, những người sản xuất kém hiệu quả sang những người sử dụng đất hiệu quả, hình thành những vùng sản xuất nông nghiệp tập trung tận dụng lợi thế của vùng để nâng cao giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp. 4.1.2. Đánh giá phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình 4.1.2.1. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp hộ gia đình Phân tích thống kê mô tả (biểu 4.2) cho thấy so sánh giá trị sản xuất với từng nhóm quy mô diện tích biểu 4.8. cho thấy 8,27% số hộ có diện tích trên 0,7 ha có giá trị thu được gần tương đương với 35,34% số hộ có diện tích 0,2- 0,3 ha và 28,57% hộ có diện tích dưới 0,2 ha, và 27,82% số hộ có diện tích 0,3- 0,7 ha có giá trị sản xuất tương đồng. Bên cạnh đó, các chỉ tiêu hiệu quả (GO/IC, VA/IC, MI/IC) của mẫu điều tra tuân theo xu hướng chung, là: các chỉ số hiệu quả đạt mức cao ở nhóm hộ có diện tích rất nhỏ (dưới 2000 m2), giảm dần cho đến nhóm quy mô trung bình (3.000 – 4.000m2) sau đó tăng lên theo quy mô sử dụng đất.. Ở hai nhóm quy mô sử dụng đất lớn nhất (trên 6.000 m2/hộ), hiệu quả sử dụng đất trên một đơn vị diện tích đạt ở mức cao hơn trung bình. Bên cạnh đó, mỗi vùng trên địa bàn tỉnh có những lợi thế nhất định trong sản xuất. Vùng núi có núi cao có lợi thế trong phát triển cây ăn quả. Vùng núi có núi thấp thuận lợi cho phát triển cây trồng hàng năm, và nuôi trồng thủy sản là thế mạnh của vùng trung du. Kết quả ước lượng hàm sản xuất cho thấy, tất cả các yếu tố đầu vào đều có ảnh hưởng thuận chiều với độ lớn đáng kể đến kết quả đầu ra là giá trị sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình. Trong đó, hai yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất là lao động và đầu vào chính (trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, tăng 1% đầu tư cho lao động dẫn tới tăng tổng giá trị sản xuất nông nghiệp lên 0,49%, tăng đầu tư cho các đầu vào chính như phân bón, thức ăn chăn nuôi lên 1% sẽ làm tăng tổng giá trị sản xuất lên 0,41%. Ảnh hưởng của đất đai, các đầu vào khác đến thu nhập hộ gia đình tương ứng là 0,13% và 0,25%. Kết quả ước lượng ảnh hưởng của các đầu vào đến giá trị sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình đều phù hợp với kỳ vọng. 14
- 12000000 3,79 4.00 4,0 3,47 3.50 10000000 3,16 3,5 3,01 2,91 2,82 2,79 3.00 2,47 3,0 8000000 2,43 2,27 2,76 2.50 2,16 Nghìn đồng 2,47 2,01 2,5 1,91 6000000 1,82 2.00 2,15 1,90 1,43 1,98 1,81 2,0 1,27 1.50 4000000 1,38 1,5 1,24 1.00 2000000 1,0 0.50 0 0.00 0,5 Dưới 1.000 Từ Dưới 1.000 Từ 1.000 1.000 Từ Từ 2000 2.000 Từ Từ 3.000 3.000 Từ Từ4.000 4.000 Từ Từ5.000 5.000 Từ Từ 6.000 6.000 Trên Trên7.000 7.000m 2 m2 m2 m2 đến m2 đến m2mđến 2 đến đếnm dưới 2 đến m2 đến m2 đến m2 đến m2 đến m2 đến m2 đến m2 2.000 m2 dưới 3.000 4.000 m2 5.000 m2 6.000 m2 7.000 m2 0,0 2.000 m2 3.000 m2 m 2 4.000 m2 5.000 m2 6.000 m2 7.000 m2 GO IC VA MI MI/IC VA/IC GO/IC Biểu 4.2. Hiệu quả kinh tế theo quy mô đất nông nghiệp hộ gia đình tính trên chí phí năm 2018 Nguồn: Số liệu điều tra (2018) Kết quả ước lượng mô hình đường giới hạn ngẫu nhiên SFA được trình bày ở Bảng 4.4 cho thấy các yếu tố đầu vào, kết quả ước lượng cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa hiệu quả kinh tế của sản xuất nông nghiệp với tính chất phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình. Cả hai yếu tố manh mún đất đai và quy mô đất nông nghiệp của hộ gia đình đều có ảnh hưởng thuận chiều đến tính phi hiệu quả, tức có ảnh hưởng ngược chiều đến hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào của hộ gia đình. Như vậy, với điều kiện sản xuất nông nghiệp hiện tại, thì manh mún đất đai gây ra nhiều tác động tiêu cực hơn so với tác động tích cực. Bên cạnh đó, kết quả ước lượng cũng cho thấy các hộ gia đình có tổng diện tích lớn nói chung là có hiệu quả sử dụng