Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn học: Kiểu truyện con vật tinh ranh trong truyện dân gian Việt Nam và thế giới
lượt xem 1
download
Luận án khảo sát một cách hệ thống về kiểu truyện con vật tinh ranh ở Việt Nam và thế giới, nghiên cứu kết cấu, nhân vật, hệ thống motif,..., đối chiếu kiểu truyện với Bảng tra cứu A – T để vừa khẳng định tính ứng dụng của Bảng tra cứu. Để biết rõ hơn về nội dung chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn học: Kiểu truyện con vật tinh ranh trong truyện dân gian Việt Nam và thế giới
- 1 Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam Người hướng dẫn khoa học : PGS. TS. Nguyễn Thị Huế Phản biện 1: GS. TS. Lê Hồng Lý Phản biện 2: PGS. TSKH. Bùi Mạnh Nhị Phản biện 3: PGS. TS. Hà Văn Đức Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại Học Viện Khoa học Xã hội, vào lúc…. giờ ngày…. tháng …. năm 2014. Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Thư viện Quốc gia Việt Nam Thư viện Học viện Khoa học Xã hội Thư viện trường Đại học Văn Hiến Tp. Hồ Chí Minh
- 2 MỞ ĐẦU 0.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong kho tàng truyện dân gian Việt Nam và thế giới, kiểu truyện con vật tinh ranh là một trong những kiểu truyện quen thuộc và tiêu biểu. Trong kiểu truyện này, nhân vật chính – một con vật nhỏ bé nhưng tinh ranh thường sử dụng mưu mẹo để đánh lừa, chơi khăm hoặc giúp đỡ các nhân vật khác. Đây là kiểu truyện mà tính duy lý chiếm ưu thế. Kiểu truyện còn hấp dẫn bởi tính nhân văn và ý nghĩa thẩm mỹ. Tuy hướng nghiên cứu theo kiểu truyện đã xuất hiện từ lâu nhưng đến nay, kiểu truyện này vẫn chưa được nghiên cứu một cách thấu đáo, chuyên sâu. Do vậy, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài Kiểu truyện con vật tinh ranh trong truyện dân gian Việt Nam và thế giới để có cái nhìn hệ thống về kiểu truyện, qua đó giúp ta có “cái nhìn tham chiếu” đầy đủ, sáng tỏ về giá trị nội dung và hình thức của kiểu truyện. 0.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 0.2.1.Việc tập hợp các truyện kể của kiểu truyện giúp ta thấy được sự phân bố, sự phổ biến của kiểu truyện trên phạm vi toàn cầu, cũng như thấy được diện mạo, đặc điểm, đặc trưng của nó bên cạnh những kiểu truyện khác. 0.2.2. Nghiên cứu kết cấu, nhân vật, hệ thống motif,… để làm nổi rõ nét đặc trưng của kiểu truyện, thấy được những đặc trưng trong truyện dân gian những khu vực, quốc gia, châu lục khác. 0.2.3. Việc đối chiếu Bảng tra cứu A – T với kiểu truyện vừa khẳng định tính ứng dụng của Bảng tra cứu, vừa góp phần bổ sung một số type truyện của Việt Nam cũng như của một số nước mà công trình trên chưa “phủ sóng” đến. 03. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những truyện dân gian thỏa mãn hai tiêu chí: Nhân vật chính là loài vật và chúng phải có tính cách tinh ranh. Dựa vào 103 tuyển tập truyện kể, chúng tôi tập hợp được 512 truyện thuộc kiểu truyện. 0.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- 3 0.4.1. Phương pháp thống kê phân loại: Nhờ phương pháp thống kê giúp thấy được sự phân bố của kiểu truyện và để tiến hành phân loại các truyện kể. 0.4.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp: để phân tích kết cấu, nhân vật và một số motif để tìm ra được bản chất và đặc trưng của kiểu truyện. 0.4.3. Phương pháp so sánh – loại hình: giúp chúng tôi thấy được những tương đồng và dị biệt về nhân vật, kết cấu, motif,… giữa các dân tộc, đất nước, khu vực, châu lục. Phương pháp này sẽ được vận dụng cách đặc biệt trong chương V – chương so sánh đối chiếu các type trong Bảng tra cứu A – T với các type trong kiểu truyện. 0.4.4. Phương pháp lịch sử địa lý: Phương pháp lịch sử địa lý nhằm mô tả mô hình kết cấu của type truyện và các motif. 0.4.5. Phương pháp mô hình hóa: Trên cơ sở những phân tích, khảo sát về tên gọi, các dạng kết cấu, chúng tôi mô hình hóa thành các công thức, sơ đồ. 0.5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN 0.5.1. Luận án phác họa chân dung kiểu truyện, là tiền đề giúp các nhà khoa học tìm hiểu, nghiên cứu truyện loài vật nói chung – một tiểu loại vốn ít được quan tâm nghiên cứu cả ở Việt Nam và thế giới. 0.5.2. Việc so sánh kiểu truyện của các nước, các khu vực, châu lục để phát hiện giá trị độc đáo riêng biệt cũng như nét chung mang tính toàn cầu của kiểu truyện. 0.5.3. Việc luận án dành Chương 5 để so sánh, đối chiếu với Bảng tra cứu A – T sẽ cung cấp thêm tư liệu cho các nhà nghiên cứu folklore Việt Nam đang và sẽ thực hiện việc xây dựng Bảng chỉ dẫn về hệ thống type và motif truyện dân gian Việt Nam. 0.6. KẾT CẤU LUẬN ÁN Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận án gồm 5 chương Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài. Chương 2: Kết cấu của kiểu truyện con vật tinh ranh. Chương 3: Nhân vật của kiểu truyện con vật tinh ranh. Chương 4: Một số motif thường gặp của kiểu truyện con vật tinh ranh. Chương 5: Kiểu truyện con vật tinh ranh và Bảng tra cứu A – T.
