intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Nguyễn Minh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:28

157
lượt xem
25
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án Tiến sĩ Triết học: Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay nhằm xác định một quan niệm có tính hệ thống về chất lượng lao động của trí thức giáo dục đại học để xây dựng luận cứ khoa học đánh giá thực trạng vấn đề này ở Việt Nam, qua đó đề ra những giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao chất lượng hoạt động nghề nghiệp của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam trong những thập kỷ đầu thế kỷ XXI.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THỊ LAN chÊt l­îng lao ®éng cña ®éi ngò trÝ thøc gi¸o dôc ®¹i häc ViÖT NAM hiÖn nay Chuyên ngành : Chủ nghĩa xã hội khoa học Mã số : 62 22 85 01 tãm t¾t LuËn ¸n tiÕn sÜ triÕt häc Hµ Néi - 2014
  2. C«ng tr×nh ®­îc hoµn thµnh t¹i Häc viÖn ChÝnh trÞ Quèc gia Hå ChÝ Minh Ng­êi h­íng dÉn khoa häc: GS.TS hoµng chÝ b¶o Ph¶n biÖn 1: Ph¶n biÖn 2: Ph¶n biÖn 3: LuËn ¸n sÏ ®­îc b¶o vÖ tr­íc Héi ®ång chÊm luËn ¸n cÊp Häc viÖn häp t¹i Häc viÖn ChÝnh trÞ Quèc gia Hå ChÝ Minh. Vµo håi giê ngµy th¸ng n¨m 2014 Cã thÓ t×m hiÓu luËn ¸n t¹i: Th­ viÖn Quèc gia vµ Th­ viÖn Häc viÖn ChÝnh trÞ Quèc gia Hå ChÝ Minh
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bước vào thế kỷ XXI, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã không những xác định vị trí của con người ở hàng đầu trong lực lượng sản xuất mà còn định hình ngày càng rõ hơn vai trò đặc biệt quan trọng của nguồn lực trí tuệ đối với việc phát triển nội lực của mỗi quốc gia, dân tộc. Việt Nam đang ở thời kỳ bước ngoặt của phát triển với việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bối cảnh của thế giới và thời đại đang mở ra những triển vọng, điều kiện thuận lợi cho Việt Nam đồng thời cũng đặt nước ta trước nhiều nguy cơ, thách thức nghiệt ngã trên tiến trình hội nhập, trong đó, sự lạc hậu, tụt hậu về trí tuệ là điều đáng sợ nhất. Với tư cách là cái nôi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, GDĐH Việt Nam có trọng trách to lớn trong quá trình tạo lập, phát triển tiềm lực trí tuệ cho dân tộc. Điều này lý giải tại sao giờ đây, khắc phục điểm nghẽn về nguồn nhân lực trình độ cao thông qua việc cải biến chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH được đặt ra như một giải pháp chiến lược cho sự phát triển, chấn hưng dân tộc mà Việt Nam phải hết sức quan tâm. Đó là kết quả trực tiếp của sự gia tăng nguồn lực trí tuệ được Việt Nam cũng như các quốc gia đặc biệt chú trọng trước tính cạnh tranh trong nền kinh tế dựa trên sức mạnh của tri thức, khoa học và công nghệ. Vấn đề hệ trọng này còn được cắt nghĩa từ chính những yếu kém kéo dài, chậm được khắc phục trong chất lượng đào tạo nguồn nhân lực của GDĐH ở nước ta. Càng đi sâu vào hội nhập, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam càng bị chi phối bởi qui luật cạnh tranh và những tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường. Đáng lo ngại là tình trạng bất cập về trình độ, năng lực và những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, lao động hình thức, thiếu tận tâm, tận lực của không ít trí thức nhà giáo trước trọng trách vinh quang của sự nghiệp “trồng người”. Đặc biệt là những thách thức được đặt ra từ chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo đại học chưa đáp ứng tốt yêu cầu thị trường lao động trong nước và quốc tế. Điều đó xa lạ với bản chất lao động khoa học sư phạm sáng tạo và phẩm chất cao qúi của nhà giáo, nếu không kịp thời khắc phục chắc chắn sẽ để lại “di chứng” cho nguồn lực con người không chỉ hiện hữu ở thực tại mà còn trong tương lai. Để vượt qua lực cản và thách thức này cần đến những giải pháp đồng bộ, nhất là những giải pháp mang tính đột phá nhằm cải biến hiện trạng đã nêu. Chính yêu cầu tìm kiếm chìa khoá cho sự phát triển nguồn nhân lực đã đưa vấn đề chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH trở thành mối quan tâm thường trực, hàng đầu của các chủ thể lãnh đạo, quản lý cũng như toàn xã hội trong quá trình thực hiện cuộc cách mạng về giáo dục. Mặt khác, đó
  4. 2 cũng là điều kiện đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển bền vững của cơ sở đào tạo đại học Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh, hội nhập quốc tế, trước những kỳ vọng của xã hội vào sự cách tân từ các chủ thể giáo dục, từ chương trình, phương pháp giáo dục đại học mà mục đích cao nhất là cải biến chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo. Đây là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là công việc khó khăn, phức tạp, tốn kém nhiều công sức, thời gian, tâm lực, trí lực và tiền bạc. Trên một bình diện cao hơn, thuộc về trách nhiệm, lương tâm xã hội, quan tâm đến chất lượng lao động của trí thức GDĐH là chăm lo cho sự nghiệp đào tạo nguồn lực trí tuệ của dân tộc. Để đảm bảo độ tin cậy cho chiến lược phát triển, bền vững của quốc gia cần thiết phải tìm ra khâu đột phá từ tiềm lực của con người trên cái giá đỡ vật chất của sự phát triển kinh tế. Cơ sở để tạo nên nguồn lực trí tuệ không thể nằm ngoài GDĐH mà mấu chốt là ở chất lượng lao động của đội ngũ trí thức nhà giáo. Chỉ với cái nhìn biện chứng như vậy mới thấy hết tầm quan trọng và tính bức thiết vì sao phải đổi mới GDĐH, bắt đầu từ những cải biến trong chất lượng lao động của đội ngũ cán bộ quản lý cũng như các thế hệ giảng viên đại học. Luận giải, khảo sát vấn đề này để tìm giải pháp phát triển không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn góp phần thực hiện chủ trương kiểm định chất lượng các trường đại học theo hệ tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm “đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI của Đảng. Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả chọn vấn đề “Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án Xác định một quan niệm có tính hệ thống về chất lượng lao động của trí thức GDĐH để xây dựng luận cứ khoa học đánh giá thực trạng vấn đề này ở Việt Nam, qua đó đề ra những giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao chất lượng hoạt động nghề nghiệp của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam trong những thập kỷ đầu thế kỷ XXI. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Để đạt được mục đích nêu trên, ngoài việc tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề trí thức, trí thức GDĐH, luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau: - Làm rõ cơ sở lý luận về chất lượng lao động của trí thức GDĐH Việt Nam từ quan niệm chung đến việc chỉ ra những đặc điểm lao động, tiêu chí đánh giá và tính tất yếu nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay.