đầu vào thấp hơn. Bảng 4.4. Kết quả ước lượng mô hình SFA Tên biến Hệ số ước lượng Sai số chuẩn Z Giá trị P Hàm sản xuất, biến phụ thuộc: LnY Hằng số 0,551 31,685 0,02 0,986 LnDat* 0,129 0,067 1,92 0,055 LnLdong*** 0,494 0,068 7,23 0,000 LnDvaochinh*** 0,411 0,045 9,12 0,000 LnĐvaokhac*** 0,249 0,043 5,72 0,000 Ldgdinh*** 0,112 0,024 4,71 0,000 Hàm hiệu quả, Biến phụ thuộc: E(U) Hằng số -0,695 31,682 0,02 0,982 Tuoi 0,001 0,002 0,5 0,619 Dtich** 0,009 0,004 2,07 0,039 Sothua*** 0,084 0,007 12,46 0,000 Chú thích ký hiệu: Ln: Logarit tự nhiên (cơ số e) *, **, ***: ước lượng có ý nghĩa thống kê ở mức 0,1; 0,05; 0,01 15
- Tóm lại, hiệu quả sử dụng đất phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhưng xét trên bình diện chung, tùy thuộc vào nhóm diện tích hộ sử dụng mà hiệu quả sử dụng đất có thể giảm dần hoặc tăng dần theo theo quy mô. Quy mô nhỏ và manh mún đất đai chưa phải là một hạn chế rõ ràng đối với cải thiện hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp ở cấp độ hộ gia đình. Kết quả này dẫn tới có thể đưa ra hai suy luận ngược chiều nhau về dự báo về chiều hướng tích tụ đất đai trong tương lai: Một là, quan hệ ngược chiều giữa quy mô đất đai và hiệu quả kinh tế hộ gia đình. Hai là, quan hệ thuận chiều giữa quy mô đất đai và hiệu quả kinh tế trong nghiên cứu ở cấp độ hộ gia đình, và trong điều kiện tổ chức sản xuất nông nghiệp phổ biến là sản xuất riêng lẻ, liên kết lỏng lẻo giữa các hộ gia đình. 4.1.2.2. Đánh giá công bằng trong phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình a. Công bằng trong phân bố đất nông nghiệp các hộ điều tra Trước hết, điểm đầu tiên cần được xem xét đó là cơ hội tiếp cận và sử dụng đất cho thấy bất công đối với những người sinh sau thời điểm phân chia đất là sau thời điểm luật đất đai năm 1993 ra đời tức là những người này sẽ ít có cơ hội tiếp cận và sử dụng đất, hay nói cách khác có sự phân bố bất công giữa các thế hệ. Điểm thứ hai là sự bất công bằng còn thể hiện qua sự phân bố đất nông nghiệp giữa các nhóm hộ. Trong khi các hộ nông nghiệp cần đất thì lại có rất ít đất để sản xuất. Ngược lại, một bộ phận đất nông nghiệp đang nằm trong tay các hộ không có nhu cầu sử dụng đất (hộ công nghiệp và thương mại, hộ dịch vụ, hộ có nguồn thu từ lương). Điểm thứ ba trong đánh giá là sự công bằng trong các giao dịch nông nghiệp và quyền sử dụng đất. Điều này được thể hiện thông qua tính pháp lý trong sử dụng đất có thể được coi là công bằng. Điểm cuối cùng trong nhìn nhận sự công bằng đó là việc sử dụng đáp ứng nhu cầu thiết yếu của hộ, ở một góc độ nào đấy thì có thể nói quy mô nhỏ là công bằng đối với hộ nghèo. 120 Tỷ lệ cộng dồn tổng diện tích (%) 100 80 60 40 20 0 0 50 100 150 Tỷ lệ cộng dồn số hộ (%) Lục Ngạn Việt Yên Lạng Giang Bắc Giang Đường 45 độ Biểu 4.3. Đường cong Lorenz tính theo tổng diện tích của hộ Nguồn: Số liệu điều tra (2018) Đường cong Lorenz và hệ số Gini cho thấy cái nhìn trực quan hơn về công bằng. Trong trường hợp đất nông nghiêp được phân chia đồng đều tại cùng một thời điểm trong các vùng, thì quy mô đất đai nhỏ, đồng đều, manh mún sẽ đảm bảo công bằng hơn so với quy mô diện tích đất nông nghiệp lớn. Lạng Giang mức độ manh mún cao hơn (chỉ số manh mún đất nông nghiệp là 0,83, số mảnh bình quân hộ là 9,44 mảnh) nhưng mức độ công bằng cao hơn (Hệ số Gini là 0,1680). Trong khi, Lục Ngạn mức độ manh mún thấp hơn (Mỗi hộ 16