- 4 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH SƯU TẦM, BIÊN DỊCH VÀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1.1. Về tình hình sưu tầm, biên dịch các tập truyện Về tình hình sưu tầm trong nước: Sau CMT8, hoạt động sưu tầm, biên dịch trở thành một hoạt động mang tính khoa học. Bên cạnh các công trình sưu tầm truyện cổ người Việt còn có các tuyển tập truyện cổ của các dân tộc anh em. Một số công trình xuất hiện khá nhiều truyện kể của kiểu truyện đang khảo sát như: Truyện cổ dân gian các dân tộc Việt Nam; Truyện cổ các dân tộc thiểu số miền Nam (2 tập); Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (5 tập); bộ Tổng tập Văn học dân gian người Việt (19 tập, 20 quyển); và bộ Tổng tập Văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam (23 tập),... Về công tác biên dịch: Từ những năm 60 của thế kỷ trước, công tác biên dịch truyện cổ của các nước anh em cũng bắt đầu được chú ý. Liên quan đến đề tài nghiên cứu, bản dịch sớm nhất là Truyện dân gian Lào (1962), Truyện dân gian Trung Quốc (1963),… Từ những năm 80 90, công việc biên dịch càng được đẩy mạnh. Có thể kể đến những công trình nổi tiếng như: Truyện cổ Grim, Truyện cổ dân gian Bêlôrútxia, Truyện dân gian Nga, Truyện kể dân gian châu Phi,... và bộ tuyển tập Truyện cổ năm châu, tuyển tập Kho tàng truyện cổ thế giới cũng như tuyển tập về các nước trong khu vực Đông Nam Á của Ngô Văn Doanh. Gần đây, một số tác giả biên soạn, tuyển chọn truyện kể theo theo nhân vật, trong đó chúng tôi quan tâm đến một số tập truyện loài vật. 1.1.2. Về tình hình nghiên cứu 1. Bảng chỉ dẫn về các kiểu truyện [203] chia truyện kể thành 5 cụm lớn trong đó có cụm Truyện cổ tích động vật; trong phần này hai tác giả lại phân cấp và gọi tên các type truyện từ 1 – 69 là tiểu nhóm “con vật thông minh” (the clever animal). Trong Mục lục các motif của văn học dân gian [205], Thompson sắp xếp các motif thành 23
- 5 chương, trong đó chương K Deceptions là tập hợp các motif nói về mánh lừa dối, mưu mẹo,… Hai công trình này hướng đến mục đích “tra cứu” (index) nên chưa có cái nhìn toàn diện về kiểu truyện này. 2. Bài Phân loại truyện kể về kẻ ranh mãnh ở châu Phi [209] bàn về việc phân loại; Còn bài viết Mưu mẹo: những nguyên tắc tra cứu [207] lại đưa ra những tiêu chí để tra cứu các truyện kể về con vật tinh ranh. Hướng tiếp cận này giúp người đọc dễ tra cứu (index) về hệ thống mưu mẹo trong truyện kể. Khảo sát truyện kể châu Phi, Kốtlia cho rằng truyện loài vật của châu lục này đã “hoàn toàn phát triển và định hình rõ rệt, với đặc điểm riêng của mình, với một cụm chủ đề, với các kiểu nhân vật chính” [94, tr. 29]. 3. Nôvicôva chú ý đến tính hai mặt của con vật tinh ranh. Trước đó, khi nghiên cứu về truyện cổ tích loài vật, Propp cho rằng trung tâm của truyện cổ tích loài vật “là những con vật khôn ngoan” và thường là “kẻ chiến thắng nhờ ưu thế vượt trội đó của mình” [210, tr. 307]. 4. Nói về con can chi (mang, hươu, hoẵng) trong truyện kể Mã Lai – Inđônêxia, Đức Ninh cho rằng đó “là con vật nhỏ bé nhưng thông minh, lanh lợi, nhanh nhẹn. Đây là hình tượng nhân vật đại diện cho trí thông minh của nhân dân” [136, tr. 92]. 5. Nguyễn Tấn Đắc phát hiện ra ở kiểu truyện con vật tinh ranh đặc điểm “không còn có yếu tố thần kỳ nào cả, mà chỉ có trí tuệ. Trí tuệ dân gian đã bịa ra hay nói đúng hơn đã sáng tạo ra tình huống oái ăm, lắt léo, khó gỡ, những “tình huống câu đố”, rồi trí tuệ dân gian lại tự mình gỡ giải những tình huống đó một cách bất ngờ, dễ dàng, gây hứng thú đặc biệt cho người nghe” [44, tr. 392]. 6. Ở Việt Nam, Chu Xuân Diên – trong Từ điển văn học – bộ cũ đã khái quát về truyện loài vật là “có sự kết hợp những điều quan sát hiện thực về các con vật với trí tưởng tượng nhân cách hóa giới tự nhiên” [125, tr. 453]. Năm 1990, giáo trình của Lê Chí Quế và Hoàng Tiến Tựu đều xem truyện cổ tích loài vật là một tiểu loại. Lê Chí Quế cho rằng kết cấu của kiểu truyện này là “sự chiến thắng của con vật bé hơn với con vật lớn hơn không phải bằng sức lực mà bằng trí ” [149, tr. 117]. Trong khi đó, Lê Trường Phát cũng nhận thấy rằng “nhân vật con thỏ nổi tiếng tinh khôn, hiểu biết về nhiều lĩnh vực trong truyện của các dân tộc thiểu số, nhất là ở các dân tộc miền núi Trường sơn và các dân tộc Khơ me Nam Bộ, Chăm…” [140, tr. 61]. Năm 2002, Phạm Thu Yến cũng cho rằng: việc nghiên cứu "đặc điểm nội dung và nghệ thuật của thể loại này chưa được đầu tư đúng mức” [200, tr. 84].
- 6 7. Trong bài Dẫn luận truyện cổ tích các dân tộc thiểu số Việt Nam – Nguyễn Thị Yên đã có những nhận định mang tính tổng kết đầu tiên về tiểu loại này trong kho tàng truyện cổ các dân tộc thiểu số Việt Nam. Nhà nghiên cứu chú ý đến tính đối lập giữa con vật thông minh và các đối thủ. Còn Nguyễn Thị Huế khi giới thiệu về tiểu loại này đã cho rằng đây là kiểu truyện “không có nhân vật lý tưởng, không có kết thúc có hậu, không có công thức và mang tính chất hiện thực” [74, tr. 33]. 