intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Sinh học: Nghiên cứu các cơ sở khoa học nhằm bảo tồn và phát triển bền vững các loài quý hiếm thuộc chi Tế tân (Asarum L.) ở Việt Nam

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:31

96
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án giúp phân loại, giúp cho việc nhận biết chính xác các loài thuộc chi Tế tân hiện có ở Việt Nam, phục vụ cho yêu cầu bảo tồn; cung cấp dẫn liệu về hiện trạng, khả năng tái sinh tự nhiên, nhất là khả năng nhân trồng, phục vụ cho yêu cầu bảo tồn nguyên vị, chuyển vị và phát triển trồng thêm một số loài Tế tân đang có nhu cầu sử dụng hiện nay. Luận án nghiên cứu về thành phần hóa học và một số tác dụng sinh học nhằm bổ sung thêm các dẫn liệu về giá trị nguồn gen và giá trị sử dụng trong việc bảo tồn một số loài thuộc chi Tế tân hiện có ở Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Sinh học: Nghiên cứu các cơ sở khoa học nhằm bảo tồn và phát triển bền vững các loài quý hiếm thuộc chi Tế tân (Asarum L.) ở Việt Nam

  1. 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ  VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC ĐÀO TẠO VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT NGUYỄN ANH TUẤN NGHIÊN CỨU CÁC CƠ SỞ KHOA HỌC NHẰM  BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC  LOÀI QUÝ HIẾM TRONG CHI TẾ TÂN (ASARUM   L.) Ở VIỆT NAM TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC Chuyên ngành:  THỰC VẬT HỌC                 Mã số:  62. 42. 01. 11
  2. 2 HÀ NỘI, 2015 Công trình được hoàn thành tại:  Viện Sinh thái và Tài nguyên  sinh vật, Viện Hàn lâm KH & CN Việt Nam Viện Sinh thái và Tài  nguyên Sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Trần Huy Thái 2. PGS. TS. Lê Mai Hương Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Khắc Khôi Phản biện 2: GS. TSKH. Trần Văn Sung Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Trung Thành Luận án sẽ  được bảo vệ  trước Hội đồng đánh giá luận án cấp  Viện  Vào hồi: 09 giờ 00 ngày 07 tháng 07 năm 2015
  3. 3 Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư  viện Quốc gia Thư viện Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật
  4. 4 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Họ Mộc hương (Aristolochiaceae) gồm có 2 phân họ  chính là Asaroideae  (gồm 3 chi:  Saruma,  Asarum  và  Hexastylis) và Aristolochioideae (gồm 7   chi: Asiphonia, Thottea, Isotrema, Pararistolochia, Euglypha, Holostylis và  Aristolochia). Trong đó, chi Tế  tân (Asarum  L.) có khoảng 90 loài, gồm  các cây thân cỏ, phát triển  ở các vùng ôn đới của Bắc bán cầu. Phần lớn   các loài phân bố   ở  vùng Đông Á, tại các khu vực Hymalaya đến lục địa  Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và đảo Sakhalin; Bắc Mỹ và  một loài ở châu Âu (Asarum europaeum).  Theo Phạm Hoàng Hộ  (1999), Nguyễn Tiến Bân (2003) và Võ Văn Chi  (2003), chi Tế tân (Asarum L.) ở Việt Nam gồm có 7 loài (Asarum balansae  Franch;  Asarum blumei  Duch. in DC.;  Asarum caudigerum  Hance;  Asarum  glabrum Merr.; Asarum petelotii O.C. Schmidt; Asarum reticulatum Merr. và  Asarum wulingense Liang), phân bố chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam   (Hà Giang, Lào Cai, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh   Phúc, Hà Nội, Hà Tĩnh và Quảng Bình). Có 3 loài được ghi trong Sách Đỏ  Việt Nam (1996, 2007) là  Asarum balansae  Franch.;  Asarum caudigerum  Hance và Asarum glabrum Merr.. Trong đó, loài Biến hóa núi cao ( Asarum  balansae) được phân hạng EN A1c,d và là yếu tố đặc hữu Bắc Bộ. Đây là   loài đã xếp hạng ở mức Nguy cấp, có nguy cơ tuyệt chủng ngoài tự nhiên   trong một tương lai gần, quần thể của chúng đã suy giảm khoảng 50% do  nơi cư  trú bị  thu hẹp và tình trạng khai thác quá mức; loài Thổ  tế  tân   (Asarum caudigerum) được phân hạng VU A1a,c,d; loài Hoa tiên (Asarum  glabrum) được phân hạng VU A1c.d. Đến nay, những nghiên cứu ở  trong   nước về các loài thuộc chi Tế tân (Asarum L.) hầu như chưa có gì đáng kể.  Các loài thuộc chi Tế  tân (Asarum  L.) đang có nguy cơ  lớn sẽ  bị  tuyệt   chủng ngoài thiên nhiên trong một tương lai tương đối gần, quần thể  của   chúng suy giảm ít nhất khoảng 20%. Nghiên cứu các cơ  sở  khoa học để  bảo tồn, phục hồi và sử dụng bền vững tính đa dạng của các loài thuộc chi  Tế  tân (Asarum L.)  ở Việt Nam là vấn đề  thời sự  mang tính cấp thiết có   nhiều ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn cao. Chính vì vậy, chúng tôi đã  thực hiện đề  tài: “Nghiên cứu các cơ  sở  khoa học nhằm bảo tồn và  phát triển bền vững các loài quý hiếm thuộc chi Tế tân (Asarum L.) ở  Việt Nam”. 2. Mục tiêu của đề tài  ­ Mục tiêu chung: 
  5. 5 Cung cấp một số dẫn liệu khoa học  về  đặc điểm sinh học, thành phần  hóa học cũng như  về  giá trị  sử  dụng của một số  loài thuộc chi Tế  tân   (Asarum  L.), nhằm góp phần bảo tồn có hiệu quả  các loài này  ở  Việt   Nam hiện nay. ­ Mục tiêu cụ thể: + Chỉ ra được các đặc điểm nổi bật về hình thái thực vật, cùng với khóa   phân loại, giúp cho việc nhận biết chính xác các loài thuộc chi  Tế  tân  (Asarum L.) hiện có ở Việt Nam, phục vụ cho yêu cầu bảo tồn. + Cung cấp dẫn liệu về  hiện trạng, khả  năng tái sinh tự  nhiên, nhất là  khả  năng nhân trồng, phục vụ  cho yêu cầu bảo tồn nguyên vị  (in situ),  chuyển vị  (ex situ) và phát triển trồng thêm một số  loài Tế  tân đang có   nhu cầu sử dụng hiện nay. + Thông qua việc nghiên cứu về  thành phần hóa học và một số tác dụng  sinh học (in vitro) nhằm bổ sung thêm các dẫn liệu về  giá trị  nguồn gen   và   giá   trị   sử   dụng   trong   việc   bảo   tồn   một   số   loài   thuộc   chi   Tế   tân  (Asarum L.) hiện có ở Việt Nam. 3. Ý nghĩa của đề tài  Đề tài góp phần bổ sung và hoàn thiện dần về mặt phân loại, bảo tồn và  phát triển bền vững các loài quí hiếm thuộc chi Tế  tân (Asarum  L.) ở  Việt Nam. 4. Những điểm mới của luận án ­   Bổ   sung   hai   loài  Asarum   cordifolium  C.   E.   C.   Fischer  và  Asarum  yunnanense T. Sugaw., Ogisu & C. Y. Cheng cho hệ thực vật Việt Nam. ­ Lần đầu tiên nhóm chất isocoumarin được phát hiện từ loài Tế tân nhẵn   (Asarum glabrum); đã phát hiện một hợp chất mới từ loài Tế tân balansa  (Asarum   balansae)   là   1­(3­hydroxy­4­metoxyphenyl)propan­1,2­diol  (ABW4.2) và cũng là một phenylpropanoid mới. ­   Lần   đầu   tiên   thử   nghiệm   hoạt   tính   sinh   học   của   03   loài  Asarum  balansae, Asarum caudigerum và Asarum glabrum  ở  Việt Nam: thử  hoạt   tính kháng vi sinh vật kiểm định, hoạt tính chống oxy hóa và hoạt tính gây   độc tế bào.  5. Bố cục của luận án Luận án bao gồm 107 trang, 21 bảng, 31 hình, 3 sơ đồ và 20 phụ lục. Luận án gồm các phần: Mở  đầu (3 trang); Chương 1: Tổng quan nghiên   cứu (12 trang); Chương 2: Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên  cứu (16 trang); Chương 3: Kết quả nghiên cứu (73 trang); Kết luận, Kiến  nghị  (3 trang); Danh mục các công trình đã công bố của tác giả liên quan   đến luận án; Tài liệu tham khảo; Phụ lục.
  6. 6 CHƯƠNG I:  TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 1.1. VỊ TRÍ PHÂN LOẠI CỦA CHI TẾ TÂN (ASARUM L.)  Họ Mộc hương (Aristolochiaceae) gồm có 2 phân họ  chính là Asaroideae  (gồm 3 chi:  Saruma,  Asarum  và  Hexastylis) và Aristolochioideae (gồm 7   chi: Asiphonia, Thottea, Isotrema, Pararistolochia, Euglypha, Holostylis và  Aristolochia). Chi Tế tân (Asarum L.) được Linnaeus đặt tên lần đầu tiên   vào năm 1753, khi đó, Linnaeus xếp chi Hexastylis thuộc chi Asarum. Đến  năm 1825, Rafinesque tách chi Hexastylis từ chi Asarum dựa trên hình thái  và cấu tạo của lá. Chi  Hexastylis có phiến lá dày và xanh, trong khi chi   Asarum có phiến lá mỏng và sớm rụng hơn. Một điểm khác biệt đáng chú   ý là, thực tế, thân và hoa của chi Hexastylis không có lông trên bề mặt của   chúng, trong khi thân và hoa của chi Asarum có lông tơ. Ngoài ra, các thùy  đài hoa của các loài trong chi Asarum có xu hướng dài hơn và sắc nét hơn  của chi  Hexastylis. Như  một kết quả  của những khác biệt về  hình thái,  các nhà phân loại học đã công nhận Hexastylis và Asarum là hai chi riêng  biệt. Theo các tài liệu của Takhtajan, Brummitt, Cronquist và Robert F. Thorne,  chi Tế  tân (Asarum  L.) được xếp theo các bậc phân loại khác nhau tùy   theo các hệ thống phân loại. Các nhà khoa học Việt Nam như Nguyễn Tiến Bân, Nguyễn Nghĩa Thìn,   Võ Văn Chi, Vũ Văn Chuyên có quan điểm giống với hệ thống phân loại  của   Takhtajan   (2009),   chi   Tế   tân   (Asarum  L.)   được   xếp   vào   họ  Aristolochiaceae, bộ  Piperales, phân lớp Magnoliidae, lớp Magnoliopsida   (Dicotyledons), ngành Magnoliophyta (hình 1.1). 1.2. TÌNH  HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ  CÁC LOÀI THUỘC CHI TẾ  TÂN (ASARUM L.)  Chi Tế  tân (Asarum  L.) thuộc họ  Mộc hương (Aristolochiaceae)   được  Linnaeus (1753) đặt tên và mô tả. Trên thế giới, chi Tế tân (Asarum L.) có  khoảng 90 loài, chúng phân bố chủ yếu  ở vùng ôn đới của Bắc bán cầu,   các khu vực Đông Á từ  Hymalaya đến lục địa Trung Quốc, Đài Loan,  Nhật Bản, Hàn Quốc và đảo Sakhalin; Bắc Mỹ  và một loài  ở  châu Âu   (Asarum europaeum).  Việt Nam, hiện tại có 7 loài (Asarum balansae Franch; A. blumei Duch. in  DC.; A. caudigerum Hance;  A. glabrum Merr.;  A. petelotii O. C. Schmidt;  A. reticulatum  Merr. và  A. wulingense  Liang), chúng phân bố  chủ  yếu  ở  các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Riêng loài  A. wulingense được phát hiện  ở  miền Trung tại Hà Tĩnh (Hương Sơn, Kéo Nưa).