  5. 3 - Đánh giá thực trạng chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam và những vấn đề đặt ra. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế tri thức và đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu về chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH ở Việt Nam trong điều kiện của đổi mới, của đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, với tác động của xu thế hội nhập quốc tế và sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH có nội dung rất rộng. Tuy nhiên, luận án chỉ giới hạn nghiên cứu trên ba phương diện chủ yếu: giảng dạy; NCKH; quản lý giáo dục của đội ngũ trí thức GDĐH ở các trường Đại học công lập của Việt Nam. - Về thời gian, luận án khảo sát thực trạng chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam giai đoạn 2000 - 2013 và xây dựng giải pháp nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ đó cho những năm tới. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về trí thức, trí thức giáo dục, trí thức GDĐH; về vấn đề lao động và động lực lao động nói chung. Luận án còn kế thừa hợp lý những kết quả nghiên cứu có liên quan đến luận án của các tác giả trong và ngoài nước. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời chú trọng sử dụng phương pháp logic - lịch sử cùng các phương pháp có tính liên ngành như phân tích, tổng hợp, điều tra xã hội học, so sánh, khái quát hoá. 5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án - Luận án nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề chất lượng lao động của trí thức GDĐH dưới góc độ triết học - chính trị - xã hội - giáo dục. - Luận án xây dựng tiêu chí đánh giá đối với chất lượng lao động của trí thức GDĐH trong hoạt động nghề nghiệp. - Luận án đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam trong điều kiện của đổi mới, của đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, trước tác động của xu thế hội nhập, toàn cầu hóa và phát triển kinh tế tri thức.
  6. 4 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Luận án góp phần phát triển hướng nghiên cứu mới về lý luận và thực tiễn đối với vấn đề chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam từ sự kết hợp cách tiếp cận triết học - chính trị - xã hội và giáo dục. - Luận án góp phần củng cố vững chắc luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác trí thức GDĐH trong điều kiện mới. - Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy những chuyên đề liên quan đến trí thức, trí thức GDĐH. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án gồm 4 chương, 11 tiết. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1.1. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu bàn luận trực tiếp đến trí thức Trước bối cảnh gia tăng mối quan tâm về các nguồn lực phát triển đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, có rất nhiều các đề tài khoa học cấp Nhà nước, các công trình chuyên khảo và các luận án cùng với không ít bài báo khoa học luận giải về các khía cạnh khác nhau của vấn đề trí thức. Tiếp tục làm rõ bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và nhận thức đúng đắn của Đảng ta trong quan điểm về trí thức, những công trình nghiên cứu đã có sự luận giải xác đáng về vai trò, nhiệm vụ của trí thức trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Từ các kiến giải về tiềm năng của trí thức Việt Nam, với thái độ tôn trọng trí thức, các tác giả đã đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm phát huy vai trò của đội ngũ này đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển kinh tế tri thức. 1.1.2. Những công trình nghiên cứu về trí thức giáo dục đại học, đặc điểm và chất lượng lao động của trí thức giáo dục đại học Một là, những công trình nghiên cứu khái quát về trí thức GDĐH: Xuất phát từ quan điểm coi trí thức GDĐH là nhân tố quyết định trực tiếp đến chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung luận giải vị trí, vai trò của trí thức GDĐH, đồng thời tìm ra hệ thống giải pháp cơ bản tạo động lực lao động cho đội ngũ nhà giáo ở bậc đại học. Hai là, những công trình nghiên cứu bước đầu bàn luận trực tiếp về đặc điểm lao động của trí thức GDĐH, tiêu biểu là: Bài viết “Đặc điểm lao động của giáo viên đại học và dạy nghề”, Tạp chí
  7. 5 Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, số 5/2000 của Tác giả Đỗ Văn Phức chủ yếu nhấn mạnh đến lao động sáng tạo, lao động trí óc, với một số yếu tố độc hại và những căng thẳng đặc thù của trí thức GDĐH. Xác định tính chất lao động của trí thức GDĐH, PGS, TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc và TS Đặng Xuân Hải với chuyên đề “Người dạy ở bậc đại học và giao tiếp sư phạm”, “Phương pháp dạy học ở bậc đại học” trong tài liệu bồi dưỡng “Giáo dục học đại học”, Hà Nội, 2003 đã đưa ra quan niệm: Ở đại học, sự sáng tạo sư phạm đi liền với sự sáng tạo khoa học”. PGS, TS Phạm Hồng Quang - tác giả cuốn sách “Môi trường giáo dục”, Nxb Giáo dục, 2006 khẳng định: chức năng lao động sư phạm là tái sản xuất sức lao động cho xã hội; đó là dạng thức lao động trí óc chuyên nghiệp. Khi luận giải “Bản chất của hoạt động sáng tạo trong nghiên cứu khoa học” (tài liệu nghiên cứu), Hà Nội, 2006, GS, TS Hoàng Chí Bảo nhấn mạnh, GDĐH gắn liền giảng dạy với NCKH và phục vụ sản xuất. Lao động của trí thức GDĐH thể hiện rõ tính sáng tạo với những sắc thái biểu hiện phong phú, đa dạng và phức tạp của nó. Tiếp cận đặc điểm của GDĐH, TS Nguyễn Bá Cần với Luận án tiến sĩ Kinh tế: “Hoàn thiện chính sách phát triển Giáo dục đại học Việt Nam hiện nay”, Hà Nội, 2009 đã cho rằng, sản phẩm dịch vụ GDĐH có tính đặc thù - đó là những người công dân có trách nhiệm với gia đình, xã hội và quốc gia. Ba là, những công trình nghiên cứu bước đầu đề cập đến chất lượng lao động của trí thức GDĐH, đáng chú ý là: Đề tài trọng điểm cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006, mã số: QGTĐ.02.06: “Nghiên cứu xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt động giảng dạy đại học và NCKH của giảng viên trong Đại học Quốc gia” do GS, TS Nguyễn Đức Chính và PGS, TS Nguyễn Phương Nga chủ trì và đã nghiệm thu; Báo cáo“GDĐH và kỹ năng cho tăng trưởng”, 2008 của Phòng Phát triển con người Khu vực Đông Á và Thái Bình Dương của Ngân hàng thế giới. Đây là những nghiên cứu về lĩnh vực đo lường và đánh giá hiệu quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ nhà giáo do các chuyên gia thực hiện nên kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc gợi mở hướng đánh giá tổng thể chất lượng lao động của trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay. Ngoài ra còn nhiều bài viết độc lập của các nhà khoa học nghiên cứu về chất lượng GDĐH nói chung, tiêu biểu như: Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Phương Nga: “Nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo đại học”, Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, 2000, số 7; Tạ Thị Thu Hiền: “Hệ thống đảm bảo chất lượng trong trường đại học theo quan điểm của mạng lưới các trường đại học khu vực Đông Nam Á”, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số 8/2011; Lê Hữu Ái, Lâm Bá Hòa: “Giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng”, Tạp chí Triết học, 2010, số 9; Phạm Ngọc Trung: “Chất lượng giáo
  8. 6 dục trong các trường đại học ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, 2011, số 8. Thông qua việc nghiên cứu những quan niệm khác nhau về chất lượng trong các lĩnh vực, các tác giả đã đưa ra quan niệm chung về chất lượng GDĐH .Trên cơ sở đó, xác định tiêu chí đánh giá và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả lao động của trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay. 1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN Ở hầu hết các quốc gia, trí thức GDĐH được nhà nước rất coi trọng. Nhiều chủ thể nghiên cứu thường nhận thấy sự cần thiết phải quan tâm đến trí thức nhà giáo, nhất là đội ngũ giảng viên. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này có thể kể đến: J.Vial trong cuốn “Lịch sử và Thời sự về các phương pháp sư phạm”, 1993; J.A Centra với các công trình nghiên cứu: “Tự đánh giá của giảng viên đại học: Một so sánh với đánh giá của sinh viên”, Tạp chí Đánh giá Giáo dục, số 13 năm 1973; Ph.N.Gônôbôlin: “Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên”, Nxb Giáo dục, 1979; Franz Emanuel Weinert : “Sự phát triển nhận thức học tập và giảng dạy”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998; Đặc biệt, UNESCO đã tổ chức những hoạt động tập trung trí tuệ nhân loại suy nghĩ về một nền giáo dục cho thế kỷ XXI mà đỉnh cao là “Higher Education in the Twenty - First Century - vision and Action”, World Conference on Higher Education, Paris, October, 1998. Tổng hợp những công trình nghiên cứu nêu trên đã xác định một quan điểm mới về đặc điểm lao động của trí thức nhà giáo ở bậc đại học. Theo đó, chất lượng GDĐH được hình dung là một khái niệm đa chiều, bao trùm mọi chức năng và hoạt động của nhà trường. 1.3. NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TIẾP TỤC LÀM SÁNG TỎ Từ tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án, tác giả xin đưa ra những đánh giá khái quát như sau: Một là, các công trình nghiên cứu đã vạch ra một hệ thống phương pháp tiếp cận về trí thức và trí thức GDĐH. Đáng chú ý là những quan điểm xem trí thức như một lực lượng xã hội, một nhóm xã hội - nghề nghiệp được nhận diện và phân định bởi tính chất lao động trí óc, sáng tạo và phức tạp. Hai là, những nghiên cứu lý luận về trí thức, trí thức GDĐH là khá phong phú nhưng chưa có công trình nghiên cứu chuyên khảo hay các đề án, chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, chưa có luận án, luận văn nào trực tiếp đi sâu luận giải một cách có hệ thống về vấn đề chất lượng lao động của trí thức GDĐH ở Việt Nam. Ba là, dưới các góc độ, bình diện, phạm vi nghiên cứu khác nhau, những công trình nghiên cứu đã đề cập đến đặc điểm lao động của giảng viên ở từng khía cạnh cụ thể, chủ yếu luận bàn đến chức trách, nhiệm vụ, đối tượng, công cụ tác động, tính chất lao động của giảng viên và nhà khoa học.
  9. 7 Bốn là, trên bình diện chất lượng lao động của trí thức GDĐH, những công trình nghiên cứu đã công bố chủ yếu chỉ chú trọng đánh giá nhiệm vụ giảng viên theo góc độ tiếp cận giáo dục học. Trên thực tế, lý luận về chất lượng lao động của trí thức GDĐH chưa được nghiên cứu theo quan điểm toàn diện, hệ thống với giác độ tiếp cận liên ngành triết học - chính trị - xã hội - giáo dục. Năm là, nhiều khía cạnh thực tiễn về nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam chưa được làm sáng tỏ như: thực trạng, những vấn đề đặt ra từ thực trạng; việc qui chế hoá chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH ở các cơ sở đào tạo trên phạm vi cả nước; cơ chế, mức độ, hiệu quả tác động của chủ trương, chính sách, pháp luật đến việc nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ này ở nước ta hiện nay. Sáu là, việc làm rõ chất lượng lao động của đội ngũ trí thức quản lý giáo dục ở bậc đại học nước ta còn là vấn đề mới mẻ, chưa có những công trình nghiên cứu chuyên sâu theo hướng xây dựng thành lý luận và tổng kết thực tiễn về chất lượng lao động của đội ngũ này đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GDĐH Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Bảy là, còn có nhiều vấn đề chưa được luận chứng mà tác giả luận án sẽ tập trung giải quyết như: - Với phương pháp tiếp cận liên ngành triết học - chính trị - xã hội - giáo dục, luận án hình thành quan niệm mới có tính hệ thống về chất lượng lao động của trí thức GDĐH. - Xây dựng luận cứ khoa học cho tính tất yếu nâng cao chất lượng lao động của trí thức GDĐH Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. - Luận án xác lập những tiêu chí đánh giá chất lượng lao động của trí thức GDĐH làm cơ sở khoa học cho việc khảo sát thực trạng chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam ở một số trường đại học công lập. - Luận án chỉ rõ một số vấn đề đặt ra đối với chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ này ở nước ta hiện nay. Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 2.1. QUAN NIỆM VỀ TRÍ THỨC, TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VÀ LAO ĐỘNG CỦA TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 2.1.1. Quan niệm về trí thức Trí thức là một thuật ngữ, một khái niệm khoa học với những hàm nghĩa khác nhau. Theo đó, khi xem xét quan niệm về trí thức đòi hỏi phải chú ý đến tính lịch sử - cụ thể và giác độ tiếp cận. Thống nhất với quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức, chúng tôi cho
  10. 8 rằng, trí thức là một tầng lớp xã hội được đặc trưng bởi phương thức lao động trí óc, sáng tạo. Họ là lực lượng chủ yếu tham gia trực tiếp vào việc phát kiến, giữ gìn và truyền bá tri thức góp phần thúc đẩy sự phát triển nhận thức khoa học và sự tiến bộ của xã hội. Cần nhận diện trí thức ở một số đặc trưng nổi trội sau: Trí thức không phải là một giai cấp mà là một tầng lớp xã hội đặc biệt và đặc thù; trí thức cần được xem như một cá thể - chủ thể mang nhân cách sáng tạo; học vấn, học thức của người trí thức được gây dựng qua đào tạo, được bồi dưỡng và phát triển không ngừng bằng con đường tự đào tạo, tự trau dồi và hoàn thiện của cá nhân trong lao động và hoạt động sáng tạo; với trí thức chân chính, hiểu biết phải gắn liền với cống hiến; lý tưởng chính trị và trách nhiệm xã hội phải được biểu hiện thông qua lý tưởng nghề nghiệp, qua hoạt động chuyên môn đặc thù, gắn bó sâu nặng với Tổ quốc và nhân dân. 2.1.2. Quan niệm về trí thức giáo dục đại học Việt Nam Trí thức GDĐH Việt Nam là một lực lượng xã hội hay một nhóm xã hội - nghề nghiệp đặc thù, tiêu biểu của trí thức; là chủ thể của hoạt động sư phạm trong lĩnh vực GDĐH, có nhiệm vụ giảng dạy; NCKH, ứng dụng, chuyển giao công nghệ; tổ chức, quản lý hoạt động sư phạm nhằm cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao và phát triển nhân tài cho đất nước. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, vai trò, nhiệm vụ của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam ngày càng được định hình rõ nét: Một là, trí thức GDĐH Việt Nam phải trực tiếp gắn kết đào tạo với NCKH, liên kết các hoạt động của nhà trường với sản xuất và dịch vụ cộng đồng. Hai là, trí thức GDĐH Việt Nam là lực lượng xung kích, nòng cốt trực tiếp xây dựng nền Giáo dục đại học Việt Nam tiên tiến, góp phần quan trọng vào chấn hưng giáo dục nước nhà. Ba là, với tư cách là nguồn lực trí tuệ, trí thức GDĐH Việt Nam trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ chuyên gia, những nhà khoa học đáp ứng yêu cầu về chất lượng lao động của nền kinh tế - xã hội. Bốn là, trí thức GDĐH Việt Nam góp phần nâng cao tiềm lực khoa học - công nghệ quốc gia. Năm là, trí thức GDĐH Việt Nam là lực lượng đem tài năng sáng tạo, nhiệt huyết, trách nhiệm của mình vào việc xây dựng các luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. 2.1.3. Quan niệm về lao động của trí thức giáo dục đại học Lao động của trí thức GDĐH là quá trình tác động có mục đích của nhà giáo đến đối tượng người học nhằm đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Lao động của trí thức GDĐH cần được nhìn nhận trên các bình diện chủ yếu sau:
  11. 9 Thứ nhất, với ý nghĩa là một công việc, lao động của trí thức GDĐH là hoạt động lao động nghề nghiệp chuyên môn - giáo dục và đào tạo ở bậc đại học mà đặc trưng nổi bật là hoạt động khoa học sư phạm, là truyền thụ học vấn, đào tạo hướng nghiệp và đào tạo con người. Thứ hai, lao động của trí thức GDĐH là lao động sáng tạo bậc cao, có vai trò đặc biệt quan trọng nhằm tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần. Mỗi thành công trong giảng dạy hay mỗi đóng góp mới trong nghiên cứu cũng như trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của trí thức GDĐH đều góp phần xây dựng tiềm lực trí tuệ cho dân tộc và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội của đất nước. Thứ ba, tiếp cận lao động của trí thức GDĐH trên bình diện chức năng, có thể xem dạy chữ - dạy người - dạy nghề là ba hoạt động thống nhất trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thứ tư, cần xem lao động của trí thức GDĐH, trước hết là lao động cá nhân nhưng chính đặc thù nghề nghiệp đã mang lại và đòi hỏi một cách nghiêm ngặt tính tập thể, tính phổ biến, tính tương tác và đồng thuận. 2.2. TÍNH ĐẶC THÙ CỦA LAO ĐỘNG TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY 2.2.1. Lao động của trí thức giáo dục đại học là lao động trí óc, sáng tạo Lao động của trí thức GDĐH trước hết là lao động trí óc. Tính đặc thù trong lao động của họ biểu hiện ở việc thường xuyên phải huy động trí lực, phát huy sức sáng tạo của tư duy, ở hàm lượng chất xám cao kết tinh trong sản phẩm. Đó là những phát minh, sáng chế, sáng kiến, thậm chí là nhân cách người học, là trình độ, kỹ năng lao động của nguồn nhân lực. Nếu như sáng tạo trong giảng dạy của trí thức GDĐH là năng lực hệ thống hóa, kế thừa, lựa chọn thông tin gắn với các thao tác phân tích, tổng hợp, diễn giảng làm cho người học lĩnh hội và thâu thái tri thức thì sáng tạo trong NCKH là đi tìm cái mới, đưa ra kiến giải mới hay một đề xuất mới đóng góp vào vấn đề mà Lênin gọi là hạt chân lý của nhận thức. Với tư cách là khoa học dùng người, hoạt động lãnh đạo, quản lý giáo dục của trí thức GDĐH cũng là lao động trí óc, sáng tạo. Nó đòi hỏi chủ thể lãnh đạo, quản lý phải khéo léo sử dụng tài năng, trí tuệ và tình cảm, bằng những phương pháp khoa học, tư duy sáng tạo mới có sức thuyết phục trong việc điều hành các hoạt động lao động của cả tập thể nhà giáo đại học. 2.2.2. Lao động của trí thức giáo dục đại học là lao động sư phạm bậc cao Cốt lõi để phân biệt tính đặc thù này biểu hiện ở chức năng nghề nghiệp, ở mục tiêu, phương thức lao động, tập trung trong yêu cầu phát triển trí tuệ, hình thành năng lực tư duy, kỹ năng lao động cho nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của đất nước trong bối cảnh đẩy mạnh CNH,
  12. 10 HĐH, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức. Điều này đòi hỏi ở mỗi trí thức nhà giáo đại học những kỹ năng lao động sư phạm cấp cao - kỹ năng định hướng hoạt động nhận thức, kỹ năng đào tạo nghề và kỹ năng cảm hóa con người bằng đạo đức, nhân cách và tất cả tâm hồn mình. Yêu cầu được đánh giá cao ở lao động sư phạm của người trí thức giảng dạy bậc đại học là khả năng dẫn dắt sinh viên vào môi trường sáng tạo để tự họ lao động trí tuệ và tự họ tìm đến tri thức trên cơ sở hướng dẫn của người thầy. Đối với trí thức GDĐH, mọi tri thức và sự hiểu biết cần phải được chuyển hóa thành phương pháp để một mặt sản sinh ra tri thức và làm mới tri thức được sở hữu, mặt khác có thể định hướng, tổ chức hoạt động nhận thức của người học, tạo ra bước chuyển hóa từ giáo dục sang tự giáo dục, từ đào tạo sang tự đào tạo. 2.2.3. Giảng dạy và nghiên cứu khoa học là hai nhiệm vụ song hành của phần lớn trí thức giáo dục đại học Tuy không phải mọi trí thức GDĐH đều tham gia giảng dạy và NCKH nhưng phần lớn trí thức là giảng viên và ngay cả lực lượng lãnh đạo, quản lý giáo dục trong các trường đại học cũng tham gia giảng dạy, NCKH ở một mức độ nhất định. Do vậy, có thể xem giảng dạy và NCKH là hai nhiệm vụ song hành của phần lớn trí thức GDĐH. Gắn bó biện chứng giữa giảng dạy với NCKH thực chất là yêu cầu có kiến thức và biết truyền thụ kiến thức. Suy đến cùng, bồi dưỡng cho người học năng lực tư duy, tự học, tự nghiên cứu chính là bồi dưỡng phương pháp NCKH. Điều này đòi hỏi mỗi trí thức GDĐH chẳng những phải có hai cặp phẩm chất, năng lực quan trọng nhất của người giảng viên, đó là xu hướng nghề nghiệp sư phạm và năng lực sư phạm mà còn gắn liền với xu hướng nghề nghiệp NCKH và năng lực NCKH. Trước hết, họ phải biết tổ chức quá trình nhận thức của sinh viên bằng hoạt động giảng dạy, đồng thời phải biết tự nghiên cứu, triển khai các ý tưởng khoa học, phát triển những năng lực, phẩm chất tốt đẹp của một chuyên gia. 2.2.4. Sản phẩm lao động của trí thức giáo dục đại học góp phần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước Cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn đều tất yếu đòi hỏi trường đại học cần trở thành nơi tiêu biểu cho đời sống trí tuệ và văn hóa tinh thần của xã hội. Đó là những vườn ươm các tài năng khoa học tương lai, là cái nôi nuôi dưỡng những trí tuệ khoa học thuộc nhiều thế hệ. Bằng tài năng, sự cống hiến và cách thức riêng của mình, mỗi trí thức nhà giáo cần tham gia vào quá trình sản xuất tri thức, kiến tạo nên nguồn nhân lực chất lượng cao của nước mình từ mặt bằng chung tới mỗi nấc thang phát triển của nó để từng bước đáp ứng những đòi hỏi khắt khe của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự lớn mạnh của đội ngũ trí thức GDĐH nước ta cùng với sản phẩm
  13. 11 lao động của họ sẽ là nguồn bổ sung trực tiếp, lớn nhất để phát triển đội ngũ trí thức và nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước. 2.3. QUAN NIỆM VỀ CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG VÀ CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 2.3.1. Quan niệm về chất lượng lao động Tính nhiều mặt, nhiều cấp độ, tính chất đa nghĩa của phạm trù “chất lượng lao động” về mặt phương pháp luận đòi hỏi phải nghiên cứu nó từ quan điểm toàn diện, từ phương pháp tổng hợp và hệ thống. Theo chúng tôi, chất lượng lao động là khái niệm dùng để chỉ mức độ thỏa mãn, khả năng đáp ứng các tiêu chí, yêu cầu đặt ra của một công việc cụ thể nào đó. Chất lượng lao động bao hàm trong bản thân nó hàng loạt các yếu tố, truớc hết là sự thỏa mãn, đáp ứng, sự trùng khớp giữa kết quả lao động thực tế với nhu cầu, mong muốn của các chủ thể hay mục tiêu định sẵn và những tiêu chuẩn xác định. Chất lượng lao động của bất kỳ chủ thể nào cũng phản ánh giá trị lao động thực tế của mỗi cá nhân. Trên phạm vi rộng lớn hơn, nó còn góp phần tạo thành tấm gương phản chiếu giá trị lao động của toàn xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định. 2.3.2. Quan niệm về chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Có thể nói, chất lượng lao động của trí thức GDĐH là một khái niệm đa chiều, bao trùm chức trách, nhiệm vụ của nhà giáo ở bậc đại học, biểu hiện kết quả tổng hợp các mặt hoạt động nghề nghiệp của người giảng viên. Chúng tôi cho rằng, chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH cần phải được xem xét như là kết quả từ việc hoàn thành chức trách của đội ngũ giảng viên, đội ngũ cán bộ quản lý ở các cơ sở GDĐH với hiệu quả biến đổi trình độ, năng lực tư duy, phát triển nhân cách của người học theo hướng tích cực và tiến bộ; là đặc tính thỏa mãn tốt nhất và đáp ứng được yêu cầu của khách hàng - những chủ thể hưởng lợi từ hoạt động nghề nghiệp chuyên môn của trí thức nhà giáo ở bậc đại học. Chất lượng giảng dạy của đội ngũ nhà giáo đại học ở nước ta hiện nay không đơn thuần biểu hiện ở khối lượng thông tin truyền đạt mà được đánh giá cao ở mức độ và hiệu quả hình thành năng lực nhận thức, tư duy, thực hành cũng như khả năng tự tạo việc làm hay khả năng thích ứng và hội nhập quốc tế của sinh viên sau khi tốt nghiệp. Chất lượng NCKH, chuyển giao công nghệ của đội ngũ trí thức GDĐH được biểu hiện ở mức độ sáng tạo, hiệu quả triển khai, ứng dụng kết quả nghiên cứu, những phát minh, sáng kiến vào thực tiễn công tác đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường cũng như nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chất lượng hoạt động quản lý của đội ngũ trí thức GDĐH được phản chiếu ở hiệu quả xây dựng, triển khai, giám sát việc thực hiện kế hoạch giảng dạy, học tập, NCKH và chuyển giao công nghệ của đội ngũ trí thức giữ
  14. 12 chức vụ lãnh đạo hoặc đảm trách một số các hoạt động kiêm nhiệm như cố vấn học tập, chủ nhiệm lớp, công tác đoàn, hội. 2.3.3. Tiêu chí đánh giá chất lượng lao động của trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay Đánh giá chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH về thực chất là sự phán đoán giá trị lao động nhằm làm rõ mức độ đóng góp trí tuệ cho xã hội của đội ngũ giảng viên và những chủ thể quản lý giáo dục ở bậc đại học. Đánh giá chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH cần tập trung vào các tiêu chí cơ bản sau: Một là, mức độ đáp ứng tiêu chuẩn nhà giáo của đội ngũ trí thức GDĐH. Hai là, mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ trí thức GDĐH theo chức trách được giao. Ba là, kết quả lao động thực tế của trí thức GDĐH. Bốn là, mức độ hài lòng của giảng viên, sinh viên và các chủ thể sử dụng sản phẩm GDĐH đối với kết quả lao động của đội ngũ trí thức GDĐH. Năm là, khả năng đáp ứng của nguồn nhân lực được đào tạo đối với thị trường lao động. Tiêu chí này được lượng hóa ở tỷ lệ có việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp, ở chất lượng lao động của nguồn nhân lực được đào tạo đại học. 2.4. TÍNH TẤT YẾU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY 2.4.1. Nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam là đòi hỏi tất yếu từ yêu cầu phát triển của đất nước Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với mục tiêu giải phóng và phát triển con người, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội dựa trên cơ sở của khoa học và công nghệ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, cùng với đó là sức ép nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế đòi hỏi GDĐH phải cung ứng cho xã hội nguồn nhân lực chất lượng cao. Chỉ có thể đảm bảo được yêu cầu ấy, nếu chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH được nâng cao với tư cách là điều kiện căn bản, có ý nghĩa quyết định trực tiếp chức năng sản xuất, tái sản xuất ra “hàng hoá” với sản phẩm đặc biệt - con người trí tuệ để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. 2.4.2. Nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học là yêu cầu nội tại của quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo đục dại học ở Việt Nam hiện nay Có thể nói, ở bất cứ cơ sở đào tạo đại học nào, chất lượng giáo dục yếu kém cũng là mối đe dọa thường xuyên đến sự tồn tại, phát triển bền vững của nhà trường. Cần nhận thức sâu sắc một thực tế, GDĐH Việt Nam đang đứng trước đòi hỏi vô cùng hệ trọng - đổi mới căn bản, toàn diện GDĐH với mục tiêu: tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, trong đó có những trường và
  15. 13 ngành đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế. Để triển khai thành công chiến lược đó thì nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH đã trở thành nhu cầu thiết yếu. Mặt khác, chủ trương đào tạo theo phương thức tín chỉ, xu hướng tăng quyền tự chủ và yêu cầu về việc nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của trường đại học cùng với yêu cầu triển khai qui trình kiểm định chất lượng trường đại học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo đang trở thành động lực hối thúc mạnh mẽ việc nâng cao chất lượng lao động của trí thức GDĐH. Điều này cũng đặt trí thức nhà giáo ở bậc đại học đứng trước nguy cơ, thách thức bị đào thải nếu chất lượng lao động của họ không đáp đứng được yêu cầu của người học hay của các chủ thể sử dụng nguồn nhân lực. 2.4.3. Nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học nhằm khai thác tốt mọi tiềm năng, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả các nguồn lực của giáo dục đại học Hiệu quả đào tạo của trường đại học bị chi phối bởi việc khai thác tiềm năng, sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực của GDĐH. Nếu không nâng cao chất lượng lao động của trí thức GDĐH thì việc đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, việc hiện đại hóa các phương tiện dạy học, đổi mới cơ chế, chính sách phát triển GDĐH hay đổi mới nội dung chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy cũng trở nên vô nghĩa, thậm chí còn là sự lãng phí nghiêm trọng của GDĐH nói riêng và quản lý kinh tế - xã hội nói chung trong điều kiện kinh phí và ngân sách đầu tư cho giáo dục còn hạn hẹp như hiện nay. Chất lượng GDĐH do nhiều yếu tố tạo thành nhưng các yếu tố khác chỉ đóng vai trò hỗ trợ, tạo điều kiện để trí thức GDĐH thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Xét đến cùng, nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH được xem như tâm điểm không chỉ gắn bó các yếu tố của giáo dục trong một chỉnh thể mà còn quyết định trực tiếp đến hiệu quả sử dụng các nguồn lực của GDĐH. Chương 3 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 3.1. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1.1. Mức độ đáp ứng tiêu chuẩn nhà giáo của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay Cùng với sự nghiệp đổi mới toàn diện ở nước ta và sự mở rộng qui mô đào tạo nguồn nhân lực, đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam đã không ngừng được
  16. 14 bổ sung lực lượng, nâng cao về chất lượng, từng bước đáp ứng tiêu chuẩn theo luật định về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, về năng lực và phẩm chất đạo đức nhà giáo, qua đó hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy, NCKH, giữ gìn danh dự, uy tín, bồi dưỡng phẩm chất, chính trị và đạo đức nghề nghiệp. Tuy nhiên, tỷ lệ trí thức nhà giáo đại học chưa đạt chuẩn về trình độ chuyên môn theo luật định (do không qua đào tạo bậc sau đại học) vẫn chiếm 38,75%. Hơn nữa, tình trạng thiếu hụt thế hệ cán bộ kế cận có trình độ cao đang tạo ra sự mất cân đối về cơ cấu lứa tuổi, trình độ và tính kế tục của đội ngũ trí thức GDĐH. Thêm vào đó, tình trạng phai nhạt lý tưởng, xuống cấp về đạo đức cộng với những biểu hiện lao động hình thức, tắc trách ở một bộ phận không nhỏ giảng viên chưa được khắc phục không chỉ gây ảnh hưởng xấu tới danh dự, uy tín nhà giáo mà còn hạn chế chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay. 3.1.2. Mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay Một là, hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy, NCKH theo mục tiêu, chương trình đào tạo. Theo số liệu điều tra xã hội học, có 64,1% giảng viên tích cực tham gia vào hoạt động giảng dạy theo mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo. Tuyệt đại bộ phận nhà giáo đều nỗ lực hoàn thành giờ chuẩn giảng dạy, NCKH theo chức danh. Nhưng trên thực tế, nhiệm vụ biên soạn giáo trình, sách tham khảo và các tư liệu phục vụ hoạt động giáo dục, đào tạo của đội ngũ trí thức GDĐH chưa được hoàn thành ở mức độ cao. Vẫn còn một tỷ lệ không nhỏ trí thức GDĐH chưa đáp ứng được yêu cầu công bố kết quả nghiên cứu trên các tạp chí khoa học trong và ngoài nước. Hai là, mức độ hoàn thành nhiệm vụ định kỳ học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ của đội ngũ trí thức GDĐH. Những năm qua, đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta đã có nhiều cố gắng nỗ lực trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ và phương pháp giảng dạy. Tuy nhiên, hạn chế có tính phổ biến trong đội ngũ trí thức GDĐH hiện nay là chỉ coi trọng đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, không ít giảng viên chưa tích cực bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, năng lực nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu của hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ. Ba là, mức độ hoàn thành nhiệm vụ của trí thức GDĐH tham gia công tác quản lý giáo dục. Trí thức GDĐH tham gia công tác quản lý đã hoàn thành nhiệm vụ xây dựng, triển khai, giám sát việc thực hiện kế hoạch giảng dạy, học tập, NCKH
  17. 15 của đội ngũ giảng viên. Nhiều trí thức GDĐH trẻ đã hăng hái, nhiệt tâm và hoàn thành tốt công tác kiêm nhiệm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chúng ta còn thiếu những nhà quản lý giáo dục tài năng ở các cơ sở đào tạo. 3.1.3. Kết quả lao động của trí thức giáo dục đại học Việt nam hiện nay Không thể phủ nhận một thực tế rằng, lao động của đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả tích cực góp phần quan trọng tạo nên sự tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế. Hàng năm, đội ngũ trí thức GDĐH đã trực tiếp tham gia đào tạo hàng chục nghìn cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ góp phần quan trọng vào việc thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực trình độ cao phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Kết quả NCKH, lãnh đạo, quản lý của đội ngũ trí thức GDĐH đã góp phần nâng cao trình độ khoa học, công nghệ của đất nước, góp phầnquan trọng vào việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, bước đầu giải đáp những vấn đề mới phát sinh trong sự nghiệp đổi mới. Hạn chế chủ yếu trong kết quả lao động của trí thức GDĐH ở nước ta là chất lượng giáo dục còn thấp; đào tạo phi chính quy còn nhiều yếu kém; việc đổi mới nội dung, chương trình đào tạo ở các trường đại học chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn sản xuất; hiệu quả ứng dụng của những công trình khoa học chưa cao, với khoảng 40% kết quả nghiên cứu phải “trùm mền”; sự quản lý của đội ngũ trí thức GDĐH còn nhiều bất hợp lý, biểu hiện chủ yếu ở tình trạng còn thụ động trước sự chỉ đạo của cấp vĩ mô dẫn đến hạn chế tính tự chủ, sáng tạo trong hoạt động giáo dục và đào tạo. 3.1.4. Mức độ hài lòng của giảng viên, sinh viên và các chủ thể sử dụng sản phẩm GDĐH đối với kết quả lao động của đội ngũ trí thức nhà giáo đại học ở nước ta hiện nay Mặc dù mức độ hài lòng của sinh viên và giảng viên về kết quả lao động của trí thức GDĐH đạt tỷ lệ cao với trên 70% ý kiến biểu lộ sự hài lòng. Riêng kết quả đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước còn không ít ý kiến phản hồi thể hiện sự trăn trở và chưa hài lòng. Điều này lý giải tại sao có tới 60% doanh nghiệp được khảo sát tỏ ra không hài lòng về chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ở các trường đại học. 3.1.5. Khả năng đáp ứng của nguồn nhân lực được đào tạo đối với thị trường lao động Có thể khẳng định, đội ngũ trí thức GDĐH thông qua lao động nghề nghiệp đã góp phần quan trọng vào chiến lược nâng cao dân trí, đào tào nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Hiện nay, mỗi năm, GDĐH cung cấp cho xã hội khoảng hơn 10 nghìn người có trình độ sau đại học” Đội ngũ này đang là lực lượng nòng cốt tham gia lao động ở hầu hết các lĩnh vực khác nhau của xã hội.
  18. 16 Nhìn vào bức tranh GDĐH ở Việt Nam hiện nay rất dễ nhận thấy một trong những hạn chế, bất cập lớn nhất là chưa tạo ra lớp người lao động có khả năng thích ứng nhanh, chủ động, sáng tạo, đủ năng lực đáp ứng yêu cầu của kinh tế tri thức. Đa số các nhà quản lý doanh nghiệp đều có chung nhận xét: kỹ sư công nghệ thông tin phần lớn trình độ đều thấp hơn rất nhiều so với tiêu chuẩn quốc tế; sinh viên mới ra trường ngành quản trị kinh doanh thì còn non nớt, nặng về kiến thức sách vở. Hiện trạng này cho thấy chẳng những có sự thiếu hụt nghiêm trọng nguồn nhân lực chất lượng cao ở các lĩnh vực cần thiết phải tạo ra sự đột phá trong bối cảnh hội nhập, cạnh tranh toàn cầu mà còn là khoảng cách ngày càng xa giữa chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH so với yêu cầu của thực tiễn và sự kỳ vọng của xã hội. 3.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY 3.2.1. Nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về trình độ, năng lực của đội ngũ trí thức giáo dục đại học trước yêu cầu hội nhập quốc tế Thực tế cho thấy, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam còn nhiều hạn chế, biểu hiện sự bất cập trước yêu cầu nghề nghiệp, trước đòi hỏi phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế. So với các nước phát triển có nền GDĐH tiên tiến thì trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta biểu hiện rõ xu hướng tụt hậu. Đáng lưu ý là tỷ lệ đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ hoặc có chức danh khoa học GS, PGS ở nước ta còn rất thấp. Trí thức tinh hoa và hiền tài còn ít, chuyên gia đầu ngành còn thiếu nghiêm trọng, đội ngũ kế cận hụt hẫng, chưa có nhiều tập thể khoa học mạnh, có uy tín đủ sức cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu. Không chỉ yếu ngoại ngữ, trí thức GDĐH ở nước ta còn thiếu năng lực sáng tạo ở mức độ cần thiết để tạo ra những sản phẩm, những công trình khoa học có thể cạnh tranh bình đẳng với đồng nghiệp quốc tế. 3.2.2. Sự mất cân đối về cơ cấu trong chất lượng lao động của trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay Yêu cầu tạo lập tính đồng thuận trong đội ngũ trí thức GDĐH đòi hỏi phải tạo ra sự tiếp nối, kế tục, tác động cùng chiều tới đối tượng người học từ những giảng viên khác nhau về tuổi đời, thâm niên, trình độ, năng lực, học hàm, học vị, thậm chí là những nhà giáo ở các chuyên ngành đào tạo khác nhau, rộng hơn là ở các vùng, miền trong cả nước. Đáng tiếc là thực trạng chất lượng lao động của trí thức GDĐH đang tỏ rõ sự bất cập trước yêu cầu tạo lập tính đồng thuận của toàn đội ngũ. Đó là tình trạng mất cân đối trong cơ cấu về trình độ, năng lực, trong kết quả lao động của đội ngũ trí thức GDĐH giữa các vùng, miền, giữa các ngành và lĩnh vực đào tạo ; thêm vào đó là sự hẫng hụt nghiêm trọng đội ngũ kế cận có trình độ cao.
  19. 17 3.2.3. Trí thức giáo dục đại học cần kết hợp giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong khi khuynh hướng xem nhẹ nghiên cứu khoa học đang diễn ra phổ biến Theo kết quả điều tra xã hội học, có 61,1% ý kiến cho rằng, phần lớn giảng viên chỉ chuyên tâm vào hoạt động giảng dạy. Số liệu này phù hợp với đánh giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo: “có đến 50 - 60% giảng viên không dành hoặc dành rất ít thời gian làm NCKH”. Không ít giảng viên chọn cách tăng thu nhập bằng cách giảng dạy, thậm chí sẵn sàng dạy nhiều để bù vào số tiết bị khấu trừ do thiếu giờ NCKH hơn là tự nguyện say mê nghiên cứu. Đây là biểu hiện đáng báo động về hiện trạng của đội ngũ trí thức GDĐH nước ta trong quá trình triển khai chương trình đào tạo gắn giảng dạy với nghiên cứu, gắn lý thuyết với thực tiễn, đào tạo theo nhu cầu xã hội và định hướng nghề nghiệp. Sự tách rời giảng dạy và nghiên cứu làm cho việc học tập của sinh viên và thậm chí việc giảng dạy của trí thức nhà giáo đại học không được đặt trong môi trường nghiên cứu - môi trường của phương pháp tư duy sáng tạo, của sự suy luận và phán đoán. Điều này đang làm giảm đi giá trị, tiềm năng, trí tuệ, sức sáng tạo của đội ngũ trí thức GDĐH mà đáng lẽ nó phải được coi trọng và phát huy. 3.2.4. Mâu thuẫn giữa yêu cầu giải phóng năng lực sáng tạo, tâm huyết của trí thức giáo dục đại học với những rào cản trong tư duy, cơ chế, chính sách và các điều kiện đảm bảo chất lượng Đặt vấn đề giải phóng triệt để năng lực sáng tạo và sự tâm huyết với nghề của trí thức GDĐH là xuất phát từ những đòi hỏi của khoa học sư phạm chứ không phải đề cao hay tuyệt đối hóa vai trò của sáng tạo và tâm huyết như một cái gì thái quá. Tuy nhiên, tình trạng chậm đổi mới tư duy, thiếu những điều kiện cần thiết để đảm bảo phát triển năng lực sáng tạo đang là những rào cản khiến một bộ phận nhà giáo chưa tập trung sức lực cho giảng dạy, NCKH, tổ chức, quản lý giáo dục và chưa thật sự gắn bó, phụng sự hết mình cho lý tưởng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Rào cản lớn nhất lúc này là sự hạn chế trong chính sách đầu tư, trong cơ chế đãi ngộ cùng với tư duy ngại đổi mới và những yếu kém về trình độ, năng lực chuyên môn của không ít giảng viên đã gây trở ngại cho sự khai thông mối liên hệ giữa NCKH với thực tiễn giảng dạy và sản xuất, chưa tạo ra tiềm lực mạnh để phát huy sự sáng tạo lao động của trí thức GDĐH. Mặt khác, trong khi phương thức quản lý vĩ mô về lao động chuyên môn của đội ngũ trí thức GDĐH chưa đoạn tuyệt với cơ chế hành chính bao cấp, chưa đòi hỏi nghiêm ngặt tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mỗi trí thức nhà giáo thì tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường cộng với tâm lý trọng bằng cấp một cách hình thức và cơ chế tính lương theo bằng cấp,
  20. 18 theo thâm niên đang là những rào cản không nhỏ trước yêu cầu thực học để có thực lực, thực tài, thực cống hiến của trí thức GDĐH. 3.2.5. Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học được đảm bảo bởi trách nhiệm của nhà giáo nhưng cơ chế kiểm tra, giám sát, đánh giá chưa được coi trọng đúng mức Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực nghiên cứu là nhân tố quyết định chất lượng lao động của trí thức GDĐH, song tinh thần trách nhiệm cũng là yêu cầu quan trọng mà mỗi trí thức nhà giáo phải quan tâm đáp ứng, nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi cơ chế thị trường đang chi phối đến đời sống của con người và tác động mặt trái của nó cũng để lại không ít những tiêu cực và hệ lụy xã hội. Vấn đề bất cập hiện nay là tiêu chí kiểm định chất lượng giáo dục chưa được xây dựng phù hợp với những đặc thù nhất định ở từng trường; hoạt động đánh giá ngoài, nhất là sự tham gia kiểm định chất lượng đào tạo từ các chủ thể sử dụng sản phẩm của GDĐH chưa được coi trọng đúng mức. Việc đánh giá, kiểm tra, giám sát hoạt động chuyên môn của hiệu trưởng và cán bộ quản lý từng trường đại học còn bỏ ngỏ nên chất lượng tổ chức, lãnh đạo, quản lý giáo dục của đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta chưa được xem xét, đánh giá toàn diện và khoa học. Cơ chế sa thải những giảng viên yếu kém chưa trở thành yếu tố căn bản trong văn hóa và khoa học lãnh đạo, quản lý giáo dục. Điều này lý giải tại sao trí thức GDĐH chưa nhận thấy áp lực thực sự từ trách nhiệm và bổn phận của một nhà giáo, nhà khoa học trước những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn cũng như sự mong đợi, kỳ vọng của xã hội. Chương 4 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY 4.1. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY 4.1.1. Nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học phải gắn với nhu cầu phát triển đất nước Để đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ cao phục vụ quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế tri thức, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, lao động của trí thức GDĐH cần hướng tới việc cung ứng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của thị trường. Đó là các nhà lãnh đạo quản lý, đội ngũ công nhân, viên chức, công nhân kỹ thuật bậc cao, các doanh nhân tâm huyết với đất nước, lực lượng lao động tinh hoa, đặc biệt là các chuyên gia có khả năng phát minh, sáng chế, chuyển giao công nghệ. Nhìn chung, đó là đội ngũ nhân lực có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, có kiến thức
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2