8. Năm 2005, trong công trình Kiểu truyện con thỏ tinh ranh trong truyện cổ Việt Nam [40], chúng tôi đã phác thảo chân dung về kiểu truyện ở Việt Nam. Thỏ nhân vật chính của kiểu truyện, luôn chủ động đánh lừa, chơi khăm các nhân vật to lớn, có sức mạnh hơn nó. Phần thắng lợi trong những lần “chạm trán” thường thuộc về thỏ. 9. Bên cạnh nội dung chính là các bản kể, một số tập truyện còn có các nhận định, khái quát rất đáng quý qua các lời giới thiệu. Có thể kể đến lời giới thiệu của Huỳnh Ngọc Trảng [174], của Y Thi [161], của Võ Quang Nhơn [164],… 10. Từ những năm 80 của thế kỷ trước, nhiều công trình nghiên cứu nổi tiếng thế giới đã được chuyển dịch sang tiếng Việt, trong đó, phải kể đến các công trình như Thi pháp của huyền thoại, Tuyển tập V. Ia. Propp, Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới,… Về phía các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước, bên cạnh các bộ giáo trình văn học dân gian, thời gian này cũng xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chuyên luận như: Truyện cổ tích người Việt – đặc điểm cấu tạo cốt truyện, Truyện kể dân gian đọc bằng type và motif , Văn học dân gian mấy vấn đề phương pháp luận và thể loại,… Gần đây, các nhà nghiên cứu có xu hướng tìm hiểu, nghiên cứu theo hệ đề tài, kiểu truyện. Một số công trình tiêu biểu như: Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á, Nhân vật xấu xí mà tài ba trong truyện cổ tích Việt Nam ,... Tóm lại, những công trình nghiên cứu đi trước đã giúp chúng tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện đề tài, cả ở những điều đã được giải quyết và những gì mà các tác giả chưa đề cập đến, chưa làm thỏa mãn người đọc. 1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN 1.2.1. Tinh ranh tên gọi của kiểu truyện/kiểu nhân vật chính Từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu folklore đã có nhiều cách định danh khác nhau về kiểu nhân vật/kiểu truyện con vật tinh ranh. A. Aarne gọi tập hợp các type truyện này là truyện con vật thông minh (the clever animal) [203]. S. Thompson gọi tập hợp các motif này là "deception" [205] với ý nghĩa là trò lừa dối, mưu mẹo gian dối, mánh khóe lừa bịp. Khái niệm này cũng được D. Paulme sử dụng. Kốtlia lại sử
- 7 dụng khái niệm “láu cá”. A. Dundes đưa ra hai khái niệm "trompeur" (kẻ lừa đảo) và "trickster" (kẻ ranh mãnh) để so sánh nhân vật này trong truyện kể châu Phi và châu Mĩ. C. Braymond gọi đây là kiểu truyện “mưu mẹo” (ruse) [207]. Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã đề xuất các khái niệm khác nhau như: thông minh [149, tr. 117], tinh khôn, láu lỉnh [47, tr. 10],… Nhìn chung, các khái niệm “thông minh”, "tinh khôn" mang ý nghĩa đề cao, ngợi khen; các khái niệm “trò lừa dối”, “mưu mẹo gian dối”, “mánh khóe lừa bịp” hay “láu cá”, “ranh mãnh”, “lừa đảo”, “bịp bợm” lại mang ý nghĩa phê phán. Do vậy, các khái niệm này chưa làm thỏa mãn những điều mà chúng tôi “ngộ” được về kiểu nhân vật đang khảo sát. Chúng tôi đề xuất sử dụng khái niệm tinh ranh với nghĩa là “ranh mãnh và khôn ngoan” [157, tr. 789]. Khái niệm này diễn tả tương đối trọn vẹn tính “hai mặt” của nhân vật chính trong kiểu truyện. 1.2.2. Kết cấu và kết cấu truyện kể dân gian Kết cấu bao gồm bố cục, tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác phẩm; nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện; nghệ thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện… sao cho tác phẩm trở thành một chỉnh thể nghệ thuật. Kết cấu truyện kể dân gian thường ở dạng đơn tuyến và có tính tuyến tính. Cốt truyện của truyện kể dân gian thường thông qua các sự kiện và motif. Các truyện dân gian có dung lượng ngắn, kết cấu truyện sáng rõ và hoàn chỉnh. 1.2.3. Nhân vật và nhân vật truyện kể dân gian Nhân vật là yếu tố cơ bản nhất, là công cụ, phương tiện để tác giả thể hiện tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Các nhân vật trong truyện kể đều là nhân vật chức năng. Nhân vật này có đặc điểm, phẩm chất cố định, không có đời sống nội tâm, sự tồn tại và hoạt động của nó chỉ nhằm thực hiện một số chức năng trong truyện và trong việc phản ánh đời sống. Nhân vật truyện kể dân gian tồn tại chủ yếu qua hành động, được nhận diện qua hành động. Kiểu nhân vật tinh ranh được hình thành trên cơ sở tư duy tiền duy lý của con người đã phát triển đến một mức độ nhất định. 1.2.4. Motif Motif là đơn vị tham gia cấu tạo cốt truyện. Khái niệm này “ chỉ một thành tố nhỏ của truyện, thường có thể tách rời được, có thể lắp ghép được, ít nhiều khác lạ, bất thường, đặc biệt, là yếu tố đặc trưng của truyện kể dân gian” [ 42, tr. 282]. Từ điển thuật ngữ Văn học định nghĩa motif “chỉ những bộ phận lớn hoặc nhỏ đã được hình thành ổn định, bền vững và được sử dụng nhiều lần trong sáng tác văn học nghệ thuật, nhất là trong văn học nghệ thuật dân gian” [58, tr. 136]. Nghiên cứu motif góp phần giúp người đọc hiểu cốt truyện cũng như giúp làm sáng rõ đặc trưng của kiểu truyện, kiểu nhân vật.
- 8 1.2.5. Kiểu truyện Aarne là người đầu tiên sử dụng khái niệm “type”. Ở Việt Nam, trước đây, một số nhà nghiên cứu sử dụng các thuật ngữ tương đương như “dạng truyện”, “dạng thức”,... Sau này, các nhà nghiên cứu thống nhất sử dụng thuật ngữ type (típ truyện) – kiểu truyện khi nói đến nội dung này. Theo Thompson "type là những cốt kể (narratives) có thể tồn tại độc lập trong kho truyện truyền miệng. Dù đơn giản hay phức tạp, truyện nào được kể như một cốt kể độc lập đều được xem là một type” [dẫn theo 42, tr.11]. 1.2.6. Bảng tra cứu A – T Từ thực tế nghiên cứu, Aarne đã nhận thấy việc tập hợp văn bản truyện kể gặp nhiều khó khăn. Do vậy, cùng với sự giúp đỡ của một số đồng nghiệp, ông tiến hành sắp xếp lại các tài liệu này. Ban đầu, Bảng tra cứu A T có tên là Verzeichnis der Marchentypen. Nội dung bao gồm các truyện kể của Phần Lan và một phần của các nước Bắc Âu. Sau đó, Thompson đã sửa chữa và mở rộng, đưa vào nghiên cứu truyện dân gian các nước Nam châu Âu, Đông Nam châu Âu và Ấn Độ. Chính vì có sự đóng góp chung như vậy nên người ta đã ghép tên của hai nhà bác học để đặt tên cho công trình. Từ năm 1961, công trình có tên là The Types of the Folktale (A Classification and Bibliography) – dịch: Các type truyện dân gian – phân loại và thư mục. Ngày nay, Bảng tra cứu đã trở một tài liệu có tính công cụ đối với giới nghiên cứu văn hóa dân gian – cách riêng là giới nghiên cứu văn học dân gian. 1.3. SỰ PHÂN BỐ, PHÂN LOẠI KIỂU TRUYỆN 1.3.1. Sự phân bố Tuy mức độ đậm nhạt khác nhau nhưng kiểu truyện này có mặt ở hầu khắp các châu lục, đất nước, dân tộc, ở nhiều địa phương khác nhau trong cũng như ngoài nước. Các khu vực xuất hiện nhiều truyện kể của kiểu truyện là Châu Phi, Nga và các nước Đông Âu, Ấn Độ, các nước Đông Nam Á. Thống kê truyện kể theo từng châu lục theo tỷ lệ tăng dần, chúng ta có trình tự sau: Châu Úc và châu Đại Dương có 10 truyện kể, chiếm 2%. Châu Mỹ có 19 truyện kể, chiếm 4%; Châu Phi có 73 truyện kể, chiếm 14%; Châu Âu có 77 truyện kể, chiếm 15%; Châu Á xuất hiện nhiều truyện kể nhất: 333 truyện kể, chiếm 65%. Ở Việt Nam, chúng tôi tập hợp được 144 truyện (chiếm 43% của châu Á và 28% thế giới), tập trung nhiều ở các dân tộc Khơ me, Mạ, Ê Đê, Cơ Ho, Chăm,… Sự phân bố này chứng tỏ truyện kể về kiểu truyện con vật tinh ranh rất phổ biến. M ỗi
- 9 truyện của từng dân tộc, quốc gia đều chứa đựng nội dung phong phú và đều có dáng vẻ riêng, song chúng cũng có những nét tương đồng trong cách kết cấu, trong sự lặp đi lặp lại hoặc sự phái sinh của các tình tiết. Do vậy, chúng tôi thực sự có thể tiến hành nghiên cứu những truyện kể này với tư cách là một tập hợp những cốt truyện của một đề tài độc lập. 1.3.2. Sự phân loại Vận dụng lý thuyết của trường phái Lịch sử Địa lý, Aarne đã phân loại truyện dân gian theo type và motif. Cách phân loại này rất tiện lợi cho việc lập các bảng tra cứu, là cơ sở để đối chiếu truyện kể các nước với nhau. Propp thì cho rằng truyện cổ tích về loài vật có hai dạng: “Dạng thứ nhất là những truyện được coi là hoàn chỉnh, đầy đủ các yếu tố như “thắt nút, cao trào, mở nút” và nhóm còn lại là các truyện tồn tại “như một quy luật, không bao giờ trùng lặp với bất kỳ cốt truyện nào khác, tồn tại như một tác phẩm riêng biệt, có nghĩa là trở thành một type độc lập trong thể loại truyện cổ tích về loài vật” [210, tr. 310]. Paulme mã hóa, đặt A là thành công cao trào và D là thất bại thoái trào hoàn toàn và dấu cộng (+) là mưu mẹo thành công, dấu trừ () là mưu mẹo thất bại, dấu (0) là không có mưu mẹo rồi phân chia các truyện kể thành sáu loại khả năng cho sườn chính của một câu chuyện về kẻ bịp bợm: A+ Mưu mẹo của kẻ bịp thành công; A Mưu mẹo đối phương thất bại D+ Mựu mẹo đối phương thành công; D Mưu mẹo kẻ bịp thất bại Ao Thành công mà không có mưu mẹo; Do Thất bại mà không có mưu mẹo Một truyện đơn giản nhất là sự kết hợp của hai tình tiết, hai mã hóa trên. Về lý thuyết, có 36 khả năng diễn ra nhưng thực tế có nhiều loại không bao giờ xuất hiện như dạng mã hóa: Do Do hay D D. Tiếp thu các luận điểm của Nôvicôva, Lê Trường Phát “phân lập nội dung thành những môtíp, tức thành những chi tiết mang ý nghĩa chủ đề” [140, tr. 64] và “lập sơ đồ kết cấu cốt truyện bằng cách căn cứ vào những tình tiết hợp thành truyện” [sđd, tr. 65]. Ở kiểu phân loại thứ 2, theo ông có những hình thức kết cấu như: kết cấu đơn tiết, kết cấu đa tình tiết và hình thức kết cấu xâu chuỗi. Cách phân loại này cũng được Phạm Thu Yến tiếp thu [200, tr. 87 88]. Trước đây, dựa vào đặc trưng của mưu mẹo, chúng tôi cũng đã phân loại kiểu truyện con vật tinh ranh thành nhóm truyện trợ thủ và nhóm truyện chơi khăm. Bài viết Mưu mẹo: những nguyên tắc tra cứu [207] của Braymond ít nhiều chịu ảnh hưởng cách phân loại của Paulme. Braymond phân loại dựa vào mục đích mà cái bẫy (mưu mẹo) hướng đến, theo đó, mưu mẹo có hai mục tiêu chính: lừa để
- 10 mà lừa (hoặc vì một mục tiêu không xác định) và lừa để đạt các mục tiêu như cải thiện số phận của mình (hay người cùng phe) hoặc để tự bảo vệ mình (hay người cùng phe). Chúng tôi cho rằng khi phân loại phải bám vào đặc điểm nổi trội của kiểu truyện là các mưu mẹo. Nhưng mưu kế này được con vật tinh ranh dùng cho nhiều kiểu nhân vật với nhiều mục đích khác nhau; và ứng với từng mục đích của mưu mẹo thì đặc điểm nhân vật, các chủ đề, motif cũng có nhiều thay đổi. Xét về một khía cạnh khác, chúng ta thấy, các mưu mẹo vừa hướng đến chủ thể con vật tinh ranh, vừa hướng cả về khách thể đối thủ và các nhân vật khác. Mưu kế hướng về chủ thể thể hiện trong hành động tự vệ cũng như trong việc đánh lừa đối thủ để thủ lợi cho bản thân. Mưu kế hướng về khách thể cũng chia thành hai nhóm: một nhóm đứng ra bảo vệ cho nhân vật nạn nhân (trợ thủ); nhóm còn lại nhằm mục đích chơi khăm đối thủ các con vật khác. Tựu trung, mưu mẹo hướng đến bốn mục đích là: tự vệ, thủ lợi, chơi khăm và trợ thủ. Tự vệ Chủ thể Thủ lợi Mưu kế Chơi khăm Khách thể Trợ thủ Về số lượng nhân vật, ở nhóm truyện tự vệ, nhóm truyện thủ lợi và nhóm truyện chơi khăm thường có nhân vật tinh ranh và nhân vật đối thủ tham gia vao diễn tiến truyện. Trong nhóm truyện trợ thủ, ngoài hai nhân vật trên, có thêm nhân vật nạn nhân. Trong truyện dân gian châu Phi còn có nhân vật trợ thủ tư tế. Như vậy, kiểu truyện này gồm có nhân vật tinh ranh, nhân vật đối thủ, nhân vật nạn nhân và nhân vật trợ thủ tư tế. Chúng tôi xem các đặc điểm trên như là những tiêu chí để phân loại kiểu truyện con vật tinh ranh thành bốn nhóm chính: Nhóm truyện tự vệ: có 168 truyện, chiếm 33% Nhóm truyện thủ lợi: có149 truyện, chiếm 29 % Nhóm truyện chơi khăm: có 77 truyện, chiếm 15 %
- 11 Nhóm truyện trợ thủ: có 118 truyện, chiếm 23%. Tiểu kết Kiểu truyện con vật tinh ranh là kiểu truyện mà tính duy lý chiếm ưu thế, nó chi phối quá trình hình thành cốt truyện, xây dựng nhân vật. Nhân vật chính thường sử dụng các mưu kế để đánh lừa, chơi khăm hoặc giúp đỡ các nhân vật khác. Tuy được biết đến khá sớm (1865), tình hình sưu tầm, biên dịch cũng nhiều, nhưng đến nay kiểu truyện này vẫn chưa được nghiên cứu một cách thấu đáo. Từ 103 tập truyện, tuyển tập truyện, chúng tôi tập hợp được 512 truyện kể. Kiểu truyện này xuất hiện ở hầu khắp các châu lục, dân tộc, đất nước,… trong đó xuất hiện nhiều nhất là các khu vực như châu Phi, Nga và các nước Đông Âu, khu vực Đông Nam Á, … Căn cứ vào các mưu mẹo, mục đích mưu mẹo, số nhân vật tham gia vào diễn tiến truyện, các motif, chủ đề,… các truyện kể được chia thành bốn nhóm: nhóm tự vệ, nhóm thủ lợi, nhóm chơi khăm và nhóm trợ thủ. Liên quan và để phục vụ cho quá trình nghiên cứu, chúng tôi lần lượt giới thiệu một số khái niệm như tinh ranh, kết cấu, nhân vật, motif, kiểu truyện, Bảng tra cứu A T…
- 12 CHƯƠNG 2 KẾT CẤU CỦA KIỂU TRUYỆN CON VẬT TINH RANH 2.1. VỀ TÊN GỌI CỦA TRUYỆN Tên gọi của truyện tuân thủ hai yêu cầu tối thiểu của việc đặt tên là ít trùng lặp (để phân biệt truyện này với truyện khác và để khỏi lẫn lộn) và phải có quan hệ với chủ đề của kiểu truyện ở một phạm vi, mức độ nhất định. 2.1.1. Cách gọi tên theo mối quan hệ của các nhân vật: Tên truyện là tên gọi mối quan hệ của nhân vật chính với các nhân vật khác trong truyện . Công thức của cách gọi tên này như sau: Tên nhân vật chính + “và” + Tên các nhân vật khác 2.1.2. Cách gọi tên theo công việc mà nhân vật tinh ranh thực hiện: Tên truyện là tên sự việc chủ yếu mà con vật tinh ranh thực hiện. Công thức khái quát của cách gọi tên này là: Tên nhân vật chính + Tên công việc (+ Tên nhân vật bị chơi khăm/được giúp đỡ) 2.1.3. Cách gọi tên theo tính cách của nhân vật: Tên truyện là tên nhân vật chính cộng với tính từ chỉ tính cách, phẩm chất của nhân vật. Công thức của dạng gọi tên này là: Tên nhân vật chính + Tính từ chỉ tính cách của nhân vật 2.1.4. Cách gọi tên theo kiểu giải thích nguyên nhân: Tên truyện là những câu hỏi về một đặc điểm nào đó của con vật tinh ranh hoặc các con vật khác. 2.1.5. Cách gọi tên theo tên nhân vật tinh ranh: Tên truyện gồm một cấu tố cấu thành, đó là tên của con vật tinh ranh hoặc tên loài của con vật tinh ranh. 2.2. CÁCH MỞ ĐẦU TRUYỆN Phổ biến nhất là mở đầu bằng cụm từ ngày xửa ngày xưa. Cách mở đầu này mở ra “trường cổ tích”, mời gọi người nghe nhập cuộc để cùng tưởng tượng, sáng tạo. Truyện của châu Mỹ, CU&CĐD thời gian nghệ thuật còn được đẩy lùi đến cái “thuở ban đầu” hay “khi tạo lập ra trái đất”. Cách mở đầu này mang âm hưởng thần thoại, là dấu vết cho thấy sự giao thoa thể loại . Truyện dân gian châu Phi có cách mở đầu bằng thông báo về nạn đói. Không gian truyện là khu rừng, cánh đồng. Liền sau
- 13 phần trên, dân gian trực tiếp dẫn vào truyện, giới thiệu trực tiếp tính hình, đặc điểm của nhân vật. 2.3. KẾT CẤU CỦA CÁC NHÓM TRUYỆN 2.3.1. Kết cấu nhóm truyện tự vệ Nhân vật tinh ranh phải đối mặt với những thử thách, do vậy nó dùng mưu trí để tự vệ. Sơ đồ nhóm truyện tự vệ như sau: Bị đe dọa bởi nhân vật đối thủ/gặp tai họa Nhân vật tinh ranh dùng mưu kế để tự vệ. 2.3.2. Kết cấu của nhóm truyện thủ lợi 2.3.2.1. Dạng xác định chủ sở hữu. Có miếng mồi/quyền lợi nhưng chưa xác định, chưa có chủ nhân. Nhân vật tinh ranh dùng mưu mẹo để giành quyền sở hữu. Sơ đồ kết cấu như sau: Miếng mồi/quyền lợi chưa xác định chủ sở hữu Nhân vật tinh ranh và nhân vật đối thủ cạnh tranh miếng mồi/quyền lợi Nhân vật tinh ranh giành được bằng mưu mẹo. 2.3.2.2. Dạng giành giật quyền sở hữu. Miếng ăn/quyền lợi thuộc sở hữu của đối thủ hoặc sở hữu chung. Nhân vật tinh ranh dùng mưu kế để giành miếng ăn/quyền lợi. Sơ đồ kết cấu như sau: Miếng mồi/quyền lợi thuộc sở hữu chung/sở hữu của đối thủ Nhân vật tinh ranh dùng mưu mẹo và cướp được miếng mồi/giành được quyền lợi. 2.3.2.3. Dạng hợp tác… bất công. Nhân vật tinh ranh và đối thủ hợp tác sản xuất. Nhân vật tinh ranh khéo léo gợi ý cho đối thủ chọn phần không ăn được. Nó giành được phần có lợi. Kết cấu như sau: Nhân vật tinh ranh và đối thủ thỏa thuận hợp tác sản xuất Cùng nhau canh tác Phân chia hoa lợi: Nhân vật tinh ranh hưởng lợi; Nhân vật đối thủ thất bại. 2.3.2.4. Dạng tái lập quyền sở hữu. Nhân vật tinh ranh đang sở hữu miếng ăn/quyền lợi nhưng bị nhân vật đối thủ cướp mất Nhân vật tinh ranh dùng mưu kế để giành lại quyền sở hữu. 2.3.3. Kết cấu của nhóm truyện chơi khăm 2.3.3.1. Dạng chơi khăm đơn giản là: Nhân vật tinh ranh xuất hiện và dùng mưu kế để chơi khăm đối thủ. 2.3.3.2. Dạng chơi khăm bằng sự lôi cuốn. Nhân vật tinh ranh đưa “miếng mồi” làm cho nhân vật đối thủ thèm muốn được sở hữu. Khi nhân vật đối thủ sử dụng thì cũng đồng nghĩa với việc nó bị chơi khăm. Sơ đồ kết cấu như sau: Nhân vật tinh ranh đưa miếng mồi Nhân vật đối thủ ước ao được sở hữu/sử dụng Nhân vật đối thủ bị chơi khăm.
- 14 2.3.3.3. Dạng “kẻ thứ ba bị lừa” có hai nhân vật đối thủ cùng tham gia vào diễn tiến truyện. Để chơi khăm đối thủ, nhân vật tinh ranh phải lừa thêm “kẻ thứ ba”; và vô tình “kẻ thứ ba” giúp nhân vật tinh ranh đạt được mục đích. Kết cấu như sau: Nhân vật tinh ranh lừa “kẻ thứ ba” “Kẻ thứ ba” (vô tình) giúp nhân vật tinh ranh chơi khăm đối thủ. Dạng này còn có trường hợp đặc biệt, đó là trong cùng một thời điểm, cùng một mưu kế, nhân vật tinh ranh đã chơi khăm hai đối thủ (xuất hiện khá nhiều trong trò chơi kéo co type 291). 2.3.3.4. Dạng đôi co, trả đũa có hai nhân vật tinh ranh tham gia vào diễn tiến truyện. Nhân vật tinh ranh chơi khăm đối thủ và bị đối thủ trả đũa. Kết cấu như sau: Nhân vật tinh ranh chơi khăm đối thủ Nhân vật đối thủ “trả đũa”. 2.3.4. Kết cấu của nhóm truyện trợ thủ 2.3.4.1. Dạng kết cấu có một nhân vật trợ thủ: Nhân vật đối thủ gây nên những thử thách cho nhân vật nạn nhân. Sự xuất hiện của bộ đôi nhân vật này tạo tính huống truyện cho nhân vật tinh ranh kẻ trợ thủ xuất hiện. Kết cấu như sau: Nhân vật đối thủ và nhân vật nạn nhân xuất hiện tạo tình huống truyện Nhân vật tinh ranh xuất hiện và giúp nhân vật nạn nhân vượt qua tai họa; nhân vật đối thủ thất bại. 2.3.4.2. Dạng kết cấu có hai nhân vật trợ thủ. Dạng này có sự hoán đổi giữa nhân vật nạn nhân và nhân vật trợ thủ: Nhân vật nạn nhân của tình huống truyện này sẽ là nhân vật trợ thủ của tình huống truyện kế tiếp. Sơ đồ kết cấu như sau: Nhân vật tinh ranh giúp nhân vật nạn nhân vượt qua tai họa và (do vậy) bị gặp nạn Nhân vật nạn nhân giúp nhân vật tinh ranh vượt qua tai nạn. Như vậy, kiểu truyện này có 11 sơ đồ kết cấu. Không có truyện kể của dân tộc, quốc gia, châu lục nào có đầy đủ các dạng kết cấu trên. Riêng truyện kể của Việt Nam xuất hiện 9/11 dạng kết cấu (thiếu dạng kết cấu hợp tác xã… bất công và kết cấu đôi co trả đũa). Xét trong từng dạng kết cấu, chúng ta thấy rằng các kết cấu khá “đơn giản” [74, tr.33; 186, tr.52], “không phức tạp, ít biến cố” [138, tr.281]. Diễn tiến truyện diễn ra nhanh chóng và được dẫn dắt bởi các mưu kế của nhân vật chính. Đặt trong mối tương quan với nhân vật chính, cũng như trong tương quan với kiểu truyện, kết cấu trên góp phần bộc lộ chủ đề và tư tưởng tác phẩm, triển khai, trình bày hấp dẫn cốt truyện. Bởi một mặt nó phản ánh đúng tính cách ranh mãnh, giỏi ứng biến của nhân vật tinh ranh, mặt khác cũng góp phần thể hiện nghệ thuật kể chuyện của dân gian. Ngoài ra, cũng cần phải nói thêm rằng các sơ đồ kết cấu trong kiểu
- 15 truyện luôn có sự vận động, giao thoa. Các sự kiện trong truyện nối tiếp nhau một cách liên tục, nhanh chóng. Các tình huống truyện trong kiểu truyện rất đa dạng, phong phú. Phần lớn tình huống truyện là do nhân vật đối thủ tạo nên; Và nhân vật tinh ranh là kẻ gỡ giải. Nhưng cũng có trường hợp nhân vật tinh ranh là kẻ đưa ra tình huống truyện (thắt nút) và cũng chính nó là kẻ mở nút. 2.4. VỀ KẾT THÚC TRUYỆN Mỗi đơn vị truyện là một mẩu kể ngắn nhưng nhiều lúc một truyện là tập hợp xâu chuỗi của nhiều mẩu truyện. Kết thúc của truyện này là mở đầu của truyện khác. Kết thúc của kiểu truyện là kết thúc mở. Xét trong từng mẩu truyện lại thấy nhiều kết thúc khác nhau như kết thúc kiểu “hậu tạ” (nhân vật nạn nhân “hậu tạ” nhân vật tinh ranh vì đã được cứu), kết thúc mang tính giáo huấn (nhân vật tinh ranh gây hại cho các con vật khác nên nếm mùi thất bại, thể hiện triết lý quả báo của dân gian), kết thúc mang tính giải thích nguyên nhân (nêu ra một đặc điểm sinh học nào đó của con vật tinh ranh cũng như của các con vật khác để chứng minh truyện kể là có thật, có cơ sở). Tiểu kết Kiểu truyện nhân vật tinh ranh có năm cách gọi tên khác nhau. Các cách gọi tên này tuân thủ quy luật của phương pháp sáng tác dân gian, đó là ít trùng lặp và tên truyện phải có quan hệ với chủ đề của kiểu truyện ở một mức độ nhất định. Kiểu truyện này có các cách mở đầu như ngày xửa ngày xưa; thuở ban đầu (chủ yếu xuất hiện trong truyện kể châu Mỹ, CU&CĐD); hay mở đầu bằng việc thông báo về nạn đói (châu Phi). Sau câu mở đầu là phần giới thiệu nhân vật. Các hành động của nhân vật thường diễn ra tại không gian của rừng núi, đồng cỏ. Kiểu truyện này có kết thúc mở, không có kết thúc có hậu một cách rõ nét. Trong từng mẩu chuyện có nhiều cách kết thúc khác nhau như: kết thúc kiểu hậu tạ, kết thúc mang tính giáo huấn, kết thúc mang tính giải thích nguyên nhân. Kết cấu của kiểu truyện con vật tinh ranh khá đơn giản, thường chỉ gồm vài ba tình tiết nhưng trong từng nhóm truyện lại có những sơ đồ kết cấu khác nhau. Chúng tôi đã lập ra 11 sơ đồ kết cấu của kiểu truyện (1 kết cấu của nhóm truyện tự vệ, 4 kết cấu của nhóm truyện thủ lợi, 4 kết cấu của nhóm truyện chơi khăm và 2 kết cấu của nhóm truyện trợ thủ). Không có truyện kể của dân tộc, quốc gia, châu lục nào có đầy đủ các dạng kết cấu trên. Riêng truyện kể của Việt Nam xuất hiện 9/11 dạng kết cấu. Diễn tiến truyện diễn ra liên tục, nhanh chóng. Kết cấu trên góp
- 16 phần bộc lộ chủ đề và tư tưởng tác phẩm. Một mặt nó phản ánh tính ranh mãnh, ứng biến của nhân vật tinh ranh, mặt khác góp phần thể hiện nghệ thuật kể chuyện của dân gian.Các sơ đồ kết cấu cũng chỉ mang tính tương đối, ranh giới giữa các nhóm truyện không thực sự rạch ròi. Nhiều khi kết cấu các nhóm truyện có sự vận động, giao thoa với nhau. Các sự kiện trong truyện nối tiếp nhau một cách liên tục, nhanh chóng. Các tình huống truyện trong kiểu truyện rất đa dạng, phong phú. Phần lớn tình huống truyện là do nhân vật đối thủ tạo nên; Và nhân vật tinh ranh là kẻ gỡ giải. Nhưng cũng có trường hợp nhân vật tinh ranh là kẻ đưa ra tình huống truyện (thắt nút) và cũng chính nó là kẻ mở nút.
- 17 CHƯƠNG 3 NHÂN VẬT CỦA KIỂU TRUYỆN CON VẬT TINH RANH 3.1. NHÂN VẬT TINH RANH Nhân vật tinh ranh có nguồn gốc từ nhân vật văn hóa – nhân vật trung tâm của thần thoại mang tính nguyên hợp nguyên thủy. Đây là những con vật mà trong quan niệm dân gian được xem là thông minh. Nó dùng mưu mẹo để đánh lừa, chơi khăm hoặc giúp đỡ các nhân vật khác. Nhân vật này mang tính hai mặt (lưỡng tính): Nó tích cực khi dùng mưu kế chống lại kẻ bề trên, giúp đỡ các con vật khác; nhưng nó không đáng yêu khi lạm dụng mưu mẹo để chơi khăm “bạn bè”, thậm chí là người thân. Những hạn chế này không phải là “tiêu biểu đối với folklore” nhưng mặt khác, nó càng làm cho nhân vật tinh ranh “có tính thực tế hơn”; và do vậy tạo nên sự hấp dẫn hơn cho kiểu truyện. Ở từng khu vực, châu lục khác nhau sẽ có những con vật tinh ranh điển hình. Chẳng hạn như con thỏ xuất hiện nhiều trong truyện kể của Việt Nam, Lào và Campuchia; con cáo xuất hiện nhiều trong truyện kể của Nga và các nước Đông Âu; Con nhện xuất hiện nhiều trong truyện dân gian châu Phi; Con hươu/hoẵng xuất hiện nhiều trong truyện dân gian Mã Lai – Inđônêxia,… Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong các truyện kể của châu Phi, châu Mỹ, châu Úc và châu Đại Dương còn chịu ảnh hưởng thi pháp huyền thoại khá đậm nét. 3.2. NHÂN VẬT ĐỐI THỦ Nhân vật đối thủ là chủ nợ, là địch thủ, là nạn nhân hay là kẻ gây nên những thử thách cho nhân vật tinh ranh. Hay nói cách khác, đây là đối tượng, là những con vật mà các mưu kế hướng đến. Nhân vật này xuất hiện trong thế đối kháng với nhân vật tinh ranh. Ở từng khu vực, châu lục khác nhau sẽ có những con vật đối thủ điển hình. Chẳng hạn như con hổ xuất hiện nhiều trong truyện kể khu vực Đông Nam Á, con sói, con gấu, con sư tử xuất hiện nhiều trong truyện kể của Nga và các nước Đông Âu, con báo xuất hiện chủ yếu trong truyện dân gian châu Phi,… Bên cạnh những nhân vật là con vật, kiểu nhân vật này còn có sự xuất hiện của con người, đó là những chủ buôn, chủ làng, lão nhà giàu hay ông cậu. Nhìn chung, nhân vật đối thủ là những kẻ hống hách, độc ác, tham lam nhưng vô ơn, nóng nảy, khờ dại, ngu ngốc. Trong tương quan với nhân vật tinh ranh, nhân vật đối thủ là kẻ có ngoại hình to lớn, có sức mạnh vượt trội nhưng lại ngu dốt. Hay nói theo cách nói của dân gian Việt, đây là con vật hữu dũng vô mưu. Trong những lần đối đầu với nhân vật tinh ranh, nhân vật đối thủ thường là kẻ bại trận.
- 18 3.3. NHÂN VẬT NẠN NHÂN Nhân vật nạn nhân là những con người, con vật phải hứng chịu những thử thách, tai họa mà nhân vật đối thủ gây ra. Đây là những kẻ hiền lành, chăm chỉ, không có địa vị, có hoàn cảnh đáng thương. Nhân vật nạn nhân thường xuất hiện trong những truyện có ba nhân vật tham gia vào diễn tiến truyện: Nhân vật đối thủ và nhân vật nạn nhân xuất hiện tạo tình huống truyện để nhân vật trợ thủ xuất hiện. Con người với nhiều thành phần, độ tuổi khác nhau xuất hiện nhiều trong kiểu nhân vật này. Đó là những con người hiền lành, tốt bụng, thật thà – thậm chí là nhẹ dạ như cậu học trò, ông sãi, đạo sĩ, ông thợ săn, ông tiều phu,… Xuất hiện nhiều nhất là các trẻ mồ côi và người nông dân. Sự xuất hiện khá nhiều của con người trong kiểu nhân vật này là điều đặc biệt và ấn tượng. Điều này một lần nữa nói lên rằng kiểu truyện là một cách thể hiện sự đồng cảm với những kẻ thấp cổ bé miệng nhất trong xã hội , “là một hình thức thể hiện sự khôn ngoan vượt trội của kẻ yếu so với kẻ mạnh”. Nhân vật nạn nhân hay gặp nhất trong truyện dân gian châu Phi là cô vợ nhện. Việc nhân vật tinh ranh dùng mưu mẹo lừa chính người thân (vợ con) là một điểm khá đặc biệt trong truyện dân gian châu Phi. 3.4. NHÂN VẬT TRỢ THỦ TƯ TẾ Thông thường, nhân vật trợ thủ trong truyện kể các nước, các khu vực là con vật – con vật tinh ranh. Trong truyện dân gian châu Phi còn xuất hiện một nhân vật trợ thủ khác, đó là nhân vật trợ thủ tư tế. Đây là các nhân vật thuộc chức sắc “tư tế” như phù thủy, thầy lang, thầy bói,… là những con người “làm công việc chữa bệnh và những việc bói toán, tiên tri khác”. Nhân vật này biết sử dụng phép thần thông, ma thuật để giúp đỡ nhân vật nạn nhân. Có khi, nhân vật trợ thủ tư tế có những “chất bột đen” thần kỳ để giúp nhân vật nạn nhân trừng trị đối thủ. Có khi, nhân vật nạn nhân tìm đến nhân vật trợ thủ tư tế để xin những lời khuyên, nhằm tìm một lối thoát, một giải pháp cho bế tắc đang gặp phải. Có khi nhân vật tìm đến nhân vật trợ thủ tư tế để xem vận mạng của mình. Cũng có khi nhân vật trợ thủ tư tế tìm đến để giúp đỡ nhân vật nạn nhân. Nhờ sự giúp đỡ của nhân vật trợ thủ tư tế mà nhân vật nạn nhân vượt qua khó khăn, thử thách. Nhân vật trợ thủ tư tế còn chịu ảnh hưởng của thi pháp huyền thoại. Chính những điều này đã góp phần làm nên nét đặc sắc của hệ thống nhân vật của kiểu truyện trong truyện dân gian châu Phi cũng như kiểu truyện này. ***
- 19 Tuy được dụng công trong việc mô tả ngoại hình, tập tính loài vật nhưng khi sáng tạo những truyện kể này, dân gian không dừng lại ở những truyện loài vật mà nội dung chính hướng đến là những vấn đề của con người. Ban đầu, ý nghĩa tư tưởng, giá trị nhân văn của kiểu truyện hướng đến mục đích mưu sinh – mong cho người đi săn được “thành công”; khi xã hội thị tộc tan rã, kiểu truyện là nơi dân gian – nhất là người nông dân và những kẻ thấp cổ bé miệng gởi gắm mơ ước về một xã hội bình đẳng, dân chủ. TIỂU KẾT Kiểu truyện này có 2 nhân vật chính tham gia vào diễn tiến truyện, đó là nhân vật tinh ranh và nhân vật đối thủ. Nhân vật tinh ranh có nguồn gốc từ nhân vật văn hóa – nhân vật trung tâm của thần thoại mang tính nguyên hợp nguyên thủy. Nhân vật này dùng mưu mẹo để đánh lừa, chơi khăm hoặc giúp đỡ các nhân vật khác. Nhân vật này mang tính hai mặt. Nhân vật đối thủ là những kẻ gây nên những thử thách cho nhân vật tinh ranh. Đây là những kẻ hữu dũng vô mưu. Bên cạnh những nhân vật là con vật, kiểu nhân vật này còn có sự xuất hiện của con người, đó là những chủ buôn, chủ làng, lão nhà giàu hay ông cậu. Trong nhóm truyện trợ thủ còn xuất hiện nhân vật nạn nhân – những kẻ nhỏ bé, hiền lành nhưng phải chịu những thử thách do đối thủ tạo nên; Truyện dân gian châu Phi còn có sự xuất hiện của nhân vật trợ thủ tư tế (phù thủy, thầy bói,… ), là nhân vật sử dụng ma thuật để giúp đỡ nhân vật nạn nhân. Các nhân vật trong kiểu truyện con vật tinh ranh xoay quanh tuyến nhân vật ngu dốt, to lớn, hung dữ và thông minh, nhỏ bé, hiền lành. Phần thắng trong mối quan hệ này thường nghiêng về nhân vật tinh ranh – con vật nhỏ bé, yếu đuối hơn. Kết thúc này khẳng định chiến thắng của lý trí. Qua việc xây dựng tuyến nhân vật này, dân gian cũng nói lên sự đồng cảm của dân gian với những con người nhỏ bé, có hoàn cảnh đáng thương, qua đó thể hiện ước mơ về một xã hội bình đẳng, dân chủ. Như vậy, hệ thống nhân vật trong kiểu truyện con vật tinh ranh khá phong phú, đa dạng. Nó vừa mang đặc điểm chung của kiểu truyện, lại vừa có những đặc điểm riêng của từng dân tộc, từng quốc gia, khu vực, châu lục.
- 20 CHƯƠNG 4 MỘT SỐ MOTIF THƯỜNG GẶP TRONG KIỂU TRUYỆN CON VẬT TINH RANH 4.1. MOTIF SUY NGUYÊN Motif suy nguyên là lý giải của dân gian để "tìm cho đến nguyên nhân” về một tập tính hay một đặc điểm nào đó của các con vật. Trong kiểu truyện này, suy nguyên là những biến đổi, biến hóa liên quan đến mưu mẹo chứ không có những hóa thân, ít yếu tố thần kỳ. Các dạng biến hóa hay xuất hiện là: Biến hóa do cam kết của cuộc thi tài, biến hóa do kết quả của mưu mẹo, biến hóa do hậu quả của mưu kế, biến hóa do dấu vết của thử thách mà con vật tinh ranh đã vượt qua. Các biến hóa này nhằm giải thích một đặc điểm ngoại hình hay một tập tính nào đó của con vật. Các truyện có motif này thường có cách gọi tên là một câu hỏi (cách gọi tên thứ tư – 2.1.4); Và ứng với nó thì kết thúc truyện hướng đến việc giải thích nguyên nhân – cách kết thúc thứ tư (mục 2.4.4). 4.2. MOTIF THI TÀI Thi tài là một “sân chơi”để nhân vật tinh ranh thể hiện sự thông minh. Xuất hiện nhiều là các cuộc thi liên quan đến sức mạnh thể chất (thi xô cây đổ, thì thi dẫm lún đất, thi nhấc chân voi, thi nhảy, thi bay cao, thi đánh nhau,... ), cuộc thi về ăn uống, thi về sự khéo léo (bắn cung, thi tạo ra lửa...). Hình thức thi tài được nhắc đến nhiều nhất là cuộc thi chạy nhanh giữa thỏ, cáo, hoẵng với ốc/sên hoặc rùa. Phần lớn các môn thi không phải là sở trường của nhân vật tinh ranh nhưng nhờ mưu trí, kết quả chung cuộc lại thuộc về con vật này. 4.3. MOTIF PHÂN XỬ Motif này gồm phần “kiện” là sự mâu thuẫn, là tình huống truyện có sự tham gia của nhân vật đối thủ và nhân vật nạn nhân; Phần “xử” được thể hiện bởi các mưu mẹo của nhân tinh ranh. Ứng với từng mâu thuẫn khác nhau thì sẽ có những cách phân xử khác nhau. Chẳng hạn, với dạng phân xử tranh chấp quyền sở hữu tài sản thì quan tòa lấy việc vô lý tương tự để bác bỏ điều vô lý được chấp nhận. Phần lớn, các dạng xử kiện xuất hiện khi mà xã hội đã có sự phân hóa giai cấp. Qua motif này, chúng ta thấy được trí tuệ cũng như sự nuối tiếc của dân gian về một xã hội bình đẳng, công bằng. 4.4. MOTIF HOÃN BINH Hoãn binh là kế làm “chậm lại khoan đánh”. Nó được xem như là một giải pháp tự vệ, là khâu trung gian của các kế tiếp theo. Có khi hoãn binh là cách cầu viện,
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 305 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 288 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 181 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 266 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 222 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 175 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 53 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 198 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 148 | 7
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 135 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 170 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn