intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn hóa học: Văn hóa của gia đình Phật tử tại Đà Nẵng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

7
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án "Văn hóa của gia đình Phật tử tại Đà Nẵng" được hoàn thành với mục tiêu nhằm đóng góp vào cuộc thảo luận về GĐPT với những cách thức liên kết xã hội, các hình thức giáo dục linh hoạt, thảo luận về đạo đức, phẩm chất của người Phật tử trong xu thế thế tục hóa, đóng góp cho quá trình xây dựng đất nước phát triển và hội nhập.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn hóa học: Văn hóa của gia đình Phật tử tại Đà Nẵng

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ MAI SA VĂN HÓA CỦA GIA ĐÌNH PHẬT TỬ TẠI ĐÀ NẴNG Ngành: Văn hóa học Mã số: 9 22 90 40 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC HÀ NỘI- 2024
  2. Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS. Lê Hồng Lý 2. TS. Đỗ Lan Phương Phản biện 1: GS.TS. Từ Thị Loan Phản biện 2: PGS.TS. Vũ Thị Phương Hậu Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Hương Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại Vào hồi giờ phút, ngày tháng năm 2024 Có thể tìm hiểu Luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện Học viện Khoa học xã hội
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Xã hội đương đại chứng kiến sự hồi sinh và phát triển mạnh mẽ của các tôn giáo, tín ngưỡng, trong đó có Phật giáo. Tâm lí con người bị lung lay, khủng hoảng trầm trọng trước áp lực học tập, kinh tế, hôn nhân gia đình, trước bạo lực và tệ nạn xã hội bủa vây. Niềm tin xã hội dần mờ nhạt, con người hoài nghi lẫn nhau, đố kỵ nhau. Con người trong xã hội đương đại không ngừng tìm kiếm điểm tựa để duy trì niềm tin cá nhân, niềm tin xã hội. Họ tìm đến tín ngưỡng hoặc tôn giáo, để được an ủi, chữa lành và giải tỏa căng thẳng. Hiện nay, đối tượng bị ảnh hưởng mạnh mẽ nhất từ thay đổi niềm tin xã hội là thanh thiếu niên; vì vậy cần sớm định hướng cho đội ngũ này về lý tưởng, kiến thức, kỹ năng sống dựa trên nền tảng tôn giáo, trong đó có nền tảng Phật học. Nhiều hội đoàn Phật giáo dành cho thanh thiếu niên được Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVH) chủ trương khuyến khích thành lập và lan tỏa trong cộng đồng Phật tử và những người cảm mến đạo Phật trên phạm vi toàn quốc. Tại Đà Nẵng, Gia đình Phật tử (sau đây sẽ viết tắt là GĐPT hoặc Gia đình) là một hội đoàn Phật giáo xuất hiện từ giữa thế kỷ XX, trải qua nhiều thăng trầm đến đầu thế kỷ XXI đã trở lại một cách hưng thịnh đáp ứng được nhu cầu của con người trong xã hội có nhiều sự đổi thay hiện nay. Trước đây, một số nhà nghiên cứu đã quan tâm đến việc mô tả lịch sử hình thành, cơ cấu tổ chức và hoạt động của GĐPT cùng với việc đánh giá những tác động tích cực từ GĐPT đến đời sống xã hội. Tuy nhiên, sự chuyển dịch trong cơ cấu vận hành tổ chức, sự linh hoạt trong triển khai các thực hành văn hóa giáo dục của GĐPT lại chưa được chú ý. Tác động giáo dục đạo đức cho thanh thiếu niên GĐPT cũng cần được nghiên cứu thêm. Chính vì những lí do khoa học và thực tiễn như vậy, NCS chọn “Văn hóa của gia đình Phật tử tại Đà Nẵng” làm đề tài luận án Tiến sĩ Văn hóa học của mình. 1
  4. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Thông qua nghiên cứu trường hợp GĐPT tại Đà Nẵng, luận án muốn tìm hiểu về quá trình tham gia, thực hành văn hóa giáo dục của tôn giáo hiện nay, sự lan rộng mô hình hội đoàn Phật giáo nhắm đến giáo dục đạo đức cho thanh thiếu niên Phật tử. Trên cơ sở đó luận án đóng góp vào cuộc thảo luận về GĐPT với những cách thức liên kết xã hội, các hình thức giáo dục linh hoạt, thảo luận về đạo đức, phẩm chất của người Phật tử trong xu thế thế tục hóa, đóng góp cho quá trình xây dựng đất nước phát triển và hội nhập... 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án đặt ra các nhiệm vụ sau: - Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về GĐPT, từ đó đánh giá những thành tựu, khoảng trống của các công trình trước đó và xác định rõ vấn đề nghiên cứu của luận án. - Làm rõ cơ sở lý luận của đề tài văn hóa của GĐPT tại Đà Nẵng: minh định khái niệm, gia đình, GĐPT, văn hóa, văn hóa gia đình, văn hóa của GĐPT và giới thiệu địa bàn nghiên cứu. - Nhận diện GĐPT tại Đà Nẵng ở chiều cạnh cơ cấu, đặc điểm, mối quan hệ trong GĐPT. - Tìm hiểu các thực hành văn hóa giáo dục của GĐPT ở nội dung giáo dục kiến thức Phật pháp, kỹ năng, đạo đức, tác phong cho các thành viên. Đồng thời, mô tả những trải nghiệm của các thành viên khi ứng dụng những điều mình đã học, ứng dụng Phật pháp vào cuộc sống thường nhật. - Bàn luận một số vấn đề đặt ra xung quanh GĐPT hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là văn hóa của gia đình Phật tử với các thành tố như văn hóa tổ chức (cơ cấu, đặc điểm, các mối quan hệ bên trong) và thực hành văn hóa giáo dục (tu học Phật pháp, rèn luyện kỹ năng, rèn luyện nhân cách đạo đức) 2
  5. 3.2. Phạm vi nghiên cứu + Về nội dung: Luận án nghiên cứu sự hình thành, cơ cấu, đặc điểm, các mối quan hệ bên trong, các thực hành văn hóa giáo dục giáo lý Phật giáo, kỹ năng, phẩm chất của thành viên GĐPT. + Về không gian: Tính đến năm 2023, Đà Nẵng có 57 GĐPT, thuộc địa bàn của 6 quận và 1 huyện. Nghiên cứu được khảo sát ở một số GĐPT trên địa bàn 3 quận Hải Châu, Thanh Khê, Liên Chiểu và huyện Hòa Vang vì tại đây số lượng GĐPT đa dạng về lịch sử hình thành, quy mô. + Về thời gian: Từ năm 2012 đến năm 2023. Tại Đà Nẵng, GĐPT được thành lập từ thế kỷ trước, nay có xu hướng lan rộng và hồi sinh trong cộng đồng Phật giáo, cộng đồng xã hội. 4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cách tiếp cận Tác giả luận án sử dụng quan điểm tiếp cận của ngành Nhân học - nghiên cứu văn hóa. Theo đó, tác giả quan niệm việc khám phá, nhìn nhận các đặc điểm, chức năng của một tổ chức tôn giáo phải được đặt trong bối cảnh ra đời, môi trường văn hóa - xã hội mà nó tồn tại. Văn hóa của GĐPT ở thế kỷ XXI sẽ khác với văn hóa GĐPT định hình ở thế kỷ XX. 4.2. Phương pháp nghiên cứu NCS lựa chọn phương pháp nghiên cứu định tính với các thao tác như quan sát tham dự, phỏng vấn, phóng vấn sâu, phương pháp tổng hợp, phân tích nguồn tài liệu thứ cấp và tư liệu thực địa. 5. Đóng góp mới của luận án Đề tài là công trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống về GĐPT từ góc nhìn văn hóa học, xem GĐPT như một trong những mô hình thực hành văn hóa giáo dục dành cho thanh, thiếu, đồng niên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam nói chung và mô hình giáo dục cộng đồng Phật tử ở Đà Nẵng nói riêng. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm đa dạng các nghiên cứu về văn hóa của tổ chức Phật giáo hiện nay, các nghiên cứu về thực hành văn hóa giáo dục Phật giáo hiện nay. 3
  6. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ cung cấp một sự hiểu biết sâu, có hệ thống về cách thức vận hành cũng như vai trò của GĐPT trong xã hội Việt Nam đương đại. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ các sinh hoạt văn hóa của GĐPT tại Đà Nẵng nói riêng, các sinh hoạt văn hóa tôn giáo trong xã hội Việt Nam đương đại nói chung. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận án cũng sẽ là cơ sở khoa học để xây dựng các chính sách quản lý cũng như phát huy vai trò, giá trị của đoàn thể Phật giáo này một cách phù hợp trong việc giáo dục đạo đức, kỹ năng, phẩm chất cho thanh thiếu niên Phật tử hiện nay. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và danh mục phụ lục, nội dung luận án gồm 4 chương. Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và địa bànnghiên cứu Chương 2: Nhận diện gia đình Phật tử tại Đà Nẵng Chương 3: Thực hành văn hóa giáo dục của gia đình Phật tử tại Đà Nẵng Chương 4: Gia đình Phật tử tại Đà Nẵng: Liên kết xã hội, các giá trị và những vấn đề đặt ra. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Những nghiên cứu về cộng đồng Phật giáo Việt Nam Tổ chức PG là một thành tố rất quan trọng nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển PG trong đời sống xã hội. Về tổ chức PG thời Đức Phật, cơ sở 4
  7. để hình thành tổ chức PG sau này được đề cập đến trong một số cuốn sách tiêu biểu như: Lịch sử đức Phật Thích Ca (1988) của Thích Minh Châu, Các tông phái đạo Phật (1995) của Đoàn Trung Còn, Đức Phật và Phật pháp (1998), Phạm Kim Khánh (dịch), Lịch sử Phật giáo Việt Nam (1999) của Lê Mạnh Thát; Tăng già thời Đức Phật (2000) của Thích Chơn Thiện… Đặc biệt, tác phẩm Tăng già Việt Nam của Thích Trí Quang (1952) đã hệ thống hóa các tổ chức PG Việt Nam gồm: Giáo hội Tăng già Bắc Việt, Tăng gia Trung Việt và Tăng già Nam Việt là ba tổ chức của các vị tăng già xuất gia. Tác phẩm Các tông phái đạo Phật (1995) của Đoàn Trung Còn giới thiệu các tông phái PG, sự hình thành tông phái và hoạt động tông phái. Đây là những hoạt động của tổ chức PG thời kỳ đầu. Cuốn Hồi ký thành lập Hội Phật giáo Việt Nam (2004) của Hòa Thượng Thích Trí Hải đã đề cập cả một tiến trình hình thành hội đoàn, tổ chức PG trước khi GHPGVN thành lập. Tác phẩm Phật pháp khái luận của Thích Ân Thuận (2011), cũng đề cập đến tổ chức Phật giáo, trình bày cụ thể mục đích hình thành hệ thống Tăng đoàn, bản chất của hệ thống Tăng đoàn. Ý nghĩa của việc thành lập Tăng đoàn là để giữ vững Phật pháp. Lê Tâm Đắc, Nguyễn Đức Sự (2011), trong bài viết “Vài nét về các đoàn thể Phật giáo ở Việt Nam”, nhóm tác giả cũng đã giới thiệu về một số hội đoàn PG ở Việt Nam, nhắm đến đối tượng Phật tử trẻ. Về cộng đồng tín đồ Phật tử, cũng đã có một số học giả Việt Nam thực hiện những công trình nghiên cứu về cộng đồng PG, trong đó có thể nhắc tới công tình tiêu biểu như “Buddhist pilgrimage and Religiuos resurgence in contemporary Vietnam” (Hành hương Phật giáo và sự phục hồi tôn giáo ở Việt Nam đương đại) của Đào Thế Đức (2008) hay Hành hương Phật giáo chùa Hương hiện nay mà Nguyễn Thị Thanh Loan (2020),... Qua các công trình nghiên cứu về cộng đồng PG Việt Nam, chúng ta thấy vai trò của từng cộng đồng trong việc lan tỏa giá trị của Phật pháp. Mỗi tổ chức/ hội đoàn PG được cơ cấu, vận hành, kết nối theo phương thức khác nhau, nghiên cứu về lịch sử hình thành tổ chức/ hội đoàn PG chính là 5
  8. nghiên cứu về lịch sử PG Việt Nam qua các thời kỳ. 1.1.2. Những nghiên cứu về gia đình Phật tử thế giới và Việt Nam GĐPT được xem xét đến trên nhiều phương diện, khía cạnh khác nhau nhằm khắc họa mối quan hệ giữa các thành viên trong GĐPT. Paul R.Katz (2019) đã cố gắng cung cấp một cái nhìn tổng quan về cách các Phật tử Trung Quốc hiện đại làm việc để kết hợp giữa tu luyện bản thân và cuộc sống gia đình, với trọng tâm là lý tưởng về “gia đình được Phật hóa” như được thể hiện trong các tác phẩm của Phật tử tại gia Chen Hailiang (1910–1983), đã đưa ra lời khuyên về tinh thần và vật chất cho những độc giả đang cố gắng đạt được trạng thái cân bằng giữa yêu cầu tôn giáo và chuẩn mực xã hội. Từ góc nhìn của sức khỏe tinh thần, với phương pháp nghiên cứu hiện tượng học và nghiên cứu trường hợp, Hunsa Sethabouppha, Catherine Kane (2004), Kongsuwan W. Chaipetch O. (2011), Nilmanat K. Street AF. (2007). Somanusorn S. Hatthakit U, Nilmanat K. (2011) thực hiện các nghiên cứu về ảnh hưởng của tôn giáo trong việc chăm sóc thành viên các GĐPT ở Thái Lan bị bệnh hay cận tử. Mục đích của các nghiên cứu này là khám phá kinh nghiệm từ những người chăm sóc người bị bệnh nặng để hiểu quan điểm của họ. Tương tự, nghiên cứu của Waraporn Kongsuwan, Orapan Chaipetch, Yaowarat Matchim (2012): “Góc nhìn của các GĐPT Thái Lan về một cái chết êm đềm trong ICU”1, qua nghiên cứu những thành viên GĐPT chăm sóc người thân của họ khi hấp hối trong ICU, để tìm hiểu về cái chết êm đềm trong khái niệm của họ. 1 ICU là phòng chăm sóc tích cực với công nghệ kỹ thuật hiện đại nhằm cứu sống bệnh nhân có bệnh lý cực kỳ nặng ảnh hưởng tính mạng 6
  9. Tại Việt Nam, tổ chức GĐPT được đề cập trong các công trình viết về lịch sử Phật giáo (PG) Việt Nam và phong trào chấn hưng PG tại Việt Nam của các tác giả Trần Thiều (2006), Lê Tâm Đắc (2012), Dương Thanh Mừng (2015), (2017) (2019). Phong trào chấn hưng PG ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam trong những thập niên 30, 40 của thế kỷ XX đã thổi bùng lên truyền thống yêu nước và ý thức trách nhiệm đối với dân tộc và đạo pháp của Tăng, Ni Phật tử. Trong bối cảnh đất nước đang chịu chiến tranh, cần sức mạnh đoàn kết để bảo vệ đất nước. Tinh thần đoàn kết đấu tranh vì độc lập tự do lan rộng ảnh hưởng mạnh mẽ đến PG. Đó là lý do để tiến hành Đoàn Phật học Đức dục - Gia đình Phật hóa phổ - Ban đồng ấu ra đời để phục vụ xã hội, phục vụ trong hoạt động giáo dục thanh, thiếu niên Phật tử. Đoàn Phật học Đức dục, GĐPHP, Ban Đồng Ấu đều là các tổ chức tiền thân của GĐPT. Bên cạnh việc nhấn mạnh bối cảnh, một số học giả về sau có nghiên cứu sâu về đóng góp của cư sỹ Tâm Minh Lê Đình Thám (1897 – 1969) – người sáng lập GĐPT - trong việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức, tôn chỉ, mục đích, nội quy GĐPT từ những năm 1951 trở về sau. Trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám và những đóng góp với An Nam Phật học hội do Viện Nghiên cứu Tôn giáo phối hợp với Viện Nghiên cứu Phật học VN, Học viện PG Việt Nam tại Huế, Ban trị sự GHPGVN TP Huế, Ban trị sự GHPGVN tỉnh Quảng Nam tổ chức tháng 4/2019 tại TP Huế đã tập hợp rất nhiều bài viết về ông Lê Đình Thám cũng như các tổ chức tiền thân của GĐPT. Ngoài ra, còn có những bài viết giải thích cách hiểu “gia đình” trong cụm từ GĐPT của các tác giả Thích Minh Châu (1952), Lê Tâm Đắc, Nguyễn Đức Sự (2011). Trong bài viết có nhan đề: “Vì sao Gia đình Phật tử ra đời”, Thích Minh Châu đã khẳng định: “GĐPT không phải là cơ quan chuyên môn lo tuyên truyền đạo Phật để lôi cuốn tín đồ Phật tử. GĐPT chỉ là một tổ chức gia đình thanh thiếu niên dựa trên nền tảng giáo lí nhà Phật, tạo cho đời sống thanh thiếu niên một đời sống chơn chánh, lợi ích cho mình và cho mọi người.” Theo Lê Tâm Đắc, Nguyễn Đức Sự, GĐPT “tuy 7
  10. mang danh là gia đình nhưng không giống với gia đình thực sự trong xã hội. Vì nó không dựa vào hai vấn đề mang tính nền tảng của gia đình người Việt Nam truyền thống là hôn nhân (quan hệ vợ chồng) và huyết thống (quan hệ cha con).” Nguyễn Thị Minh Ngọc (2009) có bài viết “Tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam”, điểm mới là đánh giá ảnh hưởng của GĐPT đến quá trình phát triển nhân cách của thanh thiếu niên Phật tử thông qua việc dẫn số liệu báo cáo “Hiện trạng gia đình Phật tử các tỉnh miền Trung và Nam bộ qua khảo sát” của Ban Tôn giáo Chính phủ thực hiện năm 2003 và phân tích các số liệu trên. Luận án Tiến sĩ chính trị học Gia đình phật tử và vấn đề đoàn kết, tập hợp thanh thiếu niên tín đồ Phật giáo ở nước ta hiện nay (qua khảo sát một số tỉnh miền Trung) của Lê Văn Đính (2002) đã nhấn mạnh vấn đề đoàn kết, tập hợp thanh thiếu niên tín đồ Phật giáo, sự quan tâm của cấp chính quyền đến mô hình GĐPT. Tác giả Ngô Văn Trân (2011), trong bài viết “GĐPT và công tác giáo dục đạo đức cho thanh thiếu niên tín đồ Phật giáo Thừa Thiên Huế”, đã có nghiên cứu mới về GĐPT hiện nay. Tác giả đã mô tả khá kỹ nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục mà GĐPT thực hiện nhằm giáo dục đạo đức cho thanh thiếu niên Phật tử tại Thừa Thiên Huế. 1.1.3. Những nghiên cứu về gia đình Phật tử tại Đà Nẵng Trong công trình “Giải pháp nhằm tăng cường công tác đoàn kết, tập hợp thanh thiếu niên Phật giáo của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh - Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam ở thành phố Đà Nẵng hiện nay” của nhóm tác giả Lê Văn Đính, Hồ Tấn sáng, Trần Tăng Khởi (2006) đã có những nghiên cứu về GĐPT ở Đà Nẵng nhưng chủ trọng đến thanh thiếu niên Phật tử trẻ, mà bỏ qua các chủ thể ở độ tuổi lớn hơn trong GĐPT. Nhân dịp kỉ niệm 60 năm thành lập GĐPT tại Đà Nẵng, Thành hội Phật giáo Đà Nẵng (2010) đã in “Kỷ yếu 60 năm Gia đình phật tử Đà Nẵng hình thành và phát triển 1950 – 2010”[69]. Nội dung kỷ yếu nhấn mạnh: GĐPT Đà Nẵng trong chặng đường 60 năm đã có những thăng trầm, gian khó 8
  11. cùng vận mệnh đất nước nhưng đại bộ phận đã nêu tấm gương sáng giúp ích cho nước nhà và hoằng dương chánh pháp đem lại lợi ích cho cộng đồng xã hội, nhưng thiếu mô tả sâu về các thực hành văn hóa của GĐPT nhằm đạt đến hiệu quả giáo dục. 1.1.4. Những vấn đề luận án kế thừa và những vấn đề nghiên cứu đặt ra Qua các công trình nghiên cứu đi trước ở trong vào ngoài nước có liên quan tới đề tài, NCS vừa kế thừa được các thành tựu nghiên cứu về GĐPT nói chung, chủ yếu từ giữa đến cuối thế kỷ XX. Trừ những nghiên cứu của học giả nước ngoài, những công trình trong nước nghiên cứu về GĐPT từ đầu thế kỷ XXI chủ yếu được tiếp cận ở khía cạnh tôn giáo học và lịch sử học, khía cạnh văn hóa học chưa thực sự được quan tâm. Đây là khoảng trống mà kết quả nghiên cứu của luận án có thể lấp đầy. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những thành quả của các tác giả đi trước, luận án sẽ tập trung giải quyết những vấn đề sau: Thứ nhất, nhận diện văn hóa của GĐPT tại Đà Nẵng ở khía cạnh văn hóa tổ chức, trình bày cơ cấu, đặc điểm thành phần của GĐPT nhằm làm rõ khả năng thu hút tín đồ, tập hợp quần chúng trong bối cảnh xã hội Việt Nam đương đại. Thứ hai, nhận diện văn hóa của GĐPT tại Đà Nẵng ở khía cạnh thực hành văn hóa giáo dục nhằm làm rõ triết lí giáo dục, nội dung giáo dục, cách thức giáo dục của GĐPT áp dụng cho từng thành viên. Và, thành viên GĐPT vận dụng những điều mình được học vào cuộc sống thường nhật nhưthế nào. Thứ ba, bàn luận về vai trò của GĐPT trong xã hội Việt Nam đương đại,và những thách thức GĐPT gặp phải trong đời sống đương đại. 1.2. Cơ sở lý luận 1.2.1. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận án Với đề tài: “Văn hóa của gia đình Phật tử tại Đà Nẵng”, NCS tiến hành thao tác các khái niệm làm cơ sở lý luận cho nghiên cứu, NCS đi từ khái niệm gia đình, văn hóa gia đình đến GĐPT, văn hóa của GĐPT. Gia đình và văn hóa gia đình 9
  12. Từ góc độ văn hóa học, gia đình, ít nhất gồm hai người, được hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống, cùng chung sống; là môi trường văn hóa đầu tiên giúp hình thành nhân cách cá nhân, được trao truyền nếp sống; là nơi hội tụ, chọn lọc và sáng tạo văn hóa của con người và cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay, vấn đề biến đổi về hôn nhân và gia đinh, vấn đề giới và hôn nhân, vấn đề con nuôi, gia đình đơn thân, gia đình không kết hôn, đã được đưa vào nhiều nghiên cứu xã hội học, nhân học văn hóa hiện đại. Do đó, định nghĩa gia đình đã được thay đổi phần đầu nội dung, có nghĩa là: gia đình là tập hợp những người chung sống cùng nhau (không phụ thuộc vào quan hệ huyết thống hay hôn nhân), các thành viên chia sẻ trách nhiệm và quyền lợi về những giá trị vật chất và tinh thần... Khái niệm này khá phù hợp khi bàn đến GĐPT, hiện trạng GĐPT là tập hợp những người không có quan hệ huyết thống hay hôn nhâncác thành viên có chung niềm tin và chia sẻ niềm tin. GĐPT đáp ứng đa dạng nhu cầu tinh thần của người tham gia. Tác giả Lê Ngọc Văn (2011) cho rằng văn hóa gia đình là một nội dung quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu gia đình. Từ sự phân tích đặc trưng, quy luật hình thành và phát triển, cấu trúc và chức năng của văn hóa gia đình, tác giả đã định nghĩa: “Văn hóa gia đình là hệ thống những giá trị, chuẩn mực khu biệt đặc thù điều tiết mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và mối quan hệ giữa gia đình với xã hội, phản ánh bản chất của các hình thái gia đình đặc trưng cho các cộng đồng, các tộc người, các dân tộc và các khu vực khác nhau được hình thành và phát triển qua lịch sử lâu dài của đời sống gia đình, gắn liền với những điều kiện phát triển kinh tế, môi trường tự nhiên và xã hội. [89, tr.49] Từ khái niệm trên, tác giả nhận thấy nghiên cứu văn hóa GĐPT là một nội dung quan trọng trong nghiên cứu GĐPT. Văn hóa GĐPT có đặc trưng riêng, cần nhận diện thông qua nghiên cứu giá trị, chuẩn mực của GĐPT, cơ cấu, thành phần Gia đình, mối quan hệ bên trong giữa các thành viên. Văn hóa GĐPT cần được nhận diện bản chất, giá trị nổi bật thông qua các thực hành 10
  13. văn hóa đặc thù, gắn với bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Gia đình Phật tử Trong luận án Tiến sĩ Chính trị học Gia đình phật tử và vấn đề đoàn kết, tập hợp thanh thiếu niên tín đồ Phật giáo ở nước ta hiện nay (qua khảo sát một số tỉnh miền Trung) của Lê Văn Đính (2003), tác giả luận án đã có phần tổng quan khá kỹ về GĐPT. Tác giả đã tổng hợp quan điểm của cá nhân, tổ chức Phật giáo, xem xét GĐPT như là danh hiệu của tổ chức ra đời từ phong trào chấn hưng PG Việt Nam. Trong luận án của mình, Lê Văn Đính cũng đưa ra những dẫn chứng cho rằng: trong giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975, hoạt động của GĐPT đã mang tính chất của một hội đoàn tôn giáo, một tổ chức thanh niên tôn giáo.Tác giả cũng bày tỏ quan điểm: một khi đã thừa nhận GĐPT là một tổ chức tôn giáo, tổ chức xã hội, nhà nghiên cứu khi xem xét khái niệm GĐPT thì cần dựa vào mục đích, tôn chỉ, nội quy, điều lệ, đường hướng hoạt động của tổ chức đó. Đồng tình với quan điểm trên, xét từ lịch sử hình thành, tôn chỉ mục đích, bối cảnh thế tục hóa sâu rộng của GĐPT như hiện nay, NCS sử dụng khái niệm sau để nghiên cứu đề tài luận án: Gia đình Phật tử là một tổ chức/ hội đoàn Phật giáo được cơ cấu chặt chẽ, sinh hoạt trong khuôn khổ pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và luật pháp hiện hành nhằm giáo dục, đào luyện thanh, thiếu, đồng niên tin Phật thành Phật tử chân chính, góp phần phụng sự đạo pháp và xây dựng xã hội. Văn hóa và văn hóa của gia đình Phật tử Văn hoá là một khái niệm trừu tượng và vì vậy có nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu văn hoá khác nhau. Khi thực hiện đề tài: “Văn hóa của gia đình Phật tử tại Đà Nẵng”, NCS chọn hướng tiếp cận Nhân học – nghiên cứu văn hoá nên khái niệm văn hóa cũng được thao tác hóa khái niệm theo hướng này. Đặc biệt là khái niệm của nhà nhân học Gary Ferraro (1995) đã nêu: “Văn hóa là tất cả những gì con người có, con người nghĩ và con người làm.” Văn hóa của gia đình Phật tử Tổng hợp khái niệm gia đình, GĐPT, văn hóa, văn hóa gia đình, 11
  14. NCS xác định nghiên cứu văn hóa của GĐPT là nghiên cứu trên hai bình diện: văn hóa tổ chức/văn hóa cộng đồng và văn hóa giáo dục (cụ thể là các thực hành văn hóa giáo dục). Bình diện thứ nhất, GĐPT là một tổ chức/ hội đoàn Phật giáo, nên NCS sẽ có những mô tả cụ thể để nhận diện cơ cấu, quy mô, thành phần, đặc điểm, mối quan hệ trong cộng đồng GĐPT. Bình diện thứ hai, GĐPT được thành lập nhằm mục đích giáo dục thanh thiếu đồng niên tin Phật, nên văn hóa của GĐPT cần được nghiên cứu trên bình diện thực hành văn hóa giáo dục. Thực hành văn hóa giáo dục của GĐPT nhấn mạnh đến hành vi, cảm xúc, thái độ các chủ thể trong quá trình dạy và học. 1.2.2. Hướng tiếp cận lý thuyết của luận án Bàn về GĐPT không chỉ dừng lại ở khía cạnh niềm tin tôn giáo, đó còn là sự chuyển hóa từ niềm tin tôn giáo đến thực hành văn hóa - xã hội trong đời sống hằng ngày. Giáo lý của nhà Phật không chỉ dừng lại ở cửa chùa mà đã lan tỏa vào ý thức cộng đồng dân cư với sự mềm dẻo vốn có của Phật pháp. Trên cơ sở đó, nghiên cứu GĐPT ở góc độ Văn hóa học, NCS đã tiếp cận lý thuyết nhân học diễn giải của Clifford Geertz. Vận dụng lý thuyết nhân học diễn giải, trong luận án này NCS sẽ có những mô tả sâu về một số GĐPT tại Đà Nẵng. Để tránh những nhận xét tư biện, NCS đã mô tả các thông tin, phân tích các thông tin dựa trên quan điểm người trong cuộc. 1.3. Địa bàn nghiên cứu 1.3.1. Khái quát về vùng đất Đà Nẵng Thành phố Đà Nẵng có diện tích tự nhiên là 1.283,42 km2; trong đó, các quận nội thành chiếm diện tích 241,51 km2, các huyện ngoại thành chiếm diện tích 1.041,91 km2. Thành phố Đà Nẵng gồm vùng đất liền và vùng quần đảo trên biển Đông. Vùng đất liền nằm ở 15055' đến 16014' vĩ độ Bắc, 107018' đến 108020' kinh độ Đông, Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế, Tây và Nam giáp tỉnh Quảng Nam, Đông giáp Biển Đông. Vùng biển gồm quần đảo Hoàng Sa nằm ở 15045’ đến 17015’ vĩ độ Bắc, 1110 đến 1130 kinh độ Đông, cách đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) khoảng 120 hải lý về phía Nam. Với một vị trí chiến lược quan trọng cả về kinh tế, quốc phòng, an 12
  15. ninh... cửa ngõ của khu vực miền trung Tây Nguyên. Đà Nẵng có thế mạnh vượt trội trong hội nhập kinh tế đất nước và khu vực. Đà Nẵng có thể phát triển kinh tế tổng hợp, công – thương – nông – lâm - ngư nghiệp. Đặc biệt là những chính sách phát triển kinh tế biển, rừng bền vững. Đà Nẵng là vùng đất có lịch sử, văn hóa lâu đời. Thành phố Đà Nẵng còn là nơi tập trung của cư dân nhiều địa phương khác, là nơi giao lưu, hội tụ của các nền văn hóa từ nhiều vùng miền đất nước. 1.3.2. Khái quát về Phật giáo Đà Nẵng Nếu như đạo Công giáo đến Đà Nẵng vào khoảng năm 1615, đạo Tin Lành du nhập đến vào năm 1911… thì Phật giáo đã có ở đây từ rất sớm, khoảng thế kỷ XIV. Trong đó, quận Ngũ Hành Sơn được xem là một trung tâm Phật giáo của thành phố Đà Nẵng thời kỳ đầu mới hình thành. Phật giáo Đà Nẵng là Phật giáo Bắc Tông với số lượng ngôi chùa và số lượng tăng ni theo hệ phái này chiếm hơn 90% các cơ sở thờ tự, hệ phái Phật giáo khác. Trong quá trình phát triển, PG Đà Nẵng đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống văn hoá tâm linh của người dân, Tăng, Ni, Phật tử nơi đây. 1.3.3. Khái quát về lịch sử hình thành gia đình Phật tử tại Đà Nẵng Nằm trong khu vực được xem là cái nôi của GĐPT, tổ chức GĐPT Đà Nẵng hình thành khá sớm. Vào khoảng năm 1950, có 04 Gia đình phật hóa phổ đầu tiên ra đời tại các chùa: Pháp Lâm, chùa Long Thơ, chùa Hải Lạc, chùa Tân Hòa. Năm 1951 thì đổi danh xưng Gia đình Phật hóa phổ thành GĐPT tạo nên dấu mốc đầu tiên cho quá trình thành nên tổ chức GĐPT tại Đà Nẵng hiện nay. Để đáp ứng yêu cầu về nhân sự, năm 1955, Đà Nẵng đã tổ chức trại huấn luyện Đội Chúng Trưởng do cố Huynh trưởng Tâm Huệ Cao Chánh Hựu phụ trách. Vào năm 1957, GĐPT phát triển mạnh mẽ tại nội ô lẫn ngoại ô, cùng với các khuôn hội khác ở quận Hòa Vang. Số lượng có 12 Gia đình với 1.000 Đoàn sinh, sang giai đoạn 1963 – 1964, số GĐPT tăng lên tới 25 Gia đình với 2.500 Đoàn sinh. Năm 1966, GĐPT Đà Nẵng hưởng ứng phong trào đấu tranh của phật giáo đòi chủ quyền quốc gia, quốc hội 13
  16. lập hiến, chính phủ dân chủ... để xây dựng nền dân chủ tự do và ổn định chính trị tại miền Nam Việt Nam. Trong giai đoạn này, PG Đà Nẵng chịu nhiều tổn thất nặng nề. Giai đoạn từ 1990 – 1994, tổ chức GĐPT được khôi phục khá nhanh ở các tỉnh miền Trung trong đó có Đà Nẵng. Từ năm 1994 đến nay, GĐPT tại Đà Nẵng dần ổn định về tổ chức và hoạt động thường xuyên hơn. Tiểu kết chương 1 Nội dung của chương cho thấy các nghiên cứu về GĐPT đã được nhiều học giả trong và ngoài nước nghiên cứu, đề cập tới nhiều khía cạnh như: lịch sử hình thành, cơ cấu tổ chức, vai trò giáo dục của tổ chức đối với thanh thiếu niên Phật tử, v.v... Tuy nhiên, các nghiên cứu này chỉ tập trung vào mô tả dáng vẻ bên ngoài hơn là tìm hiểu cả dáng vẻ bên trong. Luận án cũng đặt ra câu hỏi về các chủ thể trong GĐPT: Họ là ai? Mong muốn của họ là gì? Ai giúp họ đạt được mong muốn đó? Ngoài ra, những nghiên cứu đi trước có đề cập đến chức năng giáo dục thanh thiếu niên Phật tử của GĐPT, nhưng thiếu sự mô tả cụ thể. Đây là những khoảng trống để NCS tiếp tục nghiên cứu về GĐPT, trong đó có GĐPT tại Đà Nẵng. Chương 2 NHẬN DIỆN GIA ĐÌNH PHẬT TỬ TẠI ĐÀ NẴNG 2.1. Cơ cấu và quy mô gia đình Phật tử 2.1.1. Cơ cấu gia đình Phật tử Hệ thống tổ chức của GĐPT Việt Nam được ghi trong Hiến chương Phật giáo bao gồm từ cấp Trung ương đến địa phương, có cơ cấu tổ chức tương ứng với tổ chức của GHPGVN. Cấp Trung ương: cấp cao nhất chịu trách nhiệm quản lý sinh hoạt, tu học của GĐPT là Ban Hướng dẫn (BHD) Phật tử Trung ương trực thuộc Hội đồng trị sự GHPGVN. Ban này chịu trách nhiệm trực tiếp trước Hội đồng Trị sự về việc quản lý điều hành sinh hoạt tu học của Gia đình Phật tử. Cấp địa phương: cấp chịu trách nhiệm quản lý sinh hoạt, tu học của 14
  17. GĐPT các tỉnh, thành hội là Ban Trị sự PG Tỉnh, Thành hội tại địa phương đó. Cấp Gia đình: Mỗi gia đình gắn liền với một chùa hay một tịnh xá, niệm Phật đường. Mỗi Gia đình có một Ban Huynh trưởng và các Đoàn sinh. Sự vận hành của Gia đình được thể hiện qua vị trí và nhiệm vụ - trách nhiệm của: Gia trưởng, Liên đoàn trưởng, Thủ quỹ, các Đoàn trưởng và Đoàn phó của các nhóm/ngành Đoàn sinh. Đoàn sinh bao gồm: Đoàn Oanh vũ nam, Oanh vũ nữ. Đoàn Thiếu nam, Thiếu nữ. Đoàn Thanh nam, Thanh nữ. Mỗi Đoàn sinh lại chia làm 3 ngành: ngành Đồng (tuổi từ 7 đến 12), ngành Thiếu (tuổi từ 13 đến 17), ngành Thanh (tuổi từ 18 trở lên). 2.1.2. Quy mô gia đình Phật tử tại Đà Nẵng Tại Đà Nẵng, ở thời điểm NCS bắt đầu nghiên cứu đến GĐPT đến nay, quy mô Gia đình đã có nhiều thay đổi. Năm 2012, Đà Nẵng có 58 đơn vị GĐPT sinh hoạt. Tính đến năm 2023, NCS thống kê được 57 đơn vị. Bàn về quy mô GĐPT, tại Đà Nẵng, qua nghiên cứu các Gia đình được lựa chọn khảo sát chính, và một số Gia đình khác, NCS nhận thấy có hai quy mô. Thứ nhất là quy mô lớn, bao gồm Gia trưởng trên 70 tuổi, Ban Huynh trưởng và cựu Huynh trưởng từ 25 đến 65 tuổi, Đoàn sinh đủ độ tuổi từ 5 đến 22 tuổi. Theo lời của người trong cuộc, họ gọi tên mô hình này là GĐPT truyền thống, có lịch sử ra đời ở thế kỷ XX. Thứ hai là quy mô nhỏ, bao gồm Gia trưởng từ 40 đến 60 tuổi, Ban Huynh trưởng từ 25 đến 40 tuổi, Đoàn sinh chỉ có Oanh vũ từ 7 đến 12 tuổi, ngành Thiếu từ 13 đến 18 tuổi, không có hoặc có ít bạn ngành Thanh. Theo lời của người trong cuộc, họ gọi tên mô hình này là GĐPT hiện đại, mới thành lập ở thế kỷ XXI. 2.2. Đặc điểm gia đình Phật tử 2.2.1. Đa dạng thành phần và nhu cầu gia nhập gia đình Phật tử Thành viên GĐPT tại Đà Nẵng có sự đa dạng về sắc màu cá nhân trước khi tham gia GĐPT: độ tuổi, giới, nghề nghiệp... Kết quả khảo sát cho thấy, hành trình gia nhập GĐPT của các cá nhân theo ba nhu cầu: (1) GĐPT là môi trường thuận tiện cho sự tu học; (2) GĐPT là nơi có thể kết giao, tìm được sự quan tâm, dễ chia sẻ; (3) GĐPT là nơi thực hiện lí tưởng phụng sự. Những nhu cầu này có thể được thấy câu chuyện của một số thành viên GĐPT. 15
  18. 2.2.2. Thống nhất tôn chỉ, mục đích, châm ngôn gia đình Phật tử Điều 2 chương 1 của Nội quy GĐPT ghi, mục đích của GĐPT là: - Đào luyện thanh, thiếu, đồng niên thành những Phật tử chân chính. - Góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo. Hướng tới giáo dục thanh thiếu nhi Phật giáo, GĐPT có chủ trương áp dụng các phương pháp giáo dục một cách khoa học, trong đó việc chia các ngành Đoàn sinh là một chủ trương quan trọng căn bản và phù hợp với khoa học giáo dục tiến bộ, để từ đó đề ra các chương trình giáo dục tương thích với tâm lý, sinh lý của các nhóm đối tượng và đạt kết quả tốt. Ngành Thiếu gồm các Đoàn sinh từ 13- 18 tuổi, phân thành Thiếu nam và Thiếu nữ. Ngành Thanh gồm các Đoàn sinh từ 19 tuổi trở lên, phân thành Nam Phật tử và Nữ Phật tử, châm ngôn được dùng là Bi- Trí- Dũng. Ngành Đồng là cấp bậc nhỏ nhất trong GĐPT, gồm các Đoàn sinh từ 6 đến 12 tuổi, chia thành Đồng nam và Đồng nữ. Với độ tuổi này, các em vẫn còn vô tư, trong sáng, ham vui, nên khi tổ chức các sinh hoạt tập thể, GĐPT chú trọng yếu tố Hòa – Tin – Vui. Khẩu hiệu của GĐPT là “Tinh tấn”, nghĩa là luôn tiến trên con đường trong sạch, trên con đường hướng đến mục đích của GĐPT, trên con đường Đạo. 2.2.3. Linh hoạt trong điều hành đội ngũ Huynh trưởng Ở những Gia đình có nhiều Huynh trưởng sẽ sang hỗ trợ các Gia đình khác, chờ đào tạo xong lớp Huynh trưởng kế cận. Để được làm Huynh trưởng không phải theo kiểu “sống lâu lên lão làng” mà phải tu học, thi vượt bậc, tham gia Trại huấn luyện trong nhiều năm. Đó là lí do số lượng Huynh trưởng thực sự đi sinh hoạt bị giảm sút. Trên thực tế, Gia đình rất thông cảm cho Huynh trưởng vì hoàn cảnh gia đình mà tạm ngưng sinh hoạt, mặt khác cũng động viên họ quay lại Gia đình khi có diều kiện thuận lợi hơn. 2.3 Các mối quan hệ trong gia đình Phật tử 2.3.1. Giáo hội Phật giáo Việt Nam và gia đình Phật tử Cơ bản và toàn diện hơn cả trong việc quản lý GĐPT của Giáo hội 16
  19. là bản Nội quy GĐPT và Nội quy Huynh trưởng GĐPT. Hai văn bản pháp quy này vừa thể hiện quyền hạn, phương thức, phạm vi, đối tượng quản lý của giáo hội đối với GĐPT, mà cũng vừa nói lên tính pháp nhân – pháp lý của tổ chức “Áo Lam – Sen Trắng”, tức là công nhận tính hợp pháp của GĐPT trong lòng GHPGVN. GHPGVN địa phương là để chỉ Ban Trị sự GHPGVN cấp tỉnh, huyện, thành phố, thị xã. Phong trào GĐPT tại địa phương mạnh hay yếu, thuận lợi hay khó khăn, đều bắt đầu từ mối quan hệ này. Nơi nào có hàng huynh trưởng thủ lĩnh GĐPT tạo được sự tin cậy và cảm tình nơi chư tôn đức lãnh đạo tỉnh hội thì nơi đó sinh hoạt GĐPT có điều kiện phát triển. 2.3.2. Thầy trụ trì, Sư Tăng ni và gia đình Phật tử Mối quan hệ tương duyên giữa GĐPT với thầy trụ trì cùng tăng- ni và Phật tử của chùa là vấn đề quan trọng mà Ban huynh trưởng quan tâm. Giữ mối quan hệ này còn để tạo điều kiện cho thanh thiếu đồng niên trong vùng có nơi sinh hoạt và tu học vào mỗi chiều chủ nhật hằng tuần, có không gian và thời gian thuận lợi, sự hấp dẫn ở mỗi buổi giảng kinh pháp, cách quảng bá để thu hút Đoàn sinh. 2.3.3. Người điều hành nội bộ gia đình Phật tử Gia Trưởng, Liên Đoàn trưởng, Huynh trưởng luôn là “đầu tàu” gương mẫu, biết cách thu hút mọi người tin tưởng và đi theo mình. Trong quá trình làm việc, họ gặp gỡ, trao đổi cởi mở và lắng nghe ý kiến đóng góp từ Đoàn sinh và quan tâm tới nhu cầu, nguyện vọng của từng cá nhân. 2.3.4. Tình Lam trong gia đình Phật tử Đây chính là mối quan hệ giữa các thành viên trong GĐPT được duy trì trong quá trình tồn tại của GĐPT. Nhiều câu chuyện của người trong cuộc đã cho thấy màu lam và tình Lam đã gắn kết họ sâu đậm với Gia đình. “Tình Lam” cũng dành để nói về sự quan tâm của thế hệ Đoàn sinh trước cho ở thế hệ Đoàn sinh sau, hay tình yêu thương của chính các Đoàn sinh đang cùng tu học dưới mái nhà Lam. 17
  20. Tiểu kết chương 2 Nội dung chương 2 đã cung cấp một bức tranh về GĐPT tại Đà Nẵng. GĐPT được cơ cấu chặt chẽ, có hệ thống từ trung ương đến địa phương, đơn vị cơ sở theo quy định của GHPGVN. Mỗi đơn vị GĐPT tại Đà Nẵng sẽ còn có sự khác biệt về quy mô Gia đình, các thế hệ Huynh trưởng. Huynh trưởng đóng vai trò quan trọng trong quá trình vận hành tổ chức, kết nối các thành viên, củng cố niềm tin và lý tưởng cho các thành viên trẻ. Chương 3 THỰC HÀNH VĂN HÓA GIÁO DỤC CỦA GIA ĐÌNH PHẬT TỬ TẠI ĐÀ NẴNG 3.1. Tu học Phật pháp 3.1.1. Chương trình giáo lý Phật pháp theo các bậc học Trong Nội quy GĐPT quy định các cấp bậc học của từng đối tượng: Đoàn sinh ngành Đồng có 4 bậc học: Mở mắt, Cánh mềm, Chân cứng, Tung bay. Mỗi bậc học 1 năm. Đoàn sinh ngành Thiếu có 4 bậc học: Hướng thiện, Sơ thiện, Trung thiện, Chánh thiện. Mỗi bậc học 1 năm. Đoàn sinh ngành Thanh 4 bậc học: Hòa, Minh, Kiến, Trực. Mỗi bậc học 3 năm. Mỗi bậc học có thi khảo sát, nếu trúng cách Đoàn sinh sẽ được cấp chứng chỉ trúng cách để tiếp tục học bậc trên. Mỗi bậc học có cách truyền tải nội dung riêng. Không chỉ học lý thuyết các bạn còn được dạy các thực hành những điều đã học vào cuộc sống thường nhật. 3.1.2. Tu học qua văn nghệ và trò chơi Văn nghệ của GĐPT chính là văn nghệ Phật giáo, văn nghệ mang tính giáo dục hơn là giải trí. Văn nghệ GĐPT nhằm giáo dục các em giáo lý nhà Phật. Bên cạnh học văn nghệ, Đoàn sinh GĐPT còn được thực hành giáo lý Phật pháp qua các trò chơi nhỏ. Về các trò chơi nhỏ, không phải bất cứ trò chơi nào cũng dùng cho GĐPT được, các Huynh trưởng đã sưu tập những trò chơi nhỏ đã được Phật hóa, sử dụng chúng để dạy cho các em. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2