- sử dụng bình quân 2,09 mảnh, chỉ số manh mún đất nông nghiệp của huyện là 0,35), thì mức độ bất công lại cao hơn (hệ số Gini là 0,4138). Ở Lạng Giang, các hộ nguồn gốc đất nông nghiệp được chia theo Nghị quyết 10, mặc dù manh mún nhưng công bằng hơn so với Việt Yên khi huyện thực hiện chính sách tích tụ đất nông nghiệp (hệ số Gini về phân bố đất nông nghiệp của Việt Yên là 0,3410, của Lạng Giang là 0,1680) (biểu 4.2). Như vậy, bất bình đẳng trong phấn bố đất nông nghiệp tỉnh Bắc Giang (Hệ số Gini =0,36) thấp hơn so với cả nước (Hệ số Gini =0,46) và các nước châu Á (Hệ số Gini ở Á Đông Á là 0,40, hệ số Gini ở Đông Nam Á là 0,47) (Frankema, 2010). Sự bất công bằng là khác nhau giữa các khía cạnh. Việc thực hiện tích tụ, tập trung đất nông nghiệp sẽ làm gia tăng bất công bằng trong phân bố. b. Các nhân tố đánh giá công bằng trong phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình Kết quả thực hiện các bước chủ yếu trong phân tích nhân tố khám phá nhằm tìm ra các nhân tố xác định công bằng như sau: (1). Các giao dịch đất nông nghiệp được thực hiện minh bạch, công khai, hợp pháp; (2). Đất nông nghiệp được phân bố ngang bằng, đồng đều; (3). Công bằng về cơ hội cho mọi người tham gia giao dịch đất nông nghiệp. Từ kết quả cho thấy hai vấn đề quan trọng rút ra từ kết quả phân tích nhân tố khám phá trong đánh giá công bằng đất nông nghiệp: Thứ nhất, về khía cạnh công bằng trong kết quả phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình, công bằng trong phân chia đất đai (đồng đều, ngang bằng) vẫn là quan điểm chủ yếu trong đánh giá công bằng, tính xứng đáng sở hữu đất nông nghiệp của các hộ gia đình chưa phải là khía cạnh được coi trọng. Thứ hai, về tính công bằng trong phương thức phân bố đất nông nghiệp, các tiêu chí công khai, minh bạch, bình đẳng về cơ hội tham gia là đặc biệt quan trọng để có thể đạt được sự đồng thuận, hài lòng của các bên liên quan. 4.1.2.3. Mối quan hệ giữa công bằng và hiệu quả trong phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình Đánh giá mối quan hệ công bằng và hiệu quả cần có một cái nhìn toàn diện dưới nhiều góc độ và khía cạnh. Xét trên góc độ vùng, công bằng và hiệu quả mâu thuẫn hay không tùy vào loại hình đất trồng. Nhưng xét trên góc độ quy mô đất nông nghiệp hộ gia đình công bằng và hiệu quả có sự mâu thuẫn (quy mô manh mún là công bằng, thì phi hiêu quả kinh tế). Chính vì vậy, khi đưa ra chính sách đất đai các nhà hoạch định cần xác định các góc độ khác nhau nhằm xem xét mối quan hệ giữa công bằng và hiệu quả. Từ đó, đảm bảo hài hòa công bằng trong phân bố và nâng cao hiệu quả kinh tế sử dụng đất nông nghiệp hộ gia đình. 4.2. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÂN BỐ ĐẤT NÔNG NGHIỆP HỘ GIA ĐÌNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG 4.2.1. Nhóm các yếu tố chính sách, thể chế 4.2.1.1. Chính sách giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình Chính sách giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình hình thành nên sự phân bố đồng đều đảm bảo công bằng về đất đai trong nông nghiệp giữa các hộ, từ đó hình thành nên hiện trạng quy mô đất nông nghiệp nhỏ, manh mún. Nhìn chung, phân bố đất nông nghiệp hộ gia đình Bắc Giang với quy mô nhỏ, manh mún vẫn là một hiện tượng phổ biến trong thời gian tới, vì ít nhất sản xuất nông nghiệp sẽ là nguồn sống cho một bộ phận người dân nghèo không thể rút ra khỏi ngành nông nghiệp. 4.2.1.2. Chính sách hỗ trợ sản xuất trong chương trình xóa đói giảm nghèo Các chương trình xóa đói giảm nghèo của Chính phủ là rào cản đối với tích tụ đất đai, vì đối tượng nhận được hỗ trợ sản xuất chủ yếu là các hộ gia đình có quy mô sản xuất nông nghiệp nhỏ. Việc hỗ trợ của Chính phủ sẽ làm cho họ “gắn chặt” với đất nông nghiệp quy mô 17
- nhỏ như một nguồn đảm bảo sinh kế mặc dù sản xuất chưa chắc đã hiệu quả. Như vậy, trong tương lai đất nông nghiệp quy mô nhỏ nhất sẽ nằm trong tay các hộ nghèo - các hộ có số lao động không thể rút khỏi ngành nông nghiệp hay bị “tắc lại” trong nông nghiệp mặc dù sản xuất không hiệu quả. 4.2.1.3. Chính sách công nghiệp và đô thị hóa Diện tích đô thị và các khu công nghiệp ngày càng được mở rộng nhằm phục vụ cho mục đích phát triển công nghiệp hóa, đô thị hóa. Để phục vụ cho mục đích này, Chính phủ cho phép chuyển đổi một phần diện tích đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp, dẫn tới hiện tượng quy mô diện tích đất nông nghiệp nói chung, quy mô diện tích đất nông nghiệp các hộ gia đình bị thu hẹp hay nói cách khác các hộ gia đình sẽ sử dụng diện tích đất nông nghiệp nhỏ hơn và manh mún hơn. Có thể nói, trong thời gian tới các khu công nghiệp, khu đô thị tiếp tục được xây dựng thì tổng diện tích đất nông nghiệp. Nếu lao động dịch chuyển ra khỏi nông nghiệp với tốc độ chậm hơn thì diện tích đất nông nghiệp/ lao động và diện tích đất nông nghiệp/ hộ sẽ giảm. 4.2.1.4. Chính sách khuyến khích tích tụ, tập trung đất nông nghiệp (dồn điền đổi thửa, xây dựng cánh đồng mẫu lớn, tăng mức hạn điền) Như đã phân tích ở phần trên các chính sách: giao đất, hỗ trợ sản xuất trong chương trình xóa đói giảm nghèo, phát triển khu công nghiệp và khu đô thị là yếu tố làm tăng mức độ manh mún đất nông nghiệp hộ gia đình. Để cải thiện các bất lợi của quy mô nhỏ, Chính phủ đã thực hiện chính sách khuyến khích tích tụ, tập trung đất đai dựa trên nền tảng của một quy mô sử dụng đất lớn hơn, tăng lợi thế quy mô: Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg về khuyến khích hợp tác, liên kết sản xuất, Nghị quyết số 19-NQ/TW khuyến khích chuyển quyền sử dụng đất,… Vì vậy, các hộ gia đình được sử dụng quy mô đất nông nghiệp lớn, số thửa giảm, diện tích thửa lớn hơn trước đây. Tóm lại, với xu hướng như hiện tại thì tồn tại kịch bản/khả năng trong tương lai sẽ diễn ra là tích tụ, tập trung đất nông nghiệp sẽ diễn ra chậm chạp. Giả sử, thị trường đất nông nghiệp sôi động, sự hợp tác liên kết của nông dân và doanh nghiệp tạo thành chuỗi bền vững, sự khuyến khích chuyển nhượng đất nông nghiệp của các hộ sản xuất kém hiệu quả đủ mạnh... thì có thể đất nông nghiệp đến một giai đoạn nào đó sẽ tập trung trong tay một số hộ gia đình có điều kiện kinh tế khá giả. 4.2.1.5. Chính sách tái cơ cấu ngành nông nghiệp Năm 2013, Chính phủ thực hiện Quyết định 899/QĐ-TTg về tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Chính sách này làm thay đổi cấu trúc ngành nông nghiệp, theo đó, tái cơ cấu trồng trọt theo hướng phát triển sản xuất quy mô lớn, tiêu thụ theo chuỗi giá trị dựa trên cơ sở phát huy lợi thế sản phẩm và lợi thế vùng, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ nhằm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, cơ cấu lại hệ thống sản xuất. Kết quả thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp giai đoạn 2013- 2017 đã có những chuyển biến tích cực trong chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế theo hướng chuyển dịch theo hướng hiệu quả hơn, từ đó, cơ cấu đất nông nghiệp theo loại hình sử dụng đất có sự thay đổi theo từng vùng vào các thời điểm khác nhau. 4.2.1.6. Chính sách liên kết, hợp tác trong nông nghiệp Các chính sách hợp tác, liên kết sản xuất là yếu tố tác động khắc phục được những hạn chế manh mún đất nông nghiệp, giúp cho các hộ gia đình sử dụng được quy mô diện tích đất nông nghiệp lớn hơn theo hướng tập trung đất đai. Bên cạnh đó, giúp cho hộ nông dân có được lợi ích chính đáng, đảm bảo công bằng và nâng cao hiệu quả sử dụng đất. 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 305 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 288 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 183 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 266 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 177 | 9
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 149 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 54 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 199 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 136 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn