BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH NGUYỄN THỊ THANH ĐỨC

PHONG CÁCH NGÔN NGỮ THƠ HÀN MẶC TỬ

Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam

Mã số: 922 01 02

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2021

1

Luận án được hoàn thành tại Trường Đại học Vinh

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. PHAN MẬU CẢNH 2. TS. ĐẶNG LƯU

Phản biện 1.

Phản biện 2.

Phản biện 3.

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án tiến sĩ cấp Trường

Địa điểm: Trường Đại học Vinh

Thời gian: Vào hồi giờ, ngày tháng năm 2021

Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia

- Trung tâm Thông tin - Thư viện Nguyễn Thúc Hào, Trường Đại học Vinh

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Nghiên cứu thơ từ góc nhìn ngôn ngữ là một hướng tiếp cận phổ biến bấy

lâu nay, đã thu được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Trong thơ, ngôn ngữ không chỉ

thể hiện nội dung thông tin thuần túy, mà bản thân nó còn có “tính tự trị”, “tự thuyết

minh về chính nó”. Do vậy, nếu trong sáng tác, sự độc đáo của hình thức ngôn ngữ

thể hiện qua mỗi tác phẩm là đích phấn đấu của nhà thơ, thì trong tiếp nhận và đánh

giá, việc khám phá ra tính độc đáo của cách tổ chức ngôn ngữ cũng là yếu tố quyết

định để hiểu nội dung của thơ.

1.2. “Ngôn ngữ thơ” là một khái niệm có nội hàm rất rộng. Thực tế, không có

một thứ ngôn ngữ thơ chung chung, mà chỉ tồn tại ngôn ngữ thơ thuộc từng hệ hình,

kiểu sáng tác, của mỗi tác giả nhất định. Mỗi tác giả thường có vốn sống, quan điểm

thẩm mĩ, sở thích, sở trường, đời sống nội tâm, nhãn quan ngôn ngữ riêng, chúng

góp phần tạo nên những nét cá biệt của từng chủ thể sáng tạo. Mức cao nhất của sự

kết tinh những nét cá biệt chính là phong cách. Tìm hiểu phong cách thơ của một

tác giả từ góc độ ngôn ngữ học, do vậy, là một hướng đi thật sự cần thiết nhằm đóng

góp vào việc nghiên cứu phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, góp phần vào việc thực

hành phân tích văn bản trong nhà trường hiện nay.

1.3. Hàn Mặc Tử là một gương mặt xuất sắc của nền thơ Việt Nam thế kỷ XX.

Trong giai đoạn 1932 - 1945, hiếm có nhà thơ nào, chỉ trong một thời gian ngắn, đã

làm một hành trình sáng tạo thơ từ cổ điển, qua lãng mạn, đến tượng trưng, siêu

thực như Hàn Mặc Tử. Xét về kiểu sáng tác, thơ ông rất đa dạng. Nhưng dù đa dạng

thế nào, hoàn toàn có thể khẳng định phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử.

Nghiên cứu phong cách thơ của Hàn Mặc Tử, thực chất chúng ta đã góp phần vào

việc giải mã tác phẩm thơ ông, qua đó, thúc đẩy công việc nghiên cứu và giảng dạy

thơ Hàn Mặc Tử từ bậc phổ thông đến bậc đại học.

Đó là những lí do thôi thúc chúng tôi chọn đề tài Phong cách ngôn ngữ thơ

Hàn Mặc Tử để triển khai trong khuôn khổ một luận án tiến sĩ.

2

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án tập trung khảo sát, tìm hiểu để làm rõ phong cách ngôn ngữ thơ của Hàn

Mặc Tử trên các bình diện: vốn từ, một số trường từ vựng - ngữ nghĩa tiêu biểu, những

lựa chọn, kết hợp từ độc đáo, một số biện pháp tu từ nổi bật.

2.2. Phạm vi tư liệu khảo sát

Việc khảo sát sẽ được tiến hành trên nguồn tư liệu hiện có về thơ Hàn Mặc Tử.

Đó là các bài thơ xuất hiện trong tuyển tập Thơ mới 1932 - 1945 tác giả và tác

phẩm (Lại Nguyên Ân sưu tập và giới thiệu). Ngoài ra, chúng tôi còn khảo sát thơ

ông trong các tập: Hàn Mặc Tử - Tác phẩm, phê bình và tưởng niệm (Phan Cự Đệ),

Thơ Hàn Mặc Tử (Chế Lan Viên), Hàn Mặc Tử thơ và đời (Lữ Huy Nguyên), Hàn

Mặc Tử một đời thơ (Thi Long), Thơ Hàn Mặc Tử (Mạnh Linh).

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Khảo sát, phân tích về từ ngữ và các phép tu từ trong thơ Hàn Mặc Tử, luận án

xác lập những điểm cơ bản về phong cách ngôn ngữ thơ của tác giả, nhận diện

những giá trị cốt lõi và đánh giá những đóng góp của Hàn Mặc Tử cho thơ Việt

Nam giai đoạn 1932 - 1945, góp phần phục vụ việc nghiên cứu và giảng dạy thơ ông

từ bậc phổ thông đến bậc đại học.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng hợp kết quả nghiên cứu thơ Hàn Mặc Tử, làm rõ các khái niệm liên

quan, làm cơ sở lí luận cho luận án.

- Khảo sát vốn từ, cách lựa chọn, kết hợp từ ngữ, trường từ vựng - ngữ nghĩa, các

biện pháp tu từ trong thơ Hàn Mặc Tử, làm rõ các đặc điểm về cách dùng từ ngữ trong

thơ ông (có so sánh với ba nhà thơ cùng thời: Bích Khê, Xuân Diệu, Nguyễn Bính).

- Phân tích ngữ liệu, thấy được ý thức lựa chọn ngôn từ nghệ thuật của Hàn

Mặc Tử trong sáng tạo thơ, từ đó đưa ra một số kết luận về phong cách ngôn ngữ

thơ Hàn Mặc Tử.

4. Phương pháp nghiên cứu

Triển khai đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp miêu tả, phương pháp so

3

sánh, phương pháp phân tích tổng hợp, thủ pháp thống kê, thủ pháp hệ thống hóa,

thủ pháp phân tích tương quan.

5. Đóng góp của luận án

Thông qua việc khảo sát, phân tích, nghiên cứu cách sử dụng từ ngữ, các biện

pháp tu từ trong thơ Hàn Mặc Tử, luận án khái quát những nét cơ bản về phong cách

ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử; từ đó, góp thêm một góc nhìn, một cách đánh giá về thơ

của tác giả trong tương quan với các tác giả tiêu biểu khác của phong trào Thơ mới

1932 - 1945.

6. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung của luận án được

triển khai trong 3 chương:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết của đề tài

Chương 2: Phong cách ngôn ngữ Hàn Mặc Tử thể hiện ở cách sử dụng từ ngữ

Chương 3: Phong cách ngôn ngữ Hàn Mặc Tử thể hiện ở cách sử dụng các biện

pháp tu từ

4

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1. Tình hình nghiên cứu phong cách ngôn ngữ tác giả

Có thể nói, cho tới nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam chưa có nhiều công

trình nghiên cứu phong cách ngôn ngữ nói chung và phong cách ngôn ngữ tác giả nói

riêng. Quan điểm của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ nói chung và các nhà Việt ngữ

học về phong cách ngôn ngữ tác giả còn thiếu sự nhất trí, do vậy, hiện nay, vẫn chưa

có sự thống nhất về khái niệm phong cách ngôn ngữ tác giả.

1.1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu phong cách ngôn ngữ tác giả trên thế giới

Một trong những nhà khoa học tiên phong trong nghiên cứu phong cách học là

Ch. Bali. Có điều, Ch. Bali chỉ chú tâm nghiên cứu phong cách trong phạm vi các

phương tiện ngôn ngữ biểu cảm mà thôi. Tư tưởng này thể hiện trong cuốn Tu từ học

tiếng Pháp của ông. Khác với quan điểm của Bali, Leo Spitzer lại muốn khái quát

phong cách cá nhân từ chính các dữ kiện của tác phẩm như: tư tưởng, tình tiết, kết

cấu, đặc biệt là ngôn ngữ. Tiếp nối các thành tựu của những người tiên phong, các tác

giả như R.A. Budagov, V.V. Vinogradov, D. E. Rozental, P. I. Dameran, R. Levin,

S.Macus, P. Miclau, F. Guirand đều có những cống hiến, thúc đẩy sự phát triển việc

nghiên cứu phong cách ngôn ngữ tác giả.

1.1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu phong cách ngôn ngữ tác giả ở Việt Nam

Ở Việt Nam, đã có một số bài viết nhận diện phong cách ngôn ngữ Hồ Xuân

Hương, Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Nguyễn

Công Hoan, Nam Cao, Nguyễn Tuân... Tuy nhiên, những công trình dày dặn nghiên

cứu phong cách tác giả vẫn còn rất hiếm. Những phân tích, lí giải chủ yếu tập trung

vào khẳng định sức sáng tạo, nét độc đáo của từng tác phẩm, mà vẫn còn thiếu những

nhận định sâu về phong cách cá nhân.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử

Trong các nhà thơ của phong trào Thơ mới 1932 - 1945, Hàn Mặc Tử là tác giả

nhận được sự quan tâm đặc biệt của giới nghiên cứu. Bao quát hầu hết các bài viết về

ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử từ trước tới nay, chúng tôi thấy có mấy hướng chỉnh. Thứ

5

nhất là các ý kiến về đặc điểm phong cách thơ Hàn Mặc Tử (Trần Thanh Mại, Quách

Tấn, Hoài Thanh và Hoài Chân, Chế Lan Viên, Đặng Tiến, Đỗ Lai Thúy, Ngô Văn

Phú, Vương Trí Nhàn, Nguyễn Đăng Điệp, Chu Văn Sơn…). Thứ hai là các ý kiến về

đặc điểm ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử (Vũ Ngọc Phan, Phan Cự Đệ, Huỳnh Phan Anh,

Võ Long Tê, Lại Nguyên Ân, Phan Huy Dũng, Nguyễn Quân…). Bên cạnh đó, một

số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ cũng chọn vấn đề ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử làm

để tài nghiên cứu… Các bài viết và công trình đó đã được chúng tôi tham khảo để

tiến hành việc nghiên cứu đề tài của mình.

1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài

1.2.1. Một số vấn đề lí thuyết về phong cách ngôn ngữ

1.2.1.1. Phong cách và phong cách học

a. Phong cách

Xuất phát từ thuật ngữ slitos trong tiếng Hy Lạp cổ đại, suốt hơn 2500 năm, khái

niệm phong cách đã được giải thích bằng nhiều cách khác nhau. Để làm rõ thêm

những cách hiểu khác nhau về khái niệm phong cách, chúng tôi đã điểm qua quan

niệm của Phan Ngọc, Diệp Quang Ban, Nguyễn Thái Hòa, Nguyễn Thiện Giáp, Đỗ

Lai Thúy… Từ những quan niệm đã phân tích trên, chúng tôi rút ra những nét chính

yếu của khái niệm phong cách: Thứ nhất, phong cách bao giờ cũng gắn với một sản

phẩm ngôn ngữ cụ thể. Thứ hai, muốn đạt đến phong cách, sản phẩm ngôn ngữ phải

có những nét riêng, những dấu hiệu đặc trưng. Thứ ba, phong cách là kết quả của sự

lựa chọn đầy ý thức chứ hoàn toàn không phải là hiện tượng ngẫu nhiên. Thứ tư, khái

niệm phong cách bao gồm trong nó các nội dung: phong cách thời đại, phong cách

chức năng, phong cách tác giả.

b. Phong cách học

Điểm qua những kiến giải của các nhà khoa học từ trước đến nay, gạt bỏ những

khác biệt nhất định trong cách diễn đạt, ta có thể nêu ra một cách hiểu có tính thống

nhất về khái niệm. Phong cách học là một bộ phận của ngành ngôn ngữ học, nghiên

cứu những đặc điểm phong cách của sản phẩm ngôn ngữ qua ý thức lựa chọn của

chủ ngôn, thể hiện ở mọi phương tiện ngôn ngữ được sử dụng trong giao tiếp. Với sự

khái quát như vậy, phong cách học có nội hàm rất rộng, bao gồm cả phong cách chức

năng lẫn phong cách cá nhân, bao gồm mọi sản phẩm ngôn ngữ tồn tại dưới những

dạng thức khác nhau.

6

1.2.1.2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật

Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật là khái niệm chỉ một phong cách nằm trong hệ

thống phong cách chức năng (gồm: phong cách sinh hoạt, phong cách nghệ thuật, phong

cách báo chí, phong cách chính luận, phong cách khoa học, phong cách hành chính -

công vụ). Chúng tôi tán thành sự đối lập giữa ngôn ngữ nghệ thuật với ngôn ngữ phi

nghệ thuật ở các bình diện: đặc điểm của hệ thống tín hiệu, chức năng xã hội, tính hệ

thống, bình diện ngữ nghĩa, sự có mặt của các phương tiện ngôn ngữ, vai trò đối với

ngôn ngữ dân tộc để minh định nội hàm của khái niệm phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.

1.2.1.3. Phong cách ngôn ngữ cá nhân

Phong cách cá nhân là toàn bộ các yếu tố phong cách cơ bản có mặt ổn định

trong các tác phẩm của một tác giả nào đó, trong một giai đoạn sáng tạo nhất định hay

phổ biến ở tất cả quá trình sáng tạo nói chung của tác giả đó; đặc điểm các thủ pháp sử

dụng từ ngữ, các kết cấu v.v. đặc trưng cho ngôn ngữ nói hay viết của một cá nhân.

Phong cách ngôn ngữ cá nhân phải được xem xét ở các bình diện: Thứ nhất, phong cách

ngôn ngữ cá nhân phải biểu hiện ở chính văn bản. Thứ hai, những yếu tố ngôn ngữ ấy

phải toát ra những đặc điểm riêng, cá biệt, độc đáo, có giá trị thẩm mĩ. Thứ ba, phong

cách vừa có sự ổn định, vừa có sự biến đổi, đó là một hiện tượng động.

1.2.2. Một số vấn đề liên quan đến phong cách ngôn ngữ cá nhân

1.2.2.1. Biểu hiện phong cách cá nhân qua trường từ vựng - ngữ nghĩa trong văn bản

nghệ thuật

Trường từ vựng là khái niệm có mặt trong hầu hết các công trình từ vựng học.

Bản thân trường từ vựng có thể không khác biệt ở các nhà văn, nhà thơ, nhưng sự

hành chức của các từ được tập hợp trong trường của mỗi tác giả thì lại có những nét

độc đáo, khác biệt. Điều này tùy thuộc vào tư tưởng thẩm mĩ, nội dung tác phẩm,

cách sử dụng từ ngữ. Tóm lại, phân tích đặc điểm hành chức của từ ngữ trong trường,

ta sẽ nhận ra những nét phong cách của nhà văn.

1.2.2.2. Biểu hiện phong cách ngôn ngữ cá nhân nhìn từ hai trục ngôn ngữ

Trục ngang trong ngôn ngữ là trục thể hiện mối quan hệ kết nối các đơn vị

ngôn ngữ theo trật tự tuyến tính thành những đơn vị có cấu trúc lớn hơn để đi vào

hoạt động giao tiếp. Nhưng hoạt động ngôn ngữ, đặc biệt trong sáng tạo thơ, trục lựa

chọn (trục dọc) được quy chiếu trên trục kết hợp (trục ngang) - theo một luận điểm

7

nổi tiếng của R. Jakobson. Vì thế, khảo sát phong cách ngôn ngữ của một nhà thơ

phải đặc biệt chú ý cách thức sử dụng ngôn ngữ ở cả hai trục này.

1.2.3. Hàn Mặc Tử - cuộc đời và sự nghiệp thơ

Từ góc nhìn tiểu sử, trong thơ ca hiện đại Việt Nam, hiếm nhà thơ nào có

những trang đời đớn đau như Hàn Mặc Tử. Nhưng với hơn chục năm cầm bút, qua

những bút danh như Phong Trần, Lệ Thanh và cuối cùng là Hàn Mặc Tử, nhà thơ đã

để lại những tác phẩm: Lệ Thanh thi tập (gồm toàn bộ các bài thơ Đường luật), Gái

quê (1936, tập thơ duy nhất được xuất bản lúc tác giả chưa qua đời), Thơ Điên (hay

Đau Thương, thơ gồm ba tập: 1. Hương thơm; 2. Mật đắng; 3. Máu cuồng và hồn

điên - 1938), Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm Châu Duyên (thơ), Duyên kì

ngộ (kịch thơ - 1939), Quần tiên hội (kịch thơ, viết dở dang - 1940), Chơi giữa mùa

trăng (tập thơ - văn xuôi). Với chừng ấy tác phẩm, Hàn Mặc Tử đã thể hiện rất rõ

phong cách ngôn ngữ của mình, một phong cách vừa có tính thống nhất, vừa có sự biến đổi qua từng loại thơ, từng kiểu sáng tác, từng giai đoạn.

