intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt luận án Tiến sĩ Quản trị nhân lực: Tính dễ bị tổn thương và kết quả sinh kế trong bối cảnh xâm nhập mặn vùng đồng bằng Sông Cửu Long

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

29
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận án nhằm đánh giá mức độ dễ bị tổn thương sinh kế trong bối cảnh xâm nhập mặn vùng đồng bằng Sông Cửu Long nhằm chỉ ra khu vực nào, đối tượng nào dễ bị tổn thương hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt luận án Tiến sĩ Quản trị nhân lực: Tính dễ bị tổn thương và kết quả sinh kế trong bối cảnh xâm nhập mặn vùng đồng bằng Sông Cửu Long

  1. CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN --------------------------------- Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Vũ Hoàng Ngân HOÀNG THỊ HUỆ Phản biện 1: TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG VÀ KẾT QUẢ SINH KẾ Phản biện 2: TRONG BỐI CẢNH XÂM NHẬP MẶN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Phản biện 3: Chuyên ngành: Kinh tế lao động Mã số: 9340404 Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm Luận án cấp Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Vào hồi:….. giờ, ngày …… tháng ……. năm 2020 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Có thể tìm hiểu Luận án tại - Thư viện Quốc gia - Thư viện Trường Đại học Kinh tế Quốc dân HÀ NỘI – 2020
  2. 1 2 PHẦN MỞ ĐẦU khu vực trên thế giới dễ bị tổn thương nhất với biến đổi khí hậu (Nguyen và cộng sự, 2019) và hầu hết các nghiên cứu đều cho rằng xâm nhập mặn là một trong những vấn đề lớn ở ĐBSCL, 1. Lý do chọn đề tài nó có xu hướng trở lên trầm trọng hơn trong tương lai do mực nước biển dâng, lưu lượng từ Xây dựng chỉ số dễ bị tổn thương sinh kế được cho là cần thiết để phân loại mức độ dễ thượng nguồn suy giảm (Trần Quốc Đạt và cộng sự, 2012; Trần Hồng Thái và cộng sự, bị tổn thương cho mỗi quốc gia, khu vực và cộng đồng. Các chỉ số này đóng vai trò là cơ sở 2014). Điều này tạo nên nguy cơ là sản lượng lúa của khu vực sẽ giảm đi ít nhất một nửa và cho các nỗ lực can thiệp trực tiếp đến các khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất (Alam, 2017; Việt Nam có thể sẽ là quốc gia không có lúa xuất khẩu (Trần Quốc Đạt và cộng sự, 2012). Bhuiyan và cộng sự, 2017; Jacobson và cộng sự, 2018). Khẳng định lại điều này, Perch Mối đe doạ an ninh lương thực, hiện tượng suy giảm nguồn tài nguyên thiên nhiên, thu hẹp (2011) cho thấy các chính sách thích ứng (như kế hoạch hành động thích ứng quốc gia) diện tích canh tác dẫn đến sinh kế của người dân ngày càng bấp bênh… đó là những thách được xây dựng mà không xem xét sinh kế của các nhóm dễ bị tổn thương thì khó có thể thức rất lớn của ĐBSCL khi ứng phó với xâm nhập mặn để phát triển kinh tế - xã hội. thành công. Do vậy, đã có nhiều phương pháp đánh giá tính dễ bị tổn thương của sinh kế. Hiện nay, đã có nhiều công trình, dự án nghiên cứu về sinh kế bền vững, đánh giá mức Trong đó, phương pháp đánh giá chỉ số dễ bị tổn thương sinh kế (LVI – Livelihood độ dễ bị tổn thương vùng ĐBSCL (Bộ Khoa học và Công nghệ, 2016; Nguyễn Thanh Bình, Vulnerability Index) được đề xuất bởi Hahn và cộng sự (2009) đã được nhiều học giả sử 2012; Trần Hồng Thái và cộng sự, 2014; ADB, 2011; Dinh và cộng sự, 2012; Birkmann và dụng (Sarker và cộng sự, 2019; Zhang và cộng sự, 2019; Peng và cộng sự, 2019; Tjoe, cộng sự, 2012; Miller, 2014; Trung và Thanh, 2013; Can và cộng sự, 2013; Phung và cộng sự, 2016; Adu và cộng sự, 2018; Hương và cộng sự, 2019). Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu 2016...). Tuy nhiên các nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào các kịch bản biến đổi khí hậu áp dụng LVI đều sử dụng phương pháp trọng số cân bằng, phương pháp này bị chỉ trích vì (thay đổi nhiệt độ, lượng mưa) nhưng không nêu rõ sinh kế nào dễ bị tổn thương trong bối các trọng số giống nhau được áp dụng cho các thành phần khác nhau (Beccari, 2016; Miller cảnh xâm nhập mặn. Hơn nữa, các nghiên cứu này không cố gắng định lượng tác động của và cộng sự, 2013; Abeje và cộng sự, 2019). Do vậy, cần thiết phải phát triển một phương xâm nhập mặn đến sinh kế hộ gia đình cũng như xem xét các yếu tố giúp giảm thiểu ảnh pháp tính toán LVI phù hợp hơn để đưa ra kết quả thuyết phục hơn. hưởng của xâm nhập mặn. Định lượng được các tác động này sẽ cung cấp những hiểu biết Việc xây dựng LVI để phân loại mức độ dễ bị tổn thương cho mỗi quốc gia, khu vực quan trọng về việc chi bao nhiêu cho việc giảm thiểu, đồng thời sẽ giúp định hướng việc tiến và cộng đồng là việc làm quan trọng, tuy nhiên các nghiên cứu hầu như chỉ dừng lại ở việc hành thích ứng ở đâu, khi nào và như thế nào (Mendelsohn, 2008). Như vậy rất cần các tính toán LVI mà chưa chú trọng xem xét vai trò tổng thể của các thành phần dễ bị tổn nghiên cứu tiếp theo xem xét sinh kế nào dễ bị tổn thương trong bối cảnh xâm nhập mặn thương ảnh hưởng như thế nào đến kết quả sinh kế. Nếu chỉ dừng lại ở việc tính toán LVI cũng như các yếu tố làm giảm tác động của xâm nhập mặn vùng ĐBSCL, từ đó đưa ra các thì chưa đủ, cần phải đưa ra bức tranh tổng thể hơn về ảnh hưởng của các thành phần dễ bị chính sách phù hợp. tổn thương (mức độ phơi lộ, mức độ nhạy cảm và năng lực thích ứng) đến kết quả sinh kế, Do vậy, xuất phát từ khoảng trống tri thức và từ nhu cầu thực tiễn, tác giả nhận thấy đồng thời tìm hiểu các yếu tố làm giảm tác động tiêu cực của bối cảnh tổn thương đến kết việc nghiên cứu “Tính dễ bị tổn thương và kết quả sinh kế trong bối cảnh xâm nhập mặn quả sinh kế để đưa ra các chính sách thích ứng/ứng phó hiệu quả. Do vậy, rất cần những vùng Đồng bằng sông Cửu Long” là cần thiết và có ý nghĩa. đóng góp sâu hơn để cung cấp một bức tranh rõ ràng hơn về tác động của tổng thể các thành 2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu phần dễ bị tổn thương đến kết quả sinh kế đồng thời xem xét vai trò điều tiết của năng lực Mục tiêu nghiên cứu: thích ứng trong bối cảnh đó. Mục tiêu chung: Đánh giá mức độ dễ bị tổn thương sinh kế trong bối cảnh xâm nhập Sự cần thiết của đề tài không chỉ xuất phát từ khoảng trống tri thức mà còn xuất phát mặn vùng ĐBSCL nhằm chỉ ra khu vực nào, đối tượng nào dễ bị tổn thương hơn. Đồng thời từ nhu cầu thực tiễn. Nhận thấy, biến đổi khí hậu đã tác động xấu đến nền kinh tế thế giới đánh giá tác động của các thành phần dễ bị tổn thương sinh kế (mức độ phơi lộ, mức độ thông qua tần suất gia tăng của các sự kiện cực đoan như hạn hán, lũ lụt, bão, nước biển dâng nhạy cảm, năng lực thích ứng) đến kết quả sinh kế, xem xét vai trò điều tiết của năng lực (Anik và cộng sự, 2018). Mặc dù nhiều quốc gia chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn thích ứng trong việc giảm nhẹ ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến kết quả sinh kế vùng cầu, nhưng tác động lớn nhất sẽ xảy ra đối với các nước dựa vào sản xuất nông nghiệp ĐBSCL. (Mendelsohn, 2008). Việt Nam, một nền kinh tế nông nghiệp dựa trên lúa gạo sẽ bị ảnh Mục tiêu cụ thể: hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu, đặc biệt vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) - Hoàn thiện mô hình lý thuyết về đánh giá tác động của các thành phần dễ bị tổn cung cấp khoảng 50% sản lượng của cả nước sẽ dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai đặc biệt là xâm thương sinh kế đến kết quả sinh kế trong bối cảnh xâm nhập mặn vùng ĐBSCL. nhập mặn (Vu và cộng sự, 2018). Trên thực tế, ĐBSCL được xác nhận là một trong những
  3. 3 4 Đo lường mức độ dễ bị tổn thương sinh kế trong bối cảnh xâm nhập mặn vùng CHƯƠNG 1 ĐBSCL theo địa phương và đặc điểm hộ dựa trên phân tích mức độ phơi lộ, mức độ nhạy TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU cảm và năng lực thích ứng bằng việc sử dụng trọng số bất cân bằng. 1.1 Tổng quan nghiên cứu về sinh kế Đánh giá tác động của các thành phần dễ bị tổn thương sinh kế đến kết quả sinh kế Tác giả tiến hành tổng quan 3 phương pháp tiếp cận về sinh kế bền vững: (1) Chương trong bối cảnh xâm nhập mặn vùng ĐBSCL, xem xét vai trò điều tiết của năng lực thích ứng trình Phát triển Liên Hợp Quốc (United Nations Development Programme–UNDP), (2) tổ trong việc giảm nhẹ ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến kết quả sinh kế vùng ĐBSCL. chức nhân đạo và hỗ trợ phát triển quốc tế - Cooperative for American Remittances to Câu hỏi nghiên cứu: Europe -CARE và (3) Bộ phát triển Quốc tế của Anh (Department for International - Dễ bị tổn thương sinh kế trong bối cảnh xâm nhập mặn vùng ĐBSCL thường xảy ra Development–DFID). Cả ba tổ chức đều sử dụng sinh kế bền vững làm cách tiếp cận chiến ở nhóm đối tượng nào? và mức độ dễ bị tổn thương sinh kế của các nhóm đối tượng đó là lược cho mục tiêu giảm nghèo, họ cũng sử dụng những định nghĩa tương tự nhau về sinh kế bao nhiêu? bền vững. Mặc dù vậy, UNDP và CARE sử dụng sinh kế bền vững và khung sinh kế bền - Các thành phần dễ bị tổn thương sinh kế (mức độ phơi lộ, mức độ nhạy cảm, năng vững để lập kế hoạch và xây dựng các chương trình, dự án. Trong khi DFID lại sử dụng lực thích ứng) ảnh hưởng như thế nào đến kết quả sinh kế vùng ĐBSCL? sinh kế bền vững như một bộ khung cơ bản để phân tích. Ngoài ra, CARE hỗ trợ an ninh Năng lực thích ứng có vai trò như thế nào trong việc giảm nhẹ ảnh hưởng của xâm sinh kế hộ gia đình ở cấp độ cộng đồng, trong khi UNDP và DFID không chỉ tiếp cận ở cấp nhập mặn đến kết quả sinh kế vùng ĐBSCL? độ cộng đồng mà còn chú trọng đến việc giải quyết các chính sách về môi trường, cải cách 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu kinh tế vĩ mô và luật pháp để giảm nghèo hiệu quả. Do vậy, sau khi tổng quan nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu tác giả khẳng định tiếp cận sinh kế bền vững theo DFID là phù hợp với mục tiêu nghiên cứu Luận án nghiên cứu tính dễ bị tổn thương sinh kế (bao gồm: mức độ phơi lộ, mức độ của luận án. nhạy cảm và năng lực thích ứng), kết quả sinh kế và ảnh hưởng của các thành phần dễ bị tổn 1.2 Tổng quan nghiên cứu về tính dễ bị tổn thương trong bối cảnh biến đổi khí hậu thương đến kết quả sinh kế của hộ gia đình trong bối cảnh xâm nhập mặn. 1.2.1 Cách tiếp cận tính dễ bị tổn thương Phạm vi nghiên cứu Nhìn chung tính dễ bị tổn thương trong điều kiện biến đổi khí hậu được củng cố bởi - Về không gian: Theo Phụ lục 06 tại “Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 12 tháng 01 nhiều nghiên cứu dẫn tới sự đa dạng trong khái niệm. Có thể rút ra ba quan điểm khái quát năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch mạng lưới quan trắc tài về tính dễ bị tổn thương: các quan điểm về lý sinh, xã hội và tích hợp. Trong đó quan điểm nguyên và môi trường quốc gia giai đoạn 2016 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030”. Tính đến đầu tích hợp được coi là mô hình hiện đại trong việc phân tích tính dễ tổn thương của biến đổi năm 2016 toàn vùng ĐBSCL có 35 trạm đo mặn đặt trên 8 tỉnh, bao gồm: Long An, Tiền khí hậu. Nó cung cấp một nền tảng khái niệm và phân tích rộng bằng cách cho phép tích Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau. Do vậy, luận án sẽ tập hợp và áp dụng các bối cảnh khái niệm khác nhau cũng như một loạt các phương pháp và trung nghiên cứu các hộ gia đình bị ảnh hưởng xâm nhập mặn tại địa bàn 8 tỉnh nói trên, với công cụ có khả năng bổ sung cho nhau. giả định các hộ gia đình sống trên cùng một địa bàn chịu ảnh hưởng của xâm nhập mặn là như 1.2.2 Các thành phần chính của dễ bị tổn thương nhau. Như trên đã phân tích, trong ba quan điểm thì quan điểm tích hợp được coi là mô - Về thời gian: Tập trung xem xét mức độ dễ bị tổn thương sinh kế và đánh giá tác hình hiện đại trong việc phân tích tính dễ tổn thương của biến đổi khí hậu. Do vậy việc tiếp động của các thành phần dễ bị tổn thương sinh kế đến kết quả sinh kế trong bối cảnh xâm cận các thành phần chính của tính dễ bị tổn thương theo quan điểm tích hợp (mức độ phơi nhập mặn vùng ĐBSCL giai đoạn 2014-2018. lộ, mức độ nhạy cảm và năng lực thích ứng) cũng được nhiều tác giả ưu ái sử dụng hơn (Hahn và cộng sự, 2009; Shah và cộng sự, 2013; Zhang và cộng sự, 2019...). 1.2.3 Phương pháp đánh giá tính dễ bị tổn thương Trong số các phương pháp đánh giá tính dễ bị tổn thương, phương pháp chỉ số được xem là tối ưu và được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu. Việc ưu tiên sử dụng các chỉ số để mô tả và định lượng các vấn đề được giải thích vì ba lý do chính. Thứ nhất, chúng đưa ra một điểm tham khảo để đánh giá các khuôn khổ cho chính sách phát triển (Kelly và Adger,
  4. 5 6 2000, Eriksen và Kelly, 2007). Thứ hai, chúng có thể cung cấp thông tin để xây dựng các kế và cộng sự, 2019). Do vậy, cần thiết phải phát triển một phương pháp tính toán mức độ dễ hoạch thích ứng và giảm nhẹ (Gbetibouo và cộng sự, 2010). Thứ ba, chúng có thể cung cấp bị tổn thương phù hợp hơn để đưa ra kết quả thuyết phục hơn. một phương tiện chuẩn hoá đo lường tính dễ bị tổn thương, do đó cho phép so sánh các bối 1.4 Tổng quan tác động của các thành phần dễ bị tổn thương đến kết quả sinh cảnh khác nhau. Điều này sẽ cung cấp một phương án nhằm thiết lập các ưu tiên trong phân kế trong bối cảnh xâm nhập mặn bổ nguồn lực cho thích ứng và giảm nhẹ (Preston và cộng sự, 2011; Heltberg và Siegel, Trong quá trình tổng quan, nhận thấy không có nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng trực 2009). Do vậy, trong phạm vi luận án này NCS cũng sử dụng phương pháp chỉ số để đo tiếp của dễ bị tổn thương đến kết quả sinh kế. Tuy nhiên các nghiên cứu thường tập trung lường mức độ dễ bị tổn thương sinh kế. vào ảnh hưởng của một trong số các thành phần dễ bị tổn thương đến kết quả sinh kế. 1.2.4 Khung phân tích tính dễ bị tổn thương Thứ nhất, tổng quan tác động của mức độ phơi lộ đến kết quả sinh kế: Đã có rất Theo tổng hợp của Nguyễn Thị Vĩnh Hà (2016), hiện nay trên thế giới có khoảng 7 nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến kết quả sinh kế hộ gia đình, nó khung được sử dụng để phân tích, đánh giá tính dễ bị tổn thương do thiên tai bao gồm (1) thường tác động làm giảm thu nhập, chi tiêu và là nguyên nhân của tình trạng nghèo đói và Mô hình cấu trúc kép, (2) Mô hình rủi ro tai biến, (3) Mô hình áp lực và nới lỏng (Pressure bẫy nghèo dai dẳng. Tuy nhiên vẫn còn thiếu các bằng chứng thực tế khi xem xét riêng ảnh and Release model), (4) Mô hình giảm rủi ro tai biến của UNISDR, (5) Khung sinh kế bền hưởng của xâm nhập mặn đến kết quả sinh kế hộ gia đình vùng ĐBSCL - nơi được xác nhận vững, (6) Mô hình BBC và (7) Mô hình phân tích khả năng tính dễ bị tổn thương của Tuner là một trong những khu vực trên thế giới dễ bị tổn thương nhất với biến đổi khí hậu đặc biệt là và cộng sự (2003). Tùy theo quan điểm của từng tác giả/tổ chức, khả năng dễ bị tổn thương xâm nhập mặn (Nguyen và cộng sự, 2019; Vu và cộng sự, 2018; Trần Quốc Đạt và cộng sự, có thể phụ thuộc vào xác suất xảy ra tai biến, và/hoặc mức độ phơi lộ hay khả năng thích 2012; Trần Hồng Thái và cộng sự, 2014). ứng, phòng chống, ứng phó và phục hồi của hệ thống môi trường. Do vậy, tùy thuộc vào Thứ hai, tổng quan tác động của mức độ nhạy cảm đến kết quả sinh kế: nhận thấy mục tiêu đánh giá khác nhau sẽ sử dụng các mô hình đánh giá khác nhau. Theo Nguyễn Thị chưa có các nghiên cứu cụ thể về mức độ nhạy cảm đến kết quả sinh kế hộ gia đình, có Vĩnh Hà (2016), trong điều kiện nghiên cứu ở Việt Nam, cơ sở dữ liệu phục vụ nghiên cứu chăng chỉ là xem xét dưới từng dạng nhạy cảm như sức khỏe, nguồn thực phẩm hoặc nguồn thường hạn chế và không dễ thu thập, thì khung mô hình cấu trúc kép của Bohle (2001), nước. Và hầu hết các kết quả chỉ ra rằng, khi các gia đình nhạy cảm với chúng sẽ làm giảm khung mô hình đánh giá tổn thương của Turner và cộng sự (2003), khung mô hình BCC năng suất cây trồng, thu nhập, chi tiêu hộ gia đình. (2006) và khung sinh kế bền vững của DFID (2001) có thể ứng dụng để đánh giá tổn thương Thứ ba, tổng quan tác động của năng lực thích ứng đến kết quả sinh kế: Tác động do thiên tai ở Việt Nam. của năng lực thích ứng đến kết quả sinh kế đã được chứng minh bởi nhiều học giả. Các học Tuy nhiên, khung sinh kế bền vững của DFID (2001) đặc biệt phù hợp để hiểu tính giả thường xem xét năng lực thích ứng dưới dạng các nguồn vốn (tự nhiên, con người, xã hội, dễ bị tổn thương đối với biến đổi khí hậu bởi nó cung cấp một khung phân tích tất cả các tài chính, vật chất) đều nhận thấy các nguồn vốn này đóng vai trò tích cực trong cải thiện kết thành phần chính tạo nên sinh kế và các yếu tố bối cảnh ảnh hưởng đến chúng. Cả hai điều quả sinh kế hộ gia đình. này liên quan chặt chẽ đến các yếu tố khiến hộ gia đình hoặc cộng đồng trở nên nhạy cảm Thứ tư, tổng quan vài trò điều tiết của năng lực thích ứng: Tổng quan cho thấy mặc hơn và ảnh hưởng đến khả năng đối phó với thay đổi môi trường (Eakin và Luers, 2006). dù các nghiên cứu trước đó đã khẳng định vai trò quan trọng của năng lực thích ứng trong 1.3 Tổng quan nghiên cứu phương pháp chỉ số để đo lường tính dễ bị tổn thương việc giảm tác động tiêu cực từ các bối cảnh tổn thương song các nghiên cứu chủ yếu tiếp sinh kế trong bối cảnh biến đổi khí hậu cận dưới góc độ vĩ mô, có một số nghiên cứu dưới góc độ vi mô nhưng chưa xem xét thấu Sau khi tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước có thể khẳng định phương pháp đáo vai trò điều tiết này, có chăng chỉ đi tìm hiểu vai trò điều tiết của một số thành phần nhỏ chỉ số được xem là tối ưu và được sử dụng nhiều để đo lường tính dễ bị tổn thương sinh kế trong năng lực thích ứng mà chưa nghiên cứu cụ thể vai trò điều tiết của năng lực thích ứng trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Phương pháp này được Hahn và cộng sự (2009) phát triển trong tổng thể bối cảnh tổn thương nói chung và xâm nhập mặn nói riêng. Do vậy, việc xem và được nhiều nghiên cứu áp dụng hoặc áp dụng có điều chỉnh (Sarker và cộng sự, 2019; xét vai trò điều tiết của năng lực thích ứng đối với mối quan hệ của xâm nhập mặn và kết quả Zhang và cộng sự, 2019; Peng và cộng sự, 2019; Tjoe, 2016; Adu và cộng sự, 2018; Hương sinh kế còn bỏ ngỏ, rất cần các nghiên cứu tiếp theo lấp đầy/một phần khoảng trống này. và cộng sự, 2019). Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu áp dụng LVI đều sử dụng phương 1.5 Khoảng trống nghiên cứu pháp trọng số cân bằng, phương pháp này bị chỉ trích vì các trọng số giống nhau được áp Như vậy khi xem xét dễ bị tổn thương và kết quả sinh kế hộ gia đình vẫn còn một số dụng cho các thành phần khác nhau của LVI (Beccari, 2016; Miller và cộng sự, 2013; Abeje khoảng trống nghiên cứu, cụ thể:
  5. 7 8 (1) Hầu hết các nghiên cứu áp dụng LVI đều sử dụng phương pháp trọng số cân bằng, CHƯƠNG 2 song phương pháp này bị chỉ trích vì các trọng số giống nhau được áp dụng cho các thành CƠ SỞ LÝ LUẬN phần khác nhau của LVI. Do vậy, cần thiết phải phát triển một phương pháp tính toán mức độ 2.1 Sinh kế và khung sinh kế bền vững dễ bị tổn thương phù hợp hơn để đưa ra kết quả thuyết phục hơn. 2.1.1 Sinh kế và sinh kế bền vững (2) Khi xem xét mức độ dễ bị tổn thương sinh kế, các nghiên cứu trong và ngoài nước Khái niệm về sinh kế thường xuyên được sử dụng và trích dẫn trong các nghiên cứu thường tập trung vào các kịch bản biến đổi khí hậu (thay đổi nhiệt độ, lượng mưa) để tính sau này đều dựa trên ý tưởng về sinh kế của Chambers và Conway (1992), trong đó, sinh kế, toán chỉ số LVI nhằm chỉ ra vùng nào và đối tượng nào bị ảnh hưởng mà chưa nghiên cứu theo cách hiểu đơn giản nhất, là phương tiện để kiếm sống. Một định nghĩa đầy đủ hơn của sâu bối cảnh xâm nhập mặn vùng đồng bằng sông Cửu Long - nơi được xác nhận là một Chambers và Conway về sinh kế là bao gồm khả năng, nguồn lực và các hoạt động cần thiết trong những khu vực trên thế giới dễ bị tổn thương nhất với biến đổi khí hậu đặc biệt là xâm làm phương tiện sống của con người. Tương tự, Scoones (1998) định nghĩa sinh kế bao gồm nhập mặn. khả năng, nguồn lực (bao gồm các nguồn lực vật chất và nguồn lực xã hội) và các hoạt động (3) Các nghiên cứu hầu như chỉ dừng lại ở việc tính toán LVI mà chưa chú trọng xem cần thiết làm phương tiện sống của con người. Phát triển từ các định nghĩa trên, DFID xét vai trò tổng thể của các thành phần dễ bị tổn thương ảnh hưởng như thế nào đến kết quả (2001) cũng cho rằng sinh kế bao gồm khả năng, nguồn lực cùng các hoạt động cần thiết sinh kế. làm phương tiện sống cho con người. Tóm lại, có thể hiểu sinh kế là việc sử dụng các nguồn (4) Các nghiên cứu trước đó mới chỉ đi tìm hiểu vai trò điều tiết của một số thành lực cần thiết để thực hiện các hoạt động nhằm đạt được các kết quả mong muốn (Vũ Thị phần nhỏ trong năng lực thích ứng mà chưa nghiên cứu cụ thể vai trò điều tiết của năng lực Hoài Thu, 2013). thích ứng trong tổng thể bối cảnh xâm nhập mặn. 2.1.2 Khung sinh kế bền vững của DFID (2001) Do vậy, mục tiêu chính của luận án là đánh giá mức độ dễ bị tổn thương sinh kế trong Khung sinh kế bền vững của Cơ quan Phát triển Quốc tế Vương quốc Anh - DFID bối cảnh xâm nhập mặn vùng ĐBSCL với việc áp dụng trọng số bất cân bằng theo đề xuất (2001) là một công cụ được xây dựng nhằm xem xét những yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến của Iyengar và Sudarshan (1982), đánh giá đồng thời tác động của các thành phần dễ bị tổn kết quả sinh kế của con người, đặc biệt là những yếu tố gây khó khăn hoặc tạo cơ hội trong thương sinh kế (mức độ phơi lộ, mức độ nhạy cảm, năng lực thích ứng) đến kết quả sinh kế, sinh kế (Twigg, 2001). Theo đó, các hộ gia đình đều có phương thức kiếm sống (hoạt chỉ rõ vai trò điều tiết của năng lực thích ứng trong việc giảm nhẹ ảnh hưởng của xâm nhập động sinh kế) dựa vào những nguồn lực sinh kế sẵn có (5 loại nguồn lực) trong một bối cảnh chính sách và thể chế nhất định ở địa phương. Những nhân tố này cũng chịu mặn đến kết quả sinh kế vùng ĐBSCL. Với mục tiêu trên, tác giả hi vọng sẽ lấp thêm ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài như bão lụt, hạn hán, xâm nhập mặn… và các tác khoảng trống nghiên cứu từ đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm giảm thiểu mức độ dễ bị động mang tính thời vụ. Sự lựa chọn hoạt động sinh kế của hộ gia đình dựa trên những tổn thương sinh kế trong bối cảnh xâm nhập mặn vùng ĐBSCL. nguồn lực sinh kế hiện tại là kết quả của sự tương tác giữa các nhóm yếu tố này. Hình 2.1: Khung sinh kế bền vững của DFID (2001)
  6. 9 10 Mục đích của khung sinh kế bền vững giúp các nhà hoạch định chính sách, các nhà đặc trưng bởi tần suất, cường độ, thời gian và không gian xuất hiện của sự kiện (Turner và nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực, cùng tham gia vào cuộc thảo luận về những yếu tố ảnh hưởng cộng sự, 2003; Adger, 2006). đến kết quả sinh kế, tầm quan trọng và cách thức tương tác của những yếu tố này. Điều đó Mức độ nhạy cảm (sensitivity): là mức độ mà ở đó một hệ thống bị ảnh hưởng (có giúp xác định những điểm phù hợp để hỗ trợ sinh kế dựa trên phân tích từng nhân tố một thể tích cực hoặc tiêu cực) bởi một hay nhiều tác động, những tác động này có thể ngay bên cách rõ ràng . Do vậy, đã có nhiều học giả khẳng định sử dụng khung sinh kế bền vững của trong hệ thống hay tác động từ bên ngoài (IPCC, 2001). DFID (2001) để phân tích về kết quả sinh kế và tính dễ bị tổn thương trước thảm họa dường Năng lực thích ứng (adaptive capacity), cũng được gọi là năng lực ứng phó (Turner như là hữu ích nhất (Twigg, 2001; Nguyễn Đức Hữu, 2016). Đây cũng là khung lý thuyết và cộng sự, 2003) hoặc khả năng phản ứng (Gallopín, 2006): là tiềm năng để ứng phó và tác giả tiếp cận để giải quyết các câu hỏi nghiên cứu trong luận án của mình. làm giảm tính dễ bị tổn thương của một hệ thống nào đó. Năng lực thích ứng phụ thuộc 2.2 Tính dễ bị tổn thương của sinh kế trong bối cảnh xâm nhập mặn nhiều vào sự hiện hữu và khả năng tiếp cận các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, năng lực tài chính, cơ sở hạ tầng, thể chế chính trị, tài nguyên con người và mối quan hệ xã hội 2.2.1 Tính dễ bị tổn thương (Brooks và Adger, 2004). Phần tổng quan nghiên cứu đã rút ra ba quan điểm khái quát về tính dễ bị tổn thương: 2.2.3 Đo lường dễ bị tổn thương của sinh kế do tác động của xâm nhập mặn các quan điểm về lý sinh (Biophysical), xã hội và tích hợp. Tổng quan nghiên cứu cũng Đo lường mức độ phơi lộ của xâm nhập mặn: Như trên đã đề cập, mức độ phơi lộ là khẳng định quan điểm tích hợp về tính dễ bị tổn thương được coi là mô hình hiện đại trong sự biểu hiện của cá thể, hộ gia đình, cộng đồng, quốc gia hoặc hệ sinh thái bị ảnh hưởng bởi việc phân tích tính dễ tổn thương trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Do vậy trong luận án này, một yếu tố bất lợi nào đó về môi trường hay chính trị xã hội được đặc trưng bởi tần suất, tính dễ bị tổn thương được tiếp cận theo quan điểm tích hợp, cụ thể khái niệm dễ bị tổn cường độ, thời gian và không gian xuất hiện của sự kiện (Turner và cộng sự, 2003; Adger, thương được định nghĩa theo Ủy ban liên Chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC, 2001) là 2006; ). Do vậy trong bối cảnh xâm nhập mặn và nghiên cứu ở đơn vị hộ gia đình thì mức khái niệm được trích dẫn thường xuyên nhất (Hà Hải Dương, 2014; Abeje và cộng sự, 2019 độ phơi lộ là sự biểu hiện của hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn được đặc trưng ; Parry, 2007). Theo đó, dễ bị tổn thương là mức độ một hệ thống tự nhiên hay xã hội có thể bởi tần suất, cường độ, thời gian và không gian xuất hiện của xâm nhập mặn. Dựa trên tổng bị tổn thương hoặc không thể ứng phó với các tác động bất lợi do các hình thái thời tiết cực quan nghiên cứu và số liệu mặn của toàn vùng Đồng bằng sông Cửu long, nghiên cứu này đoan và biến đổi khí hậu). IPCC đã chỉ rõ tính dễ bị tổn thương là một hàm số của 3 yếu tố: lựa chọn 3 chỉ tiêu để đo lường mức độ phơi lộ của xâm nhập mặn, cụ thể: (1) độ mặn trung mức độ phơi lộ, mức độ nhạy cảm và năng lực thích ứng. bình trong năm; (2) Độ mặn trên 4‰; (3) Biến động độ mặn của tháng mặn nhất (tháng 4). 2.2.2 Tính dễ bị tổn thương của sinh kế Đo lường mức độ nhạy cảm: Để đo lường mức độ nhạy cảm hầu hết các các tác giả Như trên đã đề cập, sinh kế được coi là bền vững nếu nó có thể đối phó và phục hồi đều sử dụng chủ yếu 3 yếu tố phụ bao gồm: (1) sức khỏe; (2) nguồn thực phẩm và (3) sau những căng thẳng và chấn động, duy trì hoặc nâng cao khả năng và tài sản của nó, trong nguồn nước. Mỗi yếu tố phụ bao gồm một trong các chỉ số thành phần. Luận án này cũng khi không làm suy yếu cơ sở tài nguyên thiên nhiên. Do đó, Scoones (1998) đã đề xuất rằng đo lường mức độ nhạy cảm dựa trên 3 thành phần trên và các thành phần của mức độ nếu sinh kế không thể tham gia vào việc đối phó (điều chỉnh tạm thời) hoặc thích nghi (thay nhạy cảm được đo lường thông qua: Nguồn nước chính cho sinh hoạt; Nguồn nước sinh đổi dài hạn) thì nó được coi là dễ bị tổn thương. Do đó, tính dễ bị tổn thương được sử dụng hoạt không được xử lý; Chỉ số đa dạng hóa cây trồng; Chỉ số đa dạng hóa vật nuôi; Tỷ như một thuộc tính của sinh kế và do đó nhấn mạnh đến con người và cách họ quản lý cuộc lệ tháng trung bình không đủ 2 bữa ăn/ngày; Tỷ lệ thành viên có bệnh/chấn thương sống của họ (Murungweni và cộng sự, 2011). nặng phải có người chăm sóc, nghỉ việc/học/không hoạt động bình thường; Số ngày bị Như vậy trong bối cảnh xâm nhập mặn, tính dễ bị tổn thương sinh kế đề cập đến bệnh/chấn thương bình quân đầu người. mức độ các cộng đồng/hộ gia đình có thể bị tổn thương hoặc không thể ứng phó khi đối Đo lường năng lực thích ứng: Năng lực thích ứng được đo lường thông qua 5 tài sản mặt với những tác động do xâm nhập mặn. Nó cũng là một hàm số của 3 yếu tố: mức độ sinh kế (vốn tự nhiên, vốn con người, vốn vật chất, vốn tài chính, vốn xã hội), cách tiếp cận phơi lộ, mức độ nhạy cảm và năng lực thích ứng, trong đó: cũng được nhiều tác giả sử dụng (Pandey và cộng sự, 2015; Gerlitz và cộng sự, 2017; Zhang và cộng sự, 2019). Dựa trên tổng quan nghiên cứu và dựa trên sự sẵn có trong dữ liệu điều Mức độ phơi lộ (exposure ) (hay còn gọi là mức độ tiếp xúc, mức độ biểu hiện, mức độ tra mức sống hộ gia đình các năm 2014, 2016, 2018 luận án này đo lường vốn tự nhiên phơi bày, phơi nhiễm): là sự biểu hiện của cá thể, hộ gia đình, cộng đồng, quốc gia hoặc hệ thông qua: Diện tích đất nông lâm nghiệp bình quân đầu người; Chỉ số đa dạng loại đất; sinh thái bị ảnh hưởng bởi một yếu tố bất lợi nào đó về môi trường hay chính trị xã hội được
  7. 11 12 Diện tích gieo trồng lúa bình quân đầu người; Diện tích gieo trồng cây lương thực thực Ảnh hưởng của mức độ nhạy cảm đến kết quả sinh kế hộ gia đình: Như trên đã đề phẩm bình quân đầu người. Đo lường vốn con người thông qua: Tỷ lệ thành viên hộ có cập, mức độ nhạy cảm được đo lường thông qua 3 thành phần phụ gồm: Sức khỏe, nguồn việc làm; Chủ hộ có trình độ chuyên môn kỹ thuật (CMKT); Chủ hộ tốt nghiệp tiểu học nước và nguồn thực phẩm. Các nghiên cứu cho thấy khi hộ gia đình có vấn đề về sức khỏe, trở lên. Đo lường vốn vật chất thông qua: Chỉ số đa dạng đồ dùng lâu bền; Giá trị tài sản không được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh và không được tiếp cận đủ nguồn thực phẩm còn lại bình quân; Diện tích ở bình quân đầu người; Loại ngôi nhà chính. Đo lường vốn tài sẽ ảnh hưởng bất lợi đến kết quả sinh kế. Do vậy, luận án đề xuất giả thuyết nghiên cứu: H2 chính thông qua: Tiếp cận tiết kiệm; Tiếp cận vốn vay bằng tiền và hàng hóa; Chỉ số đa (a1-a7): 7 chỉ số thành phần của mức độ nhạy cảm (Nguồn nước chính cho sinh hoạt; dạng nguồn sinh kế. Đo lường vốn xã hội thông qua: Tỷ lệ thành viên hộ tham gia hội đoàn; Nguồn nước sinh hoạt không được xử lý; Chỉ số đa dạng hóa cây trồng; Chỉ số đa dạng hóa Số hình thức hỗ trợ; Số phương tiện thông tin. vật nuôi; Tỷ lệ tháng trung bình không đủ 2 bữa ăn/ngày; Tỷ lệ thành viên có bệnh/chấn Đo lường LVI thương nặng phải có người chăm sóc, nghỉ việc/học/không hoạt động bình thường; Số ngày Như phần tổng quan nghiên cứu đã trình bày hầu hết các nghiên cứu trên đều sử dụng bị bệnh/chấn thương bình quân đầu người) có tác động ngược chiều đến kết quả sinh kế của phương pháp trọng số cân bằng, phương pháp này bị chỉ trích vì các trọng số giống nhau hộ dân vùng ĐBSCL. được áp dụng cho các thành phần khác nhau của LVI (Beccari, 2016; Miller và cộng sự, Ảnh hưởng của năng lực thích ứng đến kết quả sinh kế hộ gia đình: Như trên đã đề 2013; Abeje và cộng sự, 2019). Do vậy, luận án sẽ áp dụng trọng số bất cân bằng theo đề cập, luận án tiếp cận theo khung sinh kế bền vững của DFID (2001) do vậy cách phân chia xuất của Iyengar và Sudarshan (1982). Theo đó, LVI được tính như sau: năng lực thích ứng theo các nguồn vốn là phù hợp. Theo đó, năng lực thích ứng được đo LVI=E*We + S*Ws + A*Wa (iv) lường thông qua 5 tài sản sinh kế (vốn tự nhiên, vốn con người, vốn vật chất, vốn tài chính, LVI nằm trong khoảng từ 0 (tổn thương ít nhất) đến 1 (tổn thương nhất). vốn xã hội). Kết quả cho thấy vốn tự nhiên, vốn con người, vốn vật chất, vốn tài chính, vốn wE, wS, wA lần lượt là trọng số của các chỉ số phơi nhiễm, nhạy cảm và năng lực thích xã hội có tác động cùng chiều tới kết quả sinh tế hộ gia đình. Khi nông hộ có thể gia tăng ứng. Trong đó wE + wS + wA = 1 các nguồn vốn này đồng thời áp dụng hiệu quả vào các hoạt động kinh tế, nó sẽ làm gia tăng Việc tính toán LVI theo công thức (iv) sẽ được giải thích chi tiết trong chương 3 – kết quả sinh kế và ngược lại, khi hộ gia đình không đầu tư cho các nguồn vốn thì kết quả Phương pháp nghiên cứu. sinh kế sẽ không đạt được như kỳ vọng. Do vậy, luận án đề xuất giả thuyết nghiên cứu: H3 2.3 Kết quả sinh kế hộ gia đình (a1-a17): 17 chỉ số thành phần của năng lực thích ứng (Diện tích đất nông lâm nghiệp bình Các nghiên cứu đều có điểm chung chỉ ra rằng kết quả sinh kế đại diện cho đầu ra quân đầu người; Số lượng loại đất nông nghiệp; Diện tích gieo trồng lúa bình quân đầu của chiến lược sinh kế thông qua việc sử dụng các tài nguyên. Đây cũng chính là cách tiếp người; Diện tích gieo trồng cây lương thực thực phẩm bình quân đầu người; Tỷ lệ người có cận tác giả lựa chọn để thực hiện trong luận án này. Theo đó, kết quả sinh kế là những thành việc làm; Chủ hộ không có CMKT; Chủ hộ chưa tốt nghiệp tiểu học; Số đồ dùng lâu bền; tựu hoặc đầu ra của các chiến lược sinh kế, như gia tăng thu nhập, tăng phúc lợi, giảm thiểu Giá trị tài sản còn lại bình quân; Diện tích ở bình quân đầu người;Loại ngôi nhà chính của tổn thương, cải thiện an ninh lương thực và sử dụng tài nguyên thiên nhiên bền vững hơn. hộ;Tiếp cận tiết kiệm; Tiếp cận vốn vay bằng tiền và hàng hóa; Số nguồn sinh kế; Tỷ lệ Các tác giả thường sử dụng các chỉ số khác nhau để đo lường kết quả kinh tế, tuy nhiên thu thành viên hộ không tham gia hội đoàn; Số hình thức hỗ trợ; Số phương tiện thông tin) có nhập được công nhận rộng rãi là chỉ số quan trọng nhất và đóng vai trò chính trong kết quả tác động cùng chiều đến kết quả sinh kế của hộ dân vùng ĐBSCL. sinh kế bền vững (Ojong, 2011; Albert và cộng sự, 2007). Do vậy, luận án này cũng sử dụng 2.5 Vai trò điều tiết của năng lực thích ứng trong việc giảm thiểu tác động của chỉ tiêu thu nhập để đo lường kết quả sinh kế. xâm nhập mặn đến kết quả sinh kế hộ gia đình 2.4 Ảnh hưởng của các thành phần dễ bị tổn thương đến kết quả sinh kế hộ Tương tự xem xét ảnh hưởng của năng lực thích ứng đến kết quả sinh kế hộ gia đình. gia đình Khi xem xét vai trò điều tiết của năng lực thích ứng trong việc giảm thiểu tác động của xâm Ảnh hưởng của mức độ phơi lộ đến kết quả sinh kế hộ gia đình: Các nghiên cứu cho nhập mặn đến kết quả sinh kế hộ gia đình tác giả cũng sẽ tập trung phân tích vai trò điều tiết thấy xâm nhập mặn được coi là một vấn đề nghiêm trọng không chỉ làm giảm tiềm năng của lần lượt 5 nguồn vốn. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng hộ gia đình có thể làm giảm thiểu nông nghiệp mà còn tạo ra các ảnh hưởng bất lợi đến kết quả sinh kế của người dân (Haider và thiệt hại từ các cú sốc, thảm họa tự nhiên bằng cách tăng sức đề kháng của những tài sản bị Hossain, 2013). Do vậy, luận án đề xuất giả thuyết nghiên cứu: H1: Mức độ phơi lộ của xâm phơi bày trước tác động của cú sốc, thảm họa đó. Điều này ngụ ý rằng để giảm thiểu tác nhập mặn có tác động ngược chiều đến kết quả sinh kế của hộ dân vùng ĐBSCL. động tiêu cực của thảm họa, hộ gia đình có thể tập trung nâng cao các nguồn tài sản sinh kế
  8. 13 14 của mình. Do vậy, luận án đề xuất giả thuyết nghiên cứu: H4 (a1-a17): 17 chỉ số thành phần H3 (a1-a17): 17 chỉ số thành phần của năng lực thích ứng (Diện tích đất nông lâm của năng lực thích ứng (Diện tích đất nông lâm nghiệp bình quân đầu người; Số lượng loại nghiệp bình quân đầu người; Số lượng loại đất nông nghiệp; Diện tích gieo trồng lúa bình đất nông nghiệp; Diện tích gieo trồng lúa bình quân đầu người; Diện tích gieo trồng cây quân đầu người; Diện tích gieo trồng cây lương thực thực phẩm bình quân đầu người; Tỷ lệ lương thực thực phẩm bình quân đầu người; Tỷ lệ người có việc làm; Chủ hộ không có người có việc làm; Chủ hộ không có CMKT; Chủ hộ chưa tốt nghiệp tiểu học; Số đồ dùng CMKT; Chủ hộ chưa tốt nghiệp tiểu học; Số đồ dùng lâu bền; Giá trị tài sản còn lại bình lâu bền; Giá trị tài sản còn lại bình quân; Diện tích ở bình quân đầu người;Loại ngôi nhà quân; Diện tích ở bình quân đầu người;Loại ngôi nhà chính của hộ;Tiếp cận tiết kiệm; Tiếp chính của hộ;Tiếp cận tiết kiệm; Tiếp cận vốn vay bằng tiền và hàng hóa; Số nguồn sinh kế; cận vốn vay bằng tiền và hàng hóa; Số nguồn sinh kế; Tỷ lệ thành viên hộ không tham gia Tỷ lệ thành viên hộ không tham gia hội đoàn; Số hình thức hỗ trợ; Số phương tiện thông tin) hội đoàn; Số hình thức hỗ trợ; Số phương tiện thông tin) có vai trò điều tiết làm giảm thiểu có tác động cùng chiều đến kết quả sinh kế của hộ dân vùng ĐBSCL. tác động của xâm nhập mặn đến kết quả sinh kế của hộ dân vùng ĐBSCL. H4 (a1-a17): 17 chỉ số thành phần của năng lực thích ứng (Diện tích đất nông lâm 2.6 Mô hình và giả thuyết nghiên cứu nghiệp bình quân đầu người; Số lượng loại đất nông nghiệp; Diện tích gieo trồng lúa bình Dựa vào những mối quan hệ trong phần cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu, tác quân đầu người; Diện tích gieo trồng cây lương thực thực phẩm bình quân đầu người; Tỷ lệ giả đưa ra mô hình sau: người có việc làm; Chủ hộ không có CMKT; Chủ hộ chưa tốt nghiệp tiểu học; Số đồ dùng lâu bền; Giá trị tài sản còn lại bình quân; Diện tích ở bình quân đầu người;Loại ngôi nhà chính của hộ;Tiếp cận tiết kiệm; Tiếp cận vốn vay bằng tiền và hàng hóa; Số nguồn sinh kế; Tỷ lệ thành viên hộ không tham gia hội đoàn; Số hình thức hỗ trợ; Số phương tiện thông tin) có vai trò điều tiết làm giảm thiểu tác động của xâm nhập mặn đến kết quả sinh kế của hộ dân vùng ĐBSCL. Hình 2.3: Mô hình nghiên cứu Nguồn: Tác giả xây dựng dựa trên DFID (2001), Hahn và cộng sự (2009). Giả thuyết nghiên cứu: H1: Mức độ phơi lộ của xâm nhập mặn có tác động ngược chiều đến kết quả sinh kế của hộ dân vùng ĐBSCL. H2 (a1-a7): 7 chỉ số thành phần của mức độ nhạy cảm (Nguồn nước chính cho sinh hoạt; Nguồn nước sinh hoạt không được xử lý; Chỉ số đa dạng hóa cây trồng; Chỉ số đa dạng hóa vật nuôi; Tỷ lệ tháng trung bình không đủ 2 bữa ăn/ngày; Tỷ lệ thành viên có bệnh/chấn thương nặng phải có người chăm sóc, nghỉ việc/học/không hoạt động bình thường; Số ngày bị bệnh/chấn thương bình quân đầu người) có tác động ngược chiều đến kết quả sinh kế của hộ dân vùng ĐBSCL.
  9. 15 16 CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Phương pháp tiếp cận Như phần tổng quan nghiên cứu và cơ sở lý luận đã đề cập, để thỏa mãn các mục tiêu nghiên cứu, tiếp cận khung sinh kế bền vững của DFID (2001) (Hình 2.1) được sử dụng để khám phá các yếu tố thúc đẩy hoặc cản trở nông hộ xây dựng và thực hiện chiến lược sinh kế để đạt được kết quả sinh kế kỳ vọng. Trên cơ sở khung nghiên cứu sinh kế bền vững của DFID (2001) và khung lý thuyết đánh giá mức độ dễ bị tổn thương sinh kế được phát triển bởi Hahn và cộng sự (2009), nội dung chỉ số đánh giá mức độ phơi lộ (E), độ nhạy cảm (S) và năng lực thích ứng (A) được chọn theo hàm: V = f(E, S, A). Việc xác định các chỉ số thành phần được dựa trên cơ sở tổng quan các nghiên cứu trước. 3.2. Phương pháp thu thập dữ liệu Nghiên cứu sử dụng chủ yếu 02 bộ dữ liệu: (1) dữ liệu đo mặn của 32 trạm do Đài Khí tượng Thủy văn khu vực Nam Bộ cung cấp để tính toán mức độ phơi lộ và (2) bộ dữ liệu Điều tra mức sống hộ gia đình các năm 2014, 2016 và 2018 của Tổng cục Thống kê Việt Nam để xem xét các đặc điểm hộ gia đình cũng như tính toán mức độ nhạy cảm và năng lực thích ứng của hộ. Ngoài ra nghiên cứu còn sử dụng các dữ liệu khác liên quan đến dân số, lao động việc làm, tình hình phát triển kinh tế, nghèo đói, thu nhập, chi tiêu, biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn…của cả nước nói chung và vùng ĐBSCL nói riêng. Các dữ liệu được lấy từ các công trình nghiên cứu; các tổ chức như Bộ Tài nguyên và Môi trường, Viện Khoa học thủy lợi miền Nam, Viện Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu, Tổng cục Thống kê, Thống kê các tỉnh... 3.3 Phương pháp xử lý dữ liệu 3.3.1 Phương pháp tính toán chỉ số dễ bị tổn thương sinh kế Có thể tóm tắt quy trình xác định và tính toán chỉ số dễ bị tổn thương sinh kế như hình 3.2. Hình 3.2: Quy trình xác định và tính toán chỉ số tình trạng dễ bị tổn thương sinh kế
  10. 17 18 3.3.2 Phương pháp ước lượng mô hình hồi quy CHƯƠNG 4 Phương pháp ước lượng chính được sử dụng trong nghiên cứu này là hồi quy kinh tế KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU lượng. Với mô hình nghiên cứu tổng quát như sau. 4.1 Tổng quan về địa bàn nghiên cứu ln(Yijt) = βo + Ejtβ1 + Sijtβ2 + Aijtβ3 + AijtEjtβ4 + Gtβ5 +εijt (7) Đồng bằng sông Cửu Long nằm ở phía nam Việt Nam gồm 13 tỉnh; trong đó, 8 tỉnh Trong đó: giáp biển, cụ thể là Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau Yijt: thu nhập bình quân hộ gia đình i ở xã j trong năm t; và Kiên Giang. Đặc trưng của vùng là phù sa màu mỡ với khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm. Ejt: mức độ phơi lộ ở xã j trong năm t; Nguồn thủy lợi của ĐBSCL khá phức tạp vì mạng lưới kênh/sông chằng chịt, cũng như sự Sijt: các thành phần mức độ nhạy cảm hộ gia đình i ở xã j trong năm t; tác động của dòng chảy sông Mê Kông và hai chế độ thủy triều: thủy triều của Biển Đông Aijt: các thành phần năng lực thích ứng hộ gia đình i ở xã j trong năm t; và bán nhật triều của Vịnh Thái Lan. Do vậy, trong mùa cạn, khi lưu lượng thượng lưu về Gt: biến giả của năm; giảm, thủy triều ảnh hưởng mạnh lên thượng lưu và hệ thống kênh rạch nội đồng, dẫn theo εijt: các biến không quan sát được. nước mặn xâm nhập sâu cả trên sông và nội đồng. Xâm nhập mặn ảnh hưởng rõ rệt đến đời Tác giả sử dụng kiểm định Hausman và cho thấy sử dụng mô hình FEM là phù hợp sống, kinh tế, xã hội và sinh kế của người dân vùng ĐBSCL. hơn. Đồng thời, tác giả sử dụng hồi quy tác động cố định cấp xã để loại bỏ các biến cấp xã 4.2 Kết quả đo lường mức độ dễ bị tổn thương sinh kế vùng đồng bằng Sông không biến đổi theo thời gian mà không quan sát được (như các biến liên quan đến chính Cửu Long do xâm nhập mặn sách, cơ sở hạ tầng…của địa phương). Tác giả đánh giá mức độ dễ bị tổn thương sinh kế vùng đồng bằng Sông Cửu Long do xâm nhập mặn thông qua chỉ số LVI với 5 cấp độ: từ 0 – 0,2-0,4-0,6-0,8-
  11. 19 20 các thành phần cấu thành nên mức độ dễ bị tổn thương của sinh kế vùng ĐBSCL trong bối CHƯƠNG 5 cảnh xâm nhập mặn. Kết quả cho thấy vùng ĐBSCL không chỉ có mức độ phơi lộ cao mà LUẬN BÀN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ còn thiếu hụt nặng nề về nguồn nước, năm 2018, sự thiếu hụt về nguồn nước cao gấp 19 lần (0,38/0,02) các vấn đề về sức khỏe, cao gấp 3,2 lần (0,38/0,16) các vấn đề về thực phẩm. Xét theo các nguồn vốn sinh kế, kết quả cho thấy ĐBSCL thiếu hụt nặng nề về vốn con 5.1 Luận bàn kết quả nghiên cứu người, giá trị này không những nhỏ nhất trong 5 nguồn vốn mà còn giảm dần trong giai Trên cơ sở khung nghiên cứu sinh kế bền vững của DFID (2001) và khung lý thuyết đoạn 2014-2018. Sau vốn con người, vùng ĐBSCL còn thiếu hụt về vốn tài chính và vốn đánh giá mức độ dễ bị tổn thương sinh kế của Hahn và cộng sự (2009), nghiên cứu đánh giá xã hội. mức độ phơi lộ (E), độ nhạy cảm (S) và năng lực thích ứng (A) của tính dễ bị tổn thương 4.3 Kết quả kiểm định giả thuyết nghiên cứu sinh kế được chọn theo hàm: LVI = f(E, S, A). Đồng thời, luận án đã xây dựng mô hình lý 4.3.1 Ảnh hưởng của dễ bị tổn thương đến kết quả sinh kế thuyết về đánh giá tác động của các thành phần dễ bị tổn thương sinh kế đến kết quả sinh kế Xem xét ảnh hưởng các thành phần dễ bị tổn thương (mức độ phơi lộ, mức độ nhạy trong bối cảnh xâm nhập mặn vùng ĐBSCL. Và xem xét vai trò điều tiết của năng lực thích cảm, năng lực thích ứng) đến kết quả sinh kế hộ gia đình vùng ĐBSCL, kết quả chỉ ra rằng: ứng trong việc giảm nhẹ ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến kết quả sinh kế vùng ĐBSCL. Thứ nhất: mức độ phơi lộ của xâm nhập mặn ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả sinh kế Do vậy, kết quả thu được đã đi trả lời được các câu hỏi nghiên cứu đặt ra. Cụ thể: hộ gia đình vùng ĐBSCL. Cụ thể với mức ý nghĩa 5% khi xâm nhập mặn tăng lên 0,1 đơn Nghiên cứu đã đi trả lời được câu hỏi thứ nhất: Dễ bị tổn thương sinh kế trong bối vị thì thu nhập bình quân đầu người hộ gia đình giảm tương ứng khoảng 0,058%. Do vậy cảnh xâm nhập mặn vùng ĐBSCL thường xảy ra ở nhóm đối tượng nào? và mức độ dễ bị chấp nhận giả thuyết H1. tổn thương sinh kế của các nhóm đối tượng đó là bao nhiêu? Kết quả nghiên cứu cho thấy, Thứ hai: Chỉ chứng minh được chỉ số đa dạng hóa cây trồng và vật nuôi trong trong cả giai đoạn 2014-2018, mức độ dễ bị tổn thương cao hơn ở các tỉnh ven biển, các hộ mức độ nhạy cảm tác động đến kết quả sinh kế hộ gia đình ở mức ý nghĩa 10%. Do vậy, gia đình nghèo, có nguồn thu chính từ thủy sản, chủ hộ không có trình độ CMKT, chủ hộ là chấp nhận H2(a3) và H2(a4) nữ và chủ hộ là dân tộc Khơme. Kết quả này phù hợp với bối cảnh vùng ĐBSCL và đồng Thứ ba: Các yếu tố thuộc năng lực thích ứng có tác động mạnh kết quả sinh kế. tình với hầu hết các nghiên cứu về tính dễ bị tổn thương. Cụ thể, các giả thuyết H3 (a1, a3, a4, a5, a6, a7, a8, a9, a11, a12, a14, a16, a17) được Nghiên cứu đã đi trả lời được câu hỏi thứ hai: Các thành phần dễ bị tổn thương sinh chấp nhận bởi dữ liệu nghiên cứu. Chỉ có 4 giả thuyết trong H3 đưa ra không được kế (mức độ phơi lộ, mức độ nhạy cảm, năng lực thích ứng) ảnh hưởng như thế nào đến kết chứng minh gồm H3 (a2, a10, a13, a15). quả sinh kế vùng ĐBSCL? Cụ thể: (1) mức độ phơi lộ của xâm nhập mặn ảnh hưởng tiêu 4.3.2 Vai trò điều tiết của năng lực thích ứng cực đến kết quả sinh kế hộ gia đình vùng ĐBSCL. Kết quả này cũng phù hợp với các nghiên Khi xem xét vai trò điều tiết của năng lực thích ứng, kết quả cho thấy chỉ có 3 biến cứu về ảnh hưởng của thảm họa tự nhiên đến kết sinh kế hoặc phúc lợi hộ gia đình như thành phần trong năng lực thích ứng (Tỷ lệ thành viên hộ có việc làm; Loại ngôi nhà chính; Arouri và cộng sự (2015), Bui và cộng sự (2014), Kirsch và cộng sự (2012), Baez và Santos Số phương tiện thông tin) có vai trò điều tiết đến mối quan hệ của xâm nhập mặn và thu (2008). (2) xem xét mức độ nhạy cảm với sức khỏe, nguồn nước, nguồn thực phẩm ảnh nhập bình quân hộ gia đình. Giả thuyết H4 (a5, a11, a17) được chứng minh. hưởng đến kết quả sinh kế hộ gia đình. Nhận thấy, chỉ có chỉ số đa dạng hóa cây trồng (1/ (số lượng cây trồng+1) và vật nuôi (1/ (số lượng vật nuôi+1) tác động cùng chiều đến kết quả sinh kế hộ gia đình. Kết quả này không đồng tình với các nghiên cứu trước đó, cụ thể: Makate và cộng sự (2016), Pellegrini và Tasciotti (2014), Kasem và Thapa (2011). (3) Các yếu tố thuộc năng lực thích ứng có tác động mạnh kết quả sinh kế, như: Diện tích đất nông lâm nghiệp, diện tích gieo trồng lúa bình quân đầu người; Tỷ lệ thành viên hộ có việc làm, chủ hộ có chuyên môn kỹ thuật, chủ hộ tốt nghiệp tiểu học trở lên; Số đồ dùng lâu bền, giá trị tài sản còn lại bình quân; Tiếp cận tiết kiệm, số nguồn thu nhập; Khả năng tiếp cận dịch vụ thông tin...
  12. 21 22 Nghiên cứu đã đi trả lời được câu hỏi thứ ba: Năng lực thích ứng có vai trò như thế Các hộ gia đình cần tích cực tiếp cận các thông tin truyền thông, tham gia các lớp tập nào trong việc giảm nhẹ ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến kết quả sinh kế vùng ĐBSCL? huấn, đào tạo, hội nghị, hội thảo…để nâng cao kiến thức về biến đổi khí hậu nói chung và Luận án cho thấy trong bối cảnh xâm nhập mặn vùng ĐBSCL chỉ có 3 biến thành phần xâm nhập mặn nói riêng, nâng cao kiến thức về kỹ thuật canh tác, đặc biệt là đối với những trong năng lực thích ứng (Tỷ lệ thành viên hộ có việc làm; Loại ngôi nhà chính; Khả năng giống cây, vật nuôi mới có khả năng thích ứng tốt với tình hình xâm nhập mặn tại địa tiếp cận dịch vụ thông tin) có vai trò điều tiết đến mối quan hệ của xâm nhập mặn và thu phương. nhập bình quân hộ gia đình. Kết quả này không đạt được như kỳ vọng của tác giả, tuy nhiên Các hộ gia đình cần đa dạng hóa các chiến lược sinh kế để giảm thiểu, chia sẻ rủi ro so sánh với các nghiên cứu trước đó như Arouri và cộng sự (2015), Nguyễn Thị Mai và Hạ và tăng cường năng lực thích ứng. Bởi khi xâm nhập mặn gây ra khó khăn cho hoạt động Thị Thiều Dao (2020) thì có lẽ kết quả thu được là hợp lý. sinh kế này thì vẫn có các hoạt động sinh kế khác để hỗ trợ và bù đắp. Nó giúp ổn định thu 5.2 Một số khuyến nghị nhằm giảm tính dễ bị tổn thương sinh kế trong bối cảnh nhập và ổn định cuộc sống cho hộ gia đình. Các hộ gia đình cũng nên mạnh dạn tiếp cận các xâm nhập mặn vùng Đồng bằng Sông Cửu Long nguồn tín dụng để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở những kết quả phân tích trên, trong phần này, tác giả sẽ tập trung một số Các hộ gia đình nên tăng cường đầu tư vào các đồ dùng lâu bền, đặc biệt là máy khuyến nghị dành cho các cơ quan Nhà nước, chính quyền địa phương và hộ gia đình nhằm móc phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và các phương tiện truyền thông đề cải thiện mục đích giảm thiểu mức độ dễ bị tổn thương để cải thiện kết quả sinh kế hộ gia đình trong nguồn vốn vật chất thúc đẩy nông hộ đạt được kết quả sinh kế tốt hơn. bối cảnh xâm nhập mặn vùng ĐBSCL. Cụ thể: Các hộ gia đình nên tuân thủ lịch thời vụ và thực hiện tốt các khuyến cáo, cảnh báo 5.2.1 Một số khuyến nghị đối với Chính phủ và Chính quyền địa phương từ địa phương về việc lựa chọn cây trồng vật nuôi thích nghi với điều kiện khô hạn và môi - Dự báo “sớm” và “sát” tình hình xâm nhập mặn để người dân và địa phương có trường nước mặn. Đồng thời có ý thức sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả. những phương án ứng phó kịp thời. Các hộ gia đình khuyến khích các thành viên trong hộ tự học tập nâng cao trình độ - Nghiên cứu giải pháp khai thác sử dụng hợp lý nguồn nước để phòng chống hạn đặc biệt là vận dụng các kiến thức bản địa vào trong công tác ứng phó với tình hình xâm và xâm nhập mặn ở ĐBSCL. nhập mặn. - Quan tâm nhiều hơn đến những nhóm hộ có nguy cơ dễ bị tổn thương sinh kế 5.3 Một số hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo cao, cụ thể: Trong chương này, tác giả cũng chỉ ra những hạn chế trong nghiên cứu như tác giả sử  Các hộ gia đình có nguồn thu chính từ thủy sản và thuộc khu vực ven biển: dụng dữ liệu mảng không cân bằng trong 3 năm 2014, 2016, 2018. Hoặc số quan sát chéo  Các hộ nghèo, các hộ có chủ hộ là nữ, các hộ có chủ hộ là dân tộc thiểu số, các tính toán cho cả 3 năm mặc dù đã đủ đại diện cho tổng thể, nhưng khi phân theo các tiêu chí hộ có chủ hộ không có trình độ CMKT: khác nhau. Tác giả phải đưa ra giả định rằng các hộ gia đình sống trên cùng địa bàn chịu - Lựa chọn cây trồng vật nuôi thích nghi với điều kiện khô hạn và môi trường nước ảnh hưởng của xâm nhập mặn là như nhau mặc dù trên thực tế điều này không hoàn toàn mặn. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, trong bối cảnh xâm nhập mặn vùng đúng. Vẫn còn những yếu tố có thể ảnh hưởng tới biến phụ thuộc nhưng tác giả chưa kiểm - Điều chỉnh quy hoạch tổng thể và sản xuất nông nghiệp cho khu vực ĐBSCL soát được do sự hạn chế của dữ liệu thứ cấp có sẵn. Và một số kết quả định lượng chưa giải và bố trí cơ cấu mùa vụ hợp lý. thích được thấu đáo do chưa nghiên cứu định tính bổ sung... Đây sẽ là những khoảng trống - Tập trung vào chính sách giáo dục và đào tạo người lao động nhằm giảm bớt nghiên cứu và là định hướng cho những nghiên cứu tiếp theo. nguy cơ tổn thương - Tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng của hộ gia đình và khuyến khích đa dạng nguồn sinh kế - Đẩy mạnh các chính sách trợ cấp, phát triển thị trường lao động, hỗ trợ tạo việc làm, tự tạo việc làm cho người lao động 5.2.2 Một số khuyến nghị đối với người dân
  13. 23 PHẦN KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Việt Nam, một nền kinh tế nông nghiệp dựa trên lúa gạo bị ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu, đặc biệt vùng ĐBSCL - cung cấp khoảng 50% sản lượng của cả nước sẽ dễ 1. Hue Thi Hoang, Hang Hai Thi Le, Anh Phuong Trinh, Anh Ngoc Thi Phung, bị ảnh hưởng bởi thiên tai đặc biệt là xâm nhập mặn. Điều này gây ra mối đe doạ an ninh Linh Khanh Vu (2020), ‘The Impact of Natural Disasters on the Livelihood lương thực, hiện tượng suy giảm nguồn tài nguyên thiên nhiên, thu hẹp diện tích canh tác dẫn Outcomes of Households in Rural Vietnam: The Regulator Role of Adaptive đến sinh kế của người dân ngày càng bấp bênh…Tuy nhiên hiện nay các nghiên cứu về sinh Capacity’, The International Journal of Business & Management, Vol 8 Issue 4, kế vùng ĐBSCL chủ yếu tập trung vào các kịch bản biến đổi khí hậu (thay đổi nhiệt độ, lượng p. 90-99 mưa) nhưng không nêu rõ sinh kế nào dễ bị tổn thương trong bối cảnh xâm nhập mặn. Hơn 2. Mai Thi Vu, Ngan Hoang Vu, Hue Thi Hoang, Hanh Thi Hai Nguyen (2019), nữa, các nghiên cứu này không cố gắng định lượng tác động của xâm nhập mặn đến sinh kế ‘Factors Affecting the Livelihood Outcomes of Households in the Mekong Delta hộ gia đình cũng như xem xét các yếu tố giúp giảm thiểu ảnh hưởng của xâm nhập mặn. of Vietnam’, The International Journal of Humanities & Social Studies, Vol 7 Do vậy, trên cơ sở khung nghiên cứu sinh kế bền vững của DFID và khung lý thuyết Issue 4, p.14-20 đánh giá mức độ dễ bị tổn thương sinh kế của Hahn và cộng sự, luận án đã đánh giá mức độ dễ bị tổn thương sinh kế trong bối cảnh xâm nhập mặn vùng ĐBSCL để đi trả lời được các 3. Vũ Hoàng Ngân, Hoàng Thị Huệ và Nguyễn Thị Hải Hạnh (2019), ‘Chuyển dịch câu hỏi nghiên cứu và chỉ ra vùng nào, đối tượng nào dễ bị tổn thương hơn. Cụ thể, các tỉnh cơ cấu ngành kinh tế vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong điều kiện biến đổi ven biển, hộ nghèo, hộ gia đình có nguồn thu chính từ thủy sản, hộ gia đình có chủ hộ là khí hậu’, Tạp chí Kinh tế & Dự báo, Số 18, tr.3-10 nữ, không có trình độ CMKT, không phải dân tộc Kinh... thì mức độ dễ bị tổn thương cao 4. Vũ Thị Mai, Hoàng Thị Huệ, Phạm Thị Thanh Nhàn (2017), ‘Các cách tiếp cận hơn. Kết quả này là một trong những căn cứ quan trọng cho việc can thiệp các chính sách trong đánh giá tính dễ bị tổn thương do biển đổi khí hậu’, Hội thảo khoa học quốc hiệu quả. Luận án cũng đã chỉ rõ tác động của mức độ phơi lộ, nhạy cảm, năng lực thích gia Nghiên cứu cơ sở khoa học về lý luận và thực tiễn xây dựng mô hình phát ứng đến kết quả sinh kế vùng ĐBSCL. Đồng thời chỉ rõ vai trò điều tiết của năng lực thích triển kinh tế thích ứng với xâm nhập mặn trong điều kiện biến đổi khí hậu, NXB ứng trong việc giảm nhẹ ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến kết quả sinh kế vùng ĐBSCL. Lao động Hà Nội. Dựa trên kết quả nghiên cứu, luận án đã đưa ra một số khuyến nghị đối với Chính 5. Vũ Hoàng Ngân, Hoàng Thị Huệ, Phạm Hương Quỳnh (2017), ‘Đánh giá tính dễ phủ, chính quyền địa phương liên quan đến quản lý nguồn nước, điều chỉnh quy hoạch tổng bị tổn thương của sinh kế do biến biến đổi khí hậu: Tiếp cận dựa trên phương thể, lựa chọn cây trồng vật nuôi phù hợp đặc biệt quan tâm nhiều hơn đến nhóm hộ gia đình pháp lập bản đồ nhận thức mờ’, Hội thảo khoa học quốc gia Nghiên cứu cơ sở có nguy cơ dễ bị tổn thương sinh kế cao, tập trung vào các chính sách giáo dục và đào tạo, khoa học về lý luận và thực tiễn xây dựng mô hình phát triển kinh tế thích ứng với trợ cấp, phát triển thị trường lao động, hỗ trợ tạo việc làm, tự tạo việc làm cho người lao xâm nhập mặn trong điều kiện biến đổi khí hậu, NXB Lao động Hà Nội. động, nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng, chất lượng hình thức hỗ trợ và tăng cường phương tiện thông tin về ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến sinh kế của người dân. Các hộ gia đình vùng ĐBSCL cũng cần tích cực tiếp cận các thông tin truyền thông, tham gia các lớp tập huấn, đào tạo, hội nghị, hội thảo…để nâng cao kiến thức về biến đổi khí hậu nói chung và xâm nhập mặn nói riêng nhằm giảm thiểu mức độ dễ bị tổn thương và nâng cao kết quả sinh kế của người dân.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2