  7. 7 1.3.   NGHIÊN   CỨU   VỀ   THÀNH  PHẦN   HÓA   HỌC   CỦA   CÁC  LOÀI TRONG CHI TẾ TÂN (ASARUM L.)  Những thông tin đã có cho biết, các loài   trong chi Tế  tân (Asarum  L.)  thường có  chứa  tinh dầu với các thành phần chính là metyl eugenol,   ­ pinen, myrcen, borneol, safrol, 1,8­cineol và asafrol… Ngoài ra, chúng còn  chứa   các   hợp   chất   khác   như   aristolochic   acid,   các   secquiterpen,   các   sterol…  Li   Xianggao   (1988)   đã   nghiên   cứu   thành   phần   hóa   học   của   loài  A.  heterotropoides var. mandshuricum (Maxim) Kitag. và đã xác định được 43   hợp chất trong tinh dầu của thân, lá và rễ. Hàm lượng tinh dầu được  chiết suất: thân (2,3%), lá (0,65%) và rễ (4,06%) Zhang và nnk. (2001) đã phân tích thành phần hóa học  ở  rễ  và thân của   loài Asarum longerhizomatosum C.F. Liang & C.S. Yang bằng các phương  pháp sắc ký và quang phổ, đã phân lập được 5 hợp chất từ  dịch chiết   ethanol   là  asarone;   β­sitosterol;   2,4,5­trimethoxybenzaldehyde;   4­(2,4,5­ trimethoxyphenyl)­3­en­butylone và 3­β­hydroxystigmast­5­en­7­one. Ở  Việt Nam, các công trình nghiên cứu về  thành phần hóa học của các  loài trong chi Tế tân (Asarum L.) rất hạn chế.  1.4. NGHIÊN CỨU VỀ  DƯỢC TÍNH TỪ  CÁC LOÀI TRONG CHI   TẾ TÂN (ASARUM L.)  Trong y học dân gian, đa số các loài trong chi Tế tân ( Asarum L.) được sử  dụng làm thuốc chữa ho, chữa cảm sốt, cảm lạnh, viêm phế  quản, viêm  nhiễm răng lợi và tê thấp. Một số loài lại làm tăng sự  phát triển u tuyến  phổi và ung thư tuyến phổi.  1.5.  NGHIÊN  CỨU BẢO   TỒN  CÁC  LOÀI TRONG  CHI  TẾ  TÂN   (ASARUM L.) Ở VIỆT NAM CHƯƠNG II: VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU 2.1.1. Đối tượng nghiên cứu Các loài đại diện của chi Tế  tân (Asarum  L.)  ở  Việt Nam, bao gồm các  mẫu khô lưu giữ tại các phòng tiêu bản thực vật  và các mẫu tươi thu được   tại Lào Cai (Sa Pa), Hà Giang (Quản Bạ), Tuyên Quang (Na Hang), Vĩnh   Phúc   (Tam   Đảo),   Hà   Nội   (Ba   Vì),   Hòa   Bình   (Lạc   Sơn),   Thanh   Hóa  (Thường Xuân) và Quảng Trị (Hướng Hóa). 2.1.2. Sinh vật và các dòng tế bào ung thư thí nghiệm 
  8. 8 Các   chủng   vi   sinh   vật   kiểm   định   được cung cấp từ  phòng Sinh học  thực nghiệm ­ Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên, gồm: Vi khuẩn Gr   (+); Vi khuẩn Gr (­); Nấm men; Nấm mốc. Các dòng tế bào ung thư được cung cấp từ phòng Sinh học thực nghiệm ­   Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên, gồm:  Dòng Fl, dòng RD, dòng  Hep­G2, và dòng Lu. 2.1.3. Hóa chất và thiết bị 2.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2.2.1. Các nội dung nghiên cứu về sinh học 2.2.2. Nghiên cứu khả năng sử dụng  ­ Các nội dung nghiên cứu về hóa học: ­ Các nội dung nghiên cứu thử nghiệm: 2.3. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU Điều tra, nghiên cứu và khảo sát tại một số tỉnh miền Bắc và miền Trung   Việt Nam, như Quản Bạ (Hà Giang), VQG Hoàng Liên (Sa Pa, Lào Cai),  KBTTN Na Hang (Tuyên Quang), VQG Tam Đảo (Vĩnh Phúc), VQG Ba  Vì (Hà Nội), Lạc Sơn (Hòa Bình), KBTTN Xuân Liên (Thường Xuân,  Thanh Hóa), Hướng Hóa (Quảng Trị) và quần đảo Cát Bà (Hải Phòng). 2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.4.1. Phương pháp điều tra thực vật Điều tra theo tuyến và xác lập các ô tiêu chuẩn (OTC) 2.4.2. Phương pháp phân loại thực vật và thảm thực vật Phân loại thực vật:  Phân loại thảm thực vật:  2.4.3. Phương pháp xác định đặc điểm tái sinh  Chất lượng cây tái sinh được tính theo công thức: N% = (n   100)/N.  2.4.4. Phương pháp nhân giống vô tính Xây dựng vườn giống Nhân giống từ hạt:  Nhân giống từ hom:  Chăm sóc và bảo quản:  2.4.5. Phương pháp nghiên cứu thành phần hóa học của tinh dầu Sắc ký khí­khối phổ (GC/MS):  2.4.6. Phương pháp phân lập các hợp chất 2.4.6.1. Phương pháp chiết tách và phân lập các hợp chất 2.4.6.2. Phương pháp xác định cấu trúc các hợp chất 2.4.7. Phương pháp thử hoạt tính sinh học 2.4.7.1. Đánh giá hoạt tính kháng vi sinh vật (VSV)
  9. 9 2.4.7.2. Đánh giá hoạt tính gây độc   tế bào 2.5. XỬ LÝ SỐ LIỆU Bằng phần mềm Microsoft Excel. CHƯƠNG III:  KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1.  NGHIÊN   CỨU   PHÂN   LOẠI,   ĐẶC   ĐIỂM   SINH   HỌC   VÀ  BẢO TỒN CÁC LOÀI THUỘC CHI TẾ TÂN (ASARUM L.)  Ở VIỆT NAM 3.1.1. Nghiên cứu phân loại và đặc điểm của các loài thuộc chi Tế  tân (Asarum L.) ở Việt Nam 3.1.1.1. Đặc điểm của chi Tế tân (Asarum L.) ở Việt Nam Cỏ  nhiều năm, cao từ  20­30 cm, có lông hay nhẵn; thân rễ  ngắn, thẳng   hoặc thân rễ  dài, bò ngang (Asarum cordifolium); lóng dài 2­5 cm; thân  thường phân nhánh và mang nhiều rễ con; thân và rễ thường có mùi thơm  đặc biệt.  Lá: Thường mọc đơn độc (A. glabrum, A. petelotii...) hay thành cặp (A.  caudigerum, A. yunnanense), có lông hay nhẵn; cuống lá dài; phiến lá hình  trứng tròn (A. caudigerum,  A. cordifolium), trứng thuôn (A. balansae,  A.  yunnanense), hoặc hình trứng tam giác hay hình mác tam giác (A. glabrum,  A. petelotii); gốc lá hình tim, hình chữ V, hình tai, hoặc hình tim dạng tai;   chóp   lá   nhọn;   mép   lá   nguyên   hoặc   có   răng   nhỏ   không   đều   ( A.  reticulatum); bề mặt trên của phiến lá có màu sắc đồng nhất hoặc có các   vết màu trắng khảm theo đường gân (A. yunnanense) hay dọc theo hai bên  của gân chính (A. petelotii); gân hình mạng chân vịt, 5­7 gân chính, 2­4  cặp gân phụ (hình 3.1). Lá vảy: Thường có hình mũi giáo hoặc hình trứng thuôn nhọn đầu, phát   triển hàng năm từ 2­4 lá, 1­2 lá rụng và hoa phát triển sau cùng (hình 3.2).  Hoa:  Thường   mọc   đơn   độc   ở   phần   chót,   hiếm   khi   thành   cặp   ( A.  balansae); cuống hoa dài 2­5 cm, có lông tơ  (A. cordifolium) hoặc không.  Đài hợp theo các mức độ  khác nhau, các lá đài gắn lại với nhau và tạo   thành   ống   đài   hoặc   rời   và   tạo   thành   ống   đài   giả   phía   trên   bầu   ( A.  caudigerum,  A.   cordifolium);   ống   đài   hình   quả   đấu,   hình   nhạc,   hình  chuông, hình phễu, hay hình trụ, thường tạo vết hoặc khảm ở mặt trong,   hẹp hoặc mở   ở  họng (miệng  ống đài), họng có hoặc không có mấu lồi   hẹp; thùy lá đài 3, thẳng, mở  rộng, hoặc uốn ngược, chóp thùy đài vuốt   nhọn hình kim hoặc không vuốt nhọn. Nhị 12; chỉ nhị dài hơn bao phấn; 
  10. 10 bao phấn hướng ra ngoài, mở  dọc.  Bầu hạ hoặc trung, 6 ô; noãn hoàn  toàn hợp sinh. Vòi nhụy 6, rời hoặc nối liền thành cột, chóp nguyên hoặc   xẻ thành 2 thùy; núm nhụy phần chót hoặc phần bên (hình 3.3).  Quả: nạc hoặc nang xốp, tách ra không đều đặn khi chín.  Hạt: thường màu đen lồi  ở  lưng, phẳng hoặc tạo nếp  ở mặt bụng, với   phôi nạc ở đáy (hình 3.4).  3.1.1.2. Khóa định loại và đặc điểm của các loài thuộc chi Tế  tân  (Asarum L.) ở Việt Nam 1a. Vòi nhụy hợp lại thành cột, đỉnh vòi nhụy nguyên. 2a. Lá đài hợp gắn lại ở thành bầu, tạo thành ống đài, thùy của đài không  có đuôi ở chóp 3a. Phiến lá 16­18 × 9­11 cm, mặt trên có vệt trắng dọc theo gân; núm  nhụy   màu   trắng.............................................................................1.  A.   yunnanense 3b. Phiến lá 14­23   9­13 cm, mặt trên không có vệt trắng dọc theo gân;  núm   nhụy   có   đốm   màu   tím........................................................2.  A.  balansae 2b. Lá đài rời gắn lại  ở thành bầu (có thời điểm chụm lại nhưng không   hợp), thùy của đài có đuôi nhọn ở chóp 4a. Lá hình tim, cỡ  8­12 × 7­8 cm; mặt ngoài lá đài màu đỏ, thùy đài cỡ  2,0   ×   1,2   cm;   có   đuôi   nhọn   dài   1­1,5   cm.   Bầu   trung..................3.   A.   cordifolium 4b. Lá hình tim, cỡ 13­24 × 11­18 cm; mặt ngoài lá đài đỏ nhạt rồi xanh ở  phía   trên,   thùy   đài   cỡ   2,5   ×   1,2   cm;   có   đuôi   nhọn   dài   1,5­3,3   cm.   Bầu   hạ...................................................................................4.  A.  caudigerum 1b. Vòi nhụy rời, đỉnh vòi nhụy chẻ 2 hay có khuyết. 5a.   Đài  hợp  hình   ống  dài   3­3,5  cm,  thắt  lại   ở  1/3  phía  trên........5.   A.  glabrum 5b. Đài hợp hình trụ hay mở rộng dần, không thắt lại như trên. 6a. Ống đài và mặt dưới của phiến lá phủ lông tơ màu vàng nâu dày đặc,   cuống   hoa   uốn   ngược,   phủ   lông...……………......................6.  A.  wulingense 6b. Ống đài và mặt dưới của phiến lá nhẵn hay chỉ có lông thưa ở gân lá;   cuống hoa thẳng, thường nhẵn. 7a. Ống đài thường nghiêng sang một bên, không cân đối, vùng cổ  mảnh,   hẹp;   bầu   trung.........................................………………………7.  A.  petelotii
  11. 11 7b.   Ống   đài   không   nghiêng,   cân  đối, vùng cổ rộng; bầu hạ. 8a. Ống đài hình ống, phồng xung quanh bầu; phiến lá hình tim mũi giáo,  mép   không   có   răng........................................................................8.  A.  blumei 8b. Ống đài hình trụ, mở rộng dần; phiến lá hình tim thuôn, như  da, mép   có   răng   nhỏ   không   đều...............................................................9.  A.  reticulatum  3.1.1.2.1. Asarum yunnanense T. Sugaw., Ogisu & C. Y. Cheng ­ Tế tân  vân nam  Cỏ nhiều năm, cao 20­30 cm, đường kính thân 3­5 mm, có lông thưa ở thân   già, lông trắng dày ở thân non; thân rễ có lóng 2­3 cm, mang nhiều rễ con.   Lá mọc cách, thường 1­2 lá;  cuống lá dài 7­12 cm, có lông trắng dày;  phiến  lá hình tim­trứng, 16­18 × 9­11 cm; gốc lá hình tim; chóp lá nhọn; mép lá  nguyên, có lông thưa; mặt trên của phiến lá có vệt trắng dọc theo gân, có   lông trắng thưa; mặt dưới có lông mịn thưa  ở  gân; gân gốc 5, gân phụ  3  cặp. Lá vảy không rõ. Cuống hoa uốn cong, lệch sang bên, dài 3,5 cm, có   lông trắng, thường mọc rủ  xuống. Đài gần đối xứng hai bên, hơi đỏ  tía,  hình chuông. Lá đài hợp gắn lại ở thành bầu, tạo thành ống đài, mặt ngoài   có nhiều lông trắng, mặt trong vàng nhạt, có nhiều lông tơ đỏ sẩm, có các   tia đốm tròn màu vàng nhạt; ống đài hình nón ngược; thùy đài 3, mở rộng,  hình tam giác tròn. Nhị  12; chỉ  nhị  dài 0,3 mm, ngắn hơn bao phấn; bao   phấn 3 mm; trung đới 0,8 mm, rộng hơn bao phấn, hình trụ; vòi nhụy hợp  lại thành  ống, đầu nhụy 6, nguyên, núm nhụy màu trắng, phần cuối của  núm nhụy tỏa xuống. Bầu dưới, 6 ô. Quả phát triển trong bao hoa tồn tại,   có lông trắng thưa. Hạt nhỏ, 12­27 hạt, màu nâu đen, nhẵn bóng. Loc. class.:  China: Yunnan: Hekou, 1987.  Type­Proto.:  T. Sugawara, M.  Ogisu & C.Y. Cheng, 890425. HT: PE, IT: PEM, MAK. Sinh học và sinh thái: Mùa ra hoa vào tháng 11­12, quả chín vào tháng 6­ 7 năm sau, hạt phát tán gần, nhiều cây con mọc xung quanh.  Phân bố: Tuyên Quang (Na Hang). Còn có ở Trung Quốc.  Mẫu nghiên cứu: TUYÊN QUANG, NAT11128 (HN); Trung Quốc, No.  890425; Nhật Bản, MAK257702. Giá trị sử dụng: Chưa rõ.
  12. 12 Ảnh ­ Tế tân vân  nam (Asarum  yunnanense T.  Sugaw., Ogisu & C.  Y. Cheng) chụp tại  KBTTN Na Hang  (Tuyên Quang) 3.1.1.2.2. Asarum balansae Franch ­ Tế tân balansa  Cỏ  nhiều năm, cao 9­23 cm. Thân rễ  tròn, có đốt ngắn 1,5­3 cm, phân   nhánh, mang nhiều rễ con. Lá gồm 2­5 cái, mọc so le, có cuống dài 11­16   cm; phiến lá dày, hình tim thuôn 14­23   9­13 cm; có lông ở cả 2 mặt, mặt  dưới lông tập trung nhiều ở gân lá, mặt trên có nhiều túm lông trắng, ngắn;   mép lá nguyên. Hoa 1­2 cái, mọc riêng lẻ   ở  kẽ  lá hoặc  ở  ngọn, hoa có   cuống dài 3­4 cm, có lông trắng. Lá đài hợp, đầu chia thành 3 thùy; mặt   ngoài màu xanh; mặt trong màu vàng nhạt, phủ lông tím dày. Nhị 12, chỉ nhị  ngắn, trung đới vượt lên bao phấn; vòi nhụy hợp lại thành ống, đầu nhụy  6, nguyên, núm nhụy có đốm màu tím. Quả phát triển trong bao hoa tồn tại,   bên ngoài có những hàng lông trắng chạy dọc. Hạt nhỏ (12­30 hạt), màu   đen, nhẵn bóng; số hạt trung bình của quả là 19,5. Loc. class.:  Tonkin, mont Ba Vi pus de la pagode Dein­Touran.  Typus:  Balansa 3160 (P). Sinh học và sinh thái: Loài Tế tân balansa (Asarum balansae Franch) bắt  đầu ra hoa từ đầu tháng 10; hoa nở vào đầu tháng 12; quả chín và phát tán  hạt vào tháng 7­8 năm sau.  Phân bố: Tuyên Quang (Na Hang), Hà Nội (Ba Vì), Hòa Bình (Lạc Sơn),  Thanh Hóa (Thường Xuân) và Quảng Trị  (Hướng Hóa). Còn có  ở  Trung   Quốc và Nhật Bản.  Mẫu   nghiên   cứu:  TUYÊN   QUANG,   NAT11121   (HN);   HÀ   NỘI,  NAT12031 (HN), 0217 (VNU), 3160 (NMNH);  HÒA BÌNH, CPC 1695  (HN); THANH HÓA, XL804 (HN); QUẢNG TRỊ, CPC 2819 (HN). Giá trị sử dụng: Rễ và thân rễ dùng làm thuốc ho, chữa viêm phế quản,  cảm sốt và tê thấp. 
  13. 13 Ảnh ­ Tế tân balansa  (Asarum balansae  Franch)  chụp tại KBTTN Na  Hang (Tuyên Quang) 3.1.1.2.3. Asarum cordifolium C. E. C. Fischer ­ Tế tân lá hình tim  Cây thảo, sống nhiều năm, thân rễ nằm ngang, cao 15­25 cm, có lóng 2­3  cm. Thân rễ  tròn, có lông thưa  ở  thân già, lông trắng dày  ở  thân non. Lá  mọc cách, 1­4 lá; hình tim 8­12 × 7­8 cm; mép lá nguyên, có lông trắng   thưa; 2 mặt lá phủ  lông trắng; cuống lá 12­20 cm, có lông trắng dày  ở  cuống lá non; gân đáy 5. Hoa đơn độc, mọc  ở  ngọn, màu đỏ, có nhiều   lông trắng ở mặt ngoài; cuống dài 2 cm, có nhiều lông trắng. Lá vảy hình  mũi giáo. Đài rời; lá đài màu đỏ, cỡ  2,0 × 1,2 cm;  ở chóp lá đài đột ngột   thót lại thành đuôi nhọn, dài 1­1,5 cm. Cánh hoa 3, dạng hình kim, màu   đỏ, dài 0,3 cm. Nhị 12; chỉ nhị dài bằng bao phấn, màu đỏ tím; trung đới   hình lưỡi, vượt bao phấn. Vòi nhụy 6, hợp; cao bằng bao phấn;  đỉnh   nguyên. Quả phát triển trong bao hoa tồn tại, màu đỏ nhạt, có lông trắng  dày; bầu trung, 6 ô. Hạt nhỏ, 15­30 hạt, màu nâu đen, nhẵn. Loc. class.: India (Asam), Myanma (Chin, Kachin và Sagaing). Syntypus:  Kingdon Ward, F., 8123 (K), Kingdon Ward F., 6661 (K). Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa vào đầu tháng 10, hoa nở vào đầu tháng   11, phát tán hạt vào tháng 6­7 năm sau, hạt phát tán gần.  Phân bố: Lào Cai (Bản Khoang, Bãi Rác, Tả  Phìn, Tả  Van, Cát Cát ­ Sa  Pa). Còn gặp ở phía Nam Himalayan, Assam (Ấn Độ) và Bắc Myanma. Mẫu   nghiên   cứu:  LÀO   CAI,   NAT11129   (HN);   HÀ   NỘI,   3719­HNU;  Kew, K000634499, K000634500 (K). Giá trị sử dụng: Người Dao Đỏ (Sa Pa, Lào Cai) sử dụng làm thuốc tắm  trị đau lưng, nhiễm trùng vết thương và trị bệnh trĩ.
  14. 14 Tình trạng: Loài Tế tân lá hình tim  (Asarum cordifolium) mọc dưới tán  rừng thảo quả tại Bản Khoang (Sa Pa, Lào Cai) nên ít nhiều bị  tác động  bởi hoạt động canh tác của người dân trồng thảo quả.  Ảnh ­ Tế tân lá hình tim  (Asarum cordifolium C.  E. C. Fischer )  chụp tại VQG Hoàng  Liên (Sa Pa, Lào Cai) 3.1.1.2.4. Asarum caudigerum Hance ­ Tế tân hoa có đuôi Cây thảo, sống nhiều năm, cao 15­30 cm. Thân rễ tròn, có đốt ngắn 1­1,5   cm, phân nhánh, mang nhiều rễ  con. Cây đẻ  nhánh khỏe và nhiều nên   thường   phát   triển   thành   từng   khóm.   Lá   gồm   2­6   cái,   mọc   thành   cặp,  cuống dài 18­30 cm; phiến lá dày, hình tim, 13­24 × 11­18 cm; ở mặt dưới   có nhiều lông trắng, tập trung nhiều ở gân lá; mặt trên có lông trắng thưa,   chủ yếu ở gân; gân đáy 5; mép lá nguyên. Hoa đơn độc, mọc ở kẽ lá hoặc  ở ngọn; cuống hoa dài 1­5 cm, có lông trắng. Lá vảy 3. Đài rời;  mặt ngoài  lá đài đỏ nhạt rồi xanh ở phía trên , mặt trong màu đỏ, cỡ 2,5 × 1,2 cm; ở  chóp lá đài đột ngột thót lại thành đuôi nhọn, dài 1,5­3,3 cm. Cánh hoa 3,   dạng hình kim, dài 0,3 cm, màu tím nhạt. Nhị  12; chỉ  nhị  dài bằng bao  phấn, màu đỏ tím; trung đới hình lưỡi, vượt bao phấn. Nhụy 6, vòi nhụy  hợp lại thành cột, đỉnh vòi nhụy nguyên, cao bằng bao phấn. Quả  phát   triển trong bao hoa tồn tại, màu tím, có lông trắng dày; bầu dưới, 6 ô. Hạt  nhỏ, 60­90 hạt, màu nâu đen, nhẵn. Loc. class.: In prov. Cantonensi, secus fl. East River. Typus: Herb. Propr. n.  21366. Sinh học và sinh thái: Cây bắt đầu ra hoa từ tháng 11­12; hoa nở vào đầu   tháng 1 năm sau; quả chín và phát tán hạt vào tháng 3­4.  Phân bố:  Hà Giang (Phó Bảng, Quản Bạ) và Tuyên Quang (Na Hang).   Còn có ở Trung Quốc. Mẫu nghiên cứu:  TUYÊN QUANG,  NAT12012 (HN); HÀ GIANG, CPC  199 (HN) và CPC 242 (HN); Kew, K000634520; Natural History Museum, 
  15. 15 BM000901357;   Herbarium   Musei  Parisiensis,   P01645340…;   Trung  Quốc (Đài Loan), 041317…; Trung Quốc (Xishuangbanna), 2844, 065815;   Virtual Herbaria Austria, 2770. Giá trị sử dụng: Rễ  và thân rễ  làm thuốc ho, chữa viêm họng, cảm sốt,  cảm lạnh. Ảnh ­ Tế tân hoa có đuôi  (Asarum caudigerum Hance)  chụp tại KBTTN Na Hang  (Tuyên Quang) 3.1.1.2.5. Asarum glabrum Merr. ­ Tế tân nhẵn  Cây thảo sống nhiều năm, cao 20­30 cm. Thân rễ  ngắn, tròn, có đốt;   mang nhiều rễ  phụ  dài; có thể  phân nhánh. Lá mọc so le, gồm 2­3 cái;   cuống dài 10­17 cm, nhẵn, khi non màu tía sau chuyển thành màu lục  nhạt. Phiến lá mỏng, hình tim nhọn đầu, cỡ  13­18 × 8­12 cm; gốc lá tạo   thành 2 thùy, gần nhọn, cách xa nhau; mặt trên lá nhẵn, mặt dưới có lông   thưa ở gân; mép nguyên. Hoa thường chỉ có 1 cái, mọc ở kẽ lá; cuống hoa  dài 3 cm, màu tím nâu, thường mọc rủ xuống, nhưng hoa lại hướng cong   lên. Lá đài hợp thành  ống 3­3,5 cm, thắt lại 1/3 phía trên, màu nâu xám  hình phễu hơi cong; đầu chia thành 3 thùy tam giác hay hình mác, mặt   ngoài có 7 đường vân chạy dọc; họng màu tím nâu có vân trắng. Nhị 12,   chỉ nhị ngắn, màu đỏ tím; trung đới tròn đầu, vượt trên bao phấn. Nhụy 6,  vòi nhụy rời; đỉnh vòi nhụy chẻ  làm 2, hình chữ  V. Quả  phát triển trong   bao hoa tồn tại, màu nâu xám nhạt. Hạt nhỏ, màu đen. Loc. class.: Vietnam: Tonkin: Hanoi, Mt. Bavi, open forests, ca. 600 m, 2  July 1940. Type­Proto.: Petelot 2611 (HT: A). Sinh học và sinh thái:  Mùa hoa tháng 5­6, quả  tháng 7­9. Hạt phát tán  gần, nên thấy cây con xung quanh gốc cây mẹ.  Phân bố: Lào Cai (Sa Pa), Hà Giang (Quản Bạ), Vĩnh Phúc (Tam Đảo) và  Hà Nội (Ba Vì). Mẫu nghiên cứu: LÀO CAI, NAT13053; VĨNH PHÚC, NAT12093 (HN);  HÀ NỘI, NAT11073 (HN), 0219 (HNU).
  16. 16 Giá trị sử dụng: Rễ và thân rễ của  loài Tế tân nhẵn (Asarum glabrum)  được dùng làm thuốc ho, chữa viêm họng, hoa ngâm rượu làm thuốc bổ. Ảnh ­ Tế tân nhẵn  (Asarum glabrum Merr.) chụp tại VQG Ba Vì (Hà  Nội) 3.1.1.2.6. Asarum wulingense C. F. Liang ­ Tế tân wuling Cây thân thảo. Thân rễ  đứng, dày 3­4 mm, đốt ngắn hơn 5 mm. Lá đơn   độc, cuống lá uốn ngược lại, mặt trên phiến lá màu xanh với các vết trắng,   thường hình trứng hay trứng thuôn, hiếm khi hình tam giác, 7­17 × 5­9 cm,   mặt dưới phủ lông vàng nâu dày đặc, mặt trên thường nhẵn hoặc có lông  tơ dài ở gân bên và gân chính, gốc lá hình tai hoặc hình tim dạng tai, thùy   bên lá phân nhánh, chóp lá nhọn; lá vảy hình trứng, 1,2 × 0,8 cm. Cuống hoa   uốn ngược phủ lông, dài 2 cm. Lá đài hợp lại ở thành bầu, đầu chia thành 3  thùy tam giác hay hình mác, màu đỏ tía, 2­3 × 2­3 cm, mặt ngoài phủ lông   tơ vàng nâu dày đặc;  ống đài hình trụ, 2,5 × 1,2 cm, mở rộng dần, không   thắt lại, mặt trong có sọc theo chiều dọc, miệng hình tròn, rộng 1 cm. Nhị  12, chỉ nhị ngắn hơn bao phấn, trung đới kéo dài vượt bao phấn, hình lưỡi.   Bầu dưới. Vòi nhụy rời, chẻ  2  ở  chóp; núm nhụy  ở  bên.  Mùa ra hoa vào  tháng 12­4. Loc. class.: China: Guangxi: Longsheng, moist shady areas, ca. 1100 m, 14  Oct. 1956. Type­Proto.: S. L. Yu et al. 700702; HT: IBG (fl.).  Phân   bố:  Hà   Giang   (Quản   Bạ),   Vĩnh   Phúc   (Tam   Đảo)   và   Hà   Tĩnh  (Hương Sơn). Còn có  ở  Trung Quốc. Hiện tại chúng tôi chưa thu được   mẫu của loài này. Giá trị sử dụng: Chưa rõ. 3.1.1.2.7. Asarum petelotii O.C. Schmidt ­ Tế tân petelot
  17. 17 Thân   thảo.   Thân   rễ   nằm   ngang,   đường   kính   4­5   mm.   Thân   đứng  mang 2 lá, cuống lá dài 10­24 cm. Lá có phiến dạng hình trứng, trứng   thuôn hay hình mác thuôn, 13­23 × 8­13 cm; mặt dưới của phiến lá có   lông tơ thưa ở gân lá, mặt trên nhẵn; mép lá có lông cứng nhỏ; gốc lá có   tai hay hình mác, thùy bên phân nhánh, 7 × 6 cm; chóp lá nhọn. Vãy chồi   hình trứng mũi giáo, 2 × 1 cm; mép lá vảy có lông tơ dày. Cuống hoa mọc   hướng thẳng lên, dài 3­5 cm; đài hoa màu tím hoặc tím nhạt; lá đài hợp  lại thành  ống hình trụ  thường nghiêng sang một bên  ở  thành bầu và mở  rộng dần, hơi hẹp ở vòng miệng; mặt ngoài nhẵn, mặt trong có sọc; thùy   lá đài hình trứng, 2,5 × 2 cm, mặt ngoài có 5 đường vân chạy dọc không  rõ, mặt trong với một nữa bề  mặt màu đỏ  tía, gần mép thùy màu vàng   nhạt. Nhị 12, bao phấn dài 2 mm, trung đới hình lưỡi, vượt lên bao phấn.   Nhụy 6, vòi nhụy rời; đỉnh vòi nhụy chẻ  2, hình chữ  V. Bầu trung. Quả  phát triển trong bao hoa tồn tại, màu đỏ tía (hình 3.17). Ảnh ­ Tế tân petelot (Asarum  petelotii O.C. Schmidt)  chụp tại VQG Tam Đảo  (Vĩnh Phúc) Loc. class.: Vietnam. Typus: Petelot     3891     (P). Sinh học và sinh thái:  Mùa hoa tháng 4­5, quả  tháng 6­8. Hạt phát tán  gần, nên thấy cây con xung quanh gốc cây mẹ.  Phân bố: Lào Cai (Sa Pa) và Vĩnh Phúc (Tam Đảo). Còn có ở Trung Quốc   (Vân Nam). Mẫu nghiên cứu: LÀO CAI, NAT13054 (HN); VĨNH PHÚC, NAT12094  (HN); Petelot, 5009, 3891, 5036 (P).  Giá trị sử dụng: Rễ và thân rễ  của loài Tế  tân petelot ( Asarum petelotii)  được dùng làm thuốc ho, chữa viêm họng, hoa ngâm rượu làm thuốc bổ. 3.1.1.2.8. Asarum blumei Duch. ­ Tế tân blume Cỏ nhiều năm; thân ngắn, dài 1­2 cm, mang ít rễ to 1,5 mm, có ít rễ  con.   Lá 2; cuống dài đến 10 cm, không lông; phiến hình tim mũi giáo, to 8 × 4  
  18. 18 cm,   mặt   trên   xám   lục,   mặt   dưới   ửng nâu, gân đáy 3(5), gân phụ  2  cặp; bìa lá không răng. Cuống hoa dài 1,5 cm. Lá đài hợp gắn lại ở thành  bầu, tạo thành hình ống, không nghiêng, vùng cổ rộng, phồng xung quanh   bầu, dài 1,5­2 cm; thùy lá đài 3, tròn dài, cao 1 cm. Nhị 12; vòi nhụy rời,  đỉnh vòi nhụy chẻ 2. Quả nang, bầu 6 ô.  Phân bố:  Hà Giang, Lạng Sơn và Vĩnh Phúc. Còn có  ở  Malaixia, Nhật   Bản (Suruga) (phụ  lục 6.8). Hiện tại chúng tôi chưa thu được mẫu của  loài này. Mẫu nghiên cứu: Pháp (Pari), P01645370 và P01645371. Giá trị sử dụng: Rễ cây chứa tinh dầu mà thành phần chủ yếu là safrole  và eugenol, được dùng làm thuốc chữa viêm phế  quản, ho và chữa thủy  thũng. Nhân dân thường dùng làm thuốc gây nôn. 3.1.1.2.9. Asarum reticulatum Merr. ­ Tế tân mạng Thân nằm rồi đứng, đơn độc hay phân nhánh, nhẵn, đường kính đến 3  mm, có rễ sái vị, ngắn. Lá hình tim thuôn, như da, cả hai mặt nhẵn, 13­17  × 6­8 cm, nhọn hoặc nhọn dần; gốc lá hình tim, thùy lá ngắn hoặc hơi   xòe, hình trứng, tròn, 2,5­4 × 2,5­3,5 cm; mép lá có răng nhỏ  không đều,   có lông tơ; gân chính 3, rõ, lồi  ở mặt dưới lá, thêm hai gân mãnh từ  gốc   thùy lá kéo dài ra, hình mạng lưới thưa rõ  ở  phía dưới, không dính liền;   cuống lá dài 8­9 cm. Lá đài hợp thành ống ở thành bầu, mở rộng dần, dài   3­3,5 cm, mặt ngoài nhẵn, gốc gồ  lên, rộng 1,8 cm (phần thắt lại), phía   cổ  họng  hơi  thắt   lại, hướng xuống  dưới,  thùy hình trứng rộng,  tròn,   chiều dài khoảng 2 cm; lá vảy hình mũi giáo, nhọn dần, dài khoảng 1,5   cm,  ở  mép có ít hoặc nhiều lông tơ. Nhị  12, chỉ  nhị  vượt lên bao phấn,   bao phấn dài 2 mm; trung đới hình lưỡi, tròn, ngắn. Nhụy 6, vòi nhụy rời;   đỉnh vòi nhụy chẻ làm 2, hình chữ V.
  19. 19 Ảnh ­ Tế tân mạng  (Asarum reticulatum  Merr.) chụp tại VQG  Hoàng Liên (Sa Pa,  Lào Cai) Loc. class.:  Vietnam: Tonkin: Chapa, 1500 m, 1935.  Typus:  Petelot 2554  (HT: A).  Sinh học và sinh thái: Mùa hoa tháng 3­4, quả  tháng 5­6. Hạt non phát  triển bình thường trong quả, chưa thấy cây cho quả  chứa hạt già, quả  non thường mọc sát mặt đất và bị thối rữa khi có mưa. Loài này đa số tái   sinh bằng chồi, chưa thấy cây con mọc xung quanh gốc cây mẹ. Cây  ưa   ẩm,  ưa bóng; thường mọc trên đất nhiều mùn dọc theo hành lang khe   suối, sườn núi, 2 bên đường mòn trong rừng, dưới tán rừng kín thường  xanh ẩm, ở độ cao 1.500­1.700 m. Phân bố: Mới thấy ở Lào Cai (Can Hồ B, Bản Khoang, Sa Pa). Mẫu nghiên cứu: LÀO CAI, NAT12045, NAT13055 (HN); Petelot 2554  (HNU).  Giá trị  sử  dụng: Dân tộc Dao Đỏ  sử  dụng cả  cây làm thuốc chữa bệnh   trĩ và thuốc kháng sinh. 3.1.1.3. Một số ghi nhận mới về đặc điểm các loài thuộc chi Tế tân  (Asarum L.) ở Việt Nam 3.1.1.3.1. Đặc điểm hình thái Theo các mô tả trước đây, trong cấu trúc hoa của các loài thuộc chi Tế tân   (Asarum  L.) không tồn tại tràng hoa  ở  bao hoa, chỉ  có lá đài gắn lại với  nhau hợp  ở thành bầu và tạo thành ống đài hoặc rời và tạo thành ống đài   giả phía trên bầu. Khi phân tích cấu trúc hoa ở các loài  Tế tân hoa có đuôi  (Asarum caudigerum), loài Tế tân lá hình tim (Asarum cordifolium) và loài  Tế  tân petelot (Asarum petelotii), chúng tôi phát hiện có sự  tồn tại của   tràng hoa tiêu biến ở dạng hình kim, dài khoảng 0,3 cm (hình 3.21). Ở các 
  20. 20 loài  Tế   tân   vân   nam   (Asarum  yunnanense),   Tế   tân   balansa  (Asarum   balansae),   Tế   tân   nhẵn   (Asarum   glabrum)   và   Tế   tân   mạng  (Asarum reticulatum) có phát hiện tràng hoa ở một số ít cá thể. 3.1.1.3.2. Mùa ra hoa Qua các đợt khảo sát từ năm 2010 đến năm 2013 tại Lào Cai (Sa Pa), Hà   Giang (Quản Bạ), Tuyên Quang (Na Hang), Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Hà  Nội (Ba Vì) và Thanh Hóa (Thường Xuân) theo các mùa khác nhau trong   năm, chúng tôi đã ghi nhận được mùa hoa và mùa quả của các loài thuộc   chi Tế tân (Asarum L.).  Kết quả  cho thấy, thời điểm ra hoa, quả  chín và phát tán hạt theo ghi   nhận của chúng tôi thường sớm hơn so với những ghi nhận trước đây.  3.1.1.3.3. Phân bố Qua việc đánh dấu định vị tại các điểm nghiên cứu, chúng tôi đã ghi nhận  và xây dựng đai độ cao phân bố của các loài thuộc chi Tế tân (Asarum L.) ở  Việt Nam (bảng 3.5). Qua bảng 3.5 cho thấy, loài Tế  tân vân nam ( A.  yunnanense) mới phát hiện một số  ít cá thể   ở  độ  cao 410 m tại Tuyên  Quang (Na Hang); loài Tế tân banlansa (A. balansae) mới phát hiện phân bố  ở độ cao 200­400 m tại Tuyên Quang (Na Hang), Hà Nội (Ba Vì), Hòa Bình   (Lạc Sơn), Thanh Hóa (Thường Xuân) và Quảng Trị (Hướng Hóa); loài Tế  tân lá hình tim (A. cordifolium) ở độ cao 1.500­1.700 m tại Lào Cai (Sa Pa);   loài Tế  tân hoa có đuôi (A. caudigerum)  ở  độ  cao 700­1.000 m tại Tuyên  Quang (Na Hang) và Hà Giang (Quản Bạ); loài Tế tân nhẵn (A. glabrum) ở  độ cao 900­1.100 m tại Lào Cai (Sa Pa), Vĩnh Phúc (Tam Đảo) và Hà Nội   (Ba Vì); loài Tế tân petelot (A. petelotii) ở độ cao 1.000­1.600 m tại Lào Cai  (Sa Pa) và Vĩnh Phúc (Tam Đảo); loài Tế  tân mạng ( A. reticulatum)  ở độ  cao 1.500­1.700 m tại Lào Cai (Sa Pa). Những ghi nhận về đai độ cao phân   bố  của các loài thuộc chi Tế  tân (Asarum L.) khác biệt so với những ghi   nhận trước đây. 3.1.2 Kết quả điều tra về vốn tri thức bản địa của cộng đồng trong  việc sử dụng các loài thuộc chi Tế tân (Asarum L.) làm thuốc Tế tân balansa (Asarum balansae) + Thuốc tắm: Lấy lá làm thuốc tắm chữa bệnh đau nhức xương khớp + Men rượu: Lá loài Tế  tân balansa (Asarum balansae) kết hợp với các  loài khác làm men rượu, sản xuất rượu ngô men lá. Tế tân lá hình tim (Asarum cordifolium) + Toàn cây sử dụng làm thuốc tắm trị đau lưng, nhiễm trùng vết thương   và trị bệnh trĩ. Tế tân hoa có đuôi (Asarum caudigerum)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1