1.2.4. Quan niệm riêng về nhà thơ và sáng tạo thơ - yếu tố chi phối phong cách

ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử

Trong ý thức của Hàn Mặc Tử, thi nhân là những con người có những tố chất,

phẩm tính đặc biệt. Có lẽ không một tín đồ nào có quan niệm khác thường như Hàn

Mặc Tử. theo ông, chỉ có “loài thi sĩ” mới có khả năng khác thường trong việc cảm

nhận những vẻ đẹp của tạo vật và đấng tối cao, xứng đáng cất cao lời ca ngợi khen

quyền năng Thiên Chúa. Ông muốn tâm hồn nhà thơ phải luôn thanh sạch như đã gột

rửa để chịu ơn thiêng trong sáng tạo. Trong quan niệm của Hàn Mặc Tử về thơ, ta ít

nhiều đều bắt gặp nhãn quan ngôn ngữ của ông - qua sáng tạo thơ.

1.3. Tiểu kết chương 1

Ở chương 1, luận án đã tổng thuật những nghiên cứu về ngôn ngữ tác giả, về

thơ và ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử, và để xác lập cơ sở khoa học, luận án trình bày

một số khái niệm cơ bản: phong cách, phong cách học, phong cách nghệ thuật,

phong cách ngôn ngữ cá nhân. Những khái niệm trên đã được luận giải nhằm xây

dựng một bộ công cụ cần thiết cho việc khảo sát và xử lí tư liệu ở các chương sau.

Luận án cũng tính đến hai yếu tố chi phối rõ rệt phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc

Tử: sự trải nghiệm một cuộc sống đau thương và một quan niệm riêng về nhà thơ và

sáng tạo thơ. Từ đây, có thể thấy, phong cách ngôn ngữ hình thành một cách có quy

luật, trên một nhãn quan và thực tế sáng tác sinh động của tác giả.

8

Chương 2

PHONG CÁCH NGÔN NGỮ THƠ HÀN MẶC TỬ

THỂ HIỆN Ở CÁCH SỬ DỤNG TỪ NGỮ

2.1. Định hướng nghiên cứu và phạm vi khảo sát từ ngữ trong thơ Hàn Mặc Tử

để nhận diện phong cách ngôn ngữ của nhà thơ

Nhà văn, nhà thơ là những người phải có vốn từ phong phú, bởi vì, đó là một điều

kiện cần thiết để người nghệ sĩ có thể phản ánh muôn mặt đời sống bằng hình tượng

ngôn từ. Có thể những người viết văn xuôi, đặc biệt là tiểu thuyết cần vốn từ phong phú

hơn so với người làm thơ. Và ngay trong đội ngũ các nhà thơ, tùy kiểu sáng tác, đề tài,

cá tính sáng tạo, nhãn quan ngôn ngữ mà vốn từ của mỗi người lại có đặc điểm riêng.

Nghiên cứu vốn từ của tác giả, thao tác thống kê ngôn ngữ học cũng đều phải được sử

dụng để đưa ra các số liệu cụ thể, chính xác. Những nhận xét về đặc điểm vốn từ tác giả

bao giờ cũng phải được khái quát trên cơ sở số liệu thống kê đáng tin cậy.

2.2. Phong cách ngôn ngữ Hàn Mặc Tử biểu hiện qua một số trường từ vựng tiêu biểu

2.2.1. Vấn đề trường từ vựng - ngữ nghĩa

Bản thân từ ngữ trong một ngôn ngữ không bao giờ tự xếp thành trường. Do đó,

trường là kết quả nghiên cứu về từ vựng của các nhà khoa học. Trường, trong tư cách

là đối tượng của ngôn ngữ học chưa bao gồm vấn đề hành chức. Khi ngôn ngữ văn

chương trở thành đối tượng nghiên cứu, trường mới thực sự gắn với hành chức. Mỗi

trường từ vựng trong văn bản nghệ thuật là kết quả sự lựa chọn từ ngữ một cách sáng

tạo của nhà văn.

2.2.2. Trường từ vựng với vấn đề phong cách ngôn ngữ tác giả

2.2.2.1. Trường từ vựng trong ngôn ngữ văn học

Trường, trong tư cách là đối tượng của ngôn ngữ học chưa bao gồm vấn đề hành

chức. Khi ngôn ngữ văn chương trở thành đối tượng nghiên cứu, trường mới thực sự

gắn với hành chức. Trong sử dụng, từ có thể biến đổi và chuyển hoá những nét nghĩa

vốn có để cho phù hợp với các nhân tố cụ thể của từng hoạt động giao tiếp, để nhằm

đạt được hiệu quả giao tiếp tốt nhất. Từ trong sáng tạo nghệ thuật được sử dụng ra

sao và mang lại hiệu quả như thế nào còn tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố: đề tài, chủ

đề của tác phẩm, năng lực ngôn ngữ, vốn sống, phong cách viết của tác giả. Mỗi

trường từ vựng trong văn bản nghệ thuật là kết quả sự lựa chọn từ ngữ một cách sáng

9

tạo của nhà văn. Do đó, nghiên cứu phong cách ngôn ngữ tác giả, không thể bỏ qua

các trường từ vựng in đậm dấu ấn riêng về bản sắc, cá tính, giá trị nghệ thuật và công

phu sáng tạo của người nghệ sĩ.

2.2.2.2. Trường từ vựng với vấn đề phong cách ngôn ngữ tác giả

Phải xét ở phạm vi rộng, trường từ vựng mới là chỗ bộc lộ rõ phong cách ngôn

ngữ của nhà văn. Bởi vì, trường là tập hợp những đơn vị có cùng một nội dung hay

biểu đạt cùng một đối tượng, qua đó, có thể thấy được vốn từ ngữ, cái nhìn nghệ

thuật, cách sử dụng khác biệt của mỗi người viết. Các nhà văn, nhà thơ khác nhau đều

có thể có chung những trường từ vựng - ngữ nghĩa. Chẳng hạn, trường mùa xuân,

trường tình yêu, trường cô đơn không chỉ có ở “ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu, mà

còn rất phổ biến trong Thơ mới, xuất hiện trong các sáng tác của Nguyễn Bính, Huy

Cận, Hàn Mặc Tử, Bích Khê… Nhưng đi vào khảo sát, phân tích cụ thể, ngay trong

một trường, cách sử dụng từ ngữ ở các tác giả là không giống nhau. Đó chính là chỗ

biểu hiện phong cách.

2.2.3. Một số trường từ vựng thể hiện phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử

2.2.3.1. Trường tôn giáo - tâm linh

a) Kết quả khảo sát

Trong các sáng tác của Hàn Mặc Tử, từ vựng tôn giáo nằm rải rác ở 67/119 bài,

song các bài thuộc hai tập thơ hội tụ đậm nét màu sắc tôn giáo là Xuân như ý và

Thượng thanh khí. Qua khảo sát 119 bài thơ của Hàn Mặc Tử, chúng tôi thống kê

được 320 lượt từ thuộc trường từ vựng tôn giáo. Trong tương quan so sánh với các

nhà thơ khác, thơ Hàn Mặc Tử có tần số xuất hiện lượt từ tôn giáo cao nhất. Điều này

thể hiện rõ qua kết quả thống kê đối sánh ở bảng dưới đây:

Bảng 2.2: Trường từ vựng tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê,

Xuân Diệu và Nguyễn Bính

Nhà thơ

Tổng số bài khảo sát 119 82 90 88 Tổng số bài sử dụng 67 27 17 19 Tổng số lần sử dụng 320 84 22 52 Tỉ lệ bài sử dụng (%) 56.3 32.9 18.9 21.6 Tần suất xuất hiện trong bài 2.7 1.0 0.2 0.6 Hàn Mặc Tử Bích Khê Xuân Diệu Nguyễn Bính

10

Căn cứ vào tôn giáo, chúng tôi tiếp tục chia vốn từ chỉ tôn giáo trong thơ của

bốn nhà thơ được chọn khảo sát thành hai nhóm: Thiên Chúa giáo và Phật giáo.

Bảng 2.3: Tiểu trường từ vựng tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê,

Xuân Diệu và Nguyễn Bính phân theo loại tôn giáo

HMT BK XD NB

Tôn giáo Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ

lượt (%) lượt (%) lượt (%) lượt (%)

Thiên Chúa giáo 189 59 34 40 11 50 5 10

Phật giáo 131 41 50 60 11 50 47 90

320 100 84 100 22 100 52 100 Tổng

Kết quả thống kê ở bảng 2.3 cho thấy, số lượng lượt dùng cả hai nhóm tiểu trường

chỉ tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử hoàn toàn khác biệt so với ba nhà thơ còn lại.

b) Giá trị biểu hiện

Các từ thuộc trường này có thể quy về một số tiêu điểm sau đây: sự yêu kính

Thiên Chúa và Đức Mẹ Maria từ tấm lòng của một con chiên ngoan đạo; nhu cầu

giãi bày và ước nguyện giải thoát khỏi nỗi đau thực tại; tưởng tượng và hy vọng về

tương lai tốt đẹp; thứ tư, hướng con người tới chân - thiện - mĩ.

2.2.3.2. Trường tình yêu

a) Kết quả khảo sát

Trong 119 bài thơ của Hàn Mặc Tử được chúng tôi khảo sát, đến 98 bài thơ có

sử dụng từ thuộc trường từ vựng tình yêu (chiếm trên 82%), với 587 lượt sử dụng

(trung bình sử dụng gần 5 lượt/ bài). Về định lượng, cần có sự đối sánh giữa Hàn

Mặc Tử và một số nhà thơ cùng thời.

Bảng 2.6: Trường từ vựng tình yêu đôi lứa trong thơ Hàn Mặc Tử,

Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính

Nhà thơ Tổng số bài khảo sát

Hàn Mặc Tử Bích Khê Xuân Diệu Nguyễn Bính 119 82 90 88 Tổng số bài sử dụng 98 59 82 64 Tổng số lần sử dụng 587 268 630 543 Tỉ lệ bài sử dụng (%) 82.4 72.0 91.1 72.7 Tần suất xuất hiện trong bài 4.9 3.3 7.0 6.2

11

Ở bảng 2.6, chúng tôi nhận thấy, tỉ lệ bài sử dụng trong thơ Hàn Mặc Tử cao

hơn thơ Nguyễn Bính và thơ Bích Khê, chỉ thấp hơn thơ của “ông hoàng thơ tình”

Xuân Diệu mà thôi. Nếu xét bình quân số lần xuất hiện ở mỗi bài thì con số này ở thơ

Hàn Mặc Tử chỉ cao hơn Bích Khê. Mặc dù vậy, trung bình xuất hiện 5 lượt từ vựng

tình yêu trên một bài thơ cũng phản ánh mức độ sử dụng khá cao trường này trong

thơ Hàn Mặc Tử.

b) Giá trị biểu hiện

Trường tình yêu trong thơ Hàn Mặc Tử tập trung biểu hiện các nội dung: từ

khao khát yêu và được yêu đến yêu say đắm; tình yêu với nhiều buồn đau và chia li;

tình yêu thường được đề cập song hành với cái chết.

2.2.3.3. Trường thân xác con người

a) Kết quả khảo sát

Có thể nói, trường từ vựng chỉ thân xác trong thơ Hàn Mặc Tử rất phong phú

không thua kém bất kỳ một nhà thơ nào khác trong phong trào Thơ mới. Để làm rõ

điều đó, chúng tôi đã khảo sát từ ngữ chỉ thân xác con người ở thơ Hàn Mặc Tử trong

sự đối sánh với thơ Nguyễn Bính, Xuân Diệu và Bích Khê.

Bảng 2.8: Từ chỉ thân xác con người trong thơ Hàn Mặc Tử,

Bích Khê, Xuân Diệu, Nguyễn Bính

Nhà thơ

Tổng số lần sử dụng 307 339 306 248 Hàn Mặc Tử Bích Khê Xuân Diệu Nguyễn Bính Tổng số bài khảo sát 119 82 90 88 Tổng số bài sử dụng 87 59 74 53 Tỉ lệ bài sử dụng (%) 73.1 72.0 82.2 60.2 Tần suất xuất hiện trong bài 2.6 4.1 3.4 2.8

Chưa xét về mặt sử dụng, những con số ở bảng thông kê trên phần nào hé lộ việc

lựa chọn lớp từ ngữ chỉ thân xác con người trong sáng tác của bốn cây bút tiêu biểu

trong Thơ mới.

b) Giá trị biểu hiện

Trường thân xác trong thơ Hàn Mặc Tử toát ra các giá trị: Cảm hứng thần tiên

về thân xác thanh khiết, đẹp đẽ - công trình tuyệt vời của Đấng tối cao; trải nghiệm

đớn đau bằng tất cả các giác quan; thân xác khát khao sự sống.

12

2.3. Những lựa chọn và kết hợp từ ngữ độc đáo trong thơ Hàn Mặc Tử

2.3.1. Trục dọc trong ngôn ngữ và vấn đề lựa chọn từ ngữ trong thơ

Trong thơ, trục lựa chọn được quy chiếu trên trục kết hợp. R. Jakobson đã có

một phát hiện quan trọng, làm thay đổi các hướng nghiên cứu ngôn ngữ thơ về sau:

"chức năng của thi ca đem nguyên lí tương đương của trục tuyển lựa chiếu trên trục

kết hợp".

Trên trục dọc của ngôn ngữ, ở một vị trí cụ thể, có rất nhiều từ có thể đặt vào đó

để xác lập quan hệ với các đơn vị khác trong trục ngang. Tuy nhiên, trong số đó, chỉ

có một từ được xem là đắc địa. Vì thế, nghiên cứu hệ thống ngôn từ mà nhà thơ lựa

chọn sẽ giúp hiểu hơn về phong cách ngôn ngữ của chính nhà thơ.

2.3.2. Trục ngang trong ngôn ngữ và vấn đề kết hợp từ trong thơ

Trục ngang trong ngôn ngữ là trục thể hiện mối quan hệ kết nối các đơn vị ngôn

ngữ theo trật tự tuyến tính thành những đơn vị có cấu trúc lớn hơn để đi vào hoạt động

giao tiếp. Nhưng tuỳ theo ý đồ giao tiếp, người nghệ sĩ có thể sáng tạo ra các đơn vị

(từ, ngữ, câu) có cấu trúc “bất quy tắc”. Đó là những câu “đi chệch” ra khỏi quĩ đạo

của trật tự tuyến tính thông thường như câu đảo ngữ, câu tỉnh lược, câu tách biệt, câu

trùng điệp, câu vắt dòng, câu có sự kết hợp bất thường về nghĩa,... Việc sử dụng phổ

biến các kết cấu này đã đem lại những giá trị mới, có khả năng biểu hiện những nét

riêng của một phong cách thơ.

2.3.3. Dấu ấn riêng của Hàn Mặc Tử thể hiện ở sự lựa chọn và kết hợp từ

ngữ trong thơ

2.3.3.1. Lựa chọn từ ngữ thể hiện cái nhìn mĩ hóa đối tượng

Để đi tìm dấu ấn riêng của Hàn Mặc Tử, chúng tôi lựa chọn ra những từ mà nhà thơ

thường sử dụng lặp đi lặp lại nhiều lần trong một bài hay trong các bài khác nhau để

khảo sát số lần xuất hiện; đồng thời so sánh tần suất sử dụng các từ đó ở Hàn Mặc Tử

với ba nhà thơ khác: Bích Khê, Xuân Diệu, Nguyễn Bính. Kết quả thu được cho thấy,

trên trục lựa chọn, thơ Hàn Mặc Tử không có nhiều đổi mới trong việc sử dụng các từ

chỉ hình tượng nghệ thuật để truyền tải nỗi niềm, cảm xúc, chủ yếu vẫn là những sự

vật, hiện tượng vốn được sử dụng trong thơ ca truyền thống: phong, hoa, tuyết,

nguyệt,… Xét về mức độ sử dụng các từ này trên tổng số bài khảo sát ở các nhà thơ

thì Hàn Mặc Tử chỉ hơn các nhà thơ khác về tần suất sử dụng các từ: trăng, cười,

máu/ huyết, ánh sáng, niềm, nỗi.

13

2.3.3.2. Lựa chọn các từ ngữ làm định ngữ nghệ thuật

Cùng chỉ một đối tượng, tuy nhiên, việc hình dung, miêu tả nó như thế nào lại thường

phụ thuộc vào phong cách cá nhân của mỗi nhà thơ. Để làm sáng tỏ nhận định này, luận án

thống kê các kết hợp đi kèm với 30 từ/ 30 đối tượng được liệt kê ở mục 2.3.2.1. và minh hoạ

bằng các định ngữ nghệ thuật tiêu biểu của hai từ nắng và tơ. Kết quả thống kê cho thấy,

Hàn Mặc Tử sử dụng đa dạng cách kết hợp: nắng mai, nắng thơ, nắng tươi, nắng

thơm, nắng lao xao, nắng dịu, nắng vàng, nắng mới, nắng ửng, nắng cao, nắng

chang chang, nắng hồng đào, nắng hàng cau, nắng hường, nắng đời xưa, ánh nắng

vạn đời; trong khi đó, Bích Khê chỉ sử dụng: nắng vàng, nắng giàn, nắng thơm; Xuân

Diệu, Nguyễn Bính sử dụng đa dạng hơn Bích Khê nhưng so với Hàn Mặc Tử, cách

kết hợp này của hai nhà thơ vẫn còn khiêm tốn.

Có những kết hợp mà chỉ riêng Hàn Mặc Tử mới sử dụng: nắng thơ, nắng lao

xao, nắng hường, tơ nắng, tơ huyền… Bên cạnh những khác biệt kể trên có thể thấy

rằng giữa các nhà thơ cũng có sự lựa chọn trùng với nhau về từ ngữ kết hợp, đó là

những kết hợp từ phản ánh tên gọi của sự vật, hiện tượng trong thực tế đời sống, như:

tơ vàng; trăng vàng, hoa vàng, lá vàng, sao vàng; nắng vàng, nắng chang chang,

nắng mai,…

2.3.3.3. Lựa chọn từ phương ngữ miền Trung thay cho ngôn ngữ toàn dân

Trong thơ Hàn Mặc Tử, bên cạnh những bài thơ trau chuốt từng câu chữ, sử

dụng những từ ngữ “đắt” và “quái”, ta vẫn bắt gặp khá nhiều những câu thơ bình dị,

mộc mạc, gắn với ngôn ngữ đời thường của chính ông. Cái làm nên một phong cách

khác - một phong cách đời thường ấy, có thể nói phần lớn là nhờ cách ông đưa vào

thơ các từ ngữ thuộc phương ngữ miền Trung.

Hàn Mặc Tử rất ưa sử dụng các từ địa phương. Trong 78 từ chúng tôi thống kê

được, có những từ Hàn Mặc Tử sử dụng đi, sử dụng lại nhiều lần, như: chi (16 lần),

nường (13 lần), ngó (10 lần), van (9 lần), dầu (7 lần), vô (6 lần), bưa (4 lần), chấp (4

lần), chửa (4 lần), ưng (4 lần), mi (4 lần), mắc cỡ (4 lần), chắc (3 lần), đọt (3 lần), hộc

(3 lần), nư (3 lần), rọi (3 lần), mô (2 lần), rứa (2 lần)… Có nhiều từ được Hàn Mặc

Tử sử dụng như một sự ý thức, khiến thơ ông mang đậm màu sắc địa phương; tưởng

thô ráp nhưng hết sức gọt giũa, tinh tế trong cách sử dụng. Thông qua lớp từ này,

14

chúng ta càng nhận ra sự tự ý thức rất cao của tác giả về việc nâng tầm ngôn ngữ dân

tộc, tạo nên những ấn tượng nổi bật riêng có trong thơ Hàn Mặc Tử.

2.3.3.4. Lựa chọn các từ ngữ chỉ mức độ cao

So sánh với một số nhà thơ cùng thời về số lượng bài sử dụng từ chỉ cấp độ cao

được lựa chọn khảo sát: vô cùng, vô biên, vô số, muôn, vạn, đầy, kết quả cho thấy: cả

Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Xuân Diệu đều có tỉ lệ các bài sử dụng từ chỉ mức độ cao/

cực cấp chiếm trên 60%; riêng Nguyễn Bính chỉ có gần 50% các bài sử dụng các từ

trên. So với Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính thì Hàn Mặc Tử là người có số bài

thơ sử dụng từ vô cùng, vô biên, vô số nhiều hơn cả. Còn tỉ lệ số bài sử dụng muôn,

vạn, đầy ở thơ Hàn Mặc Tử đều thấp hơn Bích Khê và Xuân Diệu, chỉ cao hơn

Nguyễn Bính ở tỉ lệ sử dụng từ muôn.

Nhìn tổng thể, có thể đánh giá rằng Hàn Mặc Tử có nhiều đóng góp trong việc

cách tân thơ, đặc biệt là về mặt hình thức diễn đạt. Trên trục lựa chọn, ông đã tạo nên

một hệ từ ngữ có tính chất siêu thực, trừu tượng, vượt ra ngoài cách nói thông

thường. Nhiều câu chữ, ta phải đặt chúng trong bối cảnh khách quan và chủ quan mà

Hàn Mặc Tử sống thì mới có thể hiểu tường tận.

2.3.3.5. Đảo trật tự từ tạo ra những bất ngờ ngữ pháp

Trong ngôn ngữ nghệ thuật, vì mục đích nhấn mạnh và để thể hiện tốt dụng ý

của nhà thơ mà trật tự từ có thể bị đảo. Trong thơ Hàn Mặc Tử, nhà thơ sử dụng cả

hình thức đảo trật tự thành phần trong câu và thành tố trong cụm từ. Cả hai hình

thức đảo trật tự nói trên, không phải chỉ riêng Hàn Mặc Tử sử dụng thành công mà

nhiều nhà thơ khác cũng sử dụng và đem lại hiệu quả cao trong diễn đạt. Tuy nhiên,

có một điểm độc đáo ở Hàn Mặc Tử là ngay cả trong bản thân từ thì các yếu tố cấu

tạo từ cũng được ông tách ra và đảo trật tự lại.

2.3.3.6. Mở rộng phổ kết hợp

Mở rộng phổ kết hợp là hình thức lựa chọn những từ có sự gần gũi về mặt nghĩa

để thay thế cho những từ vốn quen được sử dụng trong cách kết hợp thông thường

nhằm mục đích tăng sức biểu cảm, gợi hình và gây ấn tượng mạnh. Có lẽ chính biện

pháp này đã giúp ông truyền tải sống động những tư tưởng lạ, những ham muốn tột

đích. Trong nội dung này, chúng tôi phân thành hai loại kết hợp: cách kết hợp tạo

từ/ ngữ mới và cách kết hợp tạo sự bất thường về nghĩa.

15

Kết quả thống kê cho thấy, có 21 cách kết hợp lạ trong thơ Hàn Mặc Tử. Sau

đây, xin dẫn dụ 2 trường hợp:

Từ được Kết hợp thông thường Kết hợp lạ trong thơ HMT kết hợp

Làm thơ, ra tập thơ, đề ọc thơ, thơ phép tắc, ướp lời thơ, ngậm kín thơ thơ,… thơ đầy miệng,…

Ông trăng, ánh trăng, Con trăng, vũng trăng, áo trăng, vải trăng,

trăng thanh, trăng sáng, thơ trăng, tơ trăng, mùa trăng, hương trăng,

trăng tỏ, trăng rằm, lá trăng, bông trăng, màu trăng, mùi trăng, trăng trăng soi, trăng lên, xác trăng, niềm trăng, trăng nằm, trăng quì,

trăng vàng, trăng sao,… trăng chạy, trăng choáng váng, trăng rơi,

trăng mơ, trăng xanh, trăng cổ độ,…

Như vậy, thơ Hàn Mặc Tử có những yếu tố hết sức độc đáo, có khi, gây khó hiểu

cho người tiếp nhận (vừa “lạ” vừa “quen”). Người đọc thường ghi nhớ và ấn tượng sâu

sắc bởi cách lựa chọn và kết hợp từ độc đáo, giàu khả năng biểu đạt trong thơ ông. Khảo

sát thơ ông, ta càng cảm nhận rõ hơn chiều sâu của niềm đau đớn về thể xác và tinh thần,

sự ham muốn sống, niềm khát khao yêu,… ẩn giấu bên trong lớp vỏ ngôn từ.

2.4. Tiểu kết chương 2

Với Hàn Mặc Tử, có thể nhận thấy: các từ ngữ trong thơ ông có ba trường nghĩa

tiêu biểu, đó là trường tôn giáo - tâm linh, trường tình yêu và trường thân xác con

người. Các kết quả phân tích định lượng và định tính ở từng trường vừa nêu đều cho

thấy, cách dùng của Hàn Mặc Tử có những nét khác biệt với nhiều nhà thơ cùng thời.

Cùng với dùng từ trong các trường nghĩa, việc lựa chọn từ ngữ độc đáo theo cách của

nhà thơ nhằm thể hiện cái nhìn mĩ hóa đối tượng, dùng các từ đặc hữu của phương

ngữ miền Trung, lựa chọn những từ ngữ chỉ cực cấp đã đem lại cho thơ một hình thức

diễn đạt đậm dấu ấn cá nhân: vừa thực tại, vừa mơ hồ, siêu thực, vừa sâu kín và trào

lộng. Hàn Mặc Tử thường dùng những cách kết hợp từ mới lạ, đi chênh ra ngoài quy

phạm tiếng Việt như đảo trật tự, mở rộng phổ kết hợp đã đem đến cho ngôn ngữ thơ

một khả năng vô tận trong việc chuyển tải những cảm xúc tinh tế, những tâm trạng bí

ẩn, những tình cảm bi thương của thế giới tâm hồn con người, qua đó, thể hiện khá rõ

dấu ấn phong cách ngôn ngữ tác giả Hàn Mặc Tử.

16

Chương 3

PHONG CÁCH NGÔN NGỮ THƠ HÀN MẶC TỬ

THỂ HIỆN Ở CÁCH SỬ DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ

3.1. Vai trò của tu từ trong sáng tạo thơ và trong sự biểu hiện phong cách

ngôn ngữ cá nhân

3.1.1. Vai trò của tu từ trong sáng tạo thơ

Trong sáng tạo thơ, tu từ đóng một vai trò hết sức quan trọng. Cái làm nên sự kì

diệu của ngôn ngữ, đặc biệt là của văn bản thơ chính là các phương tiện và biện pháp

tu từ. Là thế giới nghệ thuật ngôn từ, văn học khi sử dụng các phương tiện và biện

pháp tu từ đã biến ngôn ngữ giao tiếp tự nhiên thành ngôn ngữ nghệ thuật và những

tín hiệu thẩm mĩ, có khả năng truyền đạt tư tưởng, tình cảm phong phú, phức tạp, tinh

tế. Với một văn bản nghệ thuật, người ta có thể sử dụng một hoặc nhiều biện pháp tu

từ khác nhau và thậm chí có thể khai thác tối đa sức mạnh nghệ thuật của một vài

biện pháp tu từ nào đó, tạo ra những hình ảnh cụ thể, sinh động, gợi cảm, làm cho ý

nghĩa của văn bản trở nên sâu xa hơn và dễ làm rung động lòng người hơn.

3.1.2. Vai trò của tu từ trong sự biểu hiện phong cách ngôn ngữ cá nhân

Phong cách tác giả là kết tinh những tinh hoa nghệ thuật trong trong những

khuynh hướng, trào lưu gắn liền với tên tuổi của cá nhân. Nó được hình thành từ sự

sáng tạo, tức là tác giả bao giờ cũng phải đứng trên những tinh hoa nghệ thuật của

thời đại để sáng tạo ra một sản phẩm nghệ thuật ở trình độ cao hơn. Tuy nhiên, dù

đứng trên bất cứ sự sáng tạo nào, phong cách ngôn ngữ tác giả cũng phụ thuộc vào

hai nhân tố: nhân tố ngoài ngôn ngữ (yếu tố tâm lí, xã hội, văn hóa…) và nhân tố

ngôn ngữ (các phương tiện cấu thành ngôn ngữ như: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp…).

Các yếu tố này đan chéo nhau tạo thành các phương tiện biểu hiện. Phong cách luôn

mang tính đặc trưng riêng cho từng tác giả, trường phái, thời đại. Với tư cách là một

công cụ biểu đạt, tu từ cũng là một loại biện pháp nghệ thuật, là tài sản chung của

toàn xã hội như những phương tiện ngôn ngữ khác. Tuy nhiên, mỗi người, mỗi nhà

văn, nhà thơ, khi sử dụng, sẽ có những sự biểu đạt riêng khác nhau, có khi là cách nói

tỉa tót, hoa mĩ, có khi rất bình thường, dung dị,… được lặp đi lặp lại sẽ tạo nên phong

cách riêng biệt, độc đáo riêng có.

17

3.2. Một số biện pháp tu từ thể hiện dấu ấn phong cách cá nhân trong thơ

Hàn Mặc Tử

3.2.1. Biện pháp so sánh

Bảng thống kê sau đây phản ánh về mặt định lượng biện pháp tu từ so sánh

trong thơ Hàn Mặc Tử bên cạnh các nhà thơ cùng thời.

Bảng 3.1: Biện pháp so sánh trong thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê,

Xuân Diệu và Nguyễn Bính

Tổng số Tổng số Tổng số Tần suất Tỉ lệ bài sử Nhà thơ bài khảo bài sử xuất hiện lần sử dụng (%) sát dụng trong bài dụng

Hàn Mặc Tử 119 74 62.2 1.83 218

Bích Khê 82 49 59.8 2.07 170

Xuân Diệu 90 63 70.0 2.10 189

Nguyễn Bính 88 51 58.0 1.15 101

Qua bảng 3.1 trên, có thể thấy, tỉ lệ bài sử dụng biện pháp so sánh trong thơ Hàn

Mặc Tử khá cao: có 74 trên tổng số 119 bài khảo sát sử dụng biện pháp này, chiếm

62.2%. So với Xuân Diệu thì tỉ lệ này thấp hơn, còn so với Bích Khê và Nguyễn Bính

thì tỉ lệ này cao hơn 3-4%.

Biện pháp so sánh là biện pháp tu từ được Hàn Mặc Tử sử dụng nhiều trong các

sáng tác thơ của mình. Nhà thơ thường sử dụng cấu trúc so sánh gồm đầy đủ 4 yếu tố;

sử dụng từ so sánh đa dạng; yếu tố bị/ được so sánh thường thuộc nhóm đối tượng chỉ

thời gian, thơ và nhạc; còn yếu tố so sánh thì rất phong phú, thuộc nhiều đối tượng

khác nhau. Trong thơ Hàn Mặc Tử, ta thấy có sự khác biệt bất ngờ giữa yếu tố bị/

được so sánh với yếu tố so sánh, điều này tạo nên cái phi lí tính của cấu trúc so sánh

tu từ. Chính nhờ đó mà hiệu quả diễn đạt, hiệu quả thẩm mĩ được nảy sinh. Tài nghệ

của Hàn Mặc Tử chính là ở chỗ phát hiện chính xác những nét tương đồng bất ngờ

giữa hai đối tượng khác loại, điều mà người khác không để ý hoặc không nhận thấy

để đưa vào cấu trúc so sánh. Những đặc điểm sử dụng biện pháp so sánh nói trên đã

làm nên nét đặc trưng trong phong cách Hàn Mặc Tử.

18

3.2.2. Biện pháp nhân hoá

Nhận thấy thơ Hàn Mặc Tử đan xen khá nhiều hình ảnh nhân hoá, chúng tôi đi

vào thống kê số lượt sử dụng nhân hoá và số bài sử dụng trên tổng số bài khảo sát.

Đồng thời, để khách quan trong việc nhận định và đánh giá, luận án còn tiến hành

thống kê thơ của ba tác giả cùng thời với Hàn Mặc Tử là Bích Khê, Xuân Diệu và

Nguyễn Bính. Kết quả được tổng hợp lại trong bảng sau:

Bảng 3.6: Biện pháp nhân hoá trong thơ Hàn Mặc Tử,

Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính

Tổng số Tổng số Tổng số Tỉ lệ bài Tần suất

Tác giả bài khảo bài sử lần sử sử dụng xuất hiện

dụng dụng trong bài sát (%)

119 75 199 63.0 1.7 Hàn Mặc Tử

82 37 114 45.1 1.4 Bích Khê

90 60 242 66.7 2.7 Xuân Diệu

88 12 17 13.6 0.2 Nguyễn Bính

Từ bảng kết quả bảng 3.6, có thể thấy:

Tỉ lệ bài sử dụng biện pháp nhân hoá trong thơ Hàn Mặc Tử (63%) cao hơn

nhiều so với Bích Khê (45.1%) và Nguyễn Bính (13.6%); và gần tương đương với

Xuân Diệu (66.7%).

Để làm rõ hiệu quả nghệ thuật của phép nhân hóa trong thơ Hàn Mặc Tử, luận

án đã tiến hành phân tích các kiểu nhân hóa. Đó là (1) Sử dụng các từ ngữ chỉ tính chất,

hoạt động của con người để chỉ hoạt động, tính chất của vật; (2) Sử dụng các từ ngữ

thường gọi con người dùng để gọi vật; và (3) Dùng các từ ngữ xưng hô với vật như với

con người. Mục đích cuối cùng của Hàn Mặc tử là để cho các đối tượng miêu tả có tính

chất vô tri mang những đặc điểm dáng nét, tính cách, tâm hồn con người, thể hiện một cái

nhìn có tính chủ quan, áp đặt, phù hợp với mĩ cảm của mình.

3.2.3. Biện pháp điệp ngữ

Bên cạnh các biện pháp tu từ nêu trên, chúng tôi nhận thấy thơ Hàn Mặc Tử

còn thường xuyên sử dụng điệp ngữ như một biện pháp tu từ quan trọng nhằm gia

tăng giá trị biểu cảm cho các tác phẩm. Chúng tôi tiến hành thống kê số lượt sử

19

dụng điệp ngữ và số bài sử dụng trên tổng số bài khảo sát. Đồng thời, để khách quan

trong việc nhận định và đánh giá, luận án còn tiến hành thống kê thơ của ba nhà thơ

được chọn khảo sát là Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính. Kết quả được tổng

hợp lại trong bảng sau:

Bảng 3.10: Biện pháp điệp trong thơ Hàn Mặc Tử,

Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính

Tổng số Tổng số Tổng số Tỉ lệ bài Tần suất

Tác giả bài khảo bài sử lần sử sử dụng xuất hiện

dụng dụng trong bài sát (%)

119 77 215 64.7 1.81 Hàn Mặc Tử

82 60 266 73.2 3.24 Bích Khê

90 61 137 67.8 1.52 Xuân Diệu

88 58 163 65.9 1.85 Nguyễn Bính

Kết quả thống kê chỉ ra rằng, điệp là một biện pháp được Hàn Mặc Tử sử dụng

nhiều trong các sáng tác thơ của mình, song xét trong mối tương quan so sánh với ba

nhà thơ Bích Khê, Xuân Diệu và Nguyễn Bính thì thơ Hàn Mặc Tử không nổi trội về

mặt định lượng. Tuy nhiên, qua sử dụng biện pháp điệp ngữ, Hàn Mặc Tử đã để lại

dấu ấn không thể trộn lẫn, làm nên phong cách riêng biệt qua những câu thơ “có dấu

vân tay” của Hàn Mặc Tử.

Ở phép tu từ này, sử dụng trong thơ Hàn Mặc Tử thể hiện qua các kiểu điệp: (1)

điệp ngữ nối tiếp (điệp nối tiếp từ, điệp nối tiếp ngữ, điệp nối tiếp câu); (2) điệp ngữ

cách quãng (cách bởi một từ, cách bởi một/ nhiều cụm từ, cách bởi một/ nhiều câu, cách

một/ một vài khổ); (3) điệp ngữ vòng tròn (chuyển tiếp) - một dạng điệp ngữ mà chữ

cuối của câu trước được láy lại thành chữ đầu câu sau và cứ thế, làm cho câu văn, câu

thơ liền nhau như đợt sóng. Hàn Mặc Tử không phải là nhà thơ sử dụng biện pháp điệp

nhiều nhất, với tấn số sử dụng cao nhất, nhưng cách mà ông vận dụng biện pháp điệp

vào trong các sáng tác của mình thì khó trộn lẫn với ai. Đó là cái tài của một con người

luôn có ý thức cao trong việc cách tân và đổi mới hình thức thi ca.

20

3.3. Tiểu kết chương 3

Trong chương 3, luận án đã tập trung khảo sát một số phương tiện và biện pháp

tu từ trong thơ Hàn Mặc Tử, đối sánh với các nhà thơ cùng thời là Nguyễn Bính,

Xuân Diệu và Bích Khê. Kết quả, mỗi biện pháp tu từ được khảo sát đều dễ dàng

nhận ra những cách sử dụng riêng biệt, độc đáo, sáng tạo và cách tân của Hàn Mặc

Tử. Qua các biện pháp tu từ như điệp ngữ, nhân hoá và so sánh tu từ, Hàn Mặc Tử đã

kiến tạo được cõi thơ cho riêng mình với một ngôn ngữ thơ giàu màu sắc cá biệt hóa.

21

KẾT LUẬN

Thực hiện các nhiệm vụ đặt ra ở đề tài Phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc

Tử, chúng tôi rút ra một số kết luận chính sau đây:

1. Trong nên thơ Việt thế kỷ XX, Hàn Mặc Tử là một nhà thơ lớn. Nhiều bình

diện tác phẩm của ông, trong đó có ngôn ngữ đã được khảo sát, nghiên cứu từ nhiều

góc độ khác nhau. Tuy nhiên, đây là công trình đầu tiên đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu

phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử.

Cho đến nay, những vấn đề lí thuyết về phong cách ngôn ngữ tác giả chưa phải

đã được minh định một cách rõ ràng. Do đó, để có cơ sở lí luận thực hiện đề tài, ở

chương 1 của luận án, chúng tôi dựa vào những ý kiến riêng lẻ xuất hiện ở nhiều công

trình phong cách học trong và ngoài nước, cố gắng tổng thuật, phân tích, nhận xét và

tổng hợp để rút ra một hệ thống luận điểm có giá trị thao tác. Những vấn đề mà chúng

tôi luận giải được tập hợp theo một trật tự có tầng bậc, có mối quan hệ chặt chẽ, thể

hiện qua hệ thống khái niệm: phong cách, phong cách học, phong cách nghệ thuật,

phong cách ngôn ngữ cá nhân. Với tư cách là một khái niệm then chốt, phong cách

ngôn ngữ cá nhân được luận án soi tỏ từ nhiều phía, trên nhiều tương quan. Theo đó,

phong cách ngôn ngữ cá nhân thể hiện ở màu sắc riêng, giọng điệu riêng và cách thức

riêng trong sử dụng ngôn từ. Đó là một vấn đề thuộc phạm trù chất, nghĩa là, những

dấu hiệu về định lượng (qua các số liệu thống kê, có tính tỉ lệ, tần số) phải toát ra

những ý nghĩa có thể nhận biết thực chứng và phân tích được. Một phong cách cá

nhân chỉ thực sự được xác nhận khi nó biểu hiện sự kết tinh của những giá trị (giá trị

thẩm mĩ, tính độc đáo của cấu trúc, dấu ấn đậm nét của cá thể,…). Hơn nữa, phong

cách cá nhân là một hiện tượng động, có quá trình hình thành, biến đổi theo thời gian,

phụ thuộc vào ý đồ sáng tạo, những lựa chọn khác nhau của nhà văn về hình thức

biểu đạt. Từ góc nhìn đó, chúng tôi nhận thấy, Hàn Mặc Tử thực sự thể hiện phong

cách ngôn ngữ cá nhân rõ nét trong thơ, rất đáng được khảo sát nghiên cứu kĩ lưỡng.

2. Để làm nổi rõ những điểm cơ bản về phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử,

luận án khảo sát trên tư liệu gồm 119 bài thơ được tham chiếu từ nhiều nguồn hiện

có. Luận án sử dụng nhiều phương pháp và thủ pháp nghiên cứu hiện đại, trong đó,

22

phương pháp miêu tả và phương pháp so sánh đối chiếu cùng với các thủ pháp thống

kê, phân loại và hệ thống, phân tích văn cảnh được sử dụng xuyên suốt các chương.

Ở mỗi nét phong cách ngôn ngữ Hàn Mặc Tử, ngoài việc miêu tả, phân tích và lí giải

tư liệu thống kê các đơn vị ngôn từ trong thơ Hàn Mặc Tử một cách hệ thống, luận án

còn đối sánh với các tác giả cùng thời là Nguyễn Bính, Xuân Diệu và Bích Khê. Để

khái quát nên phong cách ngôn ngữ tác giả Hàn Mặc Tử - một phong cách ngôn ngữ

thuộc phạm trù nghệ thuật - chúng tôi đã cố gắng kết hợp giữa phân tích ngôn ngữ

học và đánh giá giá trị thẩm mĩ thông qua sự cảm nhận của cá nhân. Mặc dầu vậy,

chúng tôi luôn triệt để tuân thủ các nguyên tắc nghiên cứu ngôn ngữ học để những kết

luận được rút ra có được tính khách quan, khoa học.

3. Thơ Hàn Mặc Tử là nỗi niềm nhân thế khúc xạ qua nỗi đau riêng của nhà thơ.

Ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử vừa dung dị, tinh tế, vừa phức điệu, siêu thực, siêu linh

“kinh dị”. Với một phạm vi nghiên cứu được xác định, luận án đã làm rõ phong cách

ngôn ngữ cá nhân Hàn Mặc Tử biểu hiện ở cách dùng từ ngữ và các biện pháp tu từ

tiêu biểu.

3.1. “Dấu vân tay” của Hàn Mặc Tử thể hiện trước hết ở cách sử dụng từ ngữ

trong một số trường nghĩa. Có ba trường nghĩa xuất hiện như những tín hiệu thẩm mĩ

là trường tôn giáo - tâm linh, trường tình yêu và trường thân xác con người. Mỗi

trường đều là kết quả của sự lựa chọn và sử dụng từ ngữ một cách sáng tạo, toát lên

giá trị nghệ thuật cao, in đậm cá tính sáng tạo của Hàn Mặc Tử. Các từ trong trường

nghĩa tôn giáo thể hiện miền trú ẩn thiết cốt cho cõi linh hồn thống khổ triền miên

của nhà thơ, từ đó tạo nên một nguồn thơ tinh khôi, thanh khiết và sáng láng. Còn các

từ trong trường tình yêu và trường thân xác bộc lộ niềm khao khát yêu đương say

đắm, đê mê và một lòng khát sống mãnh liệt. Với Hàn Mặc Tử, không chỉ các từ biểu

hiện các cung bậc tình yêu mà ngay cả cái thân xác đau đớn, rã rời cũng là một loại

tín hiệu thẩm mĩ. Bản năng và khát vọng sống hoá thân thành cảm hứng sáng tạo thi

ca, với Hàn Mặc Tử, hồn - xác có sự hài hoà đẹp đẽ nhất, nên thơ nhất. Bên cạnh

những trường nghĩa nổi bật, in đậm cá tính sáng tạo, việc lựa chọn từ ngữ độc đáo để

tạo nên các hình tượng có màu sắc siêu thực, dùng các từ đặc hữu của phương ngữ

miền Trung, lựa chọn những từ ngữ chỉ cực cấp… đã đem lại cho thơ một hình thức

23

biểu đạt đậm dấu ấn cá nhân: vừa cụ thể, cảm tính, vừa mơ hồ, siêu thực. Mặt khác,

Hàn Mặc Tử thường dùng những cách kết hợp từ mới lạ, tạo ra hiện tượng lệch chuẩn

như đảo trật tự, mở rộng phổ kết hợp đã đem đến cho ngôn ngữ thơ một khả năng vô

tận trong việc chuyển tải những cảm xúc tinh tế, những tâm trạng bí ẩn, những tình

cảm bi thương của thế giới tâm hồn con người.

3.2. Trong thơ, Hàn Mặc Tử đã để lại dấu ấn phong cách ngôn ngữ qua các

biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá và điệp ngữ. Ở biện pháp so sánh, Hàn Mặc Tử chủ

yếu sử dụng ba kiểu cấu trúc so sánh: kiểu đủ bốn yếu tố, kiểu vắng yếu tố cơ sở so

sánh và kiểu vắng cả cơ sở so sánh và từ so sánh; trong đó, sử dụng nhiều nhất kiểu

đủ bốn yếu tố. Biện pháp so sánh của Hàn Mặc Tử đem lại những liên tưởng mới lạ,

đặc dị và bất ngờ. Qua phép so sánh, Hàn Mặc Tử đã phát hiện chính xác đến bất ngờ

những nét tương đồng giữa các đối tượng không đồng loại, tạo thành những thi ảnh

mới lạ, ám gợi người đọc bởi những liên tưởng vừa chính xác, vừa mơ hồ. Biện pháp

nhân hoá trong thơ Hàn Mặc Tử chủ yếu có ba kiểu loại: (1) Dùng các từ ngữ chỉ tính

chất, hoạt động của con người để chỉ hoạt động, tính chất của vật; (2) Gọi sự vật bằng

những từ chỉ người; (3) Xưng hô với vật như con người; trong đó, kiểu loại (1) xuất

hiện nhiều hơn cả. Hàn Mặc Tử chủ yếu sử dụng các sự vật trăng, gió, xuân làm hình

ảnh nhân hoá nhằm diễn tả tâm trạng rã rời, gửi gắm niềm tâm sự bi ai, ảo não của

mình. Các hình ảnh nhân hoá của Hàn Mặc Tử hướng đến biểu đạt nỗi buồn thương,

xót xa, khắc khoải như cứa vào tâm can người đọc. Biện pháp điệp tuy không được

Hàn Mặc Tử sử dụng nhiều, nhưng vẫn có tác dụng làm nổi rõ cá tính ngôn ngữ thơ

của tác giả. Hàn Mặc Tử chủ yếu dùng ba kiểu điệp gồm điệp nối tiếp, điệp cách

quãng và điệp vòng tròn; trong đó, kiểu điệp cách quãng xuất hiện nhiều hơn cả.

Cách tổ chức cấu trúc điệp ngữ trong thơ Hàn Mặc Tử có nhiều nét độc đáo, riêng

biệt, giàu nhạc tính, đem lại sự cách tân hình thức diễn đạt của ngôn ngữ thi ca, khơi

gợi nhiều tầng nghĩa sâu sắc.

4. Việc xác định các đặc điểm phong cách ngôn ngữ tác giả đã góp phần vào

việc giải mã tác phẩm thơ của Hàn Mặc Tử, qua đó, thúc đẩy công việc nghiên cứu

và giảng dạy thơ ông từ bậc phổ thông đến bậc đại học. Hơn thế, từ những khái quát

về phong cách ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử, chúng ta có thêm kinh nghiệm, điều kiện

24

để tiếp cận ngôn ngữ thơ của các tác giả khác trong phong trào Thơ mới 1932 - 1945

nói riêng, các nhà thơ đương đại nói chung. Dĩ nhiên, phong cách ngôn ngữ thơ Hàn

Mặc Tử vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu theo hướng sâu hơn, rộng hơn từ các bình

diện ngữ âm và ngữ pháp. Chúng tôi sẽ tiếp tục công việc này trong một chuyên luận

khi điều kiện cho phép.

25

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

1. Nguyễn Thị Thanh Đức (2008), “Nhóm tính từ biểu thị không gian trong thơ

Hàn Mặc Tử”, Kỷ yếu Hội thảo Ngữ học trẻ, H.

2. Nguyễn Thị Thanh Đức (2015), “Lí giải một số từ ngữ chỉ không gian trong

thơ Hàn Mặc Tử”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 7, H.

3. Đặng Lưu, Nguyễn Thị Thanh Đức (2017), “Trường từ vựng với vấn đề phong

cách ngôn ngữ tác giả”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Ngôn ngữ ở Việt Nam - hội

nhập và phát triển, H.

4. Nguyễn Thị Thanh Đức (2019), “Trường từ vựng chỉ thân xác trong thơ Hàn

Mặc Tử”, Kỷ yếu Hội thảo Ngữ học toàn quốc, Nxb Dân trí, H.

5. Nguyễn Thị Thanh Đức (2020), “Biện pháp so sánh tu từ trong thơ Hàn Mặc

Tử”, Tạp chí khoa học Đại học Vinh, số 2B/2020, Nghệ An.

6. Nguyễn Thị Thanh Đức (2020), “Dấu ấn phong cách Hàn Mặc Tử qua cách sử

dụng điệp ngữ trong thơ”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 10, H.

7. Nguyễn Thị Thanh Đức (2020), “Hệ thống từ ngữ thuộc trường tôn giáo trong

thơ Hàn Mặc Tử”, Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư, số 